Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Vaccine và nững hiểu biết cơ bản về vaccine

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.23 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
“VACCINE VÀ NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ VACCINE”
Môn: Công nghệ Hóa Sinh
GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY: PGS.TS LÊ THANH HÒA
Học Viên : Hà Thị Thanh Hoàn
Mã Học Viên : CHSB607
Lớp cao học công nghệ sinh học K6B
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
Bài Tiểu Luận
“ Vaccine và nững hiểu biết cơ bản về vaccine”
Thái nguyên 9/2014
Mục Lục
1. Mở đầu
Ngày nay Công nghệ sinh học đang được coi là một trong 5 ngành công nghệ
hàng đầu. Trong đó , công nghệ vi sinh vật học sản xuất các kháng sinh,
vacxin, vitamin và các hoạt chất ứng dụng trong y học, thực phẩm , nông
nghiệp…đang có những bước tiến vượt bậc.
Ở các nước phát triển trên thế giới thì việc ứng dụng các tiến bộ di truyền
học trong phân lập, sàng lọc, cải tạo giống cho phép tạo ra các chủng vi sinh
vật có khả năng sinh tổng hợp các hoạt chất sinh học với hiệu suất ngày càng
cao.
Trình độ tự động hóa, tin học hóa cao cho phép xây dựng được các hệ thống
sản xuất ổn định với hiệu suất tối ưu. Cùng với các giải pháp công nghệ mới
giúp tiết kiệm mặt bằng và nhân công, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ở Việt Nam, tuy chưa thể đưa công nghệ vi sinh vật ứng dụng trong lên men
sản xuất kháng sinh do một phần khiêm tốn về vốn đầu tư bởi đây cũng là
ngành có nhiều thách thức và mang tính cạnh tranh khốc liệt trên quy mô


toàn cầu, nhưng cũng có nhiều công ty ( bao gồm cả Nhà nước và Tư nhân)
sản xuất, hoàn thiện rất nhiều lọai thuốc, các dược phẩm…
Trong các quy trình sản xuất dựa trên thành tựu của công nghệ sinh học thì “
Công nghệ vaccine “ là một trong những lĩnh vực quan trọng.
2
2.Nội Dung
2.1 Lịch sử vaccine
Antoni van leeuwenhock phát minh ra kính hiển vi và nhìn thấy vi khuẩn vào
năm 1684. Gần 200 năm sau Louis Pasteur trở thành “ông tổ” của nghành Vi
sinh vật và cũng là người đầu tiên chế tạo ra vaccine phòng bệnh than và
bệnh dại.
2.2 Khái niệm về vaccine
Vaccine là chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo ra miễn dịch đặc hiệu
chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân gây
bệnh cụ thê.
Các nghiên cứu mới còn mở ra hướng dùng vaccine để điều trị một số bệnh
( liệu pháp vaccine). Việc dùng vaccine để phòng ngừa bệnh gọi chung là
chủng ngừa hay tiêm phòng mặc dù vaccine có thể được đưa vào bằng
đường tiêm hoặc bằng đường tiêu hóa ( vaccine tái tổ hợp )…
2.3 Sự phát triển của vaccine
Vaccine học được bắt đầu vào cuối thế kỷ 18 boiwr bác sỹ thú y E.Jenner
(người Anh) voiws vaccine là từ chủng gây bệnh đậu bò, tiêm cho cậu bé 13
tuổi J.Pilip. Hiện nay, tổ chức y tế thế giới (WHO) đã công nhận tiêm vaccine
là một phương pháp bảo vệ hiệu quả, giúp nhân loại tránh được các bệnh
truyền nhiễm. Từ năm 1880 Louis Pasteur ( người pháp) đã sáng chế thành
công vaccine chống bệnh than và nhiều lại vaccine khác trên ý tường của
jenner tạo ra một trường phái riêng biệt cho tới ngày nay. Sang nửa cuối thế
3
kỷ 20 mặc dù đã có những khám phá đột phá về công nghệ nhưng vẫn có
những thách thức to lớn như các laoị bệnh mới xuất hiện.

Tình trạng miễn dịch mà cơ thể cớ được sau khi tiêm vaccine là kết quả của
sự đáp ứng miễn dịch đối với các thành phần kháng nguyên có trong vaccine.
Tùy tứng loại vaccine hiệu quả bảo vệ có thể do miễn dịch dịch thể, miễn dịch
qua trung gian tế bào hoặc phối hợp cả hai loại trên. Ngoài miễn dịch đặc
hiệu vaccine còn có khả năng miễn dịch không đặc hiệu như làm tăng quá
trình thực bào nhờ kháng thể đóng vai trò là yếu tố opsonin đặc hiệu và nhờ
lymphokin hoạt hóa đại thực bào…
Bảng thống kê các giai đoạn phát triển của vaccine
Năm Loại vacxin Người đề xuất
1796 Vacxin đậu mùa E.Jenner
1880 Vacxin bệnh than Louis Pasteur
1885 Vacxin dại bất hoạt Louis Pasteur
1892 Vacxin tả Haffkine
1896 Vacxin tả Kolle
1898 Vacxin thương hàn Raita
1915 Vacxin chống hoại thư Weinberg
1921 Vacxin BCG phòng lao L.C.A.Calmette-A.F.Mguerin
1923 Vacxin ho gà Blum-Madsen
1926 Vacxin bạch hầu G.Ramon-Glenny
1927 Vacxin uốn ván Ramon-Zoeller
1932 Vacxin sống sốt vàng M.Theiler
1933 Vacxin Weil’s Wani
1937 Vacxin cúm bất hoạt Salk
1938 Vacxin viêm não A.Cmorodinsov-E.Levkovich
1940 Vacxin dại bất hoạt D.Semple
1943 Vacxin cúm sống Francis
1949 Vacxin Lepto A.Varpholomeev-G.Kovalxkii
1953 Vacxin bại liệt chết (Salk) Salk
1957
1960

Vacxin bại liệt sống
uốngVacxin sởi sống
SabinJ.F.Enders,Yokuno,A.A.Smordints
1967 Vacxin quai bị bất hoạt ev
4
1968 Vacxin viêm não mủ C (Hoa Kỳ)
1969 Vacxin Rubella sống Gotschlich
1971 Vacxin viêm não mủ A (Hoa Kỳ-Bỉ)
1974 Vacxin Rubella sống Gotschlich
1978
Vacxin viêm gan B huyết
tương
Takahashi
1979 Vacxin Viêm phế cầu Maufas
1980 Vacxin dại nuôi cấy tế bào Austrian
1981 Vacxin ho gà vô bào (Pháp – Nhật)
1983 Vacxin thủy đậu Sato
1983
Vacxin viêm gan B tái tổ
hợpVacxin sởi+quai
bị+Rubella
TakahshiMerkCo.Ltd (Hoa Kỳ),
Myanohara
1986 Vacxin Hib (Nhật)
1988 Vacxinviêm gan A Merieux
1992
Vacxin cộng hợp 5 thành
phần DTP-IPV-Hib
1993 Vacxin DPT-Hib-HepB
1996 Vacxin Rota và Lyme

2.4 Cơ chế tác động của vaccine
Vaccine là các vi khuẩn, virus sống giảm độc lực khi đưa vào cơ thể hệ miễn
dịch nhận ra chúng, tiêu diệt và ghi nhớ chúng. Về sau, khi tác nhân gây bệnh
thực sự xâm nhập vào cơ thể, hệ miễn dịch đã ở tư thế sẵn sàng để tấn công
tác nhân gây bệnh nhanh chóng hơn và hữu hiệu hơn (bằng cách huy động
nhiều thành phần của hệ miễn dịch, đặc biệt là tế bào lympho) đây chính là
ưu điểm cảu đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.
2.5 Phân loại vaccine
2.5.1 Vacxin giải độc tố
Loại vacxin này được sản xuất từ ngoại độc tố của vi khuẩn đã được làm mất
tính độc nhưng vẫn giữ được tính kháng nguyên. Vacxin giải độc tố kích thích
cơ thể sản xuất ra kháng độc tố, là loại kháng thể có khả năng trung hòa
5
ngoại độc tố. Vacxin này nhằm phòng chống các bệnh nhiễm trung do vi
khuẩn gây bệnh chủ yếu bằng ngoại độc tố.

2.5.2 Vacxin chết toàn thể hoặc kháng nguyên tinh chế
Loại vacxin này sản xuất từ các vi sinh vật gây bệnh. Sau khi vi sinh vật đã bị
giết chết có thể lấy toàn bộ huyền dịch làm vacxin (vacxin toàn thể), hoặc tinh
chế lấy các thành phần kháng nguyên quan trọng, đó là các “kháng nguyên
bảo vệ” (protective antigens).
Các kháng nguyên này chủ yếu kíchthích đáp ứng miễn dịch dịch thể. Các
kháng thể được hình thành có thể trực tiếp giết chết vi sinh vật, ngăn cản sự
bám dính của chúng vào tế bào cơ thể vật chủ, làm tăng khả năng thực bào
…, hoặc phối hợp các cơ chế trên.
2.5.3Vacxin sống giảm độc lực
Loại vacxin này sản xuất từ vi sinh vật gây bệnh hoặc vi sinh vật giống vi sinh
vật gây bệnh về cấu trúc kháng nguyên, đã được làm giảm độc lực không còn
khả năng gây bệnh. Vacxin sống tạo ra trong cơ thể một quá trình nhiễm
khuẩn tự nhiên, kích thích cơ thể đáp ứng cả miễn dịch toàn thể và miễn dịch

tại chỗ, cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào.
Tuy nhiên điều phải quan tâm đặc biệt là tính an toàn của vacxin sống, phải
đảm bảo không còn khả năng gây bệnh hoặc chỉ gây bệnh rất nhẹ, và vi sinh
vật phải có tính di truyền ổn định không trở lại độc lực ban đầu.
2.5.4 Vaccine mới
Các vaccine này còn được xem là vaccine của tương lai, có 6 hướng phát
triển chính hiện nay:
6
• Sử dụng các phụ gia (adjuvant) mới, nhằm gây ra loại đáp ứng miễn
dịch mong muốn. Thí dụ, chất nhôm phosphate và các oligonucleotide
chứa CpG demethyl hóa đưa vào vaccine khiến đáp ứng miễn dịch phát
triển theo hướng dịch thể (tạo kháng thể) thay vì tế bào.
• Vaccine khảm : sử dụng một sinh thể quen biết để hạn chế hiện tượng
"phản tác dụng", thí dụ dùng virus vaccinia mang một số yếu tố của
virus viêm gan B hay virus dại.
• Vaccine polypeptidique : tăng cường tính sinh miễn dịch nhờ liên kết tốt
hơn với các phân tử MHC: peptide nhân tạo 1/2 giống virus, 1/2 kia
gắn MHC; đoạn peptide mô phỏng 1 quyết định kháng nguyên
(epitope).
• Anti-idiotype : idiotype là cấu trúc không gian của kháng thể tại vị trí
gắn kháng nguyên, đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng. Anti-
idiotype là các kháng thể đặc hiệu đối với idiotype, do đó anti-idiotype
xét về mặt đặc hiệu lại tương tự với kháng nguyên. Vậy, thay vì dùng
kháng nguyên X làm vaccine, người ta dùng idiotype anti-anti-X.
• Vaccine DNA: DNA của tác nhân gây bệnh sẽ được biểu hiện bởi tế bào
người được chủng ngừa. Lợi thế của DNA là rẻ, bền, dễ sản xuất ra số
lượng lớn nên thích hợp cho những chương trình tiêm chủng rộng rãi.
Ngoài ra, vaccine DNA còn giúp định hướng đáp ứng miễn dịch: tác
nhân gây bệnh ngoại bào được trình diện qua MHC loại II, dẫn đến đáp
ứng CD4 (dịch thể và tế bào). Khi kháng nguyên của tác nhân đó được

chính cơ thể người biểu hiện, nó sẽ được trình diện qua MHC loại I, lúc
này đáp ứng miễn dịch tế bào qua CD8 được kích thích. Tuy nhiên
phương pháp này là con dao hai lưỡi bởi lẽ tế bào mang DNA lạ có
nguy cơ bị nhận diện là "không ta", sinh ra bệnh tự miễn.
7
• Sử dụng véc-tơ tái tổ hợp – dùng các vi khuẩn thuần tính hoặc các tế
bào trình diện kháng nguyên như tế bào tua được chuyển gen để biểu
hiện kháng nguyên mong muốn.

2.6 Công nghệ sản xuất vaccine
2.6.1 vaccine sống
Một vài vaccine sống đã đáp ứng cơ bản những chỉ tiêu chuẩn cho một
vaccine lý tưởng. Đó là: có khả năng tạo ra một sự bảo vệ suốt đời với một
phản ứng tối thiểu ở gần như toàn thể những người đã nhận một hoặc hai
liều vaccine. Những vaccine loại này thường chứa các vi sinh vật là virus.
Chúng gây nhiễm ở các tế bào và nhân lên ở tế bào chủ, giống như sự nhân
lên của các vi sinh vật gây ra nhiễm khuẩn tự nhiên. Như vậy các vi sinh vật
có trong vaccine sẽ gây ra một đáp ứng miễn dịch của cơ thể giống như đáp
ứng miễn dịch với cơ thể hoang dại. Vaccine sống đã được làm giảm độc lực,
tức là khả năng gây bệnh của các vi sinh vật gần như đã bị loại bỏ bằng các
thủ thuật, kỹ thật sinh học. Các vaccine sống có thể tạo ra hai loại miễn dịch
là miễn dịch dịch thể ( kháng thể ) và miễn dịch tế bào ( tế bào lympho T).
Vaccine sống có hai loại
• Vaccine cổ điển: tức là các vaccine không dùng tới công nghệ DNA.
Chúng đưuọc nuôi và giảm độc lực trong nuôi cấy tế bào. Vaccine cổ
điển được tiến hành từ những năm 40-50 của thế kỷ trước với nuôi
cấy tế bào hiện đại invitro và khả năng nuôi virus trong các atế bào đó,
tạo ra các loại vaccine uống, tiêm…Một cách tạo ra vaccine cổ điển
nữa là phân lập và nuôi virus động vật, gây ra một bệnh động vật
tương tự như bệnh ở người. Virus động vật này được tạo ra và miễn

