Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Tuyển Tập Bài Văn: Ôn luyện Ngữ văn 9 thi vào 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.85 KB, 43 trang )

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Nguyễ
n Dữ-
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn (8 đến 10 dòng) tóm tắt
lại "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
* Gợi ý:
- Vũ Nương là người con gái thuỳ mị, nết na. Chàng
Trương là con gia đình hào phú vì cảm mến đã cưới nàng làm vợ.
Cuộc sống gia đình đang xum họp đầm ấm, xảy ra binh đao,
Trương Sinh phải đăng lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già,
nuôi con. Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói, đứa trẻ ngây
thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm đến với mẹ nó. Chàng
nổi máu ghen, mắng nhiệc vợ thậm tệ, rồi đánh đuổi đi, khiến
nàng phẫn uất, chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi
oan của vợ, Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho nàng.
1. Phân tích nhân vật Vũ nương:
Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng nước ta vào thế kỉ XVI,
quê ông ở Hải Dương. Ông đã từng thi đỗ và ra làm quan nhưng
do chán ghét chế độ phong kiến suy tàn nên ông đã làm quan
được 1năm rồi lui về ở ẩn vui thú điền viên. Trong thời gian này
ông đã sáng tác tập truyện “truyền kì mạn lục” được đánh giá là “
thiên cổ kì bút”. Các tác phẩm tong truyện chủ yếu viết về
người con gái, phụ nữ có hẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều
tai ương bất hạnh. Qua đó tác phẩm nói lên phẩm chất tốt đẹp
của họ , đồng thời phê phán chế độ phong kiến mục nát suy tàn.
Và “ chuyện người con gái Nam Xương” là 1 tác phẩm như thế.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là 1 câu truyện bi
thảm viết về Vũ nươg - 1 người con gái đẹp cả người lẫn nết bị
oan ức đến phũ phàng đến nỗi phải tìm đến cái chết để chứng
oan.


Câu chuyện vừa gợi lòng vị tha, vừa ca ngợi , vùa tiếc
thương cho số phận 1 người phụ nữ bất hạnh. Và đó cũng cũng
là tấn bi kịch trong gia đình phụ quyền dưới chế độ xã hội cũ.
Nguyên cớ của tấn bi kịch được nảy sinh trong tính cách phẩm
nết của Vũ Nương với chồng là Trương Sinh.
Mở đầu chuyện, Nguyễn Dữ đã giới thiệu về nàng là 1 người phụ
nữ đạt đến hoàn mĩ đỉnh điểm bằng những lời bút đầy trìu mến.
chỉ bằng nét hác hoạ “ tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tôt
đẹp”. có thể thấy 1 người con gái đẹp đến điểm đỉnh như thế khó
có thể ngôn từ nào miêu tả hết vẻ đẹp đó được. đó là vẻ đẹp của
1 cô gái quê , 1 bông hoa trong vườn biếc, 1 con bướm giữa bầy .
chắc chắn với vẻ đẹp hoàn mĩ ấy không ai có thể bỏ qua sự yêu
mến của mình với Vũ Nương. Trong số ấy có Trương Sinh-
người cùng làng với VN. Vì mến dung hạnh của nàng,TS đã xin
mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ.
Khi VN về làm vợ TS , nàng luôn tỏ ra là người vợ đảm
đang,thuỳ mị đến mức hoàn hảo. Mặc dù TS có tính đa nghi, đối
với vợ phòng ngừa quá sức nhưng “ nàng luôn giữ gìn khuôn
phép không để đến lúc nào vợ chồng cũng phải xảy đến thất
hoà’. Hỏi để có được hoà khí ấy thì VN đã phải cư xử khéo đến
mức nào.
Đến lúc TS vắng nhà VN một mình nuôi mẹ già, chăm sóc con
thơ, làm nhiệm vụ người con dâu, người mẹ hết sức chu đáo,
hoàn hảo. khi mẹ chồng ốm “nàng hết sức chạy chữa thuốc
thang, lễ bái thần phật,lấy lời ngọt ngào khôn khéo để khuyên
lơn”. Đến khi mẹ chồng mất nàng hết lòng thương sót, một mình
lo liệu ma chay chu đáo hư với mẹ đẻ mình. Xưa nay người con
gái đi lấy chồng mấy ai được thảo lảo như VN. Còn với con thơ ,
sau khi TS đi lính được đầu tuần nàng sinh được 1 cậu con trai ,
đặt tên là Đản,ngày ngày nàng hết sức chăm sóc, yêu thương

con , bởi lẽ đứa con là niềm hạnh phúc duy nhất trong những
ngày chồng vắng nhà. Với người chồng nàng dành tình cảm thật
sâu nặng vì cả đời nàng chỉ có 1 thú vui duy nhất là “nghi gia
nghi thất’, chứ không giám được đeo ấn phong hầu,mặc áo gấm
trở về quê cũ,chỉ xin ngày về hai chữ bình yên”. Cho nên lòng
nàng thấm đẫm lòn thương nhớ “ mỗi khi thấy bướm lượn đầy
vườn ,mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể không thể
nào ngăn được”. và để phần nào nguôi nỗi nhớ chồng , nàng lấy
việc chơi với con làm khuây: đêm đêm nàng dưới ngọn đèn dầu
nàng trỏ bóng mình trên vách là cha Đản để cho con đỡ thiếu
thốn tình cảm của cha và cũng để khoả lấp nỗi cô đơn trong
lòng, bởi tình cảm vợ chồng khăng khít gắn bó như hình với
bóng.
Rõ ràng ở VN ta thấy xuất hiện hình ảnh của ba con
người: nàng dâu hiếu thảo, người vợ thuỷ chung, người mẹ hiền
đôn hậu. đó là hình ảnh lí tưởng của người phụ nữ trong xã hội
xưa.
Thông thường người mẹ chồng không mấy ai dễ hoà
thuận với con dâu, nhưng ở VN, những lời ca đẹp nhất về mình
lại xuất phát từ người mẹ chồng; “ chồng con ở nơi xa xôi chưa
biết sống chết thế nào không thể đền ơn con được. Su này trời xét
lòng lành , ban cho phúc đức giống dòng tốt tươi con cháu đông
đàn xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”.
lời nói của người mẹ chồng đã phần nào khẳng định thêm phẩm
chất hoàn hảo của VN.
Người phụ nữ - người đã mong mỏi thú vui nghi gia nghi thất- đã
chịu đựng tất cả, làm mọi việc từ lớn đến nhỏ vì hạnh phúc gia
đình đáng nhẽ phải được sống 1 cuộc sống hạnh phúc chan hoà
nhưng thật trớ trêu ngày đoàn tụ gia đình lại là ngày nàng phải
rời xa tổ ấm. từ chiến trường trở về ,nghe theo lời con thơ cộng

với thói ghen tuông mù quáng, vớ vẩn vốn có TS đã cho vợ là
thất tiết. mặc cho nàng dãi bày biện bạch, hàngxóm khuyên ngăn,
TS cũng không nghe. Có hỏi nguyên do vì đâu thì TS cũng
không nói. Vậy là TS đã không cho VN một cơ hội giải oan biện
bạch mà chỉ đánh nhiếc mắng mỏi duổi di. Bao nhiêu chờ đợi
vọng hi nay đã tan biens, niềm vui thứ nghi gia nghi thất ấy còn
đâu. Mà nay chỉ còn “ liễu rủ bãi hoang , sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió”, ngay cả nỗi đau khổ hoá đá chờ chồng VN cũng
không đựơc. Chỉ một đoạn văn ngắn mà tác giả đã khắc hoạ, đã
vẽ lên bao nhiêu hình ảnh thảm thương, chết chóc, xa lìa: bình
rơi trâm gãy, hoa rụng cuống, én lìa đan. Nhà văn đã mượn hình
ảnh của thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng của con người theo
phong cách ước lệ của văn chương trung đại. ngôn từ, nhịp điệu
caur2 câu văn ấy ngân nga tượng hình, biểu cảm làng rung động
lòng người.
Bị chồng ruồng rẫy, nghi cho nỗi mất nết hư thân,VN
đau đớn hiểu rằng hạnh phúc đời người, hạnh phúc gia đình nàng
chỉ thế mà thôi không thể hàn gắn được nữa. thất vọng tột cùng,
nhưng nàng vẫnđể lại hình hài đẹp cho mình để tâm sự với trời,
để thần sông chứng giám cho trinh tiết thanh bạch của nàng. Lời
thân vãn trước đó phải chăng đó là 1 lời nguyền. VN đã nêu lên 2
giả định về kiếp sau của mình bằng nhữn hình ảnh đối lập nhau:
“ Ngọc Mị Nương,cỏ Ngu Mĩ” và “làm mồi cho cá tôm, làm cơm
cho diều quạ”. Nói như vậy thức chất nàng muốn khẳng định lại
phẩm chất đoan chính của mình. Nói đến đây nàng gieo mình
xuống sông tự tử. cái chết của nàng đã phần nào phê phán người
chồng cacr ghen, phần nào phê phán chiến trnah phong kiến, bởi
lẽ nếu không có chiến tranh thì TS không phải đi lính, thì sẽ
không có đứa con không biết mặt cha, và nguwoif mẹ iền sẽ
không chỉ cái bóng trên vách là cha Đản để dẫn đến nỗi cơ cực

như ngày hôm nay.
Thiên truyện đến đây có thể kết thúc được rồi nhưng
với tấm lòng yêu thương nhười Nguyễn Dữ không để Vn phải ấm
ức chết oan một cách vô nghĩa. Tác giả truyền kì mạn lục đã nối
thêm đoạn cuộc sống của nàng dưới thuỷ cung để kết thúc câu
truyện có hậu: nguwoif tốt sẽ được giải oan và có được cuộc
sống sung sướng.
VN không chỉ đẹp lúc sống mà khi chết đi nàng còn đẹp hơn,
nàng vẫn toả sáng 1 tâm hồn cao đẹp. Dù sống trong gấm nhung
lụa là nhưng nang luôn hướng về quê nhà. Chỉ nhe Phan lang kể
nhà cửa: ‘ cây cối mọc thành rừng, phần mộ tổ tiên cỏ gai rợp
mắt” VN đã ứa hai hàng mi mà thay đổiquyết định” tôi tất phải
1
tìm về có ngày”. Qua lời dặn dò của VN với Phan Lang ta còn
thấy được nàng là người giàu lòng vị tha, coi trọng danh dự . thật
cao cả cho 1 người vợ bị chồng ruồng bỏ náng vẫn muốn trở về
quê nhà để minh oan. Và VN đã trở về, ngồi trên kiệu hoa phía
sau là năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông lúc
ẩn lúc hiện. nhưng nàng chỉ đứng giữa dòng mà nói vọng vào: “
đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở vê nhân gian được nữa” rồi
nàng biến mất. lời nói của VN khong thể không làm ta day dứt
cảm thương. Dù cho nỗi oan đã được giải, dù nàng có mong
muốn trở về thì cũng không thể nũa bởi nàng đã ra đi mãi mãi, và
chế độ phong kiến không còn chỗ cho những người phụ nữ như
nàng. Và như thế nàng sẽ chẳng bao giờ được làm vợ làm mẹ
nữa và bé Đản mãi mãi là đưa bé mồ côi mẹ. Qua chi tiết đó, tác
phẩm có ý nghĩa tố cáo sâu sắc.
Về nghệ thuật, đây là tác phẩm được viết theo thể
truyền kì. Tính chất truyền kì được thể hiện ở kết câu hai phần:
Vn ở trần gian và VN ở dưới thuỷ cung với những chi tiết kì ảo

hoang đường. với kết cấu nghệ thuật hai phần , tác giả đã khắc
hoạ được 1 cách hoà thiện vẻ đẹp nhân vật VN. Yếu tố kì ảo
hoang đường ở cuối truyện như càng làm tăng thêm ý nghĩa phê
phán của câu chuyện.
Chuyện người con gái Nam Xương đã khép lại nhưng
người đọc cứ vấn vương mãi vị dư âm ngậm ngui. Dù là 1 người
con gái dung hạnh vẹn toàn nhưng cuộc đời đầy gian khổ. Ta
cảm nhận được 1 tình cảm sâu sắc, xót thương vô hạn mà
Nguyễn Dữ dành cho nàng. Bi kịch của VN là 1 điển hình cho số
phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Chẳng thế mà sau
hơn ba thế kỉ ta còn bắt gặp tiếng nói đồng cảm qua bài thơ Bánh
trôi nước của bà chúa thơ Nôm- Hồ Xuân Hương, và Truyện
kiều của đại danh nhân thi hào Nguyễn Du

CHỊ EM THUÝ KIỀU
Đề 1: Cảm nhận của em về vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều
qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều của Nguyễn Du.
* Gợi ý:
- Mở đoạn: Giới thiệu chung về vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều.
- Thân đoạn: Vẻ đẹp chung của hai chị emThuý Vân, Thuý
Kiều.
- Kết đoạn: Khẳng định vẻ đẹp cao quý của chị em Thuý Kiều
qua nghệ thuật tả người tài tình của tác giả Nguyễn Du.
2. Dạng đề 5 đến7 điểm
Đề 2: Cảm nhận của em về đoạn trích "Chị em Thúy
Kiều" (Trích "Truyện Kiều" Nguyễn Du).
a. Mở bài.
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích;
- Cảm nhận chung về đoạn trích.
b. Thân bài.

* Bốn câu đầu Vẻ đẹp chung của hai chị em.
- Nhịp điệu, hình ảnh được lựa chọn theo bút pháp ước lệ cổ
điển “ Mai cốt cách mười phân vẹn mười” hoa, tuyết ước lệ
cho người phụ nữ, người đẹp.
Hình mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái. Tinh thần trắng
trong, tinh khiết, thanh sạch. Hai vế đối nhau, câu thơ trở nên tao
nhã gợi cảm. Âm điệu nhịp nhàng nhấn mạnh sự đối xứng làm
nổi bật vẻ đẹp cân đối hoàn hảo của hai chị em.
* 16 câu tiếp theo: - Vẻ đẹp của Thúy Vân và tài sắc của Thúy
Kiều.
- Bốn câu tả Thúy Vân.
+ Hình ảnh: Khuôn mặt đầy đặn, cân đối phúc hậu, suối tóc óng
như mây, điệu cười, giọng nói đoan trang, làn da sáng hơn tuyết.
Tác gỉa miêu tả Thúy Vân toàn vẹn bằng những nét ước lệ hình
ảnh ẩn dụ thích hợp, tinh tế từ khuôn mặt, nét mày, điệu cười
giọng nói, mái tóc làn da. Kì diệu hơn Nguyễn Du vừa miêu tả
nhan sắc đã cho thấy ngay số phận an bài hạnh phúc của nhân
vật.
- 12 câu tả Kiều.
+Số lượng câu chứng tỏ Nguyễn Du dùng hết bút lực, lòng yêu
mến vào nhân vật này.
lấy Vân làm nền để làm nổi bật Kiều, Vân xinh đẹp là thế nhưng
Kiều còn đẹp hơn.
Nếu Vân đẹp tươi thắm, hiền dịu thì Thúy Kiều lại đẹp sắc sảo “
nghiêng nước, nghiêng thành”
- Trích dẫn: Thơ
- Nhận xét: - Kiều đẹp tuyệt đối,
- Phân tích: bằng nghệ thuật ước lệ, tác giả điểm xuyết một
đôi nét dung nhan khiến Thúy Kiều hiện lên rạng rỡ :
+ “làn thu thủy”: đôi măt trong xanh như nước mùa thu gợi

