Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

BÀI THUYẾT TRÌNH VỀ ĐÔ THỊ HÓA VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 41 trang )

ĐÔ THỊ HÓA VÀ QUẢN LÝ ĐÔ
THỊ
ĐÔ THỊ HÓA

 Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa
số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của
một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của
hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn
được gọi là mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên là
tốc độ đô thị hóa.
 Đô thị hóa là quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện
qua các mặt dân số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống,

I - KHÁI NIỆM:

Yokohama









 Các nước phát triển (như tại châu Âu, Mĩ hay Úc) thường có mức độ
đô thị hóa cao hơn nhiều (trên 80%) so với các nước đang phát triển
(như Việt Nam hay Trung Quốc) (khoảng 30%). Đô thị các nước phát
triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với
trường hợp các nước đang phát triển.
 Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đô thị


so với kích thước (về dân số và diện tích) ban đầu của đô thị. Do đó,
sự tăng trưởng của đô thị khác tốc độ đô thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự
gia tăng theo các giai đoạn thời gian xác định như 1 năm hay 5 năm).


 Theo khái niệm của ngành địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia
tăng không gian hoặc mật độ dân cư hoặc thương mại hoặc các hoạt
động khác trong khu vực theo thời gian. Các quá trình đô thị hóa có
thể bao gồm:
 Sự mở rộng tự nhiên của dân cư hiện có. Thông thường quá
trình này không phải là tác nhân mạnh vì mức độ tăng trưởng dân cư
tự nhiên của thành phố thường thấp hơn nông thôn.
 Sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị, hoặc như là
sự nhập cư đến đô thị.
 Sự kết hợp của các yếu tố trên.

 Đô thị hóa có các tác động không
nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực.
Đô thị học sinh thái cũng quan sát
thấy dưới tác động đô thị hóa, tâm lí
và lối sống của người dân thay đổi.
Sự gia tăng quá mức của không gian
đô thị so với thông thường được gọi
là "sự bành trướng đô thị" (
urban
sprawl
), thông thường để chỉ những
khu đô thị rộng lớn mật độ thấp phát
triển xung quanh thậm chí vượt ngoài
ranh giới đô thị. Những người chống

đối xu thế đô thị hóa cho rằng nó làm
gia tăng khoảng cách giao thông,
tăng chi phí đầu tư hạ tầng kĩ thuật
và có tác động xấu đến sự phân hóa
xã hội do cư dân ngoại ô sẽ không
quan tâm đến các khó khăn của khu
vực trong đô thị.
 Đô thị hóa có ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
 Đô thị hóa cũng tác động mạnh lên sự phát triển kinh tế xã hội của vùng
và cả nước.
 Đô thị là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
 Các thành phố thị xã là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng,
là nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kỹ thuật hạ
tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài.
II-TÌNH HÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở VIỆT NAM:

 Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế và trước các tác động của tiến trình toàn cầu hóa, tốc độ đô thị hoá
đang diễn ra khá nhanh, làm biến đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất
nước. Trong tiến trình đó, văn hóa đô thị Việt Nam đang có những thay
đổi theo hướng hiện đại.
1. ĐÔ THỊ HÓA - KẾT QUẢ TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA:

 Theo kết quả nghiên cứu, trước năm 1990, các đô thị ở Việt Nam phát triển
chậm, số dân đô thị chỉ chiếm 7,4% (năm 1930), 10,96% (năm 1955) và
19,79% (năm 1989); quy mô đô thị nhỏ bé và tính chất không thuần nhất.
 Từ năm 1990 đến nay, do tác động của quá trình phân công lao động giữa
các vùng, các ngành nghề trong nước, đặc biệt giữa nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ, khu vực đô thị đã có sự tăng trưởng đáng kể, nhất là ở

