Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Xu hương chính sách thương mại của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.76 KB, 20 trang )

Đề tài: Xu hướng chính sách thương
mại của nước ta hiện nay
Mục lục
I.Xu hướng tự do
hoá thương mại 4
IXu hướng bảo hộ
mậu dịch 5
IIMối quan hệ giữa
xu hướng tự do hóa
thương mại và xu
hướng bảo hộ mậu
dịch 7
IV. CÁC NGUYÊN
TẮC CƠ BẢN ĐIỀU
CHỈNH CÁC QUAN
HỆ THƯƠNG MẠI.
8
IIIThực trạng chính
sách tự do hóa
thương mại và bảo
hộ mậu dịch 9
IVĐịnh hướng và
giải pháp thương
mại trong xu thế hội
nhập kinh tế toàn
cầu 11
I. Xu hướng tự do hoá thương mại.
1 - Khái niệm
Quá trình tự do hóa thương mại là quá trình nhà nước giảm dần sự can
thiệp vào các hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế của quốc gia nhằm
tạo điều kiện thông thoáng và thuận lợi cho các hoạt động đó phát triển một


cách hiệu quả.
2 - Cơ sở
- Xuất phát từ quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, các quốc gia phải
tăng cường quá trình hợp tác, trước hết là trong lĩnh vực thương mại. Do đó
nhà nước phải giảm dần sự can thiệp và tăng cường áp dụng các biện pháp
theo chuẩn mực quốc tế và khu vực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh tế quốc tế phát triển.
- Các nước trên thế giới đang chuyển sang áp dụng mô hình kinh tế thị
trường mở cửa nhằm tạo điều kiện phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh
trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại quốc tế.
- Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty đa quốc gia cũng là cơ sở cho các
nước thực hiện mô hình chính sách tự do hóa thương mại quốc tế.
3 - Mục tiêu
- Phát triển hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, cụ thể là phát triển khả năng
xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác đồng thời mở rộng hoạt động nhập
khẩu những hàng hóa không có điều kiện sản xuất hoặc sản xuất có hiệu quả
thấp.
- Tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế nói chung giữa
các nước trước hết là quan hệ hợp tác đầu tư.
- Tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp bằng cách tạo ra môi
trường cạnh tranh tốt như tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong
nước và các doanh nghiệp nước ngoài, đó là động lực quan trọng để các
doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
4 - Nội dung
a, Nhà nước tiến hành cắt giảm các công cụ, biện pháp gây hạn chế cho hoạt
động thương mại quốc tế như thuế quan, hạn ngạc, các thủ tục hành chính
nhằm tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng phát triển quan hệ trao đổi mua bán
hàng hóa với các nước khác
b, Nhà nước từng bước đưa vào và thực hiện các chính sách và biện pháp

quản lý như quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, chính sách chống bán phá giá,
chính sách đảm bảo cạnh tranh và chống độc quyền,chính sách đảm bảo
quyền sở hữu trí tuệ,thương hiệu hàng hóa theo các cam kết trong các hiệp
định hợp tác đã ký kết và theo chuẩn mực chung của thế giới.
IXu hướng bảo hộ mậu dịch.
1, Khái niệm
Bảo hộ mậu dịch là quá trình chính phủ các nước tiến hành xây dựng và
đưa vào áp dụng các biện pháp thích hợp trong chính sách thương mại nhằm
hạn chế hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài .
2.Cơ sở khách quan:
Xu hướng bảo hộ mậu dịch xuất phát từ điều kiện sản xuất,điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội và mục tiêu phát triển của quốc gia. Chính phủ áp dụng
chính sách bảo hộ mậu dịch, hạn chế nhập khẩu nhằm giảm bớt áp lực cạnh
tranh cho các ngành sản xuất trong nước.
Cơ sở chủ quan của xu hướng này là nguyên nhân về mặt lịch sử trong
quan hệ phát triển, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia. Một số chính phủ vẫn
duy trì chính sách bảo hộ mậu dịch đối với một hoặc một số loại hàng hoá
nhất định đối với từng đối tác cụ thể.
3. Mục tiêu
Bảo hộ mậu dịch được thực hiện nhằm đảm bảo lợi ích và chủ quyền độc
lập cho các quốc gia, trước hết là về mặt kinh tế trong quá trình phát triển.
Trong điều kiện hội nhập, một số ngành quan trọng và non trẻ cần có sự bảo
vệ và tạo điều kiện để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đó là những ngành có
ảnh hưởng lớn đến an ninh quốc gia, hoặc có tiềm năng phát triển, đem lại
lợi ích cho quốc gia và khai thác tốt lợi thế so sánh của quốc gia.
Bên cạnh đó, việc thực hiện bảo hộ mậu dịch còn làm tăng nguồn thu Ngân
sách quốc gia, thực hiện quá trình phân phối lại giữa cá nhóm người trong xã
hội, và góp phần thực hiện mục tiêu giải quyết vấn đề thất nghiệp trong nước
thông qua bảo hộ các ngành sản xuất trong nước.
4. Nội dung:

