Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tìm hiểu phân loại mô bệnh học u não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.57 MB, 34 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
U não là thuật ngữ thường dùng chỉ các khối u nội sọ, u mô não chiếm
khoảng 50%. Số còn lại bao gồm các khối u có nguồn gốc từ màng nào, dây
thần kinh, tuyến yên. Trong đó hơn 1/2 là u thần kinh đệm (TKĐ), khoảng 3/4
u thần kinh đệm là u tế bào hình sao; và hơn 3/4 các u thần kinh đệm hình sao
là u tế bào hình sao giảm biệt hoá (Anaplastic Astrocytoma) và u nguyên bào
thần kinh đệm đa hình (Glioblastoma multiforme) [4]. U thần kinh đệm là các
khối u xuất phát từ tế bào thần kinh đệm thuộc hệ thần kinh trung ương, đó là
những u không đồng nhất phát triển từ các dòng tế bào thần kinh đệm hình
sao (astrocyte), thần kinh đệm ít nhánh (oligodendrocyte) và tế bào lợp ống
tuỷ nguyên [15]. Theo tác giả Zulch tỷ lệ mắc u não chiếm 4,2-5,4/100.000
dân. Hiệp hội ung thư Hoa kỳ dự báo tỷ lệ mắc vào năm 2000 chiếm khoảng
12,8/100.000 dân. Thống kê tại Viện Nhi trung ương trong 8 năm (1982-
1990) cho thấy u não chiếm tỷ lệ 12,9% các loại u ở trẻ em. Một thống kê
khác của Hà Nội cho kết quả u thuộc hệ thần kinh có tỷ lệ mắc 0,3% cho các
ung thư của nam giới và 1,1% cho các ung thư của nữ giới.
Mô bệnh học u não là một vấn đề khá phức tạp, cho tới nay đã có nhiều
bảng phân loại và các kỹ thuật được áp dụng nhưng nhiều nhà giải phẫu bệnh
cũng gặp khó khăn trong chẩn đoán đặc biệt là u có nguồn gốc tế bào thần
kinh đệm.
Chẩn đoán chính xác kích thước, vị trí đặc biệt là tính chất mô bệnh
học u não, giúp tiên lượng và lựa chọn phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả.
Để cung cấp thông tin cho đề tài:
“Nghiên cứu hiệu quả điều trị u thân não bằng phương pháp xạ
phẫu dao gamma quay”, chúng tôi tiến hành tìm hiểu phân loại mô bệnh học
u não.
2
1. PHÂN LOẠI U NÃO QUA CÁC THỜI KỲ [2]
Lịch sử phân loại u não: bảng phân loại sớm nhất do Bailey và Cushing
lập năm 1926 các tác giả dựa vào lý thuyết bào thai và chức năng của các tế


bào chiếm ưu thế trong u. Một tác giả khác là Zulch dựa vào nguồn gốc hình
thành hệ thần kinh chia u não thành 4 nhóm chính:
• U có nguồn gốc từ tế bào biểu mô thần kinh
• U thuộc thành phần lá thai giữa
• U thuộc thành phần lá thai ngoài
• Các bệnh bẩm sinh và các u thuộc thành phần bào thai.
Năm 1951 Kernohan và Sayre đã đưa ra một bảng phân loại riêng kế
thừa căn bản cách phân loại của các tác giả đi trước nhưng bổ xung lý thuyết
mới về độ biệt hóa của tế bào thần kinh. Tác giả đã chia u thành 4 độ ác tính
và xếp u sao bào lông (astrocytome pilocytique) lành tính thành nhóm riêng.
Số còn lại được xếp 4 độ ác tính dựa trên tỷ lệ giữa các thành phần bình
thường và bất thường (hoại tử, tăng sinh tế bào, tỷ lệ nhân chia…). Phân loại
này đã trở nên phổ biến và phản ánh được xu thế chuyển dạng phân loại tính
chất của nhiều loại u thần kinh đệm, sự chuyển thể sang độ ác tính cao hơn và
sự khác biệt về vị trí các loại u chiếm ưu thế, một điều rất cần thiết trong thực
hành lâm sàng.
Năm 1977, một nỗ lực của tổ chức y tế thế giới, TCYTTG (WHO)
trong việc tiêu chuẩn hóa danh pháp cho hầu hết các u thần kinh. Cuốn sách
thực hành “Histological typing of tumors of central of neuvous system”
Bảng phân loại u não năm 1993 dựa vào loại mô bệnh học và tế bào
chiếm ưu thế trong u. Bảng phân loại này tỏ ra đơn giản, dễ áp dụng tuy nhiên
3
còn thiếu độ chính xác trong việc xác định độ mô học để quyết định phương
pháp điều trị (xạ trị hay hoá trị liệu) cũng như tiên lượng.
Song song với bảng phân loại của TCYTTG, Bệnh viện Saint-Anne
Mayo clinic là một bệnh viện thực hành tại Pháp cũng đưa ra bảng phân loại
dựa trên các bảng phân loại truyền thống về u thần kinh đệm với 4 độ ác tính
nhưng dựa trên sự có hoặc không có những “tiêu chuẩn không đặc hiệu” (bất
thường nhân, nhân chia, mật độ tế bào, hoại tử).
• Độ I: không có các tiêu chuẩn trên

• Độ II: có 1 tiêu chuẩn
• Độ III: có 2 tiêu chuẩn
• Độ IV: có 3 tiêu chuẩn
Ví dụ:
- U sao bào độ II có bất thường nhân
- U sao bào độ III (giảm biệt hoá) có bất thường nhân và nhân chia.
- U sao bào độ IV: (glioblastome) có bất thường nhân, nhân chia, hoại
tử và tăng sinh mao mạch dạng cuộn.
Phân loại của bệnh viện Saint-Anne phần nào khác với phân loại của
WHO, các tác giả chính của bảng phân loại này là DUMAS-DUPORT đã chia
u sao bào thành 3 độ mô học chính:
• Độ 1: U sao bào lông
• Độ 2: gồm u sao bào sợi (lan tỏa) và u sao bào phồng (astrocytome
gemistocytique)
• Độ 3: giảm biệt hóa.
4
Với các u não có nguồn gốc từ tế bào đệm ít nhánh tác giả chia 2 độ chính:
A và B. Các u trên khi ở giai đoạn 4 được coi là u nguyên bào đệm ác tính
(glioblastome).
2. PHÂN LOẠI U NÃO THEO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI (WHO) NĂM 2000
2.1. U của tổ chức thần kinh biểu mô [32]
2.1.1. U sao bào
- U sao bào sợi
- U sao bào nguyên sinh
- U sao bào phồng
- U sao bào không biệt hóa
- U nguyên bào thần kinh đa dạng
- U sao bào lông
- U sao bào vàng đa hình
- U sao bào khổng lồ dưới ống tuỷ