cảm mà huyền ảo.
+ “ nét xuân sơn”: nét mày thanh thản tươi xanh mơn mởn
đẹp như dáng núi mùa xuân tươi trẻ.
- Phân tích: phép tu từ nhân hóa, từ ngữ chọn lọc thể hiện
thái độ của thiên nhiên với Kiều. Với vẻ đẹp của Vân thiên
nhiên chẳng đố kị mà chịu thua, chịu nhường còn với vẻ
đẹp của Kiều “ hoa ghen”, “ liễu hờn” thể hiện sự đố kị.
- Tả vẻ đẹp lấy từ điển cố “ nhất cố khuynh thành, tái cố
khuynh quốc" tạo sự súc tích, có sức gợi lớn làm bật vẻ đẹp
có sức hút mạnh mẽ
*Tóm lại: Vẻ đẹp của Kiều gây ấn tượng mạnh, một trang
tuyệt sắc.
- Không chỉ là giai nhân tuyệt thế mà Kiều còn rất đa tài.
- Tài đánh đàn, Soạn nhạc: khúc “ bạc mệnh oán” (Tâm hồn đa
sầu, đa cảm, phong phú. Khúc nhạc dự đoán cho số phận đau
khổ, bất hạnh của Kiều sau này).
- So với đoạn tả Thúy Vân, chức năng dự báo còn phong phú
hơn.
- Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận
đã thể hiện quan niệm “ thiên mệnh” của nho gia, thuyết
tài mệnh tương đố” của Nguyễn Du.
- Nét tài hoa của Nguyễn Du bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật tả
người ở đoạn thơ.
- Bút pháp nghệ thuật có tính truyền thống của thơ văn cổ nhưng
ông đã vượt lên được cái giới hạn đó. 16 câu tả vẻ đẹp của hai
chị em Kiều gần như đầy đủ vẻ đẹp của người phụ nữ theo quan
niệm xưa: Công - dung - ngôn - hạnh. Tài ấy thể hiện cả ở tả
tình, tâm hồn của nhân vật và dự báo số phận nhân vật.
* Đức hạnh và phong thái của hai chị em Kiều.
- Cuộc sống “êm đềm”, “ phong lưu” khuôn phép, đức hạnh mẫu

mực.
- Đoạn cuối: khép lại bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều
đồng thời khép lại toàn đoạn trích khiến nó thêm chặt chẽ với tác
phẩm, với số phận từng nhân vật. Vân êm ái, Kiều bạc mệnh.
- Cách miêu tả - giới thiệu chính xác số phận từng nhân vật.
Cuối đoạn miêu tả vẫn trong sáng, đằm thắm như chở che bao
bọc cho chị em Kiều - 2 bông hoa vẫn còn trong nhụy.
* Nhận xét chung về nội dung - nghệ thuật.
C.Kết bài:
Khẳng định vẻ đẹp trong sáng thanh cao của chị em Thuý
Kiều. Nghệ thuật miêu tả nhân vật tài tình, tình cảm yêu quý trân
trọng của tác giả dành cho Vân, Kiều.
PHÂN TÍCH CHỊ EM THÚY KIỀU
Bài 2.Trong dòng văn học cổ Việt Nam,Truyện Kiều của Nguyễn
Du là tác phẩm văn học kiệt xuất . Tác phẩm không chỉ nổi tiếng
vì cốt truyện hay, hấp dẫn ,lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh
thép , giá trị nhân đạo cao cả mà còn vì các nhân vật trong truyện
được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẻ,
sinh động . Đặc biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như
Thúy Vân, Thúy Kiều .
Ngay phần đầu của Truyện Kiều Nguyễn Du đã khắc họa bức
chân dung xinh đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân :
“ Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị , em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
2
Nói đến Mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao ; nói đến tuyết là
nói đến sự trong trắng ,tinh sạch . Cả mai và tuyết đều rất đẹp
.Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao , trong trắng của hai chị em nhưlà

mai là tuyết và đều đạt đến độ hoàn mĩ “ Mười phân vẹn mười” .
Tiếp đó tác giả giới thiệu vẻ đẹp của Thúy Vân :
“ Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn ,nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả
vẻ đẹp của Thúy Vân . Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm thiếu nữ
nào có được với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm ,lông mày
cong hình cánh cung như mày ngài . Miệng cười của nàng tươi
như hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc . Lại nữa da
trắng mịn đến tuyết phải nhường . Ôi, thật là một vẻ đệp đoan
trang, phúc hậu ít ai có được . Nguyễn Du đã miêu tả bức chân
dung nàng Thúy Vân có thể nói là tuyệt đẹp .Đọc đoạn này ta
thấy rung động trước vẻ đệp tuyệt vời cảu Thúy Vân và thêm
thán phục thiên tài Nguyễn Du. Ông đã vận dụng biện pháp tu từ
của văn thơ cổ vừa đúng đắn vừa sáng tạo .
Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân đã khiến ta rung động đến vậy ,
ông miêu tả Thuý Kiều thì ta còn bất ngờ hơn nữa . Bất ngờ đến
kinh ngạc . Bắt đầu từ câu :
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nàng Vân đã tuyệt diệu như vậy rồi , nàng Kiều còn đẹp hơn nữa
ư ? Có thể như vậy được không ? Ta hãy xem ngòi bút của
Nguyễn du viết về nàng Kiều :
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kếm xanh
Một hai nghiên nước nghiên thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Đến đây , chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục . Nguyễn

Du đã miêu tả vẻ đẹp Thuý kiều không dài , chỉ vài cau thôi , vậy
mà ta như thấy hiện ra trước mắt một thiếu nữ “ tuyệt thế gia
nhân” . Mắt nàng thăm thẳm như làn nước mùa thu , lông mày
uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân ; dung nhan đằm
thắm đến hoa củng phải ghen , dáng người tươi xinh mơn mởn
đén mức liễu cũng phải hờn . Khi đọc đến đoạn này ta không chỉ
rung động , thán phục mà có một cảm giác xốn xang khó tả bởi
nàng Kiều Xinh đẹp quá . Thủ pháp ước lệ,nhân hoá là biện pháp
tu từ phổ biến trong văn học cổ được tác giả sử dụng xuất sắc ,
kết hợp với việc dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành” ,
tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận , mà
như thấy tận mắt nàng Kiều . Nàng quả là có một vẻ đẹp “ sắc
sảo mặn mà” Ta có thể nói là “có một không hai” làm mê đắm
lòng người . Đọc hết những câu trên, ta mới hiểu được dụng ý
của Nguyễn Du Khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của
Thuý Vân trước vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của Thuý Kiều . Nhà
thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy , dùng vẻ đệp của Thuys Vân
để làm để làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều , quyến rũ của Thuý
Kiều rất có hiệu quả .
Sắc đã vậy còn tài của nàng Kiều thì sao ? ta sẽ không cảm nhận
được hết toàn bộ vẻ đẹp hình thể củng như vẻ đẹp tâm hồn cua
Thuý Kiều nếu như ta không biết đến tài của nàng , mặc dù
Nguyễn Du đã nói “ Sắc đành đòi một , tài đành hoạ hai” . Về sắc
thì chắc chắn chỉ có miònh nàng là đẹp như vậy , về tài hoạ
chăng có người thứ hai sánh kịp :
"Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Nàng có cả tài thơ , tài hoạ , tài đàn , tài nào cũng xuất sắc , cũng
thành “nghề” cả . Riêng tài đàn nàng đã sáng tác một bản nhạc
mang tiêu đề “ Bạc mệnh” rất cuốn hút lòng người .
Với hai nhân vật như Thuý Kiều Thuý Vân , Nguyễn Du đã sử
dụng các biện pháp tu từ phổ biến trong văn thơ cổ như ước lệ ,
ẩn dụ , nhân hoá , dùng điển cố . Qua đó ta thấy vẻ đẹp phúc
hậu , đoan trang của Thuý Vân Và vẻ đẹp “ sắc sảo măn mà” của
Thuý Kiều . Hai bức chân dung của hai chị em Thuý Kiều Thuý
Vân , mà Nguyễn Du khắc hoạ phải nói là rất thành công . Đặc
biệt là Thuý Kiều nhà thơ đã giành trọn tâm huyết , sức lực và tài
năng của mình để sáng tạo nên nàng . Bởi nang là nhân vật chính
của Truyện Kiều
Như đã nói . Truyện Kiều thu hút người đọc phần lớn là nhờ
nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du . Quả vậy nghệ thuật
tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bạc thầy trong nền văn học
cổ Việt Nam . Tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm
toát lên cái tính cách , tâm hồn bên trong của nhân vật đó .
Với Thuý Vân ông đã thực hiện biện pháp ước lệ để miêu tả vẻ
đẹp :
“ Khuôn trăng dầy đặn , nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Tất cả các từ ngữ , hình ảnh được ông sử dụng trong các câu thơ
trên đều tập trung làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp “ đoan
trang , thuỳ mị” của Thuý Vân . Không những khắc hoạ vẻ đẹp
hình thể bên ngoài Nguyễn Du còn như dự báo số phận bình
lặng, êm ả của nàng qua từ “ thua” và từ “ Nhường”. Mây và
tuyết thua avẻ đẹp của Thuý Vân nhưng cả hai đều chịu “ thua”
và chịu “ nhường”một cách êm ả .

Với Thuý Kiều , Tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả
vẻ đẹp “sắc sảo , mặn mà” của nàng.Những câu thơ miêu tả nàng
có thể xem là tuyệt bút :
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kém xanh”
Trong hai câu thơ ,Nguyễn Du như đã dự báo số phận bấp
bênhchìm nổi của Kiều qua các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp
của nàng nhưng không cam chịu thua mà còn “ ghen” còn “ hờn”
và khúc nhạc bạc mệnh nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó .
Nói tóm lại , Nguyễn Du có nghệ thuật tả người rất đặc sắc và
tiêu biểu . Mỗi nhân vật ông miêu tả dù tốt hay xấu , dù chính
diện hay phản diện cũng đề biểu hiện được bản chất tâm hồn bên
trong qua hình dáng bên ngoài . Nghệ thuật miêu tả , xây dựng
nhân vật của Nguyễn Du rất đáng để chúng ta trân trọng và học
tập .

CẢNH NGÀY XUÂN
1. Dạng đề 3 điểm:
Đề 1: Viết đoạn văn ngắn 10 -15 dòng nêu cảm
nhận của em về hai câu thơ:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Cảnh ngày xuân (Trích
Truyện Kiều - Nguyễn Du)
* Gợi ý:
- Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh được miêu tả thật
sinh động, mang đậm nét văn hoá dân gian việt nam:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
- Tết thanh minh, mọi người tập trung đi tảo mộ, họ là

những nam thanh nữ tú đi sửa sang lại phần mộ của người thân .
Không khí thật đông vui, rộn ràng được thể hiện qua một loạt các
từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình (Dập dìu, Ngựa xe, giai nhân-
tài tử, áo quần…) Câu thơ nhịp nhàng , uyển chuyển ….
- Tất cả đều góp phần thể hiện cái không khí lễ hội đông
vui, náo nhiệt. Một truyền thống tốt đẹp của những nước Á
Đông.
2. Dạng đề 5 - 7 điểm :
3
Đề1: Cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp
trong đoạn trích Cảnh ngày xuân. (Truyện Kiều- Nguyễn Du)
* Gợi ý :
a. Mở bài : Giới thiệu chung về đoạn trích
- Cảm nhận chung về khung cảnh thiên nhiên được miêu tả
trong đoạn trích
b. Thân bài : Khung cảnh ngày xuân
- Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân . Một bức tranh
xuân tuyệt tác:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. ”
- Ngày xuân qua đi nhanh như chiếc thoi dệt vải trong khung
cửi -> không khí rộn ràng, tươi sáng của cảnh vật trong mùa
xuân; tâm trạng nuối tiếc ngày xuân trôi qua nhanh quá. Như thế
hai câu đầu vừa nói về thời gian mà còn gợi tả không gian mùa
xuân. Hai câu còn lại là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
“Cỏ non xanh tận chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
- Bát ngát trải rộng đến tận chân trời là thảm cỏ non tơ xanh

rợn -> gam màu nền của bức tranh ngày xuân tươi đẹp. Sự phối
hợp màu sắc của bức tranh thật hài hòa. Màu xanh non tượng
trưng cho sự sinh sôi nảy nở, cho sức sống đang lên , còn màu
trắng là biểu tượng của sự trong trắng tinh khiết .
-> Ngày xuân ở đây thật khoáng đạt, mới mẻ, thanh tân, dạt dào
sức sống trong một không khí trong lành, thanh thoát. Từ “điểm”
dùng ở đây làm cho bức tranh thêm sinh động, có hồn.
- Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng được miêu tả thật
sinh động , náo nức:
“Gần xa nô nức yến oanh .
Chị em sắm sửa bộ hành
chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần
như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo
lên .
Thoi vàng vó rắc tro tiền
giấy bay"
- Không khí rộn ràng đựơc thể hiện qua một loạt các từ
ghép, từ láy giàu chất tạo hình.Tất cả đều góp phần thể hiện cái
không khí lễ hội đông vui, một truyền thống tốt đẹp của những
nước Á Đông.
" Tà tà bắc ngang".
- Cảm giác bâng khuâng nuối tiếc. Cảnh vật, không khí
mùa xuân trong sáu câu này so với mấy câu đầu đã có sự khác
biệt. Mọi thứ đều đã lắng xuống, nhạt dần.
- Nắng xuân ấm áp hồng tươi vào buổi sớm giờ đây đã
“nhạt” đi, khe suối nhỏ, nhịp cầu bắc ngang tuy vẫn giữ nét thanh
diụ của mùa xuân với mọi chuyển động nhẹ nhàng, nhưng mặt

trời ngả bóng về Tây, bước chân người thẩn thơ lưu luyến, tiếc
nuối, dòng nước uốn quanh.
- Cảnh chiều tan hội. Tâm trạng mọi người theo đó cũng
khác hẳn. Những từ láy “nao nao”, “tà tà”, “thanh thanh” đâu chỉ
tả cảnh mà còn ngụ tình … Một cái gì đó lãng đãng, bâng
khuâng, xuyến xao và tiếc nuối…
c. Kết bài : - Nhận xét chung về cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong
đoạn trích
- Nghệ thuật tả cảnh của đại thi hào Nguyễn Du.
Hướng dẫn phân tích đề
2.Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du
(Bài hay)
Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như
chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi
bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi
của nhà thơ không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên
thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì
ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là
Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam.
Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã
chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm
qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục
bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc
cảm của tác giả:
Ngày xuân con én đưa thoi,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành
công đặc biệt của "Truyện Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về

sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú
ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp
và tâm trạng của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ
có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn
dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là
cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh
và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống.
Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn
tượng. Không gian, thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi
trí tưởng tượng của người đọc:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa
bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc
thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi bước đi
của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm
thoắt thoi đưa / Hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm". Xung quanh
tràn ngập "ánh thiều quang" - ánh sáng tươi đẹp - đang rọi chiếu
lên toàn cảnh vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, không nóng
bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa thu mà trái lại,
tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm
của những ngay đầu năm. Thời gian đầu năm trôi qua thạt nhanh
làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên
tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự trôi nhanh
của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa
mở đầu một năm sắp hết.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến
không ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là
thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến
"tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền
xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng.
Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh.
Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích /
Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có
mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu
trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt,
trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu.
Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi
sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết
hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động
của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa
làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại.
Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà
hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa
xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và
nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết
được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến
thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút
để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn
4
Mặc Tử trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã ít nhiều ảnh hưởng
Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xuân:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thiếu nữ hát trên đồi.
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh
mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu
tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những

người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội
dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy
Kiều - đang thong thả chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo.
Người người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện
trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh",
khách du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong
các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng
điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của
các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.
Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động
trong từng dòng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn
từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm
danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai
nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu, đã gợi lên bầu không khí rộn
ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy
hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp
phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói
ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du
xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm
sửa bộ hành chơi xuân", Nguyễn Du không chỉ nói lên một lời
thông báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông
mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn

nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh
vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội.
Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần
như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với
hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài
tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã
miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến
tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức,
dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đó
tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha
đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng
bừng, sang trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ
bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp
văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc
Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu
hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước
cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời
sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như
được kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm cảm thông sâu sắc mà
Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: có thể hôm nay, sau hơn
hai trăm năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước
cảnh: "Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay" thế nhưng giá trị nhân
đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta
thực sự xúc động.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc
tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt.

Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng
bây giờ là giây phút cuối ngày:
Tà tà bóng ngả về tây,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng
"thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm
dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên
nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm
rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm,
vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho
nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức
tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác
nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức,
vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao"
góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con
người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ
điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì
nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương
Việt Nam.
Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia
vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã
nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi
chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi
lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua?
Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười
mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến,
cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi
niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn

đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn
Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn,
mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc
gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi
Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên
và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một
dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước
qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật
tinh tế, tự nhiên.
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.
2. DẠNG ĐỀ 5 HOẶC 7 ĐIỂM:
Đề bài: Phân tích tám câu cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu
Ngưng Bích của Nguyễn Du.
Bài làm
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ thương thân nàng Kiều.
(Tố Hữu)
Hai câu thơ giúp ta hiểu được nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố
Hữu đối với thi hào Nguyễn Du và nỗi xót thương của ông đối
với một nàng Kiều - hiện thân của một số phận bi đọa đày dưới
thời phong kiến.
Ta có thể hiểu được phần nào nỗi đau đó, tâm trạng của Kiều qua
tám câu thơ tuyệt vời sau:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đời một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…
Có thể nói đoạn thơ là một bức tranh tâm tình đầy xúc động và là
sự thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Du trong miêu tả nội
tâm nhân vật. Những dòng thơ lúc bát tinh tế, sắc sảo đã bao năm
tháng đi qua vẫn làm say đắm lòng người. Một mình giữa không
5
gian mênh mông, Kiều thấy bơ vơ quá. Một nỗi nhớ quê hương
bỗng trào lên da diết:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mang, trong ánh nắng đang dần
lịm tắt. Cảnh biển bao la một cánh buồm chấp chơi gợi nỗi buồn
day dứt quá. Cảnh buồm lẻ loi, nhỏ nhoi trong bao la như có như
không: "thấp thoáng”, "xa xa”, những từ ấy không chỉ gợi hình,
mà còn gợi tình, gợi cảm. Sự lẻ loi đơn chiếc, lênh đênh của cánh
buồm hay là thân phận bơ vơ của Kiều nơi "góc bể chân trời” ?
Trời nước bao la, còn Kiều ở trong lầu Ngưng Bích - một cánh
chim nhỏ nhoi trồng. Câu thơ của ông phảng phất phong cách
diễn đàn của ca dao:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò.
Kiều đang đứng trước biển nhìn về phương trời xa đăm đắm khát
khao nhưng vô cùng mệt mỏi: "Buồn trông…”. Âm điệu lời thơ
buồn và có gì rã rời quá! Nỗi buồn ấy như nhân lên khi Kiều nhìn
đoá hoa nổi trôi, bập bềnh vô định:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Thuyền cũng trôi trong vô định, hoa cũng trôi trong vô định,
"Biết là về đâu”. Có gì như thân Kiều một mình lạc lõng trong
mờ mịt chân mây. Đâu là quê nhà? Chẳng ai là thân nhân. Hình

ảnh "hoa trôi man mác” gợi nỗi buồn đau xót. Đau xót cho một
đoá hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước dập vùi. Nhìn
hoa trôi Kiều liên tưởng đến thân mình. Kiều cũng đang nhắm
mắt để mặc dòng đời xô đẩy. Hoa lìa cành, hoa héo hoa tàn. Kiều
lìa cửa, lìa nhà, đời Kiều như cánh chim lạc bầy bay trong giông
tố. Một ngày kia con chim không tổ kia có chết rũ bên đường?
Hình ảnh "hoa trôi" gợi cảm và dễ làm rung động lòng người, bởi
lẽ dân gian thường dùng hình ảnh "bèo dạt mây trôi" để nói về
kiếp người trôi nổi, bập bềnh. Những câu ca dao ấy đã "phổ vào"
hồn thơ của Nguyễn Du từ khi ông còn trong vòng tay của mẹ.
Đọc những câu thơ tiếp, ta càng thấy tâm trạng của Thuý Kiều.
Xung quanh nàng, thiên nhiên cũng nhuốm một màu sắc buồn tẻ,
héo tàn:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Vẫn âm điệu thơ buồn bởi vần bằng dàn trỉa, tạo cho ta cảm giác
được cái nhìn mệt mỏi, chán chường của nhân vật trước cảnh vật
mênh mông một màu buồn. Hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" gợi cảm ở
mộ Đạm Tiên. Có khác chăng chỉ là nơi đây không phải là một
ngôi mộ cụ thể mà thôi. Màu "xanh xanh" làm cho cỏ cây không
còn nét tươi sáng lại thêm vẻ "rầu rầu", làm cho sự sống càng
thêm cạn kiệt, làm cho bức tranh phong cảnh héo tàn thêm.
Giữa bốn bề phong cảnh tẻ buồn ấy, Kiều chợt nghe, chợt thấy:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Âm điệu lời thơ trở nên dữ dội với những từ gợi thanh :"ầm ầm",
"kêu". Hình ảnh những đợt sóng cuộc lên, trào tới, xô đẩy, cùng
với tiếng rít gào của gió vang lên đe dọa đến hãi hùng. Kiều thấy
"gió cuốn", nghe "sóng kêu" bỗng thấy kinh hoàng, hốt hoảng.
Nỗi buồn, sự sợ hãi đã đưa Kiều vào tâm trạng não nề, hoảng hốt

như kẻ bị bao vây, bị nhấn chìm, hoàn toàn bất lực. Kiều chới với
như rơi vào vực thẳm. Những âm thanh đầy dự báo đã mách bảo
với ta chặng đường đầy chông gai của Kiều ở phía trước.
Cả tám câu thơ đều "xoay tròn" trong nỗi buồn sợ của Kiều. Với
phép điệp ngữ kiên hoàn "Buồn trông ", "Buồn trông " các câu
thơ không chỉ có âm điệu buồn, mà còn làm ta "chóng mặt" trước
diễn biến tâm trạng của một con người bất hạnh - Kiều. Chọn
được âm điệu thơ, lựa được từ ngữ và hình ảnh phù hợp với tâm
trạng nhân vật, nhà thơ đã chứng tỏ sự thông cảm sâu sắc yêu
thương Thuý Kiều biết bao!
Đoạn thơ với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế và hài hoà, thi sĩ
Nguyễn Du đã để lại cho người đời một bức tranh tâm lí tình cảm
đầy xúc động, mãi mãi làm "say lòng người".
=======//===========
1.Kiều ở lầu Ngưng Bích
1.1Phân tích đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (Bài tuyển
chọn)
Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã
thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của kiều.
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trước rủ màn
che". Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã
Giám Sinh và giờ nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau
buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn
trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh
của kiều.
Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói
lên điều đó. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái
còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng
kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang
vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn
lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế. Kiều chỉ còn biết lắng
nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra
theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn
xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi
hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ
giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao
ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không
một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên
câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện
với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài
dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép
kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu
thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn,
buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiểu thui thủi một mình
nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và
đêm. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp
những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì ái
tình riêng khiến lòng như bị xé:
"Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những
nỗi lòng của Thúy Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối
và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ sưng tấy.
Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng. Kiều nhớ về những người

thân:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ".
Đối với những quy định phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi
nhớ đến cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau đớn tình người yêu nữa
còn xa xiết. Kỷ niệm còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị
Mã Giám Sinh mua chuộc, ssớm đó bị đưa vào lầu xanh nên nỗi
đau lớn nhất của nàng lúc này là:
"Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với
cha mẹ nàng đã hy sinh bán mình nên phần nào đã đền đáp được
ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, tối hẹn.
Trong tâm cảnh như thế, để Kiều Nhớ chàng Kim trước là sự tinh
tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm
trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén
rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay
mối tình duyên đã chia đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức
của trái tim rỉ máu. Kiểu đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày
6
ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ
chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy
nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối
tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim
chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị
hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ
còn có cả nỗi xót xã, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn.
Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng.
Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một con người.
Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ
Kiều "xót":

"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm".
Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ
tin đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn
nguôi vì không thể quạt nồng, ấp lạnh, phụng dưỡng song thân
khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", điển cố "Sân Lai,
gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của
Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ
thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên
chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ
là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật
mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ. Kiều
cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công
sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi
vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà
càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim
Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung
thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha
đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự
cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn
Du đối với con người.
Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những
nỗi buồn khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã
buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê
gớm, mãnh liệt hơn.
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh.
Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề
và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông thấy là bể lúc
chiều hôm:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"
Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi
buồn. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện
hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã
gợi trong lòng người tha thương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê
nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi
man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về
thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:
"Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!"
Cách làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau
một cửa biển một cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội
cỏ.
"Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày
Thanh minh. Đó là "cỏ non xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây
"dầu dầu". Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu
xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải màu
xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng

vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biêé bao giờ mới
kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân
phận nội cỏ hoa héo của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con
sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng
chỉ là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên.
Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước
sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh
được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh
từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ
man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm.
Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn
theo quy luật "cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ". Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá
khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai
khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh,
vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát
cũng là bốn cảnh và cặp câu được liên kết nhớ điệp ngữ "buồn
trông".
"Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới xa
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh".
"Buồn trông" là nhìn xưa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ
đến làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông"
có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự
dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc
đời ngang nửa. Điệp ngữ kết hợp với hình ảnh đứng sau cùng các

từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng
lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần
bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh
mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. "Buồn trông" trở thành điệp
khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một
gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tớ bình tâm
trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm
với hòa tấu phức điều của sóng biển, "sòng lòng", "sóng dời"
đang vang lên những tiếng gầm gào của hiểm họa như muốn hất
tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa
chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng., yếu
đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu
hai lượt, thanh y hai lần". Để thể hiện tâm trạng phức tạp mỗi nỗi
buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha
mẹ và buồn cho chính mình. Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện
"tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này" thật độc đáo tạo nên
đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong
phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ hãi mà
Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải
qua trong mười lăm năm lưu lạc "thanh lâu hai lượt, thanh y hai
lần". Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm
lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau
của Thúy Kiều.

TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN
(Nguyễn Đình
Chiểu )
A - TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN
1-Tác giả :

7
- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi Đồ Chiểu ,sinh tại
quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ
Chí Minh ),quê cha ở xã Bồ Điền -Phong Điền -Thừa Thiên
Huế .
- Là nhà thơ lớn của dân tộc, ông để lại cho đời nhiều tác phẩm
văn chương có giá trị nhằm truyền bá đạo lý và cổ vũ lòng yêu
nước, ý chí cứu nước .
B- CÁC DẠNG ĐỀ
1. Dạng đề 2-3 điểm
Đề 1 : Cho hai câu thơ sau :
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng ".
Em hãy viết đoạn văn giới thiệu về tác giả và cho biết ý nghĩa
của hai câu thơ trên?
* Gợi ý :
a- Mở đoạn: giới thiệu khái quát về Nguyễn Đình
Chiểu , và hai câu thơ.
b - Thân đoạn:
*Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn cuả dân tộc, mãi
mãi xứng đáng là ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ Việt Nam
thế kỷ XI X , để lại cho đời nhiều tác phẩm văn chương có giá
trị, nhất là truyện Lục Vân Tiên
- Lục Vân Tiên là người anh hùng lý tưởng của nhà thơ
mù yêu nước. Chiến công đánh cướp của chàng mãi là bài ca
hùng tráng của người anh hùng trong xã hội loạn lạc .Vân Tiên
đã thể hiện một cách ứng xử vô cùng cao thượng và hào hiệp.
Người đẹp băn khoăn về chuyện" báo đức thù công " thì Vân
Tiên 'liền cười " rồi đĩnh đạc nói :
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng ".
* Ý nghĩa của hai câu thơ :
Hai câu thơ tác giả thể hiện một quan niệm đạo lý người anh
hùng là người sẵn sàng làm việc nghĩa một cách vô tư, không
tính toán làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên. Đó là cách
cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán .
c-Kết đoạn: Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao tinh thần
nhân nghĩa , ca ngợi lý tưởng anh hùng vị nghĩa cao đẹp. Quan
niệm đó gắn với đạo lý làm người, hướng về nhân dân. Đó là bài
học sâu sắc nhất mà ta cảm nhận được
2 . Dạng đề 5-7 điểm
Đề bài: Nhận xét về số phận người phụ nữ trong
xã hội phong kiến, Nguyễn Du đã xót xa:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Bằng các tác phẩm đã học: “Chuyện người con gái Nam X-
ương” của Nguyễn Dữ và những đoạn trích đã học của “Truyện
Kiều” (Nguyễn Du), em hãy làm sáng tỏ điều đó.
Gợi ý:
* Học sinh phải vận dụng những kiến thức đã học về văn bản
và kiểu văn bản nghị luận văn học để giải quyết vấn đề đặt ra : số
phận đầy đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
* Qua hai tác phẩm đã học: “Chuyện người con gái Nam Xư-
ơng” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta cần
làm rõ những nỗi đau khổ mà ngời phụ nữ phải gánh chịu.
- Nàng Vũ Nương là nạn nhân của chế độ phong kiến nam
quyền đầy bất công đối với người phụ nữ.
+ Cuộc hôn nhân của Vũ Nương với Trương Sinh có phần
không bình đẳng (Trương Sinh xin mẹ màng trăm lạng vàng cới
Vũ Nương về làm vợ) - sự cách bức giàu nghèo khiến Vũ Nương

luôn sống trong mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa
nhà giàu”, và cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một
cách vũ phu, thô bạo và gia trưởng.
+ Chỉ vì lời nói con trẻ ngây thơ mà Trờn Sinh tin nên đã hồ đồ
độc đoán mắng nhiếc đánh đuổi vợ di, không cho nàng thanh
minh, Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết oan khuất để tự
minh oan cho mình.
+ Cái chết đầy oan ức của Vũ Nương cũng không hề làm cho l-
ương tâm Trương Sinh day dứt. Anh ta cũng không hề bị xã hội
lên án. Ngay cả khi biết Vũ Nương bị nghi oan, Trương Sinh
cũng coi nhẹ vì việc đã qua rồi. Kẻ bức tử Vũ Nương coi mình
hoàn toàn vô can.
- Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền đen bạc
+ Vì tiền mà bọn sai nha gây nên cảnh tan tác, chia lìa gia đình
Kiều.
“ Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc liệt chẳng qua vì tiền”
+ Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán
mình cho Mã Giám Sinh - một tên buôn thịt bán người, để trở
thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè, mặc cả, ngã
giá…
+ Cũng vì món lợi đồng tiền mà Mã Giám Sinh và Tú Bà đã
đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn,
cay đắng suốt mời lăm năm lưu lạc, phải “thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần”.
- Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thuý Kiều đều phải tìm
đến cái chết để giải mọi nỗi oan ức, để giải thoát cuộc đời đầy
đau khổ, oan nghiệt của mình.



Đề: Phân tích nét nổi bật của tính cách nhân vật Lục
Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”
của Nguyễn Đình Chiểu.
BÀI THAM KHẢO
Nói đến Nguyễn Đình Chiểu không những là nói đến
một nhà thơ yêu nước tiêu biểu nhất của thời kỳ đất nước ta bị
thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX mà ông còn được nhân
dân biết đến như một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lí làm người, đề
cao tiết hạnh của người phụ nữ, ca ngợi lòng trung hiếu và hành
động vị nghĩa của nam giới mà tác phẩm Lục Vân Tiên là một
minh chứng hùng hồn.
Lục Vân tiên - nhân vật chính của tác phẩm, hơn ai hết
đã biểu hiện rõ nét lý tưởng của người anh hùng. Đặc biệt là đoạn
trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã để lại trong lòng
người đọc một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang
nghĩa sỹ đánh cướp cứu người.
Lục Vân tiên là một nhân vật lý tưởng, nhân vật đẹp
nhất trong truyện “Lục Vân Tiên” của Nguuyễn Đình Chiểu.
Chàng là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành, một
người học trò khôi ngô, có tài, có đức, văn võ song toàn:
“Có người ở quận Đông Thành
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành”
Nói theo nhà văn, nhà phê bình văn học Hoài Thanh:
“Trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội
suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận cả một đạo quân
tưng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và
chiến thắng thì thủ lĩnh đạo quân đó phải là Lục Vân Tiên chớ
không phải là một ai khác”.