a, Ý kiến để bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ

Theo quan điểm này, những ngành công nghiệp non trẻ phải chịu chi phí
ban đầu cao và không thể cạnh tranh ngay trong một vài năm đầu với các đối
thủ nước ngoài dày dặn kinh nghiệm. Một chính sách tự do sẽ bóp chết các
doanh nghiệp non trẻ ngay từ khi mới hình thành. Một hình thức thuế quan
tạm thời đánh vào hàng hóa nhập khẩu sẽ cho phép các doanh nghiệp trưởng
thành và bảo vệ chống lại sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Tuy nhiên cũng có những ý kiến trái ngược lại quan điểm này, cho rằng có
thể giúp được các doanh nghiệp non trẻ qua việc cho phép được vay thêm
nguồn tài chính với lãi suất thích hợp hoặc có thể có ột hình thức trợ cấp nào
đó mà không nên dùng thuế nhập khẩu vì sẽ gây nên một sự xáo trộn trong
nhu cầu tiêu dùng.
b, Ý kiến để tạo nên nguồn tài chính công cộng
Theo quan điểm này, các loại thuế nhập khẩu là cần thiết để đảm bảo
nguồn thu cho CP, để đáp ứng các chi phí trong việc cung cấp các hàng hóa
công cộng, để tiến hành việc trả nợ và giải quyết các khoản chi khác. Trong
các loại thuế khác nhau mà trong thực tế ngườu ta đã áp dụng thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế tiêu thụ đăc biệt, thì thuế nhập
khẩu vẫn gây ra ít xáo trộn hơn cả việc thực thi sẽ có nhiều thuận lợi hơn do
hoạt động buôn bán quốc tế tập trung ở một số cửa khẩu.

c, Ý kiến để khắc phục một phần tình trạng thất nghiệp thông qua việc thực
hiện chế độ thuế quan bảo hộ.
Theo quan điểm này, các loại thuế nhập khẩu đánh vào các sản phẩm có
thể thay thể nhập khẩu sẽ tạo điều kiện để mở rộng thêm sản xuất các loại
sản phẩm ấy và tạo thêm việc làm cho người lao động trong nước, vì khi ấy
các hãng sẽ có thể trả cho người lao động lương cao hơn. Tuy nhiên cũng có
những ý kiến cho rằng: thuế nhập khẩu là một loại trợ cấp việc làm song
việc trợ cấp này chỉ diễn ra ở các ngành sản xuất những hàng hóa có thể thay

thể nhập khẩu, mặt khác sự trợ cấp này lại không chỉ riêng cho việc làm mà
tương đương chon việc thuê cả các yếu tố sản xuất khác như đất đai, tiền
vốn hay nguyên liệu. Hơn nữa, ở đây có nguy cơ là các quốc gia sẽ có những
biện pháp trả đũa và gây ra tình trạng đi tới xa rời nguyên tắc tự do buôn bán
trong thương mại.
d, Ý kiến để thực hiện phân phối lại thu nhập thông qua việc áp dụng chế độ
bảo hộ.
Theo quan điểm này các loại nhập khẩu sẽ chuyển dịch một phần thu nhập
của những người tiêu dùng giàu có hơn sang cho những người sản xuất các
loại hàng hóa được sản xuất trong nước tương ứng các hành hóa nhập khẩu.
Điều đó sẽ có lợi về mặt xã hội, tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng thuế quan
nhập khẩu chưa hẳn là đáp ứng được mục tiêu mong muốn. Xu hướng bảo
hộ mậu dịch ngày càng gia tăng, đi ngược lại với những cam kết do các nền
kinh tế công nghiệp hóa hàng đầu thế giới đưa ra nhằm chống lại chủ nghĩa
bảo hộ và ứng phó với những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài
chính kinh tế toàn cầu mới đây.
IIMối quan hệ giữa xu hướng tự do hóa thương mại và
xu hướng bảo hộ mậu dịch
Xu hướng tự do hóa thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch có tác động
mạnh mẽ đến chính sách thương mại của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ. Hai
xu hướng này không bao giờ được thực hiện một cách triệt để hoàn toàn mà
thường được kết hợp với nhau trong quá trình xây dựng các chính sách
thương mại thương mại quốc tế của mỗi quốc gia. Trong đó xu hướng bảo
hộ mậu dịch được điều chỉnh theo hướng giảm dần đồng thời xu hướng tự
do hóa thương mại ngày càng được các quốc gia tăng cường, các công cụ
biện pháp bảo hộ mậu dịch từng bước được chuyển dần từ những biện pháp
truyền thống như thuế quan, hạn ngạch sang các biện pháp hiện đại hơn như
rào cản kỹ thuật, chính sách chống bán phá giá, chính sách đảm bảo cạnh
tranh và chống độc quyền, biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
IV. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐIỀU CHỈNH CÁC QUAN

HỆ THƯƠNG MẠI.