- U tế bào thần kinh biểu mô khứu
- U tế bào hạch
- Loạn sản tế bào hạch tiểu não
- U sao bào thể xơ trẻ em
- Loạn sản phôi (DNT)
- U hỗn hợp tế bào hạch và thần kinh
đệm
- U tế bào hạch không biệt hoá
- U tế bào thần kinh trung ương.
- U nguyên bào thần kinh khứu giác.
2.1.2. U tế bào thần kinh đệm ít nhánh
- U tế bào thần kinh đệm ít nhánh
- U tế bào thần kinh đệm ít nhánh mất
biệt hóa
- U tuyến tùng
+ U tế bào tuyến tùng
+ U nguyên bào tuyến tùng
+ U nhu mô và mô kẽ biệt hóa
2.1.3. U tế bào ống tuỷ
- Loại tế bào
- Thể nhú
- Thể tế bào sáng
- Thể Tanycitic
- Thể không biệt hóa
- Thể nhú chế nhầy
- Thể dưới ống tuỷ
- U nguồn gốc bào thai
+ U tế bào biểu mô tuỷ
+ U tế bào ống tuỷ
+ U nguyên bào tuỷ

• Thể xơ hóa
• Thể tế bào lớn
• Thể nguyên bào dạng cỏ
• Thể tạo sắc tố
5
2.1.4. U đám rối mạch mạc: thể nhú lành tính, thể nhú ác tính.
2.1.5. U thần kinh đệm không rõ nguồn gốc: u nguyên sao bào, u thần kinh
đệm tiểu não, u thần kinh đệm nguyên sống não thất 3.
2.2. U thần kinh ngoại vi [32]
2.2.1. U tế bào vỏ sợi thần kinh
Thể tế bào, thể Plexiform, thể sắc tố, thể dạng biểu mô, thể tạo sắc tố,
thể cát có sắc tố.
2.2.2. Thể u xơ thần kinh (Von Recklinghausen)
2.3. U tế bào màng não [2],[32]
- Thể biểu mô, thể xơ, thể chuyển tiếp, thể cát, thể mạch máu, thể
nang nhỏ.
- Thể chế tiết, thể giàu lymphô bào, thể tế bào sáng, thể nguyên sống
- Thể không biệt hóa, thể nhú, thể dạng cơ vân, thể ác tính
2.4. Từ thành phần không phải màng não[32]
- U mỡ, u mạch máu, u bạch huyết, u mỡ ác tính trong sọ, u xơ, u cơ
trơn ác tính
- U xơ tổ chức bào ác tính, u sụn, u xương, u xương ác tính
2.5. Tổn thương sắc tố nguyên phát[32]
- Thể lan toả, thể ác tính, thể màng não
2.6. U lymphô và tổ chức tạo máu[32]
- U tế bào lympho ác tính, u tương bào
2.7. U tế bào mầm[32]
- U tế bào mầm, u tế bào biểu mô ác tính bào thai
- U túi noãn hoàng
- Ung thư nguyên bào nuôi (choriocarcinoma)

- U quái
6
2.8. U vùng tầng sọ trước[2],[32]
- U túi Ralth (craniopharingiome)
- U men răng, nang nhày, nang bó
2.9. Các di căn vào não[2],[32]
3. ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC, TẾ BÀO HỌC U NÃO
U não được chia thành 3 nhóm chính:
- Các u nguyên phát
- Các u thứ phát hay u di căn
- Các u xương sọ
Riêng u nguyên phát đã được xếp loại theo các tiêu chuẩn mô học.
Trên thực tế người ta thường đưa ra hai tiêu chuẩn rất quan trọng để xác
định tiên lượng và chức năng. Đó là lý do để so sánh một u lành tính hay ác
tính và dựa vào hình ảnh mô bệnh học để phân loại u thuộc nhu mô não và
u ngoài nhu mô não.
3.1. U nguyên phát của hệ thần kinh trung ương[2],[32]
3.1.1. U sao bào (astrocytome)[12],[14]
U xuất phát từ sự tăng sinh của các tế bào đệm hình sao, có đặc trưng
bởi các sợi thần kinh GFAP (Glio Fibrillar Acid Protein) trong bào tương. U
sao bào là u nguyên phát hay gặp nhất của hệ thần kinh trung ương và hầu
như không liên quan tới các yếu tố bệnh sinh. Đôi khi đi kèm với bệnh u xơ
thần kinh (neuro-fibromatose) týp 1, bệnh đa polyp đại tràng, ung thư trực
tràng và HIV. U sao bào gặp ở mọi lứa tuổi, mọi vị trí nhưng vị trí hay gặp
nhất là bán cầu đại não ở người trưởng thành, thân não ở trẻ em và tuổi vị
thành niên. U thường ở chất trắng, ít gặp ở nhân xám và đồi thị. Trong tủy
7
sống thường gặp ở tủy cổ và tủy ngực. Phương thức xâm lấn kiểu lan toả,
không có ranh giới rõ ràng.
Phân loại mô bệnh học u não của Daumas Duport được tiến hành ở 2