Chính Lục Vân Tiên tiêu biểu cho lý tưởng sống, đạo
đức cao đẹp của nhân dân ta lúc bấy giờ. Chàng là người học
rộng, tài cao, văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra tay cứu giúp
người khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về
kinh ứng thi, trên đường đi, chợt thấy một đám người khóc than
bỏ chạy, chàng liến hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa
phá làng xóm và bắt đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không chịu nổi
cản bất bình, nổi giận:
“Vân Tiên nổi giận lôi đình
Hỏi thăm lũi nó còn đình nơi nao.
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.
Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:
“Vân tiên ghé lạibên đàng
8
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”
Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông ; dẫu trước
đó, dân làng hết sức khuyên chàng tuổi trẻ không nê dính vào
việc này, e sẽ mang hoạ vào thân, nhưng Lục Vân tiên chủ động
đi tìm cướp, đánh tan chúng để cứu người gặp nạn yếu đuối.
Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài
năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Hành đông “bẻ cây làm
gậy nhằm làng xông vô” của chành trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và
mãnh liệt vì đã khắc hoạ được hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ
sẵn sàng trừ ác giúp dân. Chàng chỉ có một mình, hai tay không
trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy
lừng “người đều sợ nó có tài khôn đương”. Vậy mà Vân Tiên
vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên
trong trận đánh thật dũng mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ
phía. Lục Vân Tiên đã dũng cảm “tả đột, hữu xông”, “khác nào

Triệu Tử mở vòng Đương Dương”. Ngay từ phần mở đầu truyện
thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người “văn đà
khởi phụng đằng giao - võ thêm tam lược lục thao ai bì”. Thì lúc
này, chính là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình.
hình ảnh Vân Tiên tung hoành với chiệc gậy trong tay, tạo một
ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc của mọi thế hệ. Sức mạnh
của chàng trai trẻ đã khiến bọn “lâu la khiếp sợ”:
“Lâu la bốn phía vờ tan
Đều quăng ươm giáo tìm đường chạy ngay”
Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân, còn
tênđầu đảng thì:
“Phong lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ
cướp. Nhưng điều đáng quý hơn cả của chàng nghĩa sỹ là thái độ
vô tư. Làm xong việc nghĩa, chàng đã không coi đó là công ơn và
từ chối việc đền ơn. Kiều Nguyệt Nga thì thoát nạn, cảm tạ chàng
và xin được đền ơn:
“ Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
Gặp đây đang lúc giữa đàng
Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
Tưởng câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi!”
Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.”
Nụ cười của trang nghĩa sỹ này mới đẹp làm sao! Trong
nụ cười ấy như hàm chứa cả sự thông cảm lẫn sự bao dung.
Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vô điều kiện và

coi đó là lẽ tự nhiên: ở đời là phải thế, không thể nào khác được.
Vân Tiên cứu người mắc nạn là vì nghĩa, đó cùng chính là lý
tưởng mà chàng ôm ấp và thực hiện:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Tóm lại, Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn
mạng trong mình truyền thống trọng nghĩa khinh tài của dân tộc
ta. Phẩm chất cao đẹp ấy đáng được người đời sau truền tụng,
học tập và phát huy. Lục Vân Tiên cho chúng ta một bài học lớn
về tinh thần nghĩa hiệp, không thể làm ngơ trước tai hoạ và đau
khổ của người khác. Trong xã hội ngày any, mẫu người như thế
không phải là không có. Đọc báo, nghe đài , đọc sách chúng ta
vẫn gặp họ đâu đó ở chỗ này, chỗ khác. Họ xứng đáng được xã
hội biểu dương.
Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa
sỹ sẵn sàng ra tay “trừ thói hồ đồ hại dân” vẫn cứ hiện rõ. Trong
lời thơ mộc mạc của nhà thơ vẫn âm vang mãi một tấm gương
sáng về tinh thần thượng võ. Ngày nay, đâu phải việc “cứu khốn,
phò nguy” là không cần thiết nữa, do đo, Lục Vân Tiên vẫn góp
phần giúp cho chúng ta sống đẹp hơn và xứng đáng hơn với lời
tâm niệm:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
=====
Tiết 13 - 14
Bài 1: “ĐỒNG CHÍ ” - CHÍNH HỮU.
A. Kiến thức cần nhớ.
1.Tác giả
- Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê ở Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Từ
người lính Trung đoàn Thủ đô trở thành nhà thơ quân đội. -
Chính Hữu làm thơ không nhiều, thơ ông thường viết về người
lính và chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của
người lính, như tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương đất
nước, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương.
- Thơ ông có những bài đặc sắc, giàu hình ảnh, cảm xúc dồn
nén, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc.
- Chính Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh
về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Tác phẩm
- Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng
đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông
năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên
chiến khu Việt Bắc. Trong chiến dịch ấy, cũng như những năm
đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn.
Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và tình đồng chí,
đồng đội, họ đã vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau
chiến dịch này, Chính Hữu viết bài thơ “Đồng chí” vào đầu năm
1948, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh. Bài thơ là kết quả của
những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa, mạnh mẽ, tha
thiết của tác giả với đồng đội, đồng chí của mình trong chiến
dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
- Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về
người lính cách mang của văn học thời kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946 – 1954).
- Bài thơ đi theo khuynh hướng : Cảm hứng thơ hướng về chất
thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ trong
cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường.
- Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của

những người lính cách mạng – mà phần lớn họ đều xuất thân từ
nông dân. Đồng thời bài thơ cũng làm hiện lên hình ảnh chân
thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn.
(Đó là hai nội dung được đan cài và thống nhất với nhau trong cả
bài thơ)
- Chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu
sức biểu cảm.
3. Phân tích bài thơ.
Đề bài : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để
thấy bài thơ đã diễn tả sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng
liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
Dàn ý chi tiết:
I - Mở bài:
Cách 2: Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh
người lính mãi mãi là hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình
tượng người lính đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế,
tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời
sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của
những người lính Cụ Hồ là “Đồng chí” của Chính Hữu. Bằng
những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm
của người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã
diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ
đội thời kháng chiến.
II – Thân bài
Chính Hữu viết bài thơ : “Đồng chí” vào đầu năm 1948, khi
đó ông là chính trị viên đại đội, đã từng theo đơn vị tham gia
chiến dịch Việt Bắc, và cũng là người đã từng sống trong tình
9
đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vượt qua những khó khăn

gian khổ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
1. Trong 7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành
tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách
mạng
- Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: Trong cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo
lính. Từ giã quê hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ
những người chiến đấu cho một lí tưởng chung cao đẹp, đó là
độc lập tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ là những tâm sự chân
tình về con người và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen
thuộc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của
hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên
gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là
những nông dân ở nơi “nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn
“đất cày lên sỏi đá”.Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi”
hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ
không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình
ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến
mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những
người con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác
giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến người đọc có
thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo khổ, nơi
sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của
Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong
đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
=> Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê

anh – làng tôi” đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Và
chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng
cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người
lính.
- Cùng chung lí tưởng chiến đấu: Trước ngày nhập ngũ, những
con người này vốn “xa lạ”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm
hỏi. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương
thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo, người lao
động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái
nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có
một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ
Tổ Quốc. Hình ảnh : “Anh – tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh
sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm
vụ và lí tưởng chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”.
“Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho
nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và
“đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó
trong chiến đấu của người đồng chí.
- Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia
sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của
những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh
thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỉ”. Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay
hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp được bên
này thì hở bên kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn
ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành tri kỉ của nhau. “Tri kỉ” là người bạn
thân thiết hiểu rất rõ về ta. Vất vả nguy nan đã gắn kết những

người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm giao gắn bó.
Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ
cuộc sống, từ cuộc đời người lính gian khổ. Bao nhiêu yêu
thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa tình
cảm hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải
qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức
nặng của tình cảm trìu mến, yêu thương với đồng đội. Hình ảnh
thật giản dị nhưng rất cảm động.
- Từ trong tâm khảm họ, bỗng bật thốt lên hai từ « đồng
chí ». Từ “đồng chí” được đặt thành cả một dòng thơ ngắn gọn
mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí’ với dấu
chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu
cảm khac nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm
mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích. Nhưng
trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên trong là « tình tri kỉ » lại
được thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững
bền. Không còn anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một
khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Như vậy, trong tình đồng chí
có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ
và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục
đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ
không chỉ còn là người nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở
thành anh em trong cả một cộng đồng với một lý tưởng cao cả vì
đất nước quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, cho
dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn nén bao
cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy
nghĩ tiếp theo. Quả thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.
2.Nhưng Chính Hữu đã không dừng lại ở việc biểu hiện
những xúc cảm về quá trình hình thành tình đồng chí. Trong
mười câu thơ tiếp theo nhà thơ sẽ nói với chúng ta về những

biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí
Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những
tâm tư, nỗi lòng của nhau.
“Ruộng nương anh gửi
bạn thân cày
Gian nhà không mặc
kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính”
+ Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn,
để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn
trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp
một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ:
“Ruộng nương” đã tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà
không” giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Lên đường đi chiến đấu,
người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những tính
toán riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được cái kiên quyết
dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, khi
mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng
những người lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng lòng
với quê hương. Chính thái độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu
rằng những người lính càng cố gắng kiềm chế tình cảm bao nhiêu
thì tình cảm ấy càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu. Nếu không đã
chẳng thể cảm nhận được tính nhớ nhung của hậu phương:
“giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh thơ hoán dụ
mang tính nhân hoá này càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của
người lính đối với quê nhà, nó giúp người lính diễn tả một cách
hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc đa kia nhớ
người ra lính hay chính tấm lòng người ra lính không nguôi nhớ
quê hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn? Quả

thực giữa người chiến sĩ và quê hương anh đã có một mối giao
cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. Tác giả đã gợi nên hai tâm tình như
đang soi rọi vào nhau đến tận cùng. Ba câu thơ với hình ảnh:
ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng
thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi
đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi
sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ
nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu
hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức
mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy.
- Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia
những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính:
10
Anh với tôi biết từng
cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng
trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh

Là người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét
nơi rừng sâu trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang
phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá: “áo rách vai, quần tôi
vài mảnh vá, chân không giày…” Tất cả những khó khăn gian
khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một
chút tô vẽ. Ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội Cụ Hồ mới
được thành lập, thiếu thốn đủ đường, quần áo rách bươm phải
buộc túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi là “vệ túm”.
Đọc những câu thơ này, ta vừa không khỏi chạnh lòng khi thấu
hiểu nhưng gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải qua

vừa trào dâng một niềm kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng
của những người lính vệ quốc.
- Cùng hướng về một lí tưởng, cùng nếm trải sự khắc
nghiệt của chiến tranh, người lính chia sẻ cho nhau tình
thương yêu ở mức tột cùng. Chi tiết “miệng cười buốt giá” đã
ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thân lạc quan của người
chiến sĩ. Rồi đến cái cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
đã thể hiện được tình thương yêu đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ
tình thương yêu không ồn ào mà thấm thía. Trong buốt giá gian
lao, những bàn tay tìm đến để truyền cho nhau hơi ấm, truyền
cho nhau niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh để vượt qua tất cả,
đẩy lùi gian khổ. Những cái nắm tay ấy đã thay cho mọi lời nói.
Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương! Nhà thơ đã
phát hiện rất tinh cái sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim
người lính. Sức mạnh tinh thần ấy, trên cơ sở cảm thông và thấu
hiểu sâu sắc lẫn nhau đã tạo nên chiều sâu và sự bền vững của
thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này.
3.Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang
sương muối
Đứng cạnh bên nhau
chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc. Nền bức
tranh là đêm – “rừng hoang sương muối”gợi ra một
cảnh tượng âm u, hoang vắng và lạnh lẽo. Không
chỉ cái giá, cái rét cứ theo đuổi mà còn bao nguy
hiểm đang rình rập người chiến sĩ.
- Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là
những người lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang
tấc. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế, cái tinh
thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những
người lính đứng cạnh bên nhau vững chãi, truyền
cho nhau hơi ấm thì tình đồng chí đã trở thành ngọn
lửa sưởi ấm họ để họ có sức mạnh vượt qua cái cái
gian khổ, ác liệt, giá rét ấy… Tầm vóc của những
người lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.
- Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ
những đêm hành quân phục kích giặc của chính
người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã
sà xuống thấp dần, ở vào một vị trí và tầm nhìn nào
đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của
người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc.Rõ ràng, tình
cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho
người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện
thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng
treo”.Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt:
đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái
chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của người chiến sĩ
vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất
ngờ của trăng. Bốn chữ “Đầu súng trăng treo”chia
làm hai vế làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén,
như nhịp lắc của một cái gì đó chông chênh, trong
bát ngát…gây sự chú ý cho người đọc. Từ “treo” đã
tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai
sự vật ở cách xa nhau - mặt đất và bầu trời, gợi
những liên tưởng thú vị, bất ngờ. “Súng” là biểu
tượng của chiến đấu, “trăng” là biểu tượng của cái
đẹp, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của

cuộc sống. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ
và thi sĩ, là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của
những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau.
Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm
thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ
sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
=> Hiếm thấy một hình tượng thơ nào vừa đẹp vừa
mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo”. Đây
là một sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá
trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng trong
lòng người đọc.
4. Suy nghĩ về tình đồng chí: Như vậy tình
đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và
thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn
trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung.
Đó là mối tình có cơ sở hết sức vững chắc: sự đồng
cảm của những người chiến sĩ vốn xuất thân từ
những người nông dân hiền lành chân thật gắn bó
với ruộng đồng. Tình cảm ấy được hình thành trên
cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng chung lí tưởng và mục
đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác
liệt lại tôi luyện thử thách làm cho mối tình đồng chí
đồng đội của những người lính càng gắn bó, keo
sơn. Mối tình thiêng liêng sâu nặng, bền chặt đó đã
tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những người lính
“áo rách vai”, “chân không giầy” vượt lên mọi gian
nguy để đi tới và làm nên thắng trận để viết lên
những bản anh hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà
Bình, Tây Bắc…. tô thắm thêm trang sử chống Pháp
hào hùng của dân tộc.

III - Kết luận:
Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị lại vừa mang vẻ
đẹp cao cả thiêng liêng, thơ mộng. Cấu trúc song hành và đối
xứng xuyên suốt bài thơ làm hiện lên hai gương mặt người chiến
sĩ rất trẻ như đang thủ thỉ, tâm tình, làm nổi bật chủ đề tư tưởng:
Tình đồng chí gắn bó keo sơn. Chân dung người lính vệ quốc
trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp hiện lên thật đẹp
đẽ qua những vần thơ mộc mạc, chân tình mà gợi nhiều suy
tưởng. Với những đặc điểm đó, bài thơ xứng đáng là một trong
những tác phẩm thi ca xuất sắc về đề tài người lính và chiến
tranh cách mạng của văn học Việt Nam.
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - PHẠM TIẾN
DUẬT.
A. Ki n th c c n nh .ế ứ ầ ớ
1. Tác giả
- Ph m Ti n Du t sinh n m 1941, quê t nh Phú Th . Sau khi t tạ ế ậ ă ở ỉ ọ ố
nghi p i h c, n m 1964 v o b i, ho t ng tuy n ngệ đạ ọ ă à ộ độ ạ độ ở ế đườ
Tr ng S n v tr th nh m t trong nh ng nh th tiêu bi u c aườ ơ à ở à ộ ữ à ơ ể ủ
phong tr o th tr nh ng n m kháng chi n ch ng qu c M . à ơ ẻ ữ ă ế ố đế ố ỹ
- Th ông gi u ch t li u hi n th c, chi n tr ng, th hi n sinhơ à ấ ệ ệ ự ế ườ ể ệ
ng, có gi ng i u ngang t ng, tinh ngh ch, sôi n i, t i tr , ãđộ ọ đệ à ị ổ ươ ẻ đ
l m s ng l i hình nh th h tr Tr ng S n v nh ng khóà ố ạ ả ế ệ ẻ ở ườ ơ à ữ
kh n c a th i ánh M gian kh .ă ủ ờ đ ỹ ổ
- Ph m Ti n Du t th hi n hình nh th h thanh niên trongạ ế ậ ể ệ ả ế ệ
cu c chi n tranh ch ng qu c M qua nh ng hình t ng côộ ế ố đế ố ỹ ữ ượ
gái thanh niên xung phong v anh b i trên tuy n ngà ộ độ ế đườ
Tr ng S n.ườ ơ
11
- Tác phẩm chính: Vầng trăng -Quầng lửa(1970), Thơ một chặng
đường ( 1971), Ở hai đầu núi (1981). Nhiều bài thơ đã đi vào trí

nhớ của công chúng như các bài: Trường Sơn Đông, Trường Sơn
tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong….
4. Phân tích những nội dung chính của bài thơ.
a. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.
Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng
chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của
nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài:
những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện
thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về
hiện thực dời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.
Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”?
Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của
tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là
cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là Phạm
Tiêến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của
tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu
thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh.
b. Hình ảnh những chiếc xe không kính.
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe
không kính vẫn băng ra chiến trường.
-Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì
thường được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý
nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe
tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “tiếng hát con tàu” của
Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của
Huy Cận.
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu
tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho
tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm
trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện

“xe không kính” lại là môt thực tế, những chiếc xe “không kính”
rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra tiền tuyến.
+ Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có
phần không bình thường ấy:
Không có kính không phải vì xe khôg có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự
phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu
thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của
ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên,
ngang tàng trong đó ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ
của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung
được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của dịch
vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là
nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính.
- Những chiếc xe như vậy vốn không hiếm trong chiến tranh,
nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh
nghịch thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra đụơc và đưa
nó vào thơ thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh
chống Mĩ. Hơn nữa, viết về những người lái xe thì không gì gắn
họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà làm nổi bật hình ảnh ngưới
lái xe.
b. Hình ảnh những chiếc xe không kính đó làm nổi bật hình
ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn.Thiếu đi những
phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lái xe
bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của
họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp khó khăn, gian
khổ.
*Trước hết là tư thế hiên ngang, sự ung dung, bình tĩnh giữa
chiến trường hiểm nguy.

- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có
kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối
mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào xoa mắt
đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi
“cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập,
quăng ném vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như
chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của
những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ thể,
đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
- Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người
chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên
ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng “ung dung nhìn
thẳng. Hai câu thơ “ung dung thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi
lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe không kính.
Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung
dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm chủ,
chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật,
bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía
trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ
2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên
chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế
ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm
vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến
trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
=> Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn
gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua. Trong
khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao
tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền
tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh
bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe

vun vút chạy trên đường.
* Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tinh thần lạc
quan hồn nhiên, yêu đời của người lính trẻ.
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó
khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách,
khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và
“mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử
thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt,
những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
+ Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao
núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa
xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất cả chỉ
“chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm
vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn
đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt
áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp
nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như
gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh
hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử
sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí
làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa
hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa khô
mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp
rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối
đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi
cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là
khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm
hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha” ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe

trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì
lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính
tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có
lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là
một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực
đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô
tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng
chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu
thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính
cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ
trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe
Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt
12
giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi
gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con
người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
* Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn
phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút dừng chân
ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe không kính” - tiểu đội
những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên tinh
nghịch. Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa
về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi
của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo
là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc
mạc nhưng thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay
thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những chiếc xe thời
chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ
nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái,

xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt.: chung
bát,chung đũa, mắc võng chông chênh chỉ trong một thoáng
chốc. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân
thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các
anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”, đi đến
thắng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa
chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật
lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp
nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp
sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà
không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống
không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên
ngang – tư thế của người chiến thắng.
d. Khổ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất
bất ngờ và thú vị khái quát nội dung cả bài thơ.
- Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe không còn nguyên vẹn
về phương tiện kĩ thuật, dồn dập những mất mát, khó khăn do
quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị
hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe
có xước ” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Ấy vậy mà
những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích đó lại như
những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra
tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe
có một trái tim”
- Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến
ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng
liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất
đất nước đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe đó lại
nguyên vẹn một trái tim dũng cảm. Hình ảnh trái tim là một hình

ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình
ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe.
Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì
Miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang,
lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và
một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Thì ra cội
nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của
người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên
cường, giầu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Nhà văn
đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” để làm nổi
bật chân lí của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó
những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể
bẻ gẫy được những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một nước
nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn.
=> Điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng “vẫn … chỉ cần
có” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng.
Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại
lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề
thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người
lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển
được.
Phân tích" b i th ti u i xe không kínhà ơ ể độ ” c a Ph m Ti nủ ạ ế
Du t.ậ
I - M b i : ở à
- Ph m Ti n Du t l m t trong nh ng tác gi tiêu bi u c a th hạ ế ậ à ộ ữ ả ể ủ ế ệ
các nh th tr th i ch ng M c u n c. Th Ph m Ti n Du t cóà ơ ẻ ờ ố Ĩ ứ ướ ơ ạ ế ậ
gi ng ngang t ng, tinh ngh ch m sôi n i, t i tr , ã l m s ngọ à ị à ổ ươ ẻ đ à ố
l i hình nh th h tr - c bi t l l p tr tuy n ngạ ả ế ệ ẻ đặ ệ à ớ ẻ ở ế đườ
Tr ng S n v không khí c a th i ánh M gian kh , ác li t.ườ ơ à ủ ờ đ ĩ ổ ệ
-“B i th v ti u i xe không kínhà ơ ề ể độ ” ra i trong ho n c nh ó.đờ à ả đ

ây l m t trong nh ng b i th c s c c a Ph m Ti n Du t,Đ à ộ ữ à ơ đặ ắ ủ ạ ế ậ
n m trong chùm th c t ng gi i nh t cu c thi th báo v nằ ơ đượ ặ ả ấ ộ ơ ă
ngh 1969 - 1970. ệ
-B i th ã sáng t o m t hình nh c áo : Nh ng chi c xeà ơ đ ạ ộ ả độ đ ữ ế
không kính l m n i b t hình nh nh ng ng i lái xe chi nđể à ổ ậ ả ữ ườ ở ế
tr ng Tr ng S n hiên ngang, d ng c m, tr trung, sôi n iườ ườ ơ ũ ả ẻ ổ …
Qua ó nh th ca ng i ch ngh a anh hùng Cách m ng c a Vi tđ à ơ ợ ủ ĩ ạ ủ ệ
Nam th i ánh M .ờ đ ĩ
II Thân b i :– à
1. Hình nh nh ng chi c xe không kính.ả ữ ế
-T th xe không kính l m t hình nh c áo v ít th y trongứ ơ à ộ ả độ đ à ấ
th v nó r t khác v i nh ng hình nh xe c ã t ng có trongơ à ấ ớ ữ ả ộ đ ừ
th ca tr c ó. Thông th ng hình nh xe trong th ca th ngơ ướ đ ườ ả ơ ườ
c miêu t theo cách đượ ả “m l hóaĩ ệ ” ho c ặ “t ng tr ngượ ư ”.
- b i th n y, hình nh chi c xe không kính l m t hình nhỞ à ơ à ả ế à ộ ả
ho n to n có th c trong chi n tranh c tác gi miêu t c th ,à à ự ế đượ ả ả ụ ể
chi ti t v r t th c ế à ấ ự
-Tác gi gi i thích nguyên nhân c ng r t th c:ả ả ũ ấ ự
-“Không có kính không ph i vì xe không có kính.ả
Bom gi t, bom rung kính v i r iậ ỡđ ồ ”.
-Bom n kh c li t c a chi n tranh l m cho nh ng chi c xe yđạ ố ệ ủ ế à ữ ế ấ
không có kính. Cái hình nh th c n y c di n t b ng hai câuả ự à đượ ễ ả ằ
th r t g n v i v n xuôi l i có gi ng th n nhiên pha chút ngangơ ấ ầ ớ ă ạ ọ ả
t ng, c lên nghe r t thú v . Ba ch à đọ ấ ị ữ “không” i li n nhau v i haiđ ề ớ
n t nh n ố ấ “ Bom gi t, bom rungậ ” bi u l ch t lính trong cách nóiể ộ ấ
phóng khoáng h n nhiên. Nh v y tác gi i t hi n th c kh cồ ư ậ ả đ ừ ệ ự ố
li t, nh ng chi c xe v n t i b bom M t n phá xây d ng lênệ ữ ế ậ ả ị ỹ à để ự
m t hình t ng th c áo v nhi u ý ngh a.ộ ượ ơđộ đ à ề ĩ
2.Hình nh ng i chi n s lái xeả ườ ế ỹ :
Tác giả miêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi

rõ hình ảnh những người chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi
những điều kiện phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội
để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh
thần lớn lao của họ. Những phẩm chất cao đẹp ấy được khắc hoạ
1 cách cụ thể và gợi cảm ở 14 câu thơ tiếp theo.
a. Trước hết là sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm
nguy.
- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết.
Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người
lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào
xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao
trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng,
va đập, quăng ném vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình.
Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong
buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh
động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
- Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song
người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vấn
hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng “ung dung
nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung thẳng” đã nhấn mạnh tư thế
ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe không
kính. Hai chữ “ta ngồi” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế
ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm
chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom
giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về
phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp
thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên
chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế
ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm
vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến

trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
13
=> Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn
gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua. Trong
khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao
tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền
tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh
bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe
vun vút chạy trên đường.
b. Những người lính trẻ rất yêu đời lạc quan, bất chấp khó
khăn, coi thường gian khổ.
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó
khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách,
khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và
“mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử
thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt,
những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
+ Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao
núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa
xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất cả chỉ
“chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm
vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn
đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt
áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp
nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như
gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh
hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử
sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí
làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa

hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa khô
mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp
rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối
đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi
cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là
khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm
hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha” ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe
trên đường đi tới.
(Nếu chúng ta quen đọc, hoặc yêu thích nhưng vần thơ
trau chuốt, mượt mà thì lần đầu tiên đọc những vần thơ này, có
thể cảm thấy hơi gợn, ít chất thơ. Nhưng càng đọc thì lại càng
thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta
nghe như họ đương cười đùa, teeos táo với nhau vậy. Có lẽ với
những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một
người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời
sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp,
trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng chính là
nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi
với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang
tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó
cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn.
Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài
thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ
ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn
luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.)
c. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn
phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút dừng chân
ngắn ngủi. Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp

nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt
bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc
đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy
mộc mạc nhưng thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt
tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những chiếc xe
thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết
nhỏ nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái,
xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt.: chung
bát,chung đũa, mắc võng chông chênh chỉ trong một thoáng
chốc. Để rồi lại tiếp tục hành quân”Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc
quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật
mộng mơ. Điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống
chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không
một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống không
chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang
– tư thế của người chiến thắng.
d. Khổ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất
ngờ và thú vị làm nổi bật sự khốc liệt trong chiến tranh nhưng
cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, tình cảm
sâu đậm với miền Nam ruột thịt.
+ Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân
địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư
hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có
xước ” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Điệp ngữ
“không có” nhắc lại 3 lần như nhân lên 3 lần thử thách khốc liệt.
Hai dòng thơ ngắt làm 4 khúc như bốn chặng gập ghềnh, khúc
khuỷu đầy chông gai, bom đạn Ấy vậy mà những chiếc xe như
những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra

tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe
có một trái tim”
+ Hai câu cuối âm điệu đối chọi mà trôi chảy, êm ru. Hình
ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn,
hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình
cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc
lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi.
+ Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm
chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái
tim” gan góc, kiên cường, giầu bản lĩnh và chan chứa tình yêu
thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái?
Tình yêu Tổ Quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền
Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt
khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái,
nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích?
+ Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm lái, câu thơ còn muốn
hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh
quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ mà là
con người- con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí
kiên cường dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc.
Có thể nói, bài thơ hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là nhãn
tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của
hình tượng nhân vật trong thơ.
(Tô đậm những cái không để làm nổi bật cái có….=> nổi
bật chân lí của thời đại, bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó
những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể
bẻ gẫy được những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một nước
nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn…. Phải
chăng đó là câu trả lời …? )

III - K t lu n : ế ậ
“B i th v ti u i xe không kínhà ơ ề ể độ ” l b i th tiêu bi u c a v nà à ơ ể ủ ă
h c Vi t Nam th i ch ng M . B i th g i l i bao k ni m h oọ ệ ờ ố ĩ à ơ ợ ạ ỷ ệ à
hùng c a ng i chi n s lái xe n i Tr ng S n khói l a. c xongủ ườ ế ĩ ơ ườ ơ ử Đọ
b i th , ta c ng hi u h n v các chi n s lái xe, v lòng d ngà ơ à ể ơ ề ế ĩ ề ũ
c m, t th hiên ngang b t khu t c a h . Ta c ng th y c ch tả ư ế ấ ấ ủ ọ ũ ấ đượ ấ
tinh ngh ch h n nhiên c a m i ng i lính tr . Chi n tranh ã quaị ồ ủ ỗ ườ ẻ ế đ
i nh ng l i th c a Ph m Ti n Du t v n còn v ng v ng âu âyđ ư ờ ơ ủ ạ ế ậ ẫ ă ẳ đ đ
cái ch t vui t i kh e kho n yêu i c a c m t th h tr Vi tấ ươ ỏ ắ đờ ủ ả ộ ế ệ ẻ ệ
Nam th i ch ng M .ờ ố ĩ
Đề số 2: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ:
“Đồng chí” và “Tiểu đội xe không kính”.
A. Mở bài:
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết cho vinh.
14
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta
biết bao suy tưởng. Chúng ta như được sống lại một thời hào
hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị
như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói
về họ - những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu
cho hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ là hai bài thơ: “Đồng
chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật.
- Những người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau
nhưng ở họ có nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và
của con người Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
B.Thân bài.

1. Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần
tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do để đi vào cuộc
chiến đấu.
- Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh
ngộ nghèo khó: “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.
Họ là những người nông dân vừa được cách mạng giải phóng
khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội
cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để
giải phóng triệt để cho thân phận của mình, cho quần chúng và
cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ
“mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà
cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời
người chiến sĩ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
- Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai
còn rất trẻ, có tri thức, họ sẵn sàng gác lại những ước vọng tương
lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi thiêng
liêng của miền Nam yêu dấu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương
lai”.
2.Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt,
chan hoà và nhờ lòng dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất
chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn thành
nhiệm vụ.
- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao
khó khăn gian khổ, thiếu thốn.
+ Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian
nan vất vả, các anh đã từng chịu những cơn “sốt run người vầng
trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh

vá”, “chân không giầy”… Cũng chính từ trong gian khổ và thiếu
thốn của những ngày đầu tiên bước vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh
ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng chí! Và chính có tình đồng chí,
đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức mạnh
lớn lao để vượt qua tất cả: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy sương muối, ở nơi mà sự
sống và cái chết chỉ trong gang tấc, những người chiến sĩ vẫn
ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh
vẫn chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày chiến thắng. Ta thấy được ở
các anh một tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, một niềm
lạc quan bất diệt. Đời lính gian khổ nhưng luôn giữ mãi nụ cười
dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng trăng treo”, một biểu
tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý của mối
tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi người.
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ
điều đó:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính
và ta thêm cảm phục sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh
thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là hình ảnh
chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống
Pháp - những con người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên
ngang.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thắng lợi vẻ vang
với trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa được bình
yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những người con của
quê hương lại tiếp tục lên đường. Những anh chiến sĩ lái xe trên

tuyến đường Trường Sơn hiện lên trong trang thơ của Phạm Tiến
Duật là những anh lính thật ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm
hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh phải đối mặt với nhiều gian
khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù hằng ngày trút
xuống con đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những
gian khổ và ác liệt hiện hình trong hình ảnh những chiếc xe
không kính rồi không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo
mó. Gian khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái
chết như kề bên, vậy mà lúc nào các anh cũng “ung dung buồng
lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt
nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những chàng trai tuổi
trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm vụ
thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không
thể sử dụng được vậy mà nó vẫn tiến lên phía trước bởi có
những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của những anh lái
xe rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà
thơ, Phạm Tiến Duật đã xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ
lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ: “phì phèo châm điếu
thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức của họ đối
với quân thù. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa
khiến cho những chiếc xe ấy vẫn băng băng lên phía trước? Tác
giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát, trong những chiếc
xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về Miền

Nam phía trước với là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền
Nam, thống nhất đất nước:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
3. Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra
sự gần gũi, thân quen giữa những người lính qua các thời kì. Từ
anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong thơ Chính
Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ PTD
đều có chung một nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất,
dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với điều kiện thuận
lợi hơn, người lính thời chống Mĩ đã được trau rèn, huấn luyện.
Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã
vững vàng nay lại vững vàng hơn.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với
những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống người lính nhưng
hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu riêng của
mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính
Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người
lính, còn PTD thì lại tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng,
tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù
của những người lính lái xe.
C. Kết bài:
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai
bài thơ về người lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm
xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử
và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách
và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả,
nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến
các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người
với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.