Trong hệ thống thương mại thế giới,chính sách ngoại thương của một
quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác,nhất là những quốc gia có
nền kinh tế lớn.Do đó,giữa các nước lớn với nhau cũng như giữa các nước
nhỏ với các nước lớn trong quan hệ cạnh tranh trong buôn bán quốc tế đã
xác lập nhưng nguyên tắc chung để điều chỉnh các quan hệ buôn bán chống
sự phân biệt đối xử, đảm bảo tính tương đối cân bằng và công bằng về lợi
ích giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế. Đến nay đã có 3 nguyên tắc
được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ thương mại.
Một là nguyên tắc tương hỗ. Nguyên tắc này đòi hỏi các nước khi có quan
hệ ngoại thương với nhau sẽ dành cho nhau những ưu đãi và nhân nhượng
tương xứng nhau trong quan hệ buôn bán dựa trên cơ sở tiềm lực kinh tế của
các bên tham gia. Chẳng hạn,trong cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và
Nhật Bản,cả hai chính phủ đã đi tới nhân nhượng với nhau về xuất nhập
khẩu các sản phẩm của ngành công nghiệp ôtô du lịch và các sản phẩm của
ngành công nghiệp điện tử theo nguyên tắc tương hỗ.Nếu Mỹ hạn chế nhập
khẩu ôtô du lịch của Nhật vào Mỹ thì Nhật bản sẽ hạn chế việc nhập khẩu
các sản phẩm của ngành công nghiệp điện tử của Mỹ vào Nhật và ngược lại.
Tuy nhiên,thông thường,trong quan hệ buôn bán giữa các nước có quy mô
nền kinh tế khác nhau thì bên yếu hơn sẽ chịu lép vế và thương bị buộc phải
chấp nhận những điều kiện do bên có thực lực kinh tế mạnh hơn đưa ra.
Điều này thể hiện rất rõ trong quan hệ buôn bán giữa các nước công nghiệp
phát triển với các nước đang phát triển trong trao đổi giữa hàng sơ khai và
hàng công nghiệp.
Hai là nguyên tắc tối huệ quốc. Nguyên tắc tối huệ quốc còn gọi là chế độ
tối huệ quốc hay chế độ ưu đãi nhất là chế độ mà các nước dành cho nhau
trong quan hệ kinh tế và buôn bán về thuế quan,mặt hàng trao đổi,vận tải
ngoại thương,quyền lợi của các pháp nhân và thể nhân của nước này trên
lãnh thổ của nước kia…theo nguyên tắc “không phân biệt đối xử”. Nghĩa là

khi một nước cam kết cho một nước khác được hưởng chế độ tối huệ quốc
thì phải dành cho nước đó tất cả những ưu đãi mà mình đã hoặc sẽ dành cho
nước thứ 3. Chẳng hạn,khi Mỹ cam kết cho Việt Nam hưởng chế độ tối huệ
quốc thì Mỹ phải dành cho Việt Nam tất cả những ưu đãi như Mỹ dành cho
Trung Quốc. Để thống nhất quản lý nhà nước về đối xử tối huệ quốc và đối
xử quốc gia trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi trong quan thương mại quốc
tế,ngày 25 tháng 5 năm 2002 ủy ban thường vụ quốc hội khóa X của Việt
Nam đã thông qua Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong
thương mại quốc tế.
Theo luật pháp thương mại quốc tế thì đây là một nguyên tắc điều chỉnh
các mối quan hệ thương mại và kinh tế giữa các nước trên cơ sở hiệp
định,hiệp ước giữa các nước một cách bình đẳng có đi có lại hai bên cùng có
lợi. Tuy nhiên,mục tiêu chủ yếu của chế độ tối huệ quốc là không phải cho
nhau hưởng các đặc quyền mà là nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng giữa các
quốc gia có chủ quyền về các cơ hội giao dịch thương mại và kinh tế với
mục đích thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa các nước phụ thuộc vào độ thân
thiện giữa các nước với nhau.
Hiện nay,nguyên tắc tối huệ quốc được các nước trên thế giới áp dụng theo
hai cách khác nhau hay còn gọi là có hai loại chế độ tối huệ quốc,tùy thuộc
vào lợi ích kinh tế của từng nước.
IIIThực trạng chính sách tự do hóa thương mại và bảo
hộ mậu dịch.
1. Về thuế quan và trợ cấp
Sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã ban hành
và cập nhật định kỳ rất nhiều văn bản pháp quy để thực hiện cắt giảm thuế
quan về hàng hóa theo lộ trình đã cam kết.
Đối với hàng nông sản nhập khẩu của Việt Nam, nhìn chung các mức
thuế suất hiện đang áp dụng bằng hoặc thấp hơn so với mức cam kết đến
cuối năm 2009. Các sản phẩm thịt và phụ phẩm thịt là mặt hàng chịu thuế
suất nhập khẩu cắt giảm nhanh nhất, và lịch trình giảm thuế từ giữa năm