bệnh viện Saint Anne và Mayoclinic. Daumas Duport C (1998) đã đưa ra một
phân loại độ biệt hóa của u tế bào sao thành 4 độ ác tính dựa trên những tiêu
chuẩn không đặc hiệu như: nhân bất thường, nhân chia, tăng sinh mạch máu,
hoại tử.
- Độ I: không có các tiêu chuẩn trên
- Độ II: có 1 tiêu chuẩn
- Độ III: có 2 tiêu chuẩn
- Độ IV: có 3 hoặc 4 tiêu chuẩn
Như vậy u tế bào hình sao có độ II không có dị dạng nhân, u tế bào
hình sao độ III (giảm biệt hóa) có dị dạng nhân và nhân chia, còn u nguyên
bào thần kinh đa hình (Glioblastome multiforme) ngoài dị dạng nhân và nhân
chia còn có các mạch máu tân sinh và các ổ hoại tử.
U sao bào lông độ I theo WHO (astrocytome pilocytique)[22],[26]
U sao bào lông điển hình thường gặp ở trẻ em, tuổi vị thành niên và
giai đoạn đầu của cuộc đời, được gắn với danh từ “juvenile”. U thường gặp ở
tiểu não, não thất 3 (dưới đồi) dây thần kinh và giao thoa thị giác. Có thể thấy
một tỷ lệ u sao bào lông ở cột sống, một đặc điểm để phân biệt là ranh giới u
rõ, phát triển lồi vào não thất 4 ở vị trí cầu não. Một tỷ lệ nhất định u gặp ở
bán cầu đại não, nhân xám và đồi thị. Ở giao thoa thị giác, u tạo hình ảnh giả
phì đại dây thần kinh. Tỷ lệ lớn nang hóa trong u.
Hình ảnh mô bệnh học: điển hình là các tế bào u 2 cực với bào tương
kéo dài thành sợi mảnh (tế bào hai cực, tế bào tóc). Với cấu trúc sợi dày, các
nhân tế bào hình thoi đều nhau, các sợi mảnh ở 2 cực chỉ thấy rõ khi làm
phiến đồ tế bào dàn. Điều này rất có ý nghĩa trong chẩn đoán u sao bào lông
khi phối hợp với tiêu bản cắt lạnh. Tại vùng tạo nang, các tế bào u quay quanh
8
hoặc chìm trong các đám thoái hóa dạng nhày, có thể gặp một số sao bào
nguyên sinh. Thể nhiều nang hay gặp ở tiểu não trẻ em, có thể gặp thể tế bào
sáng giống u thần kinh đệm ít nhánh và thể mạch máu với những mạch cong
queo, thành dày, hyalin hóa. Hai thành phần điển hình trong u sao bào lông là

sợi Rosenthal và các hạt ưa toan. Các thể hạt ưa toan (eosinophilic granular
bodies) là các thể hình cầu xuất phát từ lysosomes, phản ứng với Alpha 1-
Antitripsin, Alpha1-Anti-chymotripsin, Antiquitin và Alpha B-Crystallin. Sợi
Rosenthal cũng gặp ở mô thần kinh đệm xung quanh một u sọ hầu, u máu
nguyên bào (hemangioblastoma), trong khi đó các thể hạt ưa toan lại gặp
nhiều ở u tế bào hạch và u sao bào vàng đa dạng (pleomorphe
xanthoastrocytoma)[28].
Nhìn chung u sao bào lông là loại u lành nhất trong các loại u của biểu
mô thần kinh trung ương, nếu chỉ thấy đơn độc các dấu hiệu nhân bất thường,
tăng sinh tế bào, dị nhân, nhân chia thì cũng không có ý nghĩa tiên lượng.
Hiếm thấy thoái hóa ác tính và không tái phát sau mổ.
Hình 1: Hình thái học u sao bào lông (Pilocytic)
U tế bào hình sao lan toả, độ II (Diffuse Astrocytoma)[22]
U lành tính độ II, chiếm 10-15% các loại u sao bào, tuổi gặp 20- 45, 2/3
gặp trên lều, 1/3 dưới lều (50% ở thân não).
U xuất hiện từ sự tăng sinh của các tế bào hình sao (astrocyte) có các
sợi thần kinh trong bào tương. U tế bào hình sao lan tỏa là một u nguyên phát
9
hay gặp thuộc hệ thần kinh trung ương, đôi khi đi kèm với bệnh u xơ thần
kinh týp I (neuro - fibromatose de Recklinghausen).
U tế bào hình sao lan toả (độ II) trên hình ảnh mô học có tăng sinh tế
bào dạng sợi, tế bào thưa thớt trên nền sợi mảnh, dày. Có khi gặp các nang
nhỏ trong u, có khi kèm các ổ calci rải rác, kèm xâm nhập các lymphô bào
quanh các mạch máu.
U có thể chuyển thành ác tính: các tế bào u mất các nhánh bào tương,
xuất hiện nhân bất thường, nhân chia, tăng sinh mạch máu rõ; đôi khi có hoại
tử hoặc chảy máu trong u.
Có 2 loại u tế bào hình sao lan tỏa thường gặp:
• U tế bào hình sao thể sợi (Fibrilary astrocytoma)
U hay gặp ở bán cầu đại não của người lớn, nhất là ở lứa tuổi 30-40 và