15
TIẾT 17 - 18
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN
A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả:
- Huy Cận bút danh là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở hà
Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại Hà Nội.
- Huy Cận là một cây bút nổi tiếng của phong trào thơ mới với
tập thơ “Lửa thiêng”.
- Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng
tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách
mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại
Việt Nam từ sau năm 1945.
- Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu
cuộc sống mới. Thiên nhiên, vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào
trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng.
2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được viết vào năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Không khí
hào hứng, phấn chấn, tin tưởng bao trùm trong đời sống xã hội
và ở khắp nơi dấy lên phong trào phát triển sản xuất xây dựng đất
nước. Chuyến thâm nhập thực tế ở vùng mở Quảng Ninh vào nửa
cuối năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy Cận thấy rõ và sống trong
không khí lao động ấy của nhân dân ta, góp phần quan trọng mở
ra một chặng đường mới trong thơ Huy Cận.
a. Hai khổ đầu.
* Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình tượng
độc đáo:

Mặt trời xuống biển
như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm
sập cửa”
- Với sự liên tưởng so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực
sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào
đêm thật kì vĩ, tráng lệ như thần thoại. Vũ trụ như một ngôi nhà
lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những
lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những
chiếc then cài cửa. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kì
diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhậy
cảm.
*.Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người
bắt đầu làm việc
- Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc
vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược
lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra
khơi. Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối lập này làm
nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư
dân ào xuống đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành.
Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục mỗi
ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều
với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu
lao động, một công việc lao động không ít vất vả.
+ Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi-
là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh
buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của những
người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công
việc chinh phục biển khơi làm giầu cho Tổ quốc.

*. Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm nổi bật một
nét tâm hồn của người dân chài:
Hát rằng cá bạc biển
Đông lặng
Cá thu biển đông như
đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển
muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá
ơi.
- Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của biển cả. Họ hát bài ca
gọi cá vào lưới, mong muốn công việc đánh cá thu được kết quả
tốt đẹp.
b.Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong
khung cảnh rất đẹp và con người rất yêu lao động, yêu thiên
nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên
biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời,
sóng nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng
tượng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời sống trong đó con
người hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời.
*.Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng
sáng. Trên mặt biển đó, có một con thuyền đang băng băng
lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với
buồm trăng
Lướt giữa mây cao
với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò
bụng biển
Dàn đan thế trận lưới

vây giăng
- Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây đã
trở thành một con thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái, còn
trăng là cánh buồm. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để
“dò bụng biển”. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế
trận hào hùng. Tư thế và khí thế của những ngư dân thật mạnh
mẽ, đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển trời. Như vậy,
tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên hòa
nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm
giác nhỏ bé lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng sông dài
như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng
mạn bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi
phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở
thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên
*. Biển giầu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
Cá nhụ cá chim cùng
cá đé
Cá song lấp lánh đuốc
đen hồng
Cái đuôi em quẫy
trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước
Hạ Long
- Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng cách liệt kê
tên các loài cá và tập trung miêu tả màu sắc của chúng trong đêm
trăng. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang
lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh
ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại
là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt nước, những con
cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. Phải thật tinh

tế mới có được những phát hiện tuyệt vời ấy. Cảnh biển về đêm
mới đẹp đẽ và thi vị làm sao!
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp.
Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương: nó thở. Tiếng thở
của đêm chính là tiếng rì rào của sóng. Nhưng tưởng tượng của
nhà thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa
nước Hạ Long làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một hình ảnh
đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao trời nơi đáy nước chứ
không phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là một hình ảnh lạ -
một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên
thêm sinh động.
*.Biển không những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung,
bao la như lòng mẹ. Biển cho con người cá, nuôi lớn con người.
Những người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào với họ:
16
Ta hát bài ca gọi cá
vào
Gõ thuyền đã có nhịp
trăng cao
Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng
cao gõ”. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt nước,
sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền thành hình ảnh
“nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy
chất thơ làm đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển.
Thiên nhiên đã cùng với con người hòa đồng trong lao động.
- Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự
buổi nào” là một lời hát ân tình sâu sắc trong bài ca lao
động say sưa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
*.Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng
hăng say:

Sao mờ kéo lưới kịp
trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm
cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe
rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón
nắng hồng
Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn
rỏi, khỏe mạnh với những bắp tay cuồn cuộn của người dân chài
khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt đầu bừng
sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới sánh
sáng của rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật
rạng rỡ huy hoàng, tươi đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón
nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con
người với sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm
vui với ánh bình minh.
c. Và đây là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về:
Câu hát căng buồm
với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua
cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô
màu mới
Mắt cá huy hoàng
muôn dặm phơi.
- Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng hôn trong tiếng hát
và trở về vào lúc bình minh cũng trong tiếng hát. Những câu thơ
được lặp lại như một điệp khúc của một bài ca lao động. Nếu như
tiếng hát lúc trước thể hiện niềm vui khi lao động thì tiếng hát

sau lại thể hiện sự phấn khởi vì kết quả lao động sau một đêm
làm việc hăng say. Họ trở về trong tư thế mới “chạy đua cùng
mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí thế lao động mạnh mẽ, sức
lực vẫn dồi dào của người lao động. Đoàn thuyền được nhân hóa,
cả mặt trời cũng tham gia vào cuộc chạy đua này và kết quả con
người đã chiến thắng.
- Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một cảnh tượng
thật kì vĩ và chói lọi. Phải nói rằng Huy Cận đã rất tinh tế khi
miêu tả sự vận hành của vũ trụ. Mặt trời từ từ nhô lên trên sóng
nước xanh lam , chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ, cảnh biển bừng sáng
và còn đẹp hơn với kết quả lao động. Con thuyền chở về khoang
nào cũng đầy ắp cá. Mắt cá phản chiếu ánh mặt trời giống như
muôn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một cảnh tượng đẹp,
huy hoàng giữa bầu trời và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành
quả lao động.
Kết luận
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới,
con người mới. Bài thơ tràn ngập niềm vui phơi phới, niềm say
sưa hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn
chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình. Đây
cũng là bài ca ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy, hùng vĩ và nên thơ của
thiên nhiên đất nước qua cái nhìn và tâm trạng hứng khởi của
nhà thơ. Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ trong hình ảnh, ngôn
ngữ. Âm điệu tạo nên âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại phơi
phới bay bổng. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ để
cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn thấy hay trong khi một số bài thơ
khác cùng viết về đề tài này đã rơi vào quên lãng.
=========================
bÕp löa
a. Hoàn cảnh sáng tác : “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963,

khi BV đang là sinh viên khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp
Ki – ép (Liên xô cũ).
4. Phân tích nội dung bài thơ.
a. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu.
* Khổ 1 nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà. Khi nhớ về
quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn liền trong
quá khứ như dòng sông, bến đò, cây đa…. Đối với Bằng Việt, sự
hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp
lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
- Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với
giọng điêụ sâu lắng, hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình.
Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương
sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ
“ấp iu” vừa diễn tả công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên
nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm bếp.( Các chữ “ấp
iu”, “nồng đượm”, “chờn vờn” rất hình tượng, gợi tả; Ấp iu: là
một sáng tạo từ mới mẻ -> đó là sự kết hợp và biến thế của hai từ
“ấp ủ” và “nâng niu”. Bếp lửa ấm áp “nồng đượm” ấy còn mang
tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà)
- Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi
tưởng của cháu về bà, ngưòi nhóm lửa, người nhóm bếp mỗi sớm
mai - một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn
lay động: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Bếp lửa của bà
là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”,
nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong
lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt.
Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, làm cho cảm
xúc lan toả, thấm sâu vào hồn người.

* Từ đó, bài thơ gợi lại cả một thời thơ ấu bên người bà
( Khổ 2,3,4)
-Kí ức đưa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi” của
nạn đói năm 1945: “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan
Viên). Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” – cái đói kéo dài làm mỏi
mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc
cũng gầy khô…Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc.
Tuy nhiên cái đói chỉ là cái cớ để nhà thơ nhớ về một tuổi thơ
cay cực, thiếu thốn trăm bề:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô
rạc ngựa gầy
- Ấn tượng nhất là mùi khói bếp: “Khói hun nhèm mắt cháu.
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Hai câu thơ có giá trị biểu
cảm cao. HÌnh ảnh tả thực : khói nhiều cay, khét vì củi ướt vì
sương nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh tượng trưng: sự xúc
động- nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một
nỗi nhớ thương bà. Cảm xúc quá khứ hoà lẫn hiện tại và chắc
hẳn cảm xúc quá khứ phải sâu sắc lắm mới có thể trỗi dậy mạnh
mẽ thế. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một
vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai. Qua đó, nhà thơ khẳng định,
tuổi thơ dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn
nghĩa tình.
- Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú
trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ - những kỉ niệm đầy ắp âm
thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung quanh cái bếp
lửa quê hương được nhắc tới trong đoạn thơ thứ ba.
17
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
….
+Thật là hồn nhiên, trong sáng và xúc động làm sao khi nhà thơ
tâm tình với chim tu hú. Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen
thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong
vườn lá, trên cánh đồng cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong
hiện thực đã tha thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ như giục giã,
khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy
những hoài niệm nhớ mong: “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”.
Nhà thơ đang kể chuyện về bà mà như tách hẳn ra để trò chuyện
trực tiếp với bà: “bà còn nhớ không bà…?”…. Còn gì hơn với
những chi tiết tự sự xúc động như thế?
+ Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi
cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu:
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Câu thơ mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Bà luôn bên
cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn
lẫn thể chất cho cháu, vậy mà bây giờ cháu cũng đi xa, để bà một
mình khó nhọc.Tiếng chim tu hú giờ đây trở thành một mảnh tâm
hồn tuổi thơ để gợi nhớ gợi thương. Cháu thương bà vất vả, lo
toan, biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm tình với chim tu hú mà thôi.
Như vậy, bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình
ảnh người bà và có cả hình ảnh quê hương.
- Đặc biệt hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại
khi Bằng Việt nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả, giặc
tàn phá xóm làng – hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. “Mẹ và cha công tác
bận không về”, cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà,
sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan. Bên bếp lửa: “bà hay kể

chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu
học”, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn.
Trong nhiều gia đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau,
mà vai trò của người bà – bà nội, bà ngoại – đã thay thế vai trò
của người mẹ hiền. Sống trong những năm dài chiến tranh, thế
nhưng bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, thử thách. Các từ ngữ
như “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc
tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối
với cháu nhỏ. Chữ”bà” và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả
tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Được sống trong tình thương
là hạnh phúc. Người cháu trong bài thơ “bếp lửa” tuy phải sống
xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng em thật
hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của bà. Vì
thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu: “nhóm bếp
lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
=> Tóm lại, làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua
dòng chảy cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp,
đan cài nhuần nhuyễn với nhau giữa các yếu tố biểu cảm, miêu
tả và tự sự. Đây cũng là nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ.
Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó khiến cho hình ảnh của
bà thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ lại hiện về sống động
và chân thành, giản dị.
b. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa. (Khổ 5,6)
- Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở
về hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà và cũng là
để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn. Hình ảnh bà luôn gắn

liền vời hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là “người
nhóm lửa”, lại cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và
toả sáng trong mỗi gia đình.
+ Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”- một hình ảnh ẩn
dụ rất tráng lệ.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
“Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều” không phải chỉ bằng
nhiên liệu bên ngoài mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất
diệt, ngọn lửa của tình yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà,
ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt.
Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng, niêm tìn thiêng liêng kì diệu
nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống,
lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình
tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”,
các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản
lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời
chiến. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm
cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Tình
thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của bà là nguồn nhiên
liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy.
Như thế, hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà
còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các
thế hệ nối tiếp.
+ Tám câu thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ,
của đứa cháu về người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia
đình Việt Nam chúng ta. Cuộc đời của bà nhiều “lận đận”, trải
qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương
chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu

trong gia đình. Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Từ “lận đận”
thể hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi
đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa
“mấy chục năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn
tay già nua, gầy guộc, mà là bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu
nồng đượm” của bà đối với con cháu. Điệp từ “nhóm” được nhắc
đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất
thực… có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp,
nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi
thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua
cái lạnh buốt của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm
bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn
đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình
yêu thương vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở
rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm làng
đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn
toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ.
Tình cảm của bà bao la giản dị như khoai sắn và cũng đậm đà
như khoai sắn.Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”,
“ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút
nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm,
hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những
ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà nhen đã
nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. Chính vì thế mà nhà

thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân
thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “ÔI! Kì lạ và thiêng liêng - Bếp
lửa”. Như vậy, từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin
dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc
vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
c. Niềm thương nhớ của cháu:
- Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành
“ Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu.
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
… Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”
- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới
mẻ. Cháu đã được sống với những niềm vui rộng mở, nhưng giữa
18
ngn khúi trm tu, ngn la trm nh, chỏu vn khụng th
quờn bp la ca b, vn khụng nguụi nh thng b. Mi
ngy u t hi: sm mai ny b nhúm bp lờn cha?, mi ngy
u nh v b v bp la ca b. Hỡnh nh y ó tr thnh k
nim thiờng liờng lm m lũng, nõng chỏu trờn nhng bc
ng i.
d. Bi th cha ng mt ý ngha trit lớ thm kớn: nhng gỡ l
thõn thit nht ca tui th mi ngi u cú sc to sỏng, nõng
con ngi sut hnh trỡnh i rng ca cuc i. Tỡnh yờu
thng v lũng bit n b chớnh l mt biu hin c th ca tỡnh
yờu thng, s gn bú vi gia ỡnh, quờ hng, v ú cng l s
khi u ca tỡnh yờu con ngi, tỡnh yờu t nc.
Bng Vit ó sỏng to hỡnh tng bp la va thc va mang ý
ngha tng trng kt hp miờu t, biu cm, t s v bỡnh lun;
ging iu v th th tỏm ch phự hp vi cm xỳc hi tng v
suy ngm. Bi th nh ngn la m ỏp to sỏng v chỏy mói
trong tỡnh cm ca ngi c.

Cõu 2: Phõn tớch giỏ tr ngh thut ca ip t nhúm trong
kh th sau
Nhúm bp la p
iu nng m
Nhúm nim yờu thng khoa sn ngt bựi
Nhúm ni xụi go mi x chung vui
Nhúm dy c nhng tõm tỡnh tui nh
- ip t nhúm c nhc li 4 ln lm to sỏng hn
nột kỡ l v thiờng liờng bp la. Bp la ca tỡnh b ó nhúm
lờn trong lũng chỏu bao iu thiờng liờng, kỡ l. T nhúm ng
u mi dũng th mang nhiu ý ngha: T bp la ca b nhng
gỡ c nhúm lờn, khi lờn?
+ Khi dy tỡnh cm nng m
+ Khi dy tỡnh yờu thng, tỡnh lng ngha xúm, quờ
hng
+ Khi dy nhng k nim tui th, b l ci ngun ca
nim vui, ca ngt bựi nng m, l khi ngun ca nhng tõm
tỡnh tui nh.
=> ú l bp la ca lũng nhõn ỏi, chia s nim vui
chung.
NH TRNG - NGUYN DUY
A. Kin thc cn nh:
Cõu 3: Hỡnh nh vng trng trong bi th tng trng
cho iu gỡ? í ngha khỏi quỏt ca bi th nh trng.
Gi ý:
a. Hènh nh vng trng trong bi th trc ht l vng trng ca
t nhiờn. Nhng vng trng cũn l biu tng ca quỏ kh y
tỡnh cm, khi con ngi trn tri gia thiờn nhiờn, hn nhiờn,
khụng so o, tớnh toỏn. Khi ú, tõm hn con ngi rng m,
khoỏng t nh sụng, nh ng, nh b, nh rng. Ton l

nhng hỡnh nh thiờn nhiờn rng di, hựng v. Nhng khi khỏng
chin thnh cụng thỡ con ngi nht mỡnh vo ca kớnh, buyn
inh, sng riờng cho mỡnh, cho cỏi cỏ nhõn nh bộ. Bi th m
khụng gn gi, khụng mn m vi vng trng. Lỳc ny trng
tng trng cho quỏ kh õn tỡnh, cho nhng tỡnh cm ln lao
mc mc nhng bt t, sỏng trong mói mói. Con ngi cú th
quờn quỏ kh, nhng quỏ kh khụng bao gi quờn. Trng c trũn
vnh vnh cng nh quỏ kh ti p khụng bao gi m phai,
khụng bao gi khuyt thiu. Ch cú nhng ai mờ mi vi cỏi
riờng mi cú th dng dng. Nhng vng trng y bao dung,
khụng k chi ngi vụ tỡnh. Chớnh thỏi lng im cao thng
y cng lm nhng ai sm quờn quỏ kh ngha tỡnh phi git
mỡnh.
a.Bi th nh trng l tõm s ca Nguyn Duy, l suy ngm
ca nh th trc s i thay ca hon cnh sng, khi m con
ngi t chin tranh tr v cuc sng ho bỡnh. Nhng sụng,
ng, bin, rng l hỡnh nh tng trng, nhng cng l hỡnh nh
tht ca nhng ngi khỏng chin. Thnh ph l mụi trng mi,
l vựng t m trc õy nhng ngi khỏng chin khụng t
chõn ti (tr cỏc chin s hot ng bớ mt). Mụi trng mi, tin
nghi mi, hon cnh mi lm cho con ngi sng cỏch bit vi
thiờn nhiờn, cng cú ngha l xa dn quỏ kh, lnh nht dn vi
quỏ kh. nh trng cnh bỏo hin tng suy thoỏi v tỡnh cm,
s dn n suy thoỏi li sng, suy thoỏi o c. Nú nhc nh
con ngi cn thu chung vi quỏ kh, vi nhng iu tt p
ca quỏ kh (khụng cú mi ni c)
========//==========
TP LM VN.
Phân tích niềm tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài thơ ánh
trăng.