2007 nhanh hơn đáng kể so với cam kết WTO. Thuế thịt gia cầm giảm từ
20% xuống 12%, thịt bò từ 20% xuống 12%, thịt lợn từ 30% xuống 20%,
ngô từ 5% xuống 3%, trứng các loại gia cầm từ 30% xuống 20%, thấp gần
bằng mức cam kết thuế quan năm 2012. Sau đó, Chính phủ đã quyết định áp
dụng trở lại các mức thuế nhập khẩu cũ, cụ thể là 40% đối với thịt gà, 20%
đối với thịt bò và 30% đối với thịt lợn, 5% đối với ngô và trứng gia cầm là
40%. Đối với hàng phi nông sản, tính đến hết năm 2009, các mặt hàng đã
giảm thuế quan nhiều nhất bao gồm thủy hải sản, dệt may, gỗ và giấy, máy
móc thiết bị điện tử và các hang chế tạo khác. Riêng đối với thủy sản,
khoảng 2/3 dòng thuế quan hiện đang áp dụng thấp hơn so với cam kết, phần
còn lại là đúng với cam kết. Đối với cam kết hạn ngạch thuế quan, Việt
Nam đã thực thi cam kết này với các sản phẩm trứng chim và trứng gia cầm;
đường mía, đường củ cải, đường sucroza tinh khiết về mặt hóa học ở thể rắn.
Đối với cam kết trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam đã xóa bỏ toàn bộ trợ cấp
nông nghiệp ngay khi gia nhập WTO.
2. Về thực hiện các biện pháp hỗ trợ
Về hỗ trợ xuất khẩu, Việt Nam đã xóa bỏ toàn bộ các loại trợ cấp xuất
khẩu kể từ khi gia nhập WTO. Tuy nhiên trong khuôn khổ Hiệp định Nông
nghiệp, Việt Nam đang bảo lưu hai hình thức trợ cấp xuất khẩu được WTO
cho phép áp dụng đối với các nước đang phát triển: một là, trợ cấp để giảm
chi phí tiếp thị, bao gồm cả chi phí xử lý, nâng cấp, tái chế sản phẩm, chi phí
vận tải quốc tế, cước phí vận chuyển; hai là, ưu đãi về cước phí vận tải trong
nước và quốc tế đối với hàng xuất khẩu hơn hàng nội địa.
Về hỗ trợ đầu tư, giá trị vốn đầu tư của Nhà nước cho ngành nông, lâm,
thủy, sản tăng đều về số lượng nhưng giảm về cơ cấu, tương ứng từ khoảng
8% năm 2000 xuống 6,3% năm 2008. Chính sách đầu tư phát triển sản xuất
nông nghiệp nói chung trong ba năm qua thể hiện ở chỗ hầu hết các hỗ trợ
trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp có yếu tố xuất khẩu đã giảm và dần đi
đến xóa bỏ nhằm thực hiện các cam kết với WTO. Đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng là hỗ trợ đầu tư lớn nhất, chiếm phần lớn tổng đầu tư cho ngành nông

lâm thủy sản và luôn luôn tăng. Trong ba năm từ 2007-2009, đầu tư riêng
cho thủy lợi tiếp tục xu thế tăng từ 1.386,32 tỷ đồng năm 2007 lên 2.257,167
tỷ năm 2009.
Đầu tư cho các dự án nông lâm thủy sản tăng từ 180,93 tỷ lên 474,448 tỷ
và cho khoa học công nghệ cũng tăng từ 137,96 tỷ lên 208,5 tỷ. Ngoài ra,
trong giai đoạn này, đầu tư qua các chương trình mục tiêu, các dự án để thực
hiện các nhiệm vụ mục tiêu cụ thể cũng gia tăng .
3. Về lĩnh vực dịch vụ
Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các cam kết WTO trong lĩnh vực này. Đối
với các loại hình dịch vụ có mức cam kết gia nhập cao hơn so với khung
pháp lý hiện hành trước khi gia nhập, Chính phủ đã ban hành các văn bản
pháp quy để thực thi các cam kết. Đối với các loại hình dịch vụ còn lại, việc
thực hiện các cam kết WTO tuân theo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế số 41/2005/QH11 ngày 24/6/2005. Việc rà soát các cam kết
hội nhập trong lĩnh vực này cho thấy các lĩnh vực có mức độ mở cửa tương
đối nhanh là dịch vụ viễn thông, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ phân phối. Việt
Nam cũng công bố lộ trình thực hiện các cam kết WTO về hoạt động mua
bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được phép thành lập ở Việt
Nam.
Khung pháp lý đối với hoạt động tài chính, tín dụng cũng liên tục được
điều chỉnh, bổ sung. Các văn bản pháp quy chính đã được ban hành để thực
hiện cam kết WTO. Trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng là Nghị định số
22/2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hang liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam; từ ngày
01/4/2007 ngân hang 100% vốn nước ngoài cũng được phép thành lập. Nghị
định 59/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại đã
thiết lập nền tảng pháp lý bình đẳng cho các ngân hàng thương mại quốc
doanh và tư nhân, kể cả tư nhân trong nước và nước ngoài.

Để giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh, từ
ngày 14/4/2010, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng được thả nổi. Mặt
khác, nhằm tăng cường vai trò của chính sách tiền tệ trong quản lý nhà nước,
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được sửa đổi và thông qua vào
tháng 6/2010.
Đối với dịch vụ bưu chính - viễn thông, các văn bản pháp quy chính đã
được ban hành để thực hiện cam kết WTO trong lĩnh vực này là Luật Viễn
thông ngày 23/11/2009 và Luật Bưu chính ngày 28/6/2010, Nghị định số
121/2008/NĐ-CP ngày 3/12/2008 về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực bưu
chính viễn thông. Ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các nhà đầu tư
nước ngoài được phép liên doanh với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông
được cấp phép tại Việt Nam. Đối với các dịch vụ có hạ tầng mạng, phần góp
vốn của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 49% vốn pháp
định của liên doanh và mức 51% được coi là nắm quyền kiểm soát trong
việc quản lý liên doanh. Đối với các dịch vụ không có hạ tầng mạng, phần
góp vốn của phía nước ngoài trong lien doanh không vượt quá 51% vốn
pháp định của liên doanh.
IVĐịnh hướng và giải pháp thương mại trong xu thế hội
nhập kinh tế toàn cầu.
1. Việt Nam cần phải tập trung định hướng các hoạt động xuất/nhập
khẩu phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm giai đoạn
2001-2010 ở mức cao, đạt 19%/năm. Quy mô xuất khẩu tăng từ 15 tỷ USD
năm 2001 lên 72,19 tỷ năm 2010, tăng hơn 4,7 lần. Tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam trên GDP tăng từ 46% năm 2001 lên 70% năm 2010.
Mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú và đa dạng. Nếu như năm 2004,
Việt Nam chỉ có 6 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD thì đến hết năm
2010 đã có 18 nhóm hàng, trong đó có 10 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất
khẩu trên 1 tỷ USD và 8 nhóm hàng trên 2 tỷ USD. Hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 220 nước và vùng lãnh thổ.

Bên cạnh đó, trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế, công nghệ nước
ta còn thấp, chính sách nhập khẩu trong thời gian qua đã tạo thuận lợi để
Việt Nam có điều kiện về vốn và kinh nghiệm quản lý để tiếp cận công nghệ
tiên tiến, giải quyết sự thiếu hụt về nguyên, nhiên liệu, máy móc thiết bị.
Nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện trình độ
công nghệ của nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, giúp người tiêu dùng
tiếp cận hàng hóa và dịch vụ có chất lượng hơn, rẻ hơn và tiện lợi hơn…
Tuy nhiên, phát triển của lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt Nam trong
giai đoạn vừa qua chưa thật sự góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững
của nền kinh tế - xã hội của đất nước. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất
khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố sẵn có về điều kiện tự
nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính sách phát triển xuất khẩu quá chú trọng
đến chỉ tiêu số lượng, mà chưa thật sự quan tâm đúng mức đến chất lượng và
hiệu quả xuất khẩu. Chúng ta chưa khai thác một cách hiệu quả lợi thế cạnh
tranh xuất khẩu dựa vào công nghệ, trình độ lao động, quản lý để tạo ra các
nhóm hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, có nhiều hàm lượng khoa
học, công nghệ, có khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của môi trường
kinh doanh quốc tế. Nhập khẩu đang chủ yếu là nhập khẩu công nghệ trung
gian, nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ còn chiếm tỷ trọng đáng kể, chưa có
biện pháp dài hạn để kiềm chế nhập siêu.
Ngoài ra, việc mở rộng xuất khẩu một số sản phẩm đang có nguy cơ làm
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học và ô nhiễm môi
trường, sử dụng ngày càng nhiều các yếu tố đầu vào làm gia tăng áp lực gây
ô nhiễm. Tình trạng nhập khẩu hàng hóa không đảm bảo các quy định an
toàn và môi trường còn khá phổ biến nguy cơ ô nhiễm và suy thoái môi
trường tăng cao. "Việc nhập khẩu thiết bị lạc hậu, thực phẩm kém chất
lượng, hóa chất độc hại chưa được ngăn chặn kịp thời"
Hiện nay, những thiết bị lạc hậu, thực phẩm kém chất lượng, hóa chất
độc hại từ Trung Quốc và qua các cửa khẩu tiếp giáp Lào, Campuchia vẫn
chưa có biện pháp ngăn chặn. Quản lý nhập khẩu chưa tốt làm nảy sinh hiện

tượng gian lận thương mại, một số nhóm người thu lợi bất chính từ hoạt
động nhập khẩu, làm trầm trọng thêm sự bất ổn định kinh tế và xã hội.
Thêm vào đó, nhập khẩu chưa bền vững do vẫn chú trọng nhập khẩu công
nghệ trung gian, khuyến khích nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ, chưa có biện
pháp dài hạn để kiềm chế nhập siêu, nhập khẩu cạnh tranh chưa được
khuyến khích đúng mức…
Nhiều vấn đề xã hội nảy sinh từ những mặt trái của hoạt động xuất, nhập
khẩu nói trên chưa được chúng ta xử lý bằng cơ chế, chính sách có hiệu quả,
những chính sách chia sẻ hợp lý lợi ích từ xuất khẩu, đặc biệt là lợi ích thu
được từ các nhóm hàng xuất khẩu có nguồn gốc thiên nhiên. Khoảng cách
giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng trong quá trình tự do hóa thương mại.
Cơ hội về thu nhập và việc làm dễ bị tổn thương đối với nhóm xã hội là
người có thu nhập thấp, khu vực nông nghiệp trong quá trình tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu.
Nguyên nhân của tình trạng nói trên là do chúng ta chưa thật sự quan tâm
đúng mức đến chất lượng tăng trưởng, mới chú trọng về chỉ tiêu số lượng,
chưa coi trọng những ảnh hưởng tiêu cực của xuất, nhập khẩu đối với xã hội
và môi trường, duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chưa
chú trọng đúng mức việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu.
Yêu cầu phát triển xuất, nhập khẩu phục vụ phát triển bền vững đặt ra hết
sức cấp bách đối với nước ta trong giai đoạn 2011-2020, giai đoạn tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Yêu cầu đó càng trở nên cấp bách hơn
trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn với nền kinh tế thế giới,
nhất là khi chúng ta là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) và đang thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do
FTA ở mức độ rộng hơn và cao hơn.
Việc phát triển xuất nhập khẩu theo yêu cầu phát triển bền vững đòi hỏi
chúng ta cần có những chính sách đúng đắn và phù hợp, được xây dựng trên
cơ sở khoa học, có tính đến một cách hài hoà giữa mục tiêu kinh tế, xã hội,
môi trường. Chính vì vậy, cần có các tiêu chí khoa học để định hướng, xây