cuống não của trẻ em.
Đại thể: u chắc, ranh giới rõ, đôi khi có nang chứa dịch trong hoặc màu vàng.
Vi thể: u cấu tạo chủ yếu bởi các tế bào hình sao chứa nhiều sợi trong
bào tương, nhân tế bào nhỏ nhưng lớn hơn nhân của tế bào hình sao bình
thường. Các mạch máu có tế bào nội mạc nhỏ hoặc không rõ, đôi khi có viền
lymphô bao quanh. Các chất trắng lắng đọng calci của mạch máu và các ổ
calci nhỏ thấy khoảng 15% trường hợp.
Hình 2: Hình thái học u sao bào sợi (fibrilary astrocytoma)
• U sao bào nguyên sinh (Protoplasmic astrocytoma)
U thường gặp ở chất xám nhiều hơn chất trắng (vỏ não và nhân xám),
cũng hay gặp ở vỏ não trẻ em và người trẻ. Các tế bào u dài, dương tính với
10
kháng thể chống GFAP mạnh. U chủ yếu gồm các sao bào nguyên sinh với
hình ảnh đại thể là những đám màu xám bóng, hơi nhày.
Về cấu tạo mô bệnh học: tế bào u đồng dạng chìm trong mô đệm giống
mạng nhện và thoái hóa dạng nhày. Nhân tế bào thường tròn hoặc bầu dục, ít
thấy dị hình nhân, hầu như không có nhân chia thể hiện độ ác tính thấp.
Cần phân biệt u sao bào nguyên sinh với u thần kinh đệm ít nhánh có
tạo nang nhỏ. U cấu tạo chủ yếu bởi các tế bào hình sao có chứa rất ít hoặc
không chứa sợi trong bào tương. U sao bào nguyên sinh thường ít gặp, nếu
gặp có thể thấy ở trẻ em hoặc người trẻ. U lan rộng ra vỏ não, trong u có chất
giống gélatin. Vi thể: u gồm những tế bào hình sao nằm trong chất đệm lỏng
lẻo, có khi tạo thành vi nang, nhân tế bào hình tròn, đều nhau, bào tương chứa
ít hoặc không chứa sợi.
Hình 3: Hình thái học u sao bào nguyên sinh (Protoplasmic astrocytoma)
• U sao bào phồng (Gemistocytic Astrocytoma)
U cấu tạo chủ yếu bởi các tế bào hình sao có kích thước lớn, bào tương
rộng toan tính, với một hoặc nhiều nhân nằm lệch về một phía.
11
Hình 4: Hình thái học u sao bào phồng (Gemistocytic Astrocytoma)

U sao bào giảm biệt hóa, độ III (Anaplastic Astrocytome)[2],[3],[32]
Đây là loại u tiến triển ác tính của u tế bào hình sao lan toả, tỷ lệ mắc
0,3/100.000 người/ năm, vị trí gặp chủ yếu ở hai bán cầu đại não ở người lớn;
cầu não, đồi thị, tủy sống ở trẻ em.
Các u tế bào đệm hình sao sau khi tái phát thường có xu hướng ác tính
hóa (gặp trên 80% sau mổ xác), hay gặp nhiều ổ hoại tử chảy máu trong u. Cấu
trúc vi thể của u tế bào đệm hình sao giảm biệt hóa độ III gần giống với u
nguyên bào thần kinh đệm đa hình (Glioblastoma multiforme) (chiếm 80% số tế
bào u) là sự giảm biệt hóa làm tiến triển của u tăng nhanh. Đặc biệt ở trẻ em có
60% là u thể lan tỏa. Do u thường phát triển từ một tổn thương biệt hóa có trước
nên có thể thấy một số vùng của u có hình ảnh lành tính hơn. U gồm nhiều tế
bào đa hình to nhỏ không đều, nhân thô, bắt màu kiềm đậm, đôi khi thấy hình
nhân chia. Các tế bào u này có nhiều nhánh bào tương ngắn, có các phản ứng
mạch máu nhưng không thấy hình ảnh giả hoa hồng. Vùng não lành liền kề có
một số neuron kích thước nhỏ có thể bị tổn thương hay bình thường về mặt hình
thái; giữa các đám tế bào u thường thấy một số điểm hoại tử nhỏ và xuất huyết.
Loại u nguyên bào đệm hình sao (Astroblastoma) thường được xếp vào
u nguyên bào thần kinh đệm (Gliobastoma) vì chúng có hình ảnh vi thể giống
như u nguyên bào thần kinh đệm. Các tế bào u tăng sinh nhân bất thường và
bắt màu kiềm đậm, có khi gặp tế bào khổng lồ, tăng sinh tế bào nội mô mạch
máu và thay đổi chỉ số nhân chia. Thông thường dòng tế bào này hay có các
sợi của tế bào thần kinh; đặc biệt thể tế bào sao nhiều sợi hay có hình ảnh ác
tính và sự biệt hóa tế bào sao có thể không thấy. Tuy nhiên vẫn cần thiết tham
khảo phân độ của Kernohan và Sayre, đặc biệt khi các mẫu vật phẩm đã chắc
với sự biệt hóa tạo glioblastoma. Các vùng u khác có diện khá rộng, nhiều tế
bào tròn hay hình ôvan với đặc điểm bào tương rất bình thường. Trong các
trường hợp này, hình ảnh tế bào đệm hình sao nguyên phát không rõ rệt và
được cho rằng có thể đây là tăng sản của các tế bào ít nhánh, tuy nhiên tẩm
carbonat bạc đặc hiệu với tế bào ít nhánh thường âm tính.
12

Tuy thế, có khi các tế bào đệm hình sao lại không thể phân biệt được
với nguyên bào thần kinh đệm chỉ với nhân bắt mầu đậm. Tại một số vùng
thấy các tế bào u đa hình thái rất rõ rệt, sự phân bào nhiều, thường khác biệt
với những vùng khác có thể hay gặp tế bào hình thoi nhiều nhánh dài mang
tên “nguyên bào xốp” (Spongioblast). Các tế bào này thường là tế bào đệm
hình sao tăng sản, nên nhuộm bạc sẽ thể hiện rõ các sợi (nhánh) của tế bào
thần kinh đệm. Các tế bào này có xu hướng cụm xung quanh một hay nhiều tế
bào hoại tử, tạo nên hình ảnh giả hàng rào (Pseudopalisades); đây là một
trong các hình ảnh khá chắc chắn để nghĩ đến thể u nguyên bào thần kinh đệm
đa hình (Gliosblastoma multiforme).
Hình 5: Hình thái học u sao bào giảm biệt hoá (Anaplastic Astrocytoma)
U nguyên bào thần kinh đệm (glioblastome)[18],[30]
Đó là những u ác tính của sao bào đệm. Một số là u nguyên phát, số
khác là sự chuyển dạng ác tính của u sao bào sẵn có. U gặp ở mọi lứa tuổi,
không phân biệt nam, nữ nhưng thường gặp ở độ tuổi 40-60. U có ở mọi vị trí
trong não, nhưng phổ biến ở vùng trán, thái dương, nền sọ và chỗ nối giữa hai
bán cầu. U thường một ổ, chỉ có 5% trường hợp nhiều ổ.
Những u loại này có thể ranh giới khá rõ nhưng không có vỏ. Tổ chức u
nâu hồng, mềm, nổi cục trên bề mặt. Vùng ngoại vi u thường là một băng mô
xơ mỏng, trung tâm u thường chảy máu, hoại tử, đôi khi nang hóa. Mạch máu
giãn, thấy rõ trên đại thể, có thể gặp huyết khối trong lòng mạch. U xâm lấn
13
xung quanh nhanh, có thể xâm nhập màng não. Khả năng tái phát tại chỗ cao
do khó phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ u. Hiếm gặp u di căn ra ngoài não.
U nguyên bào đệm là một u đa hình thái tế bào với những bè tăng sinh,
sắp xếp hỗn loạn. Tế bào u chủ yếu là sao bào có kích thước và hình dáng rất
khác nhau với nhiều nhân bất thường, nhiều nhân chia, nhân quái. Hoại tử
trong u thành ổ được bao quanh bởi tế bào u có nhân xếp song song với nhau
tạo hình giả hàng rào. Có thể gặp nang nhỏ và chảy máu trong u. Sự tăng sinh
nội mạc mạch máu dạng cuộn là hình ảnh đặc trưng. Phản ứng của mô đệm ít