Dn ý
I. M bi
- nh trng l ti quen thuc ca thi ca, l cm hng
sỏng tỏc vụ tn cho cỏc nh th
- Nguyn Duy, mt nh th tiờu biu cho th h tr sau
nm 1975 cng gúp vo mng th thiờn nhiờn mt nh trng.
- Vi Nguyn Duy, ỏnh trng khụng ch l nim th m
cũn c biu t mt hm ngha mi, mang du n ca tỡnh
cm thi i: nh trng l biu tng cho quỏ kh trong mi i
ngi.
- i din trc vng trng, ngi lớnh ó git mỡnh v s
vụ tỡnh trc thiờn nhiờn, vụ tỡnh vi nhng k nim ngha tỡnh
ca mt thi ó qua. Bi th nh trng gin d nh mt nim
õn hn trong tõm s sõu kớn y ca nh th.
II. Thõn bi.
1 Cm ngh v vng trng quỏ kh
- nh trng gn vi nhng k nim trong sỏng thi th u
ti lng quờ:
Hi nh sng vi rng
Vi sụng ri vi bin
- Con ngi khi ú sng gin d, thanh cao, chõn tht
trong s ho hp vi thiờn nhiờn trong lnh: trn tri vi thiờn
nhiờn - hn nhiờn nh cõy c
- nh trng gn bú vi nhng k nim khụng th no quờn
ca cuc chin tranh ỏc lit ca ngi lớnh trong rng sõu.
Hi chin tranh rng
Vng trng thnh tri k
Trn tri vi thiờn nhiờn
Hn nhiờn nh cõy c
Ng khụng bao gi quờn

Cỏi vng trng tỡnh ngha
->Trng khi ú l ỏnh sỏng trong ờm ti chin tranh, l
nim vui bu bn ca ngi lớnh trong gian lao ca cuc khỏng
chin - vng trng tri k. Nhõn vt tr tỡnh gn bú vi trng trong
nhng nm di khỏng chin. Trng vn thu chung, tỡnh ngha.
2. Cm ngh v vng trng hin ti.
T hi v thnh ph
Quen ỏnh in ca gng
Vng trng i qua ngừ
Nh ngi dng qua ng
- Vng trng tri k ngy no nay ó tr thnh ngi
dng - ngi khỏch qua ng xa l
+ S thay i ca hon cnh sng- khụng gian khỏc bit,
thi gian cỏch bit, iu kin sng cỏch bit
+ Hnh ng vi bt tung ca s v cm giỏc t ngt
nhn ra vng trng trũn, cho thy quan h gia ngi v trng
khụng cũn l tri k, tỡnh ngha nh xa vỡ con ngi lỳc ny thy
trng nh mt vt chiu sỏng thay th cho in sỏng m thụi.
+ Cõu th dng dng - lnh lựng - nhc nhi, xút xa
miờu t mt iu gỡ bi bc, nhn tõm vn thng xy ra trong
cuc sng.
=> T s xa l gia ngi vi trng y, nh th mun
nhc nh : ng nhng giỏ tr vt cht iu khin chỳng ta
c. Nim suy t ca tỏc gi v tm lũng ca vng trng.
19
- Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút
tình cờ.
+ Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không
mảy may sứt mẻ.
+ “Trăng tròn”, hình ảnh thơ khá hay, tình cảm trọn vẹn,

chung thuỷ như năm xưa.
+Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt”
ở đây chính là vầng trăng tròn (nhân hoá). Con người thấy mặt
trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và
sâu sắc!
- Ánh trăng đã thức dậy những kỉ niệm quá khứ tốt đẹp,
đánh thức lại tình cảm bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì
con người đã lãng quên.
+ Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang
rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ.
+ Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm
hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm
bao.
- Ánh Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha
biết chừng nào:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Đủ cho ta giật mình”
+ Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ
không thể phai mờ. Ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà
nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có
thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá
khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
+“Giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của
một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự
nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn
năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật
mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản
bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ
thiên nhiên.
=> Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời

nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong hoà bình,
hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức đấu
tranh cách mạng của biết bao người đi trước.
III. Kết luận:
Cách 1:
- Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn
Duy về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm
nghĩa tình của một thời đã qua.
- Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về
cách sống, cách làm người, cách sống ân nghĩa thuỷ chung ở
đời.
- Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy
được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà
chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
========================
TIẾT 23 - 24
MÙA XUÂN NHO NHỎ - THANH HẢI
2. Tác phẩm:
a. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: (tháng 11- 1980,
chỉ ít ngày sau, nhà thơ qua đời. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh
đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn và thử thách gay gắt.
(Năm 1980, TH đau nặng phải vào BV Huế điều trị khoa nội.
Tuy căn bệnh được các bác sĩ chẩn đoán là không thể qua được
nhưng TH luôn là người lạc quan yêu đời. Nằm ở tầng 4 của
bệnh viện, những lúc khoẻ, TH thường ra ngắm cảnh và làm
thơ…. Nhưng rồi vào một ngày cuối đông, trời Huế bỗng trở
lạnh và mưa lâm thâm…. Những người bạn của THải nhận được
tin như sét đánh: TH đã qua đời. Thương tiếc người bạn tài hoa
ra đi khi tuổi đời vừa bước sang 50, mọi người đến viếng và đưa

nhà thơ về nơi an nghỉ cuối cùng. Đang lúc làm lễ, thì vợ TH tìm
gặp nhạc sĩ Trần Hoàn và trao cho ông một bài thơ cuối cùng mà
THải đã sáng tác khi nằm viện vào tháng 11 năm 1980. Đó chính
là bài thơ: Một mùa xuân nho nhỏ bài thơ cuối cùng của THải.
Nỗi thương bạn và niềm cảm xúc trào dâng mãnh liệt, nhạc sĩ
Trần Hoàn đã phổ nhạc ngay bài thơ chỉ trong vòng không đầy
ba mươi phút và bài hát đó đã được vang lên ngay trong buổi lễ
tiễn đưa ấy.)
3. Gợi ý phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
a. Mùa xuân của thiên nhiên đất nước (khổ 1)
* Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức
tranh xuân rất đẹp, đầy sức sống và tràn ngập niềm vui rạo rực.
- Bức tranh ấy được chấm phá bằng rất ít chi tiết: một dòng sông
xanh, một bông hoa tím biếc, một tiếng chim chiền chiện. Những
nét chấm phá ấy đã vẽ ra được một không gian cao rộng, màu sắc
tươi thắm của mùa xuân và cả âm thanh vang vọng, tươi vui của
chim chiền chiện.
+Ngay hai câu mở đầu đã gặp một cách viết khác lạ. Không viết
như bình thường : một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông
xanh” mà đảo lại: “Mọc giữa dòng sông xanh. Một bông hoa tím
biếc”. Động từ “mọc” đặt ở đầu khổ thơ của bài thơ là một dụng
ý NT của tác giả => khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và
vươn lên của mùa xuân.Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ
từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh của dòng
sông xuân.
+ Tại sao màu nước sông lại xanh mà không là “dòng nước trong
mát” (bài “Vàm cỏ đông” của Hoài Vũ), hay không là “dòng
sông đỏ nặng phù sa” trong thơ Nguyễn Đình Thi – bài Đất
nước)? Có phải đấu là màu nước của Hương Giang, hay chính là
tín hiệu báo mùa xuân đang về? Mùa xuân trang trải êm trôi một

dòng xanh dịu mát. Màu xanh lam của dòng sông hương hoà
cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím giản dị, thuỷ chung,
mộng mơ và quyến rũ. Đó là mầu sắc đặc trưng của xứ Huế.
+ Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp nữa của mùa xuân:
“Ơi con chim chiền chiện. Hót chi mà vang trời”=>. nhạc điệu
của câu thơ như giai điệu của mùa xuân tươi vui và rạo rực. Các
từ than gọi “ơi, chi, mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của
người xứ Huế (thân thương, gần gũi) . Câu thơ cứ như câu nói tự
nhiên không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca.
Câu hỏi tu từ “hót chi” thể hiện tâm trạng đùa vui, ngỡ ngàng,
thích thú của tác giả trước giai điệu của mùa xuân.
- Quả thật, thiên nhiên nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng
trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm
lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài
hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm,
lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên
tưởng độc đáo: “Từng giọt long lanh rơi.
Tôi đưa tay tôi hứng”
Về hai câu thơ trên, có hai cách hiểu: từng giọt ở đây là
giọt mưa xuân long lanh trong ánh sáng của trời xuân; nhưng
cũng còn có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu trước: Tiếng
chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như kết thành
những giọt sương óng ánh sắc màu, rơi rơi, rơi mãi tưởng chừng
không dứt và nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh ấy. Như
vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm
thanh ( thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành một sự
vật có thể nhìn được bằng mắt ( thị giác) bởi nó có hình khối,
màu sắc rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp
xúc ( xúc giác).Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã
đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu hiện

niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ
đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng
thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc
đời.
b. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, cảm hứng thơ chuyển
sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước một cách tự nhiên.
-Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của
đất nước vất vả và gian lao đang đi lên phía trước. Hình ảnh
20
“người cầm súng, người ra đồng” biểu trưng cho hai nhiệm vụ
chiến đấu và lao động dựng xây lại quê hương sau những đau
thương mất mát. Ai cũng có nhiệm vụ của mình: người lính tiếp
tục bảo vệ quê hương, vòng là nguỵ trang của người chiến sĩ
đang nảy những chồi non, lộc biếc như mang theo cả mùa xuân
cùng các anh ra trận. Người nông dân ra đồng làm nên hạt lúa,
trên nương mạ, ruộng lúa của bác nông dân, mầm non, sức sống
thanh xuân đang đua nhau trỗi dậy, giục giã, thôi thúc lòng
người. Sức gợi cảm của câu thơ được thể hiện qua hình ảnh “lộc”
của mùa xuân gắn với người cầm súng, người ra đồng. “Lộc” là
chồi non, nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là
thành quả hạnh phúc. Câu thơ vừa tả thực, vừa tượng trưng cho
sức sống của mùa xuân đất nước, sức sống của mỗi con người.
- Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ
láy lại ở đầu câu.
- Sức sống của mùa xuân còn được cảm nhận trong nhịp điệu hối
hả, trong âm thanh xôn xao. Và đất nước được hình dung bằng
một hình ảnh so sánh đẹp: đất nước như vì sao. Cứ đi lên phía
trước”. Hình ảnh so sánh gợi liên tưởng đến vẻ đẹp, ánh sáng và
hi vọng. “Đất nước bốn nghìn năm”, hoá thành những vì sao đi
lên, bay lên, ngời sáng lung linh => Cảm xúc của nhà thơ đối với

đất nước: say mê, tự hào, tin tưởng con người và cuộc sống của
quê hương, đất nước khi vào xuân.
c. Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ
chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm
niệm của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
( Đoạn này, tác giả dùng phương thức biểu cảm trực tiếp. Nhân
vật “ta” trực tiếp bộc lộ tâm niệm của mình. )
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào
cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của
mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
- Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong
những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp.
Đẹp và tự nhiên vì nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của thiên
nhiên để nói lên ước nguyện của mình. Một con chim hót để cất
tiếng thơ ngợi ca đất nước, làm một nhành hoa để đem lại hương
thơm cho cuộc đời. Bao trùm tất cả, ông ước nguyện hoá thành
« một mùa xuân nho nhỏ », lặng lẽ, âm thầm dâng hiến toàn bộ
tâm hồn, trí tuệ, sức lực và cả sự sống của mình góp cùng mọi
người : « Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc bạc ».
- Những hình ảnh bông hoa, tiếng chim hót được tác giả phác
hoạ ở phần đầu bài thơ giờ đây lại trở lại trong khổ thơ này trong
giọng thơ êm ái, ngọt ngào. Cách cấu tứ lặp lại như vậy tạo ra sự
đối ứng chặt chẽ và mang một ý nghĩa mới: Niềm mong muốn
được sống có ích,cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên như con
chim mang đến tiếng hót, bông hoa toả hương sắc cho đời. Trong
bài “một khúc ca xuân” Tố Hữu cũng có những suy ngẫm tương
tự:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình?
=> Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự
nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ. Điệp từ “ta” như một lời
khẳng định. Và cái “ta” vốn chỉ để nói về mình bỗng như trở
thành cái “ta” chung của nhiều người, khát vọng của nhiều
người. Điệp ngữ “dù là” như một lời tự khẳng định, tự nhủ với
lương tâm -> sự kiên trì, thử thách với thời gian, tuổi già, bệnh
tật để mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn
của quê hương, đất nước. Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình nhưng
mang sức khái quát lớn.
= > Ước nguyện của nhà thơ cho ta hiểu mỗi người phải biết
sống, cống hiến cho cuộc đời.Thế nhưng dâng hiến, hoà nhập mà
vẫn giữ được nét riêng mỗi người
d. Kết thúc: Một điệu dân ca xứ Húê quen thuộc, ngọt ngào, êm
dịu., sử dụng ngôn ngữ giàu nhịp điệu, các vần bằng tha thiết, êm
ái.
Kết cấu đầu cuối tương ứng tạo ra sự đối ứng chặt chẽ, hài hoà
cân đối cho bài thơ đồng thời thể hiện rõ hơn mong muốn được
sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
- Kết thúc bài thơ là câu hát “Câu Nam ai, nam bình…” Nam Ai
nam Bình là những điệu ca Huế nổi tiếng
- Đó là ý nguyện của người tha thiết với vẻ đẹp của tâm hồn quê
hương đất nước mình.
B. Luyện tập :
2. Em hiểu ý nghĩa nhan đề bài thơ « Mùa xuân nho nhỏ »
như thế nào ? Từ đó nêu chủ đề của bài thơ.
Sự sáng tạo đặc sắc nhất của nhà thơ Thanh Hải trong bài
thơ là hình ảnh « mùa xuân nho nhỏ ». Người ta dùng nhiều
định ngữ gắn với mùa xuân như : mùa xuân chín, mùa xuân
xanh, xuân ý, xuân lòng nhưng « mùa xuân nho nhỏ » là một