dựng, kiểm định, làm căn cứ cho các chính sách xuất, nhập khẩu theo hướng
phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Về mặt xuất khẩu, cần hạn chế khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên cũng như các hoạt động chế biến gây tác hại nặng lên môi trường. Bên
cạnh đó, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các mặt hàng xuất khẩu thân
thiện với môi trường. Ví dụ, dựa trên thế mạnh nông nghiệp truyền thống, có
thể định hướng/hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất thực phẩm hữu cơ
(organic foods) để xuất khẩu vào các thị trường đầy tiềm năng như Nhật
Bản. Sản xuất thực phẩm hữu cơ vừa thân thiện với môi trường vừa có giá
trị xuất khẩu cao hơn.
Về mặt nhập khẩu, cần phải tránh các công nghệ cũ đang bị các nước
khác loại bỏ và tìm cách bán tháo. Bên cạnh đó, cần khuyến khích nhập khẩu
các công nghệ phục vụ cho quá trình phát triển các ngành công nghiệp phù
hợp với phát triển bền vững, chẳng hạn như điện gió và năng lượng mặt trời.
2. Định hướng phát triển xuất khẩu theo chiều sâu
Phát triển xuất khẩu là con đường để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào
chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và trong
những năm tới, xuất khẩu vẫn được coi là động lực chính của tăng trưởng
kinh tế Việt Nam. Vì vậy, cần phải kiên trì định hướng công nghiệp hóa
hướng vào xuất khẩu. Đây là chủ trương cần được quán triệt trong hoạch
định chính sách phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Trong bối
cảnh hiện nay, khi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu làm sụt
giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhiều quan điểm cho rằng, cần chuyển
định hướng phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu sang thay thế nhập khẩu và
phát triển thị trường nội địa. Thực tế cho thấy là nhiều nước trên thế giới đã
làm như vậy thông qua các biện pháp như tăng cường bảo hộ thị trường
trong nước, kích cầu tiêu dùng Tuy nhiên, đối với Việt Nam đang ở giai
đoạn đầu của công nghiệp hóa, thị trường trong nước chưa phát triển, cần
tranh thủ nguồn lực bên ngoài, nhất là FDI, để nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế.

Trong những năm qua, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa
vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên và lao động rẻ. Lợi thế nói
trên hiện tại và một vài năm tới vẫn đang phát huy tác dụng. Tuy nhiên, dễ
dàng nhận thấy rằng, nguồn lực tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Những hạn chế
mang tính cơ cấu về lợi thế tự nhiên như khả năng khai thác, đánh bắt, nuôi
trồng sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong dài hạn. Đó là chưa kể
đến những tác động tiêu cực đến môi trường được xem như một hạn chế cản
trở tăng trưởng xuất khẩu. Lợi thế lao động rẻ cũng ngày càng giảm dần
trong bối cảnh chênh lệch tiền lương lao động ở nước ta và các nước giảm
dần và nhu cầu cao trên thị trường thế giới về những hàng hóa có hàm lượng
công nghệ và khoa học ngày càng cao. Do đó, dựa vào mô hình tăng trưởng
theo chiều rộng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh sẵn có, xuất khẩu Việt
Nam khó có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao. Bên cạnh đó,
cạnh tranh quốc tế trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu cũng là áp lực
phải nhanh chóng chuyển sang mô hình tăng trưởng mới.
Mô hình tăng trưởng mới là mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào
việc khai thác lợi thế cạnh tranh động để nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh cải cách thể chế, sử dụng công nghệ
tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện
đại. Chuyển từ phát triển xuất khẩu theo chiều rộng sang phát triển theo
chiều sâu, từ việc dựa chủ yếu vào lợi thế so sánh sẵn có sang lợi thế cạnh
tranh động là nhân tố quyết định chất lượng tăng trưởng xuất khẩu; duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, phù hợp với xu hướng biến đổi của thị
trường, do đó, hạn chế được rủi ro khi thị trường thế giới biến động bất lợi.
Thực hiện định hướng phát triển xuất khẩu theo chiều sâu cũng là giải pháp
để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khắc phục
nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình, nâng cao vị thế quốc gia, đảm bảo
phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Trong giai đoạn tới, chất lượng phát triển phải là mục tiêu hàng đầu. Cần