thấy, có thể gặp xơ hóa các vùng hoại tử hoặc tăng sinh sợi tạo keo, sợi liên
võng kết hợp với tăng sinh nội mạc mạch máu. Có thể gặp u xâm lấn xung
quanh dưới dạng các tế bào rời rạc.
Trên phiến đồ tế bào dễ dàng nhận ra sự tăng sinh mạnh của tế bào u
với những đặc điểm đặc trưng của những u ác tính như tăng sinh mạnh, tế bào
kích thước không đều, nhân to, nhân quái, nhân chia, hoại tử và có xâm nhập
viêm.
Hình 6: Hình thái học u nguyên bào thần kinh đệm (Glioblastoma)
U tế bào thần kinh đệm ít nhánh (oligodendrogliome)[1],[2],[32]
Các tiêu chuẩn điển hình để chẩn đoán một u sao bào ít nhánh là hình
ảnh “tổ ong” (hình ảnh các tế bào u xếp thành đám nhỏ với vòng sáng quanh
14
nhân, một số tác giả còn gọi là tế bào mắt cú), hình ảnh “trứng ếch” và “dây
điện” để so sánh hình ảnh hốc sáng quanh nhân tế bào u hoặc hình ảnh mạch
máu trong u nhỏ chia nhánh hình cành cây tạo hình ảnh giả tuyến nội tiết.
Vôi hóa trong u là một gợi ý quan trọng với các nhà chẩn đoán hình ảnh và
các nhà giải phẫu bệnh. U xâm nhập não lành và quanh các tế bào thần kinh
chính thức (hình ảnh vệ tinh) là một đặc điểm hay gặp trong những u có độ ác
tính cao. U chiếm khoảng 10-15 % tất cả các u thần kinh đệm, vị trí thường
gặp ở bán cầu đại não, tiểu não và hiếm gặp ở thân não. Thường u ít xâm
nhập hơn so với u sao bào lan tỏa nếu cùng một độ mô học, vì vậy xác định
chính xác độ ác tính và týp mô học là một nhu cầu của cả bệnh nhân và các
nhà phẫu thuật. Điều trị u tế bào thần kinh đệm ít nhánh đơn thuần hay loại
hỗn hợp với sao bào hầu như giống nhau.
Trên phiến đồ tế bào học: thường phân biệt được u sao bào ít nhánh và
u sao bào với đặc điểm nhân tế bào tròn, chất nhiễm sắc mịn, lan toả (hình
ảnh muối hạt tiêu), hạt nhân nhỏ, dễ phân biệt, bào tương hẹp tạo hình ảnh
nhân “trần”. Điều này càng thể hiện rõ trong trường hợp mật độ tế bào tăng và
ít chất đệm. Với các trường hợp có độ ác tính cao thì nhân kết đặc lại, nhiều
nhân chia, gần giống với nhân của di căn biểu mô nhưng kích thước của nhân

vẫn khá đều.
Hình 7: Hình thái học u tế bào thần kinh đệm ít nhánh
15
(Oligodendrogioma)
3.1.2. U biểu mô ống nội tuỷ (Ependymome)[13],[19]
U hình thành từ tế bào ống tuỷ có hình thái đa dạng, từ dạng thần kinh
đệm đến dạng biểu mô. U có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp nhất ở
trẻ nhỏ và ở hai thập niên đầu. U xuất hiện ở mọi nơi trong hệ thống não thất,
tuy nhiên ít gặp ở vùng trên lều tiểu não (40%), u gặp nhiều ở vùng dưới lều
tiểu não (60%). Đặc biệt hay gặp nhất vùng não thất 4. ở người trưởng thành
hay gặp ở cột sống. Một số vị trí hiếm gặp ngoài hệ thần kinh như trung thất,
phổi. Khi ở não thất 4 thường gây tắc lưu thông dịch não tuỷ, nếu ở bán cầu
cũng gây hội chứng choán chỗ giống các u khác.
U thường có ranh giới rõ, màu đỏ nhạt, hồng dạng cục hoặc thuỳ. U thường
phát triển tại chỗ hoặc tiến triển theo đường lưu thông dịch não tuỷ. Di căn xa có
thể gặp trong hệ thống thần kinh. Rất hãn hữu có di căn ngoài hộp sọ.
Cấu trúc chung và tế bào rất khác nhau giữa từng vùng trong một u và
giữa trường hợp này với trường hợp khác. U thể hiện sự tăng sinh tế bào đa
diện, bào tương chia nhánh tập trung thành đám, dây hoặc hình ảnh “da
báo”(các tế bào u nằm xen kẽ trong mô đệm) có thể thấy thể đáy của tế bào u
bằng nhuộm màu hematoxyline phosphotungstique.
Hai hình ảnh chính gợi ý chẩn đoán:
+ Sự hiện diện hình ảnh ống tuỷ nguyên (các tế bào tủy nguyên xếp
quanh một khoảng tròn thực hoặc ảo). Tế bào u tạo một vòng quanh mạch,
cực đáy của tế bào có sợi kéo dài tạo thành một khoảng sáng giữa mạch máu
ở trung tâm và viền nhân tế bào xung quanh (manchons perivasculaires).
16
+ U có ranh giới rõ, hình ảnh mô bệnh học thường lành tính. Tuy nhiên
vẫn có thể gặp một u biểu mô ống nội tuỷ ác tính với hình ảnh xâm lấn mạnh
trên đại thể và hình ảnh vi thể. Với u ác tính, đôi khi khó phân biệt với u

nguyên bào đệm trên vi thể.

Hình 8: Hình thái học u màng nội tủy
3.1.3. U nhú đám rối mạch mạc (tumeur de plexus choroide)[2]
U thường gặp ở trẻ em, tập trung chủ yếu ở thập niên đầu tiên và nằm
trong hệ thống não thất nơi có đám rối mạch mạc với thứ tự ưu tiên hay gặp:
não thất 4, não thất bên, não thất 3.
Hình ảnh vi thể: u thường gợi lại cấu trúc nhú của đám rối mạch
mạc với trục liên kết mạch máu được bao quanh bởi một hàng biểu mô
vuông. Bào tương các tế bào này chứa các hạt hoặc hốc nhỏ, thường u có
hình ảnh lành tính. U có thể phát tán theo đường lưu thông dịch não tuỷ vào
khoang dưới nhện.
Một vài trường hợp não ung thuỷ là hậu quả của sự tăng tiết quá mức
của u. U nhú đám rối mạch mạc ác tính hiếm gặp, việc chẩn đoán xác định
trước mổ không phải dễ dàng.
Phiến đồ tế bào: nếu lấy đúng mô u thì dễ dàng nhận được hình ảnh của
17
u dạng nhú điển hình với tế bào lợp nhú biểu mô vuông khá đều nhau.
Hình 9: Hình thái học u đám rối mạch mạc
3.1.4. U nguyên bào tuỷ (Medulloblastome)[2], [32]
U nguyên bào tuỷ là một u ác tính thường gặp ở trẻ em. Vị trí u thường
ở vùng hố sau, thùy giun. U có xu hướng xâm nhập bán cầu tiểu não, não thất
4 và theo đường tự nhiên (đường lưu thông dịch não tuỷ).
U giàu tế bào đơn dạng, người ta chỉ phân biệt được nhân tế bào tròn
hoặc hình trái xoan xẫm màu, xếp thành bè, mảng, đám, lan tỏa, đôi khi
xếp song song hoặc giả hoa hồng (tế bào u xếp quanh mạch máu). Khá
nhiều nhân chia, không có sợi thần kinh, ít sợi liên võng, ít mạch máu. Trên
phiến đồ tế bào dễ nhầm tế bào u với các tế bào lymphô. Chẩn đoán xác
định bằng nhuộm hóa mô miễn dịch.
18

Hình10: Hình thái học u nguyên tủy bào
3.1.5. Các u vùng tuyến tùng[2],[32]
• U tế bào mầm (germinome)[23],[31]
U tế bào mầm là u khá phổ biến ở vùng tuyến tùng hoặc trên hố yên,
chiếm tỷ lệ khoảng 50% tổng số các u. Người ta cũng có thể gặp u tế bào
mầm ở vùng dưới đồi (thường là lạc chỗ), tiểu não. U tế bào mầm trong sọ
phổ biến trong độ tuổi giữa 20 và 40, ưu thế nam giới. Tại vùng hố yên u hoặc
đơn độc hoặc một nửa trường hợp kết hợp cùng với u tuyến tùng. U thường
gây đái nhạt và giảm thị lực.
U có đặc điểm riêng gồm hai thành phần tế bào chính: những mảng tế
bào khá lớn, đa diện hoặc tròn, bào tương có hốc. Nhân tế bào to, tròn, có hạt
nhân khá sẫm màu. Các tế bào u được ngăn cách bởi các bè mô liên kết, mạch
máu. Dọc theo các mô liên kết này là các đám tế bào nhỏ, tròn, rất giống
lymphô bào. Các ổ, đám calci hóa nhỏ rải rác tạo hình ảnh như được khảm
vào trong u. U có hình ảnh ác tính và lan rộng.
Trên tiêu bản tế bào: thường thấy 2 loại tế bào gồm tế bào lớn có tính
chất ác tính và tế bào nhỏ là lymphô bào bình thường.
Hình 11: Hình thái học u tế bào mầm
• U tuyến tùng (Pinealome)
19
U phát triển từ tế bào tuyến tùng được chia thành hai nhóm chính:
- U tuyến tùng (pineocytoma, pinealocytoma): u thường hình tròn, phát
triển chậm, hình ảnh vi thể gợi lại hình ảnh tuyến tùng bình thường với những
tế bào nhỏ, bào tương toan tính, tập hợp thành thùy cách nhau bởi mô liên kết
mạch máu. Các tế bào u đôi khi tập trung quanh một vùng hình tròn màu hồng
tạo hình ảnh hoa hồng. U có hướng xâm lấn vào mạch máu.
Hình 12: Hình thái học u tuyến tùng
- U nguyên bào tuyến tùng (pineoblastoma hoặc pinealoblastoma): u
giàu tế bào, gồm các tế bào nhỏ ít biệt hóa, nhân xẫm màu, bào tương ít hoặc
không thấy. Tế bào u khá giống với tế bào trong u nguyên bào tuỷ. U thể hiện

độ ác tính cao, có hướng lan toả theo màng não mềm. Một số tác giả coi u này
(pinealoblastoma) thực sự là u nguyên bào tuỷ của tuyến tùng.
Hình 13: Hình thái học u nguyên bào tuyến tùng
20
Ngoài hai u nêu trên còn có thể gặp một số u khác tại vùng tuyến tùng
như: u thần kinh đệm, u màng não.
3.1.6. U vỏ dây thần kinh hoặc u tế bào Schwann (shwannome)[6]
Các u dây thần kinh thường là những u lành tính sinh ra từ tế bào
Schwann hay còn gọi là neurilemmoma. U vỏ dây thần kinh trong sọ phổ biến
là dây thần kinh thính giác (Dây thần kinh số VIII) vùng góc cầu tiểu não. U
chỉ gây ra một số thay đổi và triệu chứng như: rộng ống tai, mất xương tai
trong (hình ảnh X-quang), căng dây thần kinh, chủ yếu dây số VIII, sau đó là
dây số VII, tiếp theo là dây số V. Thường một bên, hiếm khi gặp ở trẻ em.
Chèn ép tiểu não và thân não khi u đạt một khối lượng nhất định. Rất ít gặp u
ở dây số V, IX, X. Hầu như không bao giờ gặp u ở dây thần kinh vận động.
Tại cột sống, cũng giống như trong sọ, u thường phát triển từ dây thần kinh
cảm giác ngoài màng cứng dưới dạng khối tròn hay bầu dục. Có thể gặp u
vùng cùng cụt và đuôi ngựa.
U có ranh giới rõ, có vỏ khá chắc, trắng ngà hoặc vàng nhạt, bóng. U
nhỏ có dạng hình cầu, với u có kích thước lớn trên diện cắt thường có những
ổ chảy máu, xen kẽ là các ổ vàng nhạt. Nhìn chung u chèn ép mạnh dây thần
kinh nhưng không xâm lấn. U thường đơn độc, tiến triển chậm. Có thể gặp
phối hợp với nhiều u xơ thần kinh dưới da trong bệnh Von Recklinghausen.
Đặc biệt có thể gặp u dây VIII hai bên. U thường có hình ảnh lành tính, đôi
khi tái phát. Xác định ác tính (ác tính nguyên phát hoặc chuyển dạng ác tính)
không dễ vì tỷ lệ nhân chia thấp, ít dị nhân.
Dễ dàng nhận biết được vỏ u là mô liên kết mỏng. U thường có hai
hình ảnh đặc trưng. Nhiều sợi (thuộc týp A ) với nhiều tế bào hai cực, hẹp,
mảnh kéo dài ít thấy bào tương. Nhân nhỏ, hình bầu dục xếp thành bè, xoáy
lốc hoặc hình hàng rào rất điển hình (nhân tế bào u xếp song song nhau). Hình

ảnh thứ 2: mô sợi lỏng lẻo, ít tế bào, nhân tế bào u tròn, thoái hóa, vôi trong
21
chất đệm có nang nhỏ, thoái hóa dạng nhày (týp B) và thường ít tế bào hơn
týp A với nhân tế bào tròn, khá nhiều nhân đông; đôi khi các tế bào u xếp
thành mảng tạo thành các nang nhỏ. Týp B hay gặp trong u thần kinh nội sọ,
hầu như không có nhân chia, thành mạch máu trong u rất dày, hyalin hóa và
rất ít cơ trơn.
Hình 14: Hình thái học u vỏ dây thần kinh
3.1.7. U xơ thần kinh (neurofibrome)[2],[32]
U xơ thần kinh thường gặp ở nhiều nơi, hay gặp nhất trong bệnh Von
Recklinghausen (Neurofibrome type I). Chúng ta dễ dàng phân biệt được với
u thần kinh dựa vào các đặc điểm và tính chất sau:
- U xuất hiện trong bệnh u xơ thần kinh.
- U thường nhiều nơi và nhiều u
- Trên kính hiển vi quang học và hiển vi điện tử u có hình ảnh của dây
thần kinh bình thường như các sợi thần kinh trần hoặc được myeline hóa, tế
bào Schwann, xơ non và sợi tạo keo.
Ngược lại với u thần kinh bắt nguồn thực sự từ tế bào Schawnn, u xơ thần
kinh bắt nguồn từ phần tăng sản những yếu tố nâng đỡ tế bào Schawnn và sợi
xơ non của thần kinh. Sợi thần kinh trong u là phản ứng tăng sản lành tính
phối hợp. Hiếm khi gặp ác tính.
3.1.8. U màng não (Meningiome)[11],[12],[16],[25]
22
U màng não là u xuất phát từ những tế bào biểu mô màng não, phát
triển chậm, thường có ranh giới rõ. Sự hiểu biết về u màng não ngày càng mở
rộng, với rất nhiều loại mô bệnh học được đưa ra áp dụng trong thực hành.
Ngày càng nhiều bàn luận được nêu ra để giải thích cho những luận cứ trước
đó. Vì u màng não có nhiều loại khác nhau (xem bảng phân loại) u màng não
xuất phát từ biểu mô màng não và có nhiều ở các nhung mao màng nhện
(arachnoid villi) và cũng có ở màng nhện, những tế bào này tăng số lượng

theo tuổi. Về phương diện hình thái học, cấu trúc tế bào và hóa mô miễn dịch
có cùng nguồn gốc từ biểu mô màng não.
U màng não là một u nội sọ, phát triển chậm, ít xâm nhập não. Nếu cắt
bỏ được u hầu như không tái phát. Độ tuổi hay gặp nhất là trên 30 tuổi, đôi
khi gặp ở trẻ em, thậm chí ở trẻ sơ sinh với tỷ lệ nam/nữ =3/2, tỷ lệ u lành/ u
ác =1/1. U phát triển mạnh trong thời kỳ có thai. Cơ chế bệnh sinh không rõ,
một số trường hợp liên quan tới xạ trị, ở bệnh nhân có u xơ thần kinh týp 2 và
sau chấn thương. U màng não gặp ở mọi nơi của trục não tủy nhưng hay gặp
hơn ở vùng cánh bướm, hố yên, quanh lỗ chẩm và dây thần kinh thị giác.
Về bào thai học: có thể thấy u ở trong não thất, đám rối mạch mạc, não
thất bên. Ở trẻ em hay gặp u ở não thất 3, não thất 4, ống nội tuỷ và hầu như
không phát hiện được trước mổ. Cũng có thể gặp u trong xương, phần mềm
xung quanh sọ, phổi, trung thất, da, tuyến giáp hay sự biệt hóa thành u màng
não của tế bào mầm trong u tinh hoàn. U thường một ổ hay nhiều ổ kết hợp
với bệnh u xơ thần kinh. U màng não và u bao dây thần kinh ở góc cầu tiểu
não tạo nên u hỗn hợp. Rất hiếm khi u màng não kết hợp với u thần kinh đệm
thường là tình cờ hoặc liên quan tới một gen nào đó. Một số u màng não kết
hợp với 1 bệnh ác tính như ung thư biểu mô tuyến vú hoặc buồng trứng.
Trên phiến đồ tế bào: mọi týp của u đều có đặc điểm nổi bật là nhân
hình bầu dục, mảnh, bào tương nhạt màu mảnh như khăn voan, các tua bào t-
ương như xoắn vào nhau. Nhân không điển hình, thường là hình ảnh thoái hóa
23
của những u có nhân điển hình. Dấu hiệu điển hình là có các thể cát và các
đám tế bào quây tròn tạo hình củ hành cắt ngang. Có thể tìm thấy vật thể Barr
ở nữ giới.
Hình 15: Hình thái học u màng não thể biểu mô
3.1.9. U tế bào lymphô của não (lymphoma malin)[10],[17],[21]
U tế bào lymphô của não là một u ác tính của hệ thần kinh trung ương,
chủ yếu thuộc tế bào lymphô B, ít gặp u lymphô T. U có tần suất thấp, tăng
dần theo tuổi, đặc biệt hay gặp ở độ tuổi trên 60 và những bệnh nhân có suy

giảm hệ thống miễn dịch (AIDS). U có thể một ổ hoặc nhiều ổ hoặc ở dạng
xâm nhập sâu trong não và có tính chất quanh mạch máu. Có thể gặp bệnh
Hodgkin nguyên phát ở não.
Hình ảnh mô bệnh học: hình ảnh điển hình là xuất hiện quanh mạch
nhiều lymphô bào, thường là lymphô bào T, chỉ có khoảng 10% là lymphô
bào B (các tế bào này thường là tế bào miễn dịch non hoặc lymphô). Song
song với tăng sinh tế bào quanh mạch là sự tăng sinh hệ thống sợi liên võng
dạng vòng quanh mạch (nhuộm ngấm bạc có giá trị chẩn đoán).
U thường có độ ác tính cao khi tế bào u khá lớn u có dạng tròn hoặc
đơn dạng, chất nhiễm sắc đậm, thường có hạt nhân rõ. Dễ dàng phân biệt tế
bào u với các lymphô bào phản ứng, mô bào và các tế bào thần kinh đệm nhỏ
thường đi kèm với tổn thương chính. Có thể gặp những vùng dày đặc tế bào u
24
quanh mạch và hình ảnh tế bào u xâm nhập thành mạch. Những nhà giải phẫu
bệnh có kinh nghiệm có thể đưa ra chẩn đoán xác định dựa trên cấu trúc
quanh mạch và đặc điểm của tế bào u.
Trên phiến đồ tế bào: tế bào u có ranh giới bào tương rõ, nhân lớn. Chất
nhiễm sắc to thô, hạt nhân nổi rõ. Đặc biệt các tế bào u rời rạc, không dính
nhau thành đám như di căn ung thư biểu mô và không có một chất nền giàu
sợi như trong u nguyên bào thần kinh đệm. Một phiến đồ tế bào học dàn tốt
cho hình ảnh tế bào u quanh hoặc dọc theo mạch.
Tuy nhiên chẩn đoán phân biệt chủ yếu dựa vào hóa mô miễn dịch
- Kháng thể GFAP đặc hiệu với tế bào thần kinh đệm: âm tính
- Kháng thể cytokeratin (CK) đặc hiệu với u biểu mô: âm tính
- Kháng thể LCA, kháng thể đặc hiệu cho lymphô bào: dương tính
Có thể dùng kháng thể CD3, L26 để xác định tế bào u thuộc loại lymphô B
hay lymphô T.
Hình 16: Hình thái học lymphoma tế bào B
3.1.10. U sọ hầu và u men (Craniopharyngiome-adammentinome)
Các u này chiếm 2-5% các u trong sọ và khoảng 10% các u không phải

thần kinh nội tiết ở trẻ em. Hay gặp tầng sọ trước và sàn não thất 3. Về nguồn
gốc từ dấu tích của tế bào vảy bình thường sau bề mặt tuyến yên. Nhiều tác
giả cho rằng u có nguồn gốc từ túi Rathke và thể hiện ít nhiều bằng hormôn
25
tuyến yên. Nhìn chung u có cấu trúc giống với u men ở hàm, tuổi thường gặp
<20 tuổi với những triệu chứng như giảm thị lực, não úng thủy hậu quả tắc đ-
ường lưu thông dịch não tủy.
Cấu tạo mô học: u có cấu trúc dạng thùy, đám với các bè tế bào trụ,
vuông, xếp song song tạo hình hàng rào, giữa là các tế bào có bào tương rộng
chia nhánh nối với nhau hình mạng lưới. Các tế bào vảy trưởng thành dương
tính với kháng thể màng EMA. Thoái hóa tế bào, lắng đọng calci thường gặp,
có thể gặp tinh thể Cholesterol. Mô não vùng u có các tế bào thần kinh đệm
phản ứng, có thể gặp sợi Rosenthal (Chẩn đoán phân biệt với pilocytic
astrocytoma).
Tế bào học: thường nghèo tế bào trên phiến đồ, có thể gặp từng đám tế
bào vảy dạng tế bào bong nhân thoái hóa, xen kẽ là viêm hoặc calci.
Hình 17: Hình thái học u sọ hầu và u men răng
3.1.11. U hắc bào (melanocytoma)[20]
Hệ thống thần kinh trung ương có rất nhiều tế bào hắc tố và các di căn
của u hắc tố. U nguyên phát thường xuất phát từ tế bào hắc tố của biểu mô
màng não và thường gặp ở tầng sọ trước và vùng cổ. U hắc bào cũng có thể
bắt nguồn từ tế bào vỏ thần kinh (tế bào Schwann). Nhìn chung u hắc bào của
hệ thần kinh trung ương ở thể lan tỏa.

×