phát hiện mới mẻ và sáng tạo độc đáo trong ý tưởng thơ và ngôn
ngữ của nhà thơ. Từ láy « nho nhỏ » vừa chỉ ra cái mùa xuân
riêng trong lòng nhà thơ trước mùa xuân lớn của cuộc đời vừa
gợi lên cái vẻ xinh xinh đáng yêu của nó. Hình ảnh ấy cùng với
những hình ảnh cành hoa, con chim, nốt nhạc trầm xao xuyến
tất cả đều mang một vẻ đẹp bình dị, khiêm nhường, thể hiện điều
tâm niệm chân thành, tha thiết của nhà thơ. Nhà thơ tự nguyện
làm một mùa xuân nghĩa là ông muốn sống đẹp, có ích, sống với
tất cả sức sống tươi trẻ của mình và mang đến cho cuộc đời
chung một nét riêng, cái phần tinh tuý của mình, dù nhỏ bé.
3. Trong phần đầu, tác giả dùng đại từ “Tôi”, sang phần sau,
tác giả lại dùng đại từ “Ta”. Em hiểu như thế nào về sự
chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ tình?
- Sự chuyển đổi đại từ nhân xưng đó không phải là sự ngẫu nhiên
vô tình mà là dụng ý nghệ thuật tạo nên hiệu quả sâu sắc
- Đó là sự chuyển từ cái “tôi” cá nhân nhỏ bé hoà vào cái “ta”
chung của cộng đồng, nhân dân, đất nước. Trong cái “Ta” chung
vẫn có cái “tôi” riêng, hạnh phúc là sự hoà hợp và cống hiến. Thể
hiện niềm tự hào, niêm vui chung của dân tộc trong thời đại mới
- Sự chuyển đổi diễn ra rất tự nhiên, hợp lí theo mạch cảm xúc
Bài tham khảo.
I – Mở bài:
Mùa xuân từ lâu đã là đề tài vô tận cho các thi sĩ. Nhưng
hiếm có bài thơ nào viết về mùa xuân lại hay và trong hoàn cảnh
đặc biệt như “mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, nhà thơ của xứ
Huế mộng mơ. Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm
1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh và chỉ mấy tuần lễ
sau khi hoàn thành bài thơ thì nhà thơ đã qua đời. Đây là một bài
thơ hay tiêu biểu cho hồn thơ Thanh Hải đã thể hiện được “tâm
nguyện thật thiết tha, cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất

nước, với cuộc đời.
II – Thân bài:
1. Mùa xuân của thiên nhiên.
Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên
một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, hiền hoà, đầy
sức sống của xứ Huế mộng mơ.
Mọc giữa dòng sông
xanh
…………
Tôi đưa tay tôi hứng
- Xứ Huế đã đi vào trong thi ca của không ít các thi nhân
như Hàn Mạc Tử, Tố Hữu… nhưng ở đây với bài thơ này ta vẫn
cảm nhận được phong vị rất riêng của Thanh Hải. Bức tranh
xuân ấy hiện lên rất ít chi tiết nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp hoàn
thiện với đầy đủ sắc màu, âm thanh và đường nét. Có một dòng
sông xanh hiền hoà, mênh mang làm nền cho sắc tím của bông
hoa, màu tím của xứ Huế thơ mộng, của nhớ nhung đã tạo nên
cảm giác mát dịu làm sao! Nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật
vẻ đẹp của bông hoa. Bông hoa ấy mọc từ giữa dòng sông như
tâm điểm của một bức tranh đầy ấn tượng. Bông hoa ấy như phát
sinh, khởi nguồn từ cái sức sống dồi dào, bất tận của dòng sông
xanh để không ngừng vươn lên bất tử. Bức tranh ấy càng sống
động hơn bởi âm thanh của tiếng chim chiền chiện quen thuộc
21
của quê hương miền trung. Tiếng chim ấy hót vang bên trời cao,
tiếng hót trong trẻo, ngân nga, rộn ràng có độ lan tỏa không dứt,
làm cho không khí của mùa xuân trở nên náo nức lạ thường.
- Hãy đọc lại khổ thơ đầu và lắng nghe trong đó: có phải
là nhạc và thơ đã hoà quyện vào từng chữ, từng dòng trong cả
khổ thơ, đem đến môt giai điệu mùa xuân vui tươi, rạo rực ? Nhà

thơ lặng ngắm, lắng nghe với vẻ say mê và tấm lòng tràn đầy
một cảm xúc thanh cao trong sáng. Bằng sự cảm nhận tinh tế của
một tâm hồn nghệ sĩ, nhà thơ đã tạo dựng được một hình ảnh
tuyệt đẹp, gợi ra sự liên tưởng phong phú cho người đọc về âm
thanh của tiếng chim. Âm thanh mượt mà, trong vắt của tiếng
chim thánh thót như chuỗi ngọc long lanh, đọng lại làm thành
từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm
vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Như vậy từ một hình tượng,
một sự vật được cảm nhận bằng âm thanh ( thính giác), tác giả
đã chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng
mắt ( thị giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm
nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc ( xúc giác). Sự chuyển
đổi cảm giác ấy là một sáng tạo nghệ thuật gợi cảm từ con mắt
nhìn rất thơ của thi sĩ. Hình ảnh đưa tay “hứng” xiết bao yêu
quý, nâng niu đã thể hiện được sự đồng cảm của tâm hồn nhà
thơ trước thiên nhiên và cuộc đời.
2.Trong mùa xuân lớn ấy, đất nước và con người cũng
mang vẻ đẹp của sức sống vô tận, rộn ràng bước vào một mùa
xuân mới:
Mùa xuân người cầm súng
……
Lộc trải dài nương mạ
- Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương
mạ. Hình ảnh dân tộc Việt Nam kết tụ lại ở “người cầm súng”
và “người ra đồng”. Đây là mùa xuân của con người đang lao
động và chiến đấu, của đất nước vất vả gian lao đang đi lên phía
trước. Câu thơ vừa tả thực vừa tượng trưng hàm chứa nhiều ý
nghĩa trong hình ảnh người lính và người nông dân với từ “lộc”
nhiều nghĩa. “Lộc” là chồi non, lá non, nhưng “lộc” còn có
nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Người

cầm súng giắt lộc để nguỵ trang như mang theo sức xuân vào
trận địa, người ra đồng như gieo mùa xuân trên từng nương mạ.
Những con người lao động chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân
ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Âm
hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại
ở đầu câu cùng với các tính từ “hối hả”, “xôn xao” làm tăng
thêm sức xuân phơi phới, mãnh liệt trong mỗi con người và
trong cả cộng đồng rộng lớn là dân tộc. Điều đó làm cho tác giả
nhớ đến niềm tự hào lớn lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
……
Cứ đi lên phía trước”
- Đất nước đang bước vào mùa xuân, từ thiên nhiên đến
con người đều hối hả và xôn xao. Mang tình sông núi, nhà thơ
Thanh Hải đã có một cái nhìn sâu sắc và tự hào về chiều dài lịch
sử bốn nghìn năm của đất nước.Đó là truyền thống anh hùng
trong đánh giặc, cần cù trong dựng xây, là truyền thống nhân ái,
là khát vọng hòa bình. Mỗi truyền thống ấy đều được xây đắp
nên từ mồ hôi, công sức, nước mắt và thậm chí cả xương máu
của biết bao thế hệ con người. Trong quá trình xây dựng và giữ
nước, đất nước ta còn đầy vất vả và gian lao nhưng đất nước
Việt Nam vẫn ngời sáng cứ tiến lên phía trước như một vì sao
sáng. Vần thơ so sánh và nhân hoá thể hiện một niềm tin sáng
ngời, ngợi ca đất nước tráng lệ, trường tồn. Ba tiếng “cứ đi lên”
đã thể hiện ý chí quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây
dựng đất nước giàu và mạnh.
- Đặt bài thơ vào những năm 80 khi nước ta còn đang phải
đương đầu với bao khó khăn, nền kinh tế còn rất thấp kém thì ta
càng trân trọng lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm tin của nhà
thơ Thanh Hải vào quê hương, đất nước.

3.Xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước,
nhà thơ muốn góp một mùa xuân nho nhỏ của mình để làm
nên một mùa xuân lớn, mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân
của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất
nước, cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé, của mình cho cuộc đời
chung, cho đất nước. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách
chân thành trong những hình ảnh tự nhiên giầu sức gợi tả, gây
xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Ước nguyện được làm
một tiếng chim, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương
muôn sắc, rộn rã tiếng chim, để đem lại hương sắc, tô điểm cho
mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ nguyện cầu được làm một
“nốt trầm xao xuyến” không ồn ào, không cao điệu mà chỉ âm
thầm, lặng lẽ để “nhập”vào khúc ca, tiếng hát của nhân dân vui
mừng đón xuân về. Được tô điểm cho mùa xuân, được góp phần
tạo dựng mùa xuân là tác giả đã nguyện hi sinh, nguyện cống
hiến cho sự phồn vinh của đất nước. Một ước mơ nho nhỏ, chân
tình, không cao siêu vĩ đại mà gần gũi quá, khiêm tốn và đáng
yêu quá ! Hình ảnh nhuần nhị, tự nhiên, chân thành, giọng thơ
nhè nhẹ, êm ái , ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp kết
hợp với cách cấu tứ lặp lại như vậy đã mang một ý nghĩa mới
nhấn mạnh thêm mong ước được sống có ích cho đời, cống hiến
cho đất nước như một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời
khẳng định, vừa như một tiếng lòng, như một lời tâm sự nhỏ
nhẹ, chân tình. Ước nguyện đó đã được đẩy lên cao thành một lẽ
sống cao đẹp, không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi

người, cho thời đại của chúng ta. Đó là lẽ sống cống hiến cho
đời lặng lẽ, khiếm tốn, không kể gì đến tuổi tác:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Thái độ ‘lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật
khiêm nhường nhưng hết sức bền bỉ và vô cùng đáng quý vì đó
là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao
trước ao wowcs của nhà thơ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời,
vẫn được làm một mùa xuân nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao ấy.
Điệp ngữ “dù là” ở đây như một lời tự khẳng định để nhủ với
lương tâm sẽ phải kiên trì, thử thách với thời gian tuổi già, bệnh
tật để mãi mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng
lớn của quê hương đất nước. Giọng thơ vẫn nhỏ nhẹ, chân tình
nhưng mang sức khái quát lớn. Chính vì vậy, hình ảnh “mùa
xuân nho nhỏ” ở cuối bài như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn
trong toàn bài thơ.
Những câu thơ cuối cùng mang đậm dấu ấn của những
làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Nó như tiếng tâm tình, thủ thỉ,
như tiếng lòng sâu lắng thiết tha, nồng đậm nghĩa tình:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam Ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm
Nhịp phách tiền đất Huế
Cùng với ý nguyện ấy, khúc Nam Ai, Nam Bình ở khổ thơ kết
nói lên niềm tin yêu tha thiết với quê hương, đất nước và cuộc
đời. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ , tình cảm đó càng
đáng trân trọng, càng cảm động biết bao !
III – Kết bài:

“Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ có tứ thơ độc đáo, cảm hứng
xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha thiết.
Đọc “mùa xuân nho nhỏ”, trái tim ta dường như xao xuyến, một
cảm xúc thanh cao, trong sáng từ từ dâng ngập hồn ta. Bài thơ
đem đến cho chúng ta bao cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi cho ta
suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn trong sáng
khiến ta cảm phục và tin yêu. Còn gì đẹp hơn mùa xuân ? Có
22
tình yêu nào rộng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước ? Thấm
nhuần tâm tư, ước nguyện của của nhà thơ, chúng ta càng thêm
tin yêu vào mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ”
trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót
lên khúc ca ngọt ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để hiến
dâng cho đất nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho
mùa xuân cuộc đời thêm đẹp.
TIẾT 25 – 26
VIẾNG LĂNG BÁC – VIỄN PHƯƠNG
A. Kiến thức cần nhớ:
a.Hoàn cảnh sáng tác
Bài “Viếng lăng Bác” được viết năm 1976, trong không khí xúc
động của nhân dân ta lúc công trình lăng chủ tịch Hồ Chí Minh
được hoàn thành sau khi giải phóng Miền Nam, đất nước thống
nhất, đồng bào miền Nam có thể thực hiện mong ước được viếng
lăng Bác. Tác giả cũng ở trong số những đồng bào, chiến sĩ từ
miền Nam sau khi giải phóng được ra viếng Bác
3. Gợi ý phân tích bài thơ:
1. Cảm xúc trước lăng Bác.
* Tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào miền Nam muốn
nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác.
- Câu thơ mở đầu bài thơ: “con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

chỉ gỏn gọn như một lời thông báo nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc
động của một người từ chiến trường miền Nam sau bao năm
mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác.
+ Cách dùng đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp
tình thân thương, diễn tả tâm trạng của người con ra thăm cha
sau bao nhiêu năm xa cách.
+ Cách nói giảm, nói tránh : từ “thăm” thay cho từ “viếng” ->
giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát -> Bác Hồ còn sống mãi trong
tâm tưởng của mọi người.
- HÌnh ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và là ấn tượng đậm nét
về cảnh quan bên lăng Bác là “hàng tre”. Hàng tre vừa mang tính
chất tả thực lại vừa tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc:
Hàng tre “bát ngát trong sương” là hình ảnh thực, hết sức thân
thuộc của làng quê đất nước Việt Nam – bên lăng Bác. Hàng tre
“xanh xanh Việt Nam. Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” là ẩn
dụ, là biểu tượng của dân tộc VN với vẻ đẹp thanh cao và sức
sống bền bỉ, kiên cường.
=> Hình ảnh ẩn dụ này đã gợi liên tưởng đến hình ảnh cả dân tộc
bên Bác đoàn kết, kiên cường thực hiện lí tưởng của Bác, của
dân tộc.
+ “Ôi!” là từ cảm, biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh
hàng tre.
* Sự tôn kính của tác giả khi đứng trước lăng Người.
Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh
thực và ẩn dụ sóng đôi:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng.
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
- Hình ảnh “mặt trời trên lăng” trong câu thơ trên là hình ảnh
thực: một mặt trời thiên nhiên rực rỡ vĩnh hằng ngày ngày đi qua
trên lăng. Hình ảnh “mặt trời trong lăng” ở câu thơ dưới là hình

ảnh ẩn dụ - hình ảnh Bác Hồ. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ
có hình ảnh đẹp, gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách
mạng, lòng yêu nước nồng nàn của Bác. Dùng hình ảnh ẩn dụ
“mặt trời trong lăng” để viết về Bác, Viễn Phương đã ca ngợi sự
vĩ đại của Bác, công lao của Bác đối với non sông đất nước, đồng
thời thể hiện được sự tôn kính, lòng biết ơn của nhân dân với
Bác, niềm tin Bác sống mãi với non sông đất nước ta.
- Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực:
ngày ngày dòng người đi trong nỗi xúc động, bồi hồi, trong lòng
tiếc thương kính cẩn, trong lòng nặng trĩu nỗi nhớ thương. Nhịp
thơ chậm, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào lăng
viếng Bác. Dòng người vào lăng viếng Bác kết thành những
tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng
người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng
hoa vô tận, mà còn là một ẩn dụ đẹp, sáng tạo của nhà thơ: cuộc
đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa
tươi thắm đó đang đến dâng Người những gì tốt đẹp nhất. Dâng
“bẩy mươi chín mùa xuân”: hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa
tượng trưng: con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một
cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân
cho đất nước, cho con người.
2. Cảm xúc trong lăng. Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang
niềm xúc động nghẹn ngào, khổ thứ ba đã diễn tả cảm xúc và suy
nghĩ của tác giả khi vào trong lăng viếng Bác.
- Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian
và không gian ở bên trong lăng Bác đã được nhà thơ gợi tả rất
đạt bằng hai câu thơ giản dị:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên.
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”.
- Câu thơ diễn tả chính xác và tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm

và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo của không gian trong lăng Bác.
Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng
dịu hiền. Đó là giấc ngủ thanh bình và vĩnh hằng của một con
người cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho cuộc sống bình yên
của nhân dân, đất nước.
- Nếu như trước đó Hải Như muốn được “canh giấc ngủ của
Người” thì giờ đây, Viễn Phương lại để cho vầng trăng ôm ấp,
toả sáng giấc ngủ của Người. Bởi có lẽ hình ảnh vầng trăng dịu
hiền gợi giấc ngủ ban đêm bởi nhà thơ không muốn cảm nhận
một giấc ngủ vĩnh viễn giữa ban ngày. Hơn nữa sinh thời Bác rất
yêu trăng, trăng như một người bạn tri âm, tri kỉ, