Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TÌM HIỂU VỀ LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.27 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌCVINH
KHOA KINH TẾ
---------------
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
“LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY”
PHẦN I: TÓM TẮT
I. Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia đều
đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những
tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát
một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị trường.Nó là một
trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và đụng chạm tới mọi hệ
thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá tiền
tệ. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không có những giải
pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu thì lạm phát có thể xảy ra ở
bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào.
Nước ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị
trường,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay để đánh giá
sức khoẻ của nền kinh tế nước nhà.
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh
tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động
1
đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên
thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp
cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh
doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi
cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là
một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể


mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các
nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ
đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta
hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một
mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên
cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu
sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật
của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hóa đều tăng
cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Bài viết này với đề tài: “ TÌM HIỂU VỀ LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY”. Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp
bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến
thức còn hạn chế, chúng em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương
pháp để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng ta thường nghĩ rằng giải quyết lạm phát là việc của Chính Phủ nhưng lại
không ngừng kêu ca về việc giá cả gia tăng hàng ngày và ai cũng dễ dàng nhận ra
những ảnh hưởng không nhỏ của lạm phát tới đời sống của mình. Mỗi người trong
chúng ta ai cũng cố gắng tìm cách để kiềm chế lạm phát như hạn chế chi tiêu hay
nhiều hơn thế và vì vậy chúng ta cần có sự hiểu biết về nó để góp phần vào việc
kiềm chế nó.

3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp thông tin là chủ yếu.
2
- Xây dựng dàn ý nội dung nghiên cứu sơ lược
- Tìm hiểu vấn đề qua các nguồn tài liệu khác nhau như mạng internet, báo chí,
truyền hình và các tài liệu liên quan về kinh tế, sau đó lựa chọn thông tin cần
thiết phù hợp với bài nghiên cứu. Từ đó, bằng phương pháp tổng hợp, so sánh

để phân tích, đánh giá.
- Lập dàn ý nội dung chi tiết cho bài nghiên cứu, sắp xếp thông tin thành các
phần, các luận điểm cho phù hợp.
- Liên kết các bộ phận thông tin của bài dàn ý thành một bài nghiên cứu hoàn
chỉnh.
II. Dàn ý nội dung nghiên cứu
Bài nghiên cứu tập trung làm rõ những vấn đề sau:
- Những lý luận chung về lạm phát
- Thực trạng lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây
- Phân tích ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống xã hội.
- Chỉ ra những nguyên nhân gây nên lạm phát trong thời gian qua
Đưa ra những giải pháp để kiểm soát lạm phát trong thời gian tới
PHẦN II : NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1. Định nghĩa lạm phát
 Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá
số lượng tiền cần thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích
được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc
ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền
tăng ổnđịnh. Nếu chỉ coi là lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh
cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
 Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng
tăng
lên của mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy
nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ tăng
3
tạm thời,trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó
lại giảm xuống thì đó là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi
có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà
đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.

 Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton
Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong
một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ
phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở
tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự
tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác
động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà
chúng ta có thể nghe trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi
bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát.
Đó có thể chỉ là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không
kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được
coi là biểu hiện của lạm phát cao.
2. Lạm phát được tính như thế nào?
4
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ
liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các
tạp chí kinh doanh cũng làm việc này).
Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một
chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các
sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số
này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng
như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên, thước
đo lạm phát phổ biến nhất chính là CPI – Chỉ số giá tiêu dùng (consumer price
index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau, bao
gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế…, được mua bởi “người
tiêu dùng thông thường”.

Hiện nay, CPI của Việt Nam đo giá cả của khoảng 400 loại hàng hoá, trong khi đó

để tính CPI ở Mỹ người ta điều tra tới 80.000 loại hàng hoá và dịch vụ. Không
những thế, CPI còn được tính riêng cho nhóm người tiêu dùng nông thôn, thành thị,
công nhân viên chức thành thị…
5

3. Phân loại lạm phát
Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế chia lạm phát thành 3 loại khác
nhau: lạm
phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
 Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ thấp,
dưới 10% một năm. Chính phủ các nước luôn mong muốn duy trì một tỷ lệ lạm phát
nhất định ở mức độ vừa phải (lạm phát mục tiêu) vì nó mang lại tác dụng tốt cho nền
kinh tế. Thông thường, mức lạm phát mục tiêu nằm trong giới hạn của mức lạm
phát vừa phải. Với mức lạm phát này, giá cả tăng chậm đến nỗi người ta không
cảm nhận là
đang có lạm phát và do đó được coi như là giá cả tương đối ổn định.
Trong trường hợp này, dân chúng vẫn còn tin vào giá trị đồng tiền.
 Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số trong vòng một năm (từ 10% đến
100%). Với mức lạm phát này, mức độ tăng giá gây tác hại nghiêm trọng đối với
nền kinh tế, thể hiện bằng đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng. Trong trường
hợp này người dân tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới dạng phi tiền
tệ. Việt
Nam trong những năm của thập niên 80 rơi vào tình trạng lạm phát này.
Giá cả luôn luôn tăng ở mức 3 con số.
 Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là loại lạm phát với tốc độ tăng giá trên ba con số trong vòng một
năm.
Đồng tiền bị mất giá đến mức chóng mặt. Dân chúng chìm ngập trong khối

tiền để tìm kiếm một chút ít hàng hóa vì hàng hóa đều hết sức khan hiếm. Trong
trường hợp này, chức năng quan trọng đầu tiên của tiền là làm phương tiện trao đổi bị
triệt tiêu. Tiền có sẵn nhưng không mua được hàng hóa vì không ai muốn bán hàng
hóa để đổi lấy những đồng tiền bị mất giá quá mức.
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam
6
Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2010. Chi tiêu
của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005.
Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004
đến nay (2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng. Đến hôm nay lạm
phát quay trở lại. Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và
được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng đã không có những giải pháp thoả đáng.
Thậm chí đến giữa năm 2007 dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân
hàng Nhà nước vẫn tuyên bố mạnh mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”.
Thực tế cho thấy thì lạm phát năm 2007 khoảng 12%, năm 2008 thi lên đến 22%
một con số đáng báo động cho một nền kinh tế non trẻ như việt nam.Cùng với những
biện pháp kiềm chế lạm phát bước sang năm 2009 lạm đã giảm chỉ con 6%. Dự báo
mới nhất cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 ở mức 6%.
Lạm phát có thể tăng từ 7% trong năm 2009 lên mức hai con số do tăng trưởng tín
dụng mạnh trong thời gian gần đây. Giá hàng hóa thế giới cao trở lại cũng sẽ tác
động đến giá cả trong nước. Bên cạnh nguy cơ lạm phát lên 2 con số. Đây là một bài
toán đau đầu cho các nhà kinh tế làm sao để đạt được các mục tiêu kinh tế đề ra.
2. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi xảy ra lạm phát
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng đồng
quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt
Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8
tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền
kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007
ước tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát

triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ
USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD.
Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít
hơn các dòng tiền chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn
thặng dư. Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006
tăng 4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ ngoại
tệ của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND được bơm vào
nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện biện pháp Vô hiệu hóa lượng tiền
bơm vào nền kinh tế do vậy tiền trong nền kinh tế tăng lên.
7
Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân
hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 đạt 49.1%.
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng
cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát
hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát
cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời
sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia.Có sự tác động mạnh
tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang. Sau
12 năm kiểm soát được lạm phát(1995-2007) thì tình hình lạm phát hiện nay ở Việt
Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là
9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của
chính phủ. Lạm phát trong năm 2011 sẽ không vượt quá 7% và chỉ trong quý một
năm 2011, lạm phát ở Việt Nam đã lên tới 6,1%. Thực trạng này đã khiến mục tiêu
kìm chân lạm phát ở mức 7% của Quốc hội trở thành một nhiệm vụ bất khả thi trong
năm nay. Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức
rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù
tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu
tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%,
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế
quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa

cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở
mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba
lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục
tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366
triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so
với 18,2%)... Nhà cầm quyền trung ương cũng nhắm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
7% cho năm nay, so với 6.8% của năm 2010. Trong năm 2010, tỷ lệ lạm phát của
Việt Nam đã vượt ngưỡng 10%. Và sang năm 2011, tình hình có vẻ như không có
dấu hiệu khả quan hơn. Tín dụng dự trù chỉ tăng 23% so với năm ngoái. Theo các số
liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể
đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD
(12,7% GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị
8
trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ, giá cả các mặt hàng phi lương thực
cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu
cầu cao và thanh khoản dồi dào. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay được coi là
một ví dụ về “cú sốc” lạm phát.Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất
thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất
thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất
trong 10 năm qua. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua
ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức
tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%, đây là cuộc lạm
phát tiền tệ. Ngoài ra giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm
hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh.
Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm
đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước. Cuộc
lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm
giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên
15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng.
Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là

8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%.Tác động lạm phát của
Việt Nam năm nay 2011 là nhập khẩu lạm phát. Bởi vì tác nhân của Việt Nam là
tình trạng nhập siêu rất là lớn, mà trong đó các yếu tố về hàng hóa nguyên liệu cơ
bản trên thế giới dự kiến gia tăng trong năm nay. Theo đó Tổ chức Lương nông
Quốc tế (FAO) công bố chỉ số giá lương thực cuối năm 2010 là 214,7 điểm vượt qua
mức 213,5 điểm thời gian khủng hoảng lương thực 2008. Giá ngũ cốc toàn cầu tăng
nhanh, ngoại trừ giá gạo vẫn đứng thấp hơn nhiều so với mức kỷ lục. Giá đường
tăng cao nhất trong vòng 30 năm gần đây, giá các loại hạt có dầu và thịt cùng leo
thang.Lạm phát được đẩy lên cao vì giá lương thực tăng, đây là mối quan ngại lớn
lao của những nền kinh tế mới nổi trong đó có Việt Nam. Trong tình hình biến động
giá thế giới như vậy, rõ ràng ‘ẩn số lớn của lạm phát Việt Nam 2011 là giá thực
phẩm.Tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007.
Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến nay là
22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục
lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả
năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia
9
tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu phí USD), cả về
tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%). Năm 2010,việc giảm tỷ lệ
lạm phát cả năm xuống một con số vào cuối năm đòi hỏi tỷ lệ lạm phát trung bình từ
giờ đến hết năm phải xuống dưới 0,4%,đây là một thách thức. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam đã
tăng tới 9,64%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở 7% mà Quốc hội thông qua đầu
năm.Sau đây là số liệu thu thập được từ năm 2005-2008:
Tháng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
1 1.1 1.2 1.0 14.1
2 3.1 2.1 2.1 6.0
3 3.7 2.8 3.2 9.2
4 4.3 3.0 3.4 21.4
5 4.8 3.6 4.3 25.2

6 5.2 4.0 5.7 26.8
7 5.6 4.4 6.2 27.04
8 6.0 4.8 6.8 26.32
9 6.8 5.1 7.3 27.90
10 7.0 5.4 8.2 25.7
11 7.6 6.0 9.4 ----
12 8.9 6.6 12.6 ----
Diễn biến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn: 2005 - 2008
Các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1%
GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng
với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường chứng khoán
cũng phát triển bùng nổ. . Ở các nước châu Á khác, giá lương thực - thực phẩm tăng
cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi
lương thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế
cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào
10
Trong những tháng đầu năm 2011, kiềm chế lạm phát vẫn là ưu tiên hàng đầu
trong các chính sách kinh tế của Việt Nam. Lạm phát ở mức cao là một hiện trạng
không thể tránh khỏi đối với một nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam.
Lạm phát giống như con dao hai lưỡi nếu biết cách sử dụng thì con dao ấy sẽ là vũ
khí sắc bén để giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế, công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước trong tương lai gần.
Cuộc chiến chống lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giúp phát hiện hai vấn đề:
Một về cơ cấu và một về điều hành kinh tế vĩ mô. Về cơ cấu, nền kinh tế của chúng
ta đang đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng về sung dụng tài nguyên. Sử dụng tài
nguyên không hiệu quả đã làm lãng phí đồng vốn, lãng phí nhân lực, lãng phí tài
nguyên thiên nhiên trong một thời gian dài. Hệ số ICOR cao (4,5) cho thấy nền kinh
11
tế Việt Nam là một trong những nền kinh tế có đầu tư kém hiệu quả nhất trong khu
vực, và có năng lực cạnh tranh rất thấp. Những hệ quả tiếp theo của nó càng ngày

càng lộ rõ như thâm hụt cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng (chỉ riêng năm
tháng đầu năm 2008, con số này đã lên đến 14,4 tỉ USD), khiếm hụt ngân sách luôn
được duy trì ở mức 5% GDP trong nhiều năm, và kết quả tất nhiên của nó là tốc độ
lạm phát của nền kinh tế ngày càng gia tăng (theo một ước lượng đáng tin cậy, nếu
loại trừ tác động tăng giá của thị trường thế giới như giá dầu và giá lương thực, tốc
độ lạm phát do tác động nội tại của nền kinh tế mà chủ yếu xuất phát từ vấn đề sử
dụng tài nguyên không hiệu quả, đã lên đến từ 8- 10%/năm). Tuy nhiên, giải quyết
vấn đề cơ cấu là một việc làm lâu dài, đòi hỏi một quyết tâm chính trị rất cao. Bài
toán về cơ cấu là bài toán không thể có lời giải một sớm một chiều, nhưng đó là một
bài toán phải kiên trì giải quyết ngay từ bây giờ, vì rằng đó là bài toán sinh tử, quyết
định tương lai phát triển và cường thịnh hay không của nền kinh tế Việt.
12
Về điều hành kinh tế vĩ mô, chúng ta đang gặp phải các vấn đề trong chính sách
ngân sách và chính sách tiền tệ. Nếu mục tiêu của chính sách ngân sách vẫn là duy
trì một mức khiếm hụt lên đến 5%/GDP tiếp tục trong thời gian dài, những nỗ lực
kiểm soát lạm phát nhằm ổn định kinh tế vĩ mô sẽ rất khó thành công. Mục tiêu cân
bằng ngân sách cần phải là một mục tiêu được hướng tới kể từ bây giờ. Những nỗ
lực chống lạm phát trước hết phải được thể hiện bởi một quyết tâm từ phía Chính
phủ, cụ thể hóa bởi các hành động tiết kiệm ngân sách: tinh giản bộ máy hành chính,
tiết kiệm công chi, giảm đầu tư công. Tất cả những điều đó sẽ giúp cho việc sung
dụng tài nguyên quốc gia trở nên hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích phát triển
đầu tư tư nhân trong và ngoài nước ngay trong các lĩnh vực cần nguồn vốn lớn như
xây dựng cơ sở hạ tầng. Một ngân sách cân bằng sẽ có tác dụng tích cực hai mặt:
giảm thiểu tốc độ lạm phát và tăng cường hiệu quả của việc sung dụng tài nguyên.
Về chính sách tiền tệ, chúng ta đang lúng túng giải quyết bài toán lãi suất và tỷ
giá. Sự lúng túng này đang gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng và các doanh
nghiệp. Điều đáng quan tâm hơn là nó làm xói mòn niềm tin và tâm lý lạc quan đã
có trước đây của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Một năm trước đây, kỳ vọng
lạc quan đã là động lực thúc đẩy đầu tư và sự tăng trưởng của các thị trường: thị
trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường bất động sản, thị trường chứng

khoán. Tâm lý lạc quan thái quá có thể tạo ra sự tăng trưởng bong bóng của một số
thị trường nhưng một thái độ lạc quan vẫn luôn luôn cần thiết để duy trì không
những sự tăng trưởng kinh tế mà cả sự ổn định.
III. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
1. Tác động đến lĩnh vực sản xuất
Ở vị trí các nhà sản xuất ,khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá
của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh .Hiệu quả sản
xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến động về
kinh tế .Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có
nguy cơ phá sản rất lớn. Tuy nhiên ,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp
,không gây ảnh hưởng đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế .Từ đó
sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất ,sản lượng sẽ tăng lên.
13

×