các trung tâm kinh tế - xã hội lớn của đất nước như: Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh và các đô thị trung tâm vùng như Hải Phòng, Hạ Long, Đà Nẵng…
 Hiện nay, cả nước có 673 đô thị, trong đó có 5 thành phố trực thuộc trung
ương, trên 30 thành phố trực thuộc tỉnh, 60 thị xã và trên 500 thị trấn. Bước
đầu đã hình thành các chuỗi đô thị trung tâm quốc gia và khu vực: các đô thị
trung tâm quốc gia gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Huế; các đô thị trung tâm vùng liên tỉnh gồm các thành phố loại hai
như Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng Tàu, Buôn Mê Thuột, Nha Trang, Vinh, Nam
Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ Long và Hoà Bình; các đô thị trung tâm tỉnh
gồm các thành phố, thị xã giữ chức năng trung tâm hành chính - chính trị,
kinh tế,văn hóa, du lịch - dịch vụ, đầu mối giao thông; các đô thị trung tâm
huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn và các đô thị mới.
 Nhìn chung, các đô thị ở nước ta đang phát triển nhanh cả về số lượng,
chất lượng và đảm nhiệm được vai trò trung tâm phát triển công nhiệp, tiểu
thủ công nghiệp, chuyển giao công nghệ, thương mại - du lịch - dịch vụ, trung
tâm phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân
lực, đảm bảo quốc phòng, an ninh và đóng góp vào ngân sách nhà nước.

2. NHỮNG TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY:

 Một là, cơ sở kinh tế - kỹ thuật, động lực phát triển đô thị còn yếu; tốc độ
tăng trưởng kinh tế chậm hơn so với tỷ lệ tăng dân số đô thị; tỷ lệ dân số
trong độ tuổi lao động không có việc làm ở khu vực thành thị còn cao. Dự
báo, đến năm 2020, dân số khu vực đô thị sẽ vào khoảng 46 triệu, chiếm
45% dân số cả nước. Trong khi vấn đề lao động, việc làm ở đô thị chưa
được giải quyết, thì tình trạng đô thị hóa nhanh đã đẩy một bộ phận lao
động dư thừa từ nông thôn ra thành thị, tạo thêm gánh nặng cho khu vực
đô thị. Hiện nay, dân cư nông thôn đang tự di cư vào thành thị để kiếm
sống mà nhà nước chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Thành phố