dịch ở người nhưng không gây bệnh cho người. Đó là trường hợp
8
benehj đậu bò do Jenner tìm ra và tạo ra vaccine. Chính vaccine này đã
góp phần thanh toán bệnh đậu mùa trên toàn thế giới.
• Vaccine tái tổ hợp: có hai hướng trong đó công nghệ DNA được ứng
dụng để phát triển những vaccine virus sống mới.
- Ứng dung thứ nhất là tạo ra những biến đổi đặc hiệu hoặc xóa bỏ ở
gene virus, điều đó sẽ làm cho virus bị giảm độc lực một cách bền
vững.Như vậy chúng sẽ không có khả năng quay trở lại độc lực. Đây là
hướng tạo ra các loại vaccine mới.
- Ứng dụng thứ 2 là tạo ra các vector từ các virus trong vaccine. Mục
đích là để tiếp cận thông tin cảu virus cho hệ thống miễn dịch, trong
khuôn khổ một virus sống, làm cho hệ thống miễn dịch đáp ứng một
kháng nguyên.
2.6.2 Vaccine bất hoạt
So với vaccine sống thì vaccine bất hoạt sản xuất dễ dàng hơn. Theo định
nghĩa vaccine batá hoạt không thể đưuọc nhân lên hoặc phát triển để có thể
gây bệnh. Nói chung, chúng đưuọc dung nạp tốt hơn, đặc biệt các vaccine bất
hoạt được tinh khiết để loại bỏ các thành phần đại phân tử.
Ngoài ra, với trình độ khoa học như hiện nay, vaccine bất hoạt có thể đưuọc
sản xuất dễ dàng hơn, khả năng tạo miễn dịch được nâng cao nhờ khả năng
bổ sung thêm tá dược. Các vaccine chết thường có chức năng kích thích các
đáp ứng miễn dịch dịch thể cũng như khởi động cho miễn dịch tế bào.
• Vaccine bất hoạt nguyên tế bào: sản xuất vaccine bất hoạt nguyên tế
bào vi khuẩn hay toàn hạt nhỏ virus, với mục đích kích thích việc hình
thành các kháng thể đối với nhiều kháng nguyên, một vài vaccine còn
có tác dụng trung hòa tác nhân gây bệnh.
• Vaccine bất hoạt protein:
Đối chiếu nhiều tác nhân gây bệnh thì việc phát triển một vaccine dựa
trên protein là chiến lược được lựa chọn.phương pháp dựa trên kỹ

9
thuật miễn dịch, di truyền hóa sinh, xác định tính đặc hiệu của kháng
nguyên.

2.7 Phương pháp sản xuất vaccine
2.7.1 Dạng truyền thống
Nguyên tắc chung
- Tạo sinh khối : đay là giai đoạn đầu tiên để sản xuất vaccine. Vi sinh vật
được nuôi cây trong môi trường thích hợp, để đạt được số lượng lớn
sinh khối hoặc sản phẩm của chúng. Các chủng vi sinh vật trước khi
được nuôi cấy cần đưuọc kiểm tra độ tinh khiết, không được lẫn vi sinh
vật lạ. Quá trình nuôi cấy được thực hiện trong môi trường đặc biệt có
kiểm soát tốc độ tăng trưởng của sinh vật.
- Làm bất hoạt : yêu cầu khi sản xuất vaccine là phải an toàn cho người
sử dụng. Do đó các vi khuẩn được sử dụng để sản xuất vaccine phải
được batá hoạt nhưng không được mất hoạt tính để có thể đáp ứng
kháng nguyên, nghĩa là có khả năng kích hoạt hệ thống miễn dịch của
cơ thể.
+ Đối với vaccine vi khuẩn chết : có thể dùng tác nhân diệt khuẩn như
các hóa chất, tia cực tím, siêu âm…
+ Đối với vaccine từ vi khuẩn giảm độc : có thể dùng phương pháp cấy
chuyển vi khuẩn nhiều lần trong môi trường nuôi cấy.
- Sản xuất chế phẩm : sau khi làm bất hoạt, tiếp tục tinh khiết hóa và
đông khô để tạo sản phẩm, cuối cùng đóng gói. Tùy theo từng loại chế
phẩm cớ thể đóng gói dưới dạng thuốc lỏng để uống, dạng tiêm hay
dạng thuốc viên.
- Kiểm tra sản phẩm :
+ Cần kiểm tra độ vô trùng
+ Đảm bảo đủ nồng độ
10

+ Khả năng gây miễn dịch
2.7.2 vaccine tái tổ hợp
Các bước tiến hành như sau :
- Bước 1 : Tiến hành xen đoạn thứ cấp của bộ gene virus vào plasmide vi
khuẩn có mang gene kháng lại kháng sinh
- Bước 2 : Tạo tổ hợp DNA khảm có chứa đoạn khởi động (promoter)
mạnh gắn với gene kháng nguyên và đuôi poliA. Sau đó xen vào vùng
cắt hạn chế của virus
- Bước 3 : Biến nạp vào tế bào chủ : tại đây virus và plasmide hợp nhất
tạo virus tái tổ hợp.
2.8 Hạn chế của vaccine
Hạn chế về hiệu quả
Một số vaccine rất có hiệu quả, không kể vaccine đậu mùa nổi tiếng, thí dụ
vaccine ngừa bệnh uốn ván, sởi v.v. Một số vaccine khác có hiệu quả vừa phải
(hiệu quả của BCG chỉ vào khoảng 50%). Ngược lại, có những bệnh đến đầu
thế kỷ 21 vẫn chưa có vaccine thích hợp (AIDS, sốt rét v.v.). Do vậy, vaccine
chưa phải là vũ khí vạn năng để đối phó với bệnh tật.
Hiệu quả của vaccine cũng khó đánh giá chính xác. Kết quả nghiên cứu trên
động vật không thể áp dụng 100% cho loài người, vì những đặc điểm riêng
của từng loài. Trên lý thuyết, phương pháp duy nhất để chứng minh hiệu quả
là lấy 2 nhóm người, một nhóm được tiêm chủng, một nhóm không rồi truyền
mầm bệnh cho cả hai nhóm để xem kết quả. Dĩ nhiên phương pháp này không
thể sử dụng được vì trái đạo đức. Do đó, người ta biến hóa đi một chút, cũng
chia ra 2 nhóm được chủng và không được chủng như trên nhưng không
truyền bệnh mà chỉ quan sát sự nhiễm bệnh qua các ngã thông thường. Hạn
11
chế của phương pháp này là nếu một vaccine tỏ ra có hiệu quả, người ta
không thể triển khai nghiên cứu trên quy mô rộng để tính chính xác hiệu quả
vì như thế một số lớn quần chúng sẽ bị thiệt thòi do không được bảo vệ.
Bởi vậy, khi một vaccine được xem là có hiệu quả, người ta đem tiêm chủng

cho mọi người và quan sát sự giảm số người mắc bệnh. Tuy nhiên, ngay cả
khi một bệnh có chiều hướng giảm xuống, người ta cũng không biết vai trò
thật sự của vắc-xin, thí dụ tần suất bệnh lao đã giảm rất nhiều, nhưng vai trò
của các biện pháp vệ sinh, cách ly nguồn lây cũng rất đáng kể. (Để hiểu rõ
hơn cách đánh giá hiệu quả, xem thêm bài khoa học thống kê.)
Tính kém hiệu quả của vaccine có thể biểu hiện về mặt chất (đáp ứng miễn
dịch không thích hợp) hoặc về mặt lượng (không có đáp ứng miễn dịch).
Nguyên nhân gây kém hiệu quả về lượng:
• Các "lỗ hổng" trong kho tàng miễn dịch: trên lý thuyết, các tế bào
lympho B có thể tạo ra hơn 10
12
loại kháng thể đặc hiệu, còn lympho T
có thể nhận diện trên 10
15
kháng nguyên khác nhau, những con số này
tuy rất lớn nhưng không phải là vô hạn, hệ miễn dịch không thể chống
lại mọi thứ.
• Hiệu quả của vaccine còn tùy thuộc vào thời gian bảo vệ: trí nhớ miễn
dịch có thể tồn tại suốt đời nhưng sự sản xuất kháng thể thì không nếu
không được tái kích thích.
• Đột biến của tác nhân gây bệnh: đây là cơ chế sinh tồn của các tác
nhân gây bệnh. Đột biến đẩy hệ miễn dịch vào một cuộc rượt đuổi
trường kỳ. Tiêu biểu cho cơ chế này là HIV, virus sốt xuất huyết, virus
cúm với nguy cơ đại dịch cúm gia cầm hiện nay.
Nguyên nhân gây kém hiệu quả về chất:
12
• Vai trò của phụ gia: để giảm tác dụng không mong muốn của vắc-xin,
người ta thường tinh lọc các chế phẩm, nhưng có những vaccine quá
tinh khiết lại trở nên kém hiệu quả. Đó là do hệ miễn dịch muốn được
kích hoạt, phải nhận được một tín hiệu báo nguy, tín hiệu này thường