khắc phục tư tưởng coi trọng số lượng, chạy theo thành tích cục bộ và ngắn
hạn. Nhiều chỉ tiêu xuất khẩu trong giai đoạn vừa qua chỉ phản ánh về mặt
số lượng mà chưa phán ánh được hiệu quả đầu tư, các tác động về mặt xã
hội, môi trường.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, trong thời gian qua, nước ta đã đầu tư
quá mức cho xuất khẩu mà chưa tính toán đến hiệu quả của nó. Điều này dẫn
đến sự hao phí nguồn lực, sử dụng không hiệu quả vốn đầu tư, làm nảy sinh
hành vi tiêu cực như tham nhũng, gian lận thương mại. Cần phải tính toán
xem mỗi một đô la giá trị xuất khẩu mà ta mang về đem lại bao nhiêu lợi
nhuận đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy, trong 25 năm đổi mới, Việt Nam chưa có nhiều những
thương hiệu hàng hóa và doanh nghiệp có uy tín quốc tế, ngoại trừ một số
sản phẩm có được sự nổi tiếng do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên.
Cần phải nói, chủ trương phát triển xuất khẩu là đúng đắn, tuy nhiên nếu
không có chiến lược phát triển đúng hướng, tập trung vào các ngành có lợi
thế mà đầu tư dàn trải, tràn lan thì chúng ta không thể có được các sản phẩm
có vị thế cạnh tranh quốc tế.
3. Cải thiện môi trường kinh doanh.
Việt Nam đã có những cải thiện về môi trường kinh doanh trong năm
2010, tiến 10 bậc so với năm 2009, đứng thứ 78/183 nước và đứng thứ 4/10
nền kinh tế cải cách nhiều nhất về mức độ thuận lợi của môi trường kinh
doanh.
Môi trường kinh doanh được cải thiện là nhờ những nỗ lực rất lớn, từ
việc thực hiện một cách rộng rãi và quyết liệt Đề án 30 về cải cách thủ tục
hành chính của Chính phủ. Ngoài ra, việc cải thiện môi trường pháp lý với
những thay đổi quan trọng liên quan đến gia nhập thị trường, quản trị doanh
nghiệp, đặc biệt là về đăng ký kinh doanh cũng đã góp phần giúp môi trường
kinh doanh được cải thiện rõ rệt.
Con số doanh nghiệp đăng ký mới tiếp tục gia tăng minh chứng cho điều
này, tính đến hết năm 2010, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập đã đạt

544.394 doanh nghiệp vượt mục tiêu đề ra của Chính phủ.
Việt Nam ngày càng hội nhập hiệu quả và hấp dẫn hơn trong mắt cộng
đồng nhà đầu tư quốc tế, nhờ việc kiên trì mục tiêu kinh tế, áp dụng những
chính sách thông thoáng, qua đó đã cải thiện môi trường kinh doanh liên tục
trong những năm gần đây.
Tuy vậy, những yếu tố đã tác động không tốt đến hoạt động của doanh
nghiệp trong năm 2010 vừa qua, như lãi suất ngân hàng luôn ở mức cao
cùng với tình trạng lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cũng luôn ở mức
cao.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng CPI bất ổn được cho là xuất phát từ
tình trạng kém hiệu quả của cơ cấu kinh tế, nền kinh tế luôn phải đối phó với
tình trạng nhập siêu, bội chi ngân sách ngày càng gia tăng. Cũng như cần
thấy rằng việc điều hành kinh tế vĩ mô còn nhiều bất cập.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều
bất cập. Tình trạng thiếu điện năm 2010 vẫn diển ra theo hướng trầm trọng
hơn. Hệ thống giao thông, mặc dù có nhiều cố gắng trong cả đầu tư và xây
dựng nhưng vẫn còn nhiều bất cập, so với yêu cầu phát triển theo hướng
hiện đại. Thêm vào đó là hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải cũng chưa
được cải thiện nhiều đã và đang làm ô nhiễm môi trường và suy thoái nguồn
tài nguyên nước. Nhằm cải thiện môi trường kinh doanh trong năm 2011 và
các năm tiếp theo.
4. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hệ thống luật pháp.
Khuôn khổ pháp lý phải nhất quán, đồng bộ, ổn định và đảm bảo thực thi
trong thực tế. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp theo 16 Hiệp định Đa
phương của WTO mà Việt Nam đã ký kết nhằm tạo lập môi trường cạnh
tranh lành mạnh, phù hợp với những yêu cầu, nguyên tắc của WTO về đối
xử quốc gia và tối huệ quốc. Đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các cam kết, chuẩn mực
trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, tạo sự phù hợp giữa

pháp luật trong nước và quốc tế, đảm bảo thực hiện đúng các cam kết quốc
tế trong hội nhập. Khẩn trương rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành luật,
loại bỏ những văn bản chồng chéo, trùng lặp, trái ngược nhau, không phù
hợp với thực tế và thiếu tính khả thi, đồng thời nâng cao chất lượng các văn
bản quy phạm pháp luật để có thể có hiệu lực tương đối ổn định trong một
thời gian nhất định.
5. Đẩy mạnh cải cách hành chính.
Kịp thời phát hiện khó khăn của doanh nghiệp để bổ sung, sửa đổi nhanh
các thủ tục hành chính, đảm bảo đơn giản, gọn nhẹ, công khai và minh bạch.
Thủ tục hành chính phải được thể chế hoá và đòi hỏi thực thi nghiêm minh,
tránh tuỳ tiện trong thực hiện. Trước hết cần tập trung cải cách thủ tục đăng
ký kinh doanh, thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục vay vốn tín dụng… Đẩy
mạnh cải cách hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, xoá bỏ
các thủ tục rườm rà, tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho các hoạt
động này theo hướng thị trường, phù hợp với các cam kết của WTO nhưng
vẫn giữ được sự lành mạnh cho nền kinh tế, đảm bảo lợi ích quốc gia. Đẩy
mạnh hơn nữa quá trình cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai,
loại bỏ những thủ tục gây cản trở việc thực hiện các quyền của người sử
dụng đất, nhất là các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các
đô thị và các thủ tục giao đất, thuê đất. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo
dục Luật đất đai, phổ biến những quy định mới của Nhà nước cho người dân
về lĩnh vực này.
6. Phát triển đồng bộ các loại thị trường:
Về thị trường hàng hóa và dịch vụ: Cần phát triển thị trường nội địa theo
hướng ổn định, văn minh, hiện đại… phù hợp với các xu hướng chung của
WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa thị trường cho dịch vụ phân phối
theo các cam kết với WTO, nhưng cũng cần phải có lộ trình, để hạn chế
những rủi ro cho thị trường nội địa, tạo động lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp trong nước. Tiếp tục tự do hoá thương mại trên cơ sở thực hiện các
cam kết song phương, đa phương và theo thông lệ quốc tế; giảm dần các

biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan phù hợp với cam kết đã ký kết.
Có chính sách tạo bước phát triển nhanh, mạnh và toàn diện thị trường dịch
vụ nhất là những dịch vụ có giá trị gia tăng lớn như: dịch vụ viễn thông, dịch
vụ thực hiện phần mềm, dịch vụ tư vấn khoa học kỹ thuật…
Về thị trường tài chính: Cần phát huy vai trò điều tiết thị trường tiền tệ
của Ngân hàng Nhà nước như một ngân hàng trung ương hiện đại để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và kiểm soát lạm phát. Tạo môi trường
pháp lý thuận lợi, thu hút nhiều loại hình chủ thể tham gia vào thị trường
tiền tệ. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và
phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán.
Về thị trường bất động sản: Cần sớm có qui định bắt buộc các tổ chức, cá
nhân kinh doanh bất động sản phải bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất tại
các dự án thông qua sàn giao dịch, trung tâm giao dịch bất động sản theo
Luật Kinh doanh Bất động sản - để mọi đối tượng có nhu cầu được tiếp cận
trực tiếp các thông tin mua bán, hạn chế tình trạng đầu cơ, mua đi bán lại thu
lời bất chính.
Về thị trường lao động: Đổi mới cơ chế điều tiết quan hệ giữa cung và
cầu về số lượng và chất lượng lao động trên thị trường. Hỗ trợ phát triển
kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn để tạo thêm công ăn việc làm, tham gia
vào thị trường lao động khu vực và quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Thúc đẩy việc mở rộng hoạt động giao dịch trên thị trường lao động, phát
triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm.
Về thị trường công nghệ: Sớm rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới
những văn bản dưới luật liên quan tới sở hữu trí tuệ cho phù hợp với thông
lệ quốc tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam. Đổi mới công tác quản lý và
tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ theo hướng thương mại hoá; kiện
toàn bộ máy quản lý nhà nước về tài chính - kế toán trong chuyển giao công
nghệ, sở hữu trí tuệ, thị trường khoa học và công nghệ nhằm tăng cường
đóng góp của khoa học và công nghệ vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.
7. Mở rộng giao thương thông qua con đường ký kết các hiệp định

thương mại tự do song phương.
Việt Nam cần chú tâm (a) chọn lựa những đối tác vừa có thể đưa lại lợi
ích thương mại và vừa phục vụ mục tiêu chiến lược ngoại giao như Mỹ, Ấn
Độ, Nga… (b) đòi hỏi đối tác xóa bỏ những rào cản đối với các mặt hàng mà
mình đang có lợi thế so sánh và để đáp lại thì có thể nhượng bộ mạnh tay
hơn đối với các mặt hàng đã bị hàng nhập khẩu các nước khác chiếm lĩnh.
Ví dụ, đối với một số mặt hàng đang bị nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm lĩnh
thị phần thì có thể linh hoạt dành những ưu đãi thuế quan đối với các mặt
hàng này trong lúc thương lượng một hiệp định với Ấn Độ. Nếu được như
vậy thì nhập khẩu từ Ấn Độ sẽ cạnh tranh với nhập khẩu Trung Quốc trên thị
trường Việt Nam thay vì cạnh tranh với các mặt hàng nội địa khác mà Việt
Nam đang cố gắng phát triển. Việt Nam cần sử dụng các biện pháp tự vệ,
chống bán phá giá, và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
các nhà sản xuất trong nước khi tình thế đòi hỏi phải như thế. Theo đó,
Chính phủ cần tạo điều kiện thông tin tốt về ba biện pháp này để các nhà sản
xuất trong nước nắm rõ luật lệ nhằm tạo ra những áp lực cần thiết khi họ
phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của nhập khẩu ồ ạt
Một số nghị định chính, thông tư của CP về tự do hóa thương mại và
bảo hộ mậu dịch.
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 37/2006/NĐ-CP NGÀY 04 THÁNG 4 NĂM 2006
QUY ĐỊNH CHI TIẾT LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ HOẠT ĐỘNG
XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 124/2008/NĐ-CP NGÀY 11 THÁNG 12 NĂM 2008
QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH NGHỊ QUYẾT SỐ 08/2011/QH13
CỦA QUỐC HỘI VỀ BAN HÀNH BỔ SUNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ

THUẾ NHẰM THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO DOANH NGHIỆP VÀ CÁ
NHÂN
THÔNG TƯ
Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày
12 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp
THÔNG TƯ
Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số
14/2008/QH12 và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP
ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp

×