Hồ Chí Minh có trên 2 triệu người nhập cư; ở Hà Nội, trong những năm
gần đây, trung bình mỗi năm có khoảng 60.000 người nhập cư vào Thành
phố. Sự xâm nhập của các giá trị văn hóa nông thôn vào đô thị đã và đang
tạo ra sự pha trộn phức tạp về văn hóa đô thị.
 Hai là, tình trạng sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích xây dựng đô thị
thiếu kế hoạch có thể dẫn đến nguy cơ về an ninh lương thực quốc gia. Dự
báo đến năm 2020, diện tích đô thị vào khoảng 460.000 ha, chiếm 1,4 %
diện tích đất tự nhiên cả nước. Mục tiêu đảm bảo 40 triệu tấn lương thực
cho 100 triệu dân khó có thể đạt được.
 Ba là, sự chênh lệch về văn hóa và mức sống giữa các tầng lớp cư dân
đô thị ngày càng lớn, dẫn đến sự mất cân bằng trong sinh thái đô thị,
nhất là giữa dân số và việc làm, giữa dân số và thu nhập, giữa dân số và
kết cấu hạ tầng… Cơ chế thị trường đã làm cho dân cư đô thị nước ta bị
phân hóa sâu sắc, một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng bên cạnh
tầng lớp nghèo, lang thang cơ nhỡ, sống tạm bợ trong các khu nhà ổ
chuột, thiếu các điều kiện tối thiểu, không có cơ hội được hưởng đầy đủ
các chính sách an sinh xã hội. Một kết quả nghiên cứu vấn đề nghèo đô
thị ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: mức sống của người nghèo thấp
hơn người giàu 7 lần. Do thu nhập thấp, các hộ nghèo phải dành 80%
thu nhập chi cho bữa ăn hằng ngày (nhưng vẫn không đủ), chỉ còn 20%
dành cho học hành, chữa bệnh, đi lại; gần 20% trẻ em trong độ tuổi
không được đến trường, cũng gần bằng số đó là con của các hộ nghèo
phải bỏ học, số trẻ em suy dinh dưỡng chiếm 38,8%. Các vấn đề này tác
động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tình cảm và tâm lý dân
cư đô thị, từ đó có thể dẫn đến các phức tạp xã hội. Sự mất cân bằng
này cần phải được khắc phục bằng các chính sách về quản lý đô thị của
các ngành chức năng và chính quyền các đô thị.
 Bốn là, hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị Việt Nam còn rất yếu kém, lạc hậu,
không đảm bảo các tiêu chuẩn đô thị hiện đại thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, nhất là hệ thống cấp thoát nước, giao thông đô thị và vấn đề nhà ở.
Mạng lưới giao thông đô thị chưa phát triển, gây trở ngại cho sự giao thương
giữa các địa phương; tỷ lệ đất dành cho giao thông, nhất là giao thông tĩnh ở
các đô thị nước ta vào loại thấp nhất thế giới, chưa đạt 5%. Giao thông công
cộng chưa phát triển, chỉ chiếm 2-3% nhu cầu vận tải công cộng; xe máy
chiếm tỷ trọng lớn, gây ô nhiễm không khí, tiếng ồn và nguyên nhân chính gây
tắc nghẽn giao thông. Việc cung cấp nước sạch mới bảo đảm được cho
khoảng 50% số dân đô thị. Hệ thống thoát nước cũ kỹ, lạc hậu thường xuyên
gây ra tình trạng úng lụt vào mùa mưa bão và rất mất vệ sinh do nước thải
chưa được xử lý.

 Năm là, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang thúc đẩy nhanh tình trạng
ô nhiễm môi trường, nhất là ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp, khu
chế xuất. Các đô thị hàng ngày thải ra khoảng 900 tấn rác, riêng rác thải y tế
chiếm 250 tấn. Việc thu gom mới đạt khoảng 60% và hình thức xử lý chủ yếu là
chôn cất nên gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, mặt đất và không khí. Ở Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mức độ ô nhiễm môi trường đã vượt ngưỡng
cho phép nhiều lần. Còn có khá nhiều nhà máy, xí nghiệp, làng nghề gây ô
nhiễm nằm ở trung tâm thành phố, thị xã và xen kẽ giữa các khu đô thị.
 Sáu là, tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng, trật
tự đô thị chưa được đảm bảo. Theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, tỷ lệ tội phạm xảy ra ở khu vực thành thị trung bình hàng năm ở vào
khoảng 70-75% so với cả nước, riêng 4 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh) chiếm 45-50%. Trật tự và văn minh đô thị
chưa được lập lại, tình trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, vệ sinh công cộng
còn rất phổ biến. Và cuối cùng là, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,
văn hóa, không gian văn hóa đô thị bị phá vỡ. Tất cả các vấn đề trên đang tác
động làm biến đổi văn hóa đô thị. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do
công tác quản lý nhà nước về đô thị và quản lý nhà nước về văn hóa của ta còn

yếu kém, bất cập.

3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA ĐÔ THỊ Ở NƯỚC TA:

 Khác với văn hóa nông thôn, đặc trưng của văn hóa đô thị là sự tập trung
dân cư phi nông nghiệp, hình thành những quần thể kiến trúc theo kiểu
bàn cờ.
 Ở thành thị, quan hệ cư trú - ứng xử kết cấu giản đơn hơn ở nông thôn:
gia đình - đường phố - xã hội (thông thường ở nông thôn Việt Nam, quan
hệ cư trú - ứng xử kết cấu theo kiểu: gia đình - họ tộc - láng giềng - làng
xóm - xã hội). Điều đó có nghĩa là: người thành thị khi bước chân ra khỏi
nhà đã hoà mình với xã hội rồi.
 Ở nông thôn, mỗi gia đình có thể tự túc được lương thực, thực phẩm, còn
ở thành phố, con người phải phụ thuộc vào dịch vụ… Nhu cầu tiêu dùng
của người đô thị thường cao hơn, đa dạng hơn và hướng tới sự khá giả.
Vì vậy, dịch vụ công không thể thiếu đối với cư dân đô thị. Đây có thể được
xem như là một nét văn hóa đô thị.

 Trong văn hóa đô thị, do không gian giao tiếp rộng lớn, việc sử dụng các
phương tiện giao thông là không thể thiếu và không ngừng tăng lên. Vì vậy,
văn hóa ứng xử ngoài đường phố, trên các phương tiện giao thông công
cộng cũng được coi trọng như văn hóa ứng xử trong gia đình và trong công
sở. Sự phân hóa giàu nghèo ở đô thị hiện nay đang tăng lên đã thúc đẩy
việc hình thành nhân cách của các tầng lớp dân cư đô thị, vì vậy văn hóa
đô thị là một thể hỗn hợp giữa văn hóa bác học, văn hóa dân gian và văn
hóa đại chúng (văn hóa thị dân). Trong khi văn hóa bác học đóng vai trò
chủ yếu sản sinh ra các chuẩn mực văn hóa, văn hóa dân gian tạo tiềm
năng, môi trường nuôi dưỡng và thể hiện các chuẩn mực văn hóa thì văn
hóa thị dân dễ bị tầm thường hóa, dễ dẫn đến chỗ dung dưỡng các hành
vi phản văn hóa như mê tín dị đoan, cờ bạc, ma túy, mại dâm.

 Con người ở đô thị có rất nhiều mối quan hệ, ngoài quan hệ gia đình, thân
tộc, hàng xóm, còn có quan hệ đồng nghiệp, đồng hương, bạn hàng, nhóm
cùng sở thích…Văn hóa ứng xử của người đô thị có phần thiên về quan hệ
trên cơ sở luật pháp và thị trường nhiều hơn, người đô thị sống sòng
phẳng và có vẻ “lạnh lùng” hơn.

4. ĐƯỢC VÀ MẤT TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở NƯỚC TA:

 Đô thị hóa đang làm thay đổi bộ mặt đất nước trên nhiều phương diện. Quá
trình đô thị hóa cũng đang làm thay đổi văn hóa dân tộc nói chung và văn
hóa đô thị nói riêng. Quá trình thay đổi văn hóa đô thị đang diễn ra ở các
khía cạnh sau:
 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang làm thay đổi tập quán sản
xuất, kinh doanh của người đô thị theo hướng công nghiệp hóa, đa thành
phần, đa dạng dịch vụ theo kinh tế thị trường. Sự biến đổi văn hóa sản
xuất, kinh doanh đang thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ trong lĩnh vực văn
hóa, xác lập ngày càng đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của người dân,
của các nhóm cư dân đô thị trong sáng tạo, phát huy, bảo tồn và hưởng thụ
văn hóa. Người dân đô thị ngày càng chú trọng đến chất lượng các loại hình
dịch vụ văn hóa, có nhiều điều kiện để chọn lựa cách thức hưởng thụ giá trị
văn hóa. Trong tổ chức đời sống văn hóa, người dân đô thị đã cơ bản khắc
phục được tác phong sản xuất nhỏ, trì trệ, luộm thuộm; hình thành tác
phong công nghiệp hiện đại; xây dựng được ý thức chấp hành pháp luật, ý
thức công dân và ý thức cá nhân. Xã hội công dân đang manh nha hình
thành ở khu vực đô thị.
 Tuy nhiên, sự tác động của cách thức sản xuất kinh doanh trong điều kiện
kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề
về văn hóa không phù hợp với văn hóa dân tộc như sự thẩm lậu và lưu
hành các loại hình văn hóa “trái luồng”, độc hại (sách báo, băng đĩa, sự phát
triển thái quá ngoài tầm kiểm soát của các loại hình dịch vụ văn hóa nhạy

cảm như karaoke, vũ trường, internet, báo chí, xuất bản…). Tình trạng văn
hóa đọc, viết đang bị mai một là một ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của
cư dân đô thị hiện đại. Có rất nhiều người không bao giờ đọc các tác phẩm
văn học, tiểu thuyết văn chương, kể cả những tác phẩm được coi là di sản
văn hóa nhân loại. Vô tuyến truyền hình, trò chơi điện tử, máy tính, truyện
tranh vẫn sẽ là sự lựa chọn của học sinh, sinh viên và thanh thiếu niên, và
điều đó là rất nguy hiểm.
 Đối với cư dân đô thị, kinh tế thị trường thậm chí đã làm thay đổi thế giới
quan, nhân sinh quan, tình cảm và tâm lý của họ. Về mặt tích cực, kinh tế
thị trường làm thay đổi thái độ đối với lao động của người thành thị: tất
cả phải vươn ra thị trường, tất cả phải kiếm được việc làm, phải có thu
nhập, không trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước và sự bố thí
của xã hội. Thái độ đối với gia đình, bạn bè, xã hội cũng có sự thay đổi
theo hướng hiện đại, đó là sự thông cảm, sẻ chia và tôn trọng tự do cá
nhân (sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật). Người dân thành thị
ngày nay đã vượt qua được tính ích kỷ, tự ti của người nông dân và tiểu
thương, vượt qua được các ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến.
 Nhân cách văn hóa người dân đô thị trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ tiếp tục được hình
thành theo hướng tích cực nhiều hơn, có nhiều đặc trưng khác với nhân
cách văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất
sẽ là sự hình thành nhân cách công dân với đặc trưng là khẳng định cái
“tôi”, cái cá nhân nhiều hơn và ít bị chi phối bởi cộng đồng. Về mặt tiêu
cực, với bản chất là cạnh tranh, kinh tế thị trường là mảnh đất màu mỡ
cho sự nảy sinh và phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ nuôi dưỡng bản
năng thấp hèn của con người. Nhiều mối quan hệ chỉ được giải quyết
thông qua giá trị của đồng tiền, kể cả quan hệ ruột thịt trong một gia
đình. Một bộ phận cư dân đô thị có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống, trong đó có cả cán bộ, công chức và thanh niên, học sinh,
sinh viên.

QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

Đô thị hình thành và phát triển tất yếu nảy sinh ra vấn đề quản lý đô thị
và vấn đề quản lý đô thị (QLĐT) hiện nay đang trở thành vấn đề bức xúc
đối với các đô thị ở nước ta. TPHCM với diện tích hơn 2.000km2, dân
số thường trú trên 5 triệu người, ngoài ra còn xấp xỉ 2 triệu người tạm
trú và vãng lai, là thành phố lớn nhất nước. TPHCM đã được đô thị hóa
từ lâu và hiện nay cũng đang diễn ra dữ dội, do vậy công tác quản lý đô
thị lại càng trở nên bức thiết.
1. THỰC TRẠNG:

 Thực tiễn của sự phát triển sôi động trong những năm gần đây đã tác
động đến sự nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác quản
lý đô thị.
 Trong quá trình QLĐT, các cấp chính quyền ở đô thị phải luôn đương đầu
giải quyết những khó khăn do đô thị hóa gây ra như: tình trạng xây dựng
hỗn loạn không tuân thủ qui hoạch, vấn đề cấp thoát nước, thiếu cây
xanh, tình trạng thiếu nhà ở (nhà ổ chuột), nạn ùn tắc giao thông, đường
sá xuống cấp, mạng lưới điện quá tải, ô nhiễm môi trường, thiếu công
ăn việc làm, thất nghiệp, nghèo đói, tệ nạn xã hội, gia tăng dân số, trật
tự giao thông…

×