không phải là kháng nguyên dùng làm vắc-xin. Để khắc phục, người ta
dùng một số loại phụ gia trong chế phẩm vaccine. Thí dụ phụ gia
Freund, nhôm hyđrôxít, nhôm phosphate hoặc trộn lẫn các văc-xin với
nhau.
• Loại phản ứng miễn dịch và hiện tượng chuyển hướng miễn dịch: đối
với các tác nhân gây bệnh ngoại bào, đáp ứng miễn dịch dịch thể là
thích hợp (loại đáp ứng này được sự hỗ trợ của các tế bào lympho
Th1). Ngược lại, đáp ứng miễn dịch tế bào (cần sự hỗ trợ của lympho
Th2) lại hữu hiệu cho các tác nhân gây bệnh nội bào. Do đó, nếu
vaccine gây được đáp ứng miễn dịch nhưng không đúng loại đáp ứng
nên có, hiệu quả cũng không được bảo đảm. Th1 và Th2 có xu hướng
khắc chế lẫn nhau. Vaccine kinh điển có xu hướng tạo đáp ứng Th1. Do
đó đối với những bệnh do tác nhân nội bào như nhiễm leishmania,
miễn dịch đặc hiệu sau lành bệnh lại tốt hơn vaccine, vì vaccine lại gây
hiệu quả ngược, kiềm hãm phản ứng bảo vệ.
Tai biến khi dùng vaccine
Có hai loại tai biến: nhiễm bệnh và các bệnh miễn dịch.
Nhiễm bệnh
• Vaccine sống, giảm độc lực có thể gây bệnh cho người bị suy giảm miễn
dịch.
• Nguy cơ hồi phục của tác nhân vi sinh: một tác nhân bị làm giảm độc
lực tìm lại được độc tính của mình. Nguy cơ này ở vaccine ngừa bại liệt
là 10
−7
, nghĩa là cứ 10 triệu trẻ em uống vaccine Sabin thì có 1 em bị tai
13
nạn loại này. Điều không may này không ngăn cản được việc sử dụng
vaccine này bởi lẽ tỷ lệ đó được xem là chấp nhận được.
• Nguy cơ nhiễm các tác nhân gây bệnh khác vào trong chế phẩm vắc-
xin. Điều này có thể hạn chế bằng các quy trình sản xuất, bảo quản và

sử dụng chặt chẽ.
Bệnh miễn dịch
• Thử nghiệm vaccine phòng bệnh dại trên cừu cho thấy có xác suất gây
EAE, một bệnh tự miễn trên hệ thần kinh khoảng 1/3000-1/1000.Lý do
có thể là vaccine chiết xuất từ não chó đã mang theo cả những mẩu
protein của tế bào thần kinh, khi tạo miễn dịch, cơ thể (được tiêm)đã
tạo ra cả kháng thể chống lại cấu trúc thần kinh của mình.
• Vaccine ngừa ho gà có thể gây sốc kèm di chứng thần kinh với xác suất
10
−4
-10
−6
. Việc tinh lọc vaccine này làm tăng mức an toàn nhưng một
lần nữa, giảm hiệu quả.
3. Kết Luận
Sự ra đời của vaccine có ý nghĩa vô cùng to lớn với nhân loại, nó giúp con
người thoát khỏi nhiều đại dịch hiểm nghèo. Tuy nhiên nhiều bệnh vẫn còn
đang là thách thức của loài người, chưa có vaccine nào đặc hiệu cho chúng.
Các loại vaccine truyền thống đang mất dần tính năng phòng bệnh đặc biệt
còn gây ra phản ứng phụ chết người. Có thể nói với sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật đặc biệt trong công nghệ sinh học ứng dụng đã góp phần rất lớn
trong viẹc nghiên cứu bào chế ra các chế phẩm vaccine có chất lượng phục vụ
đời sống con người.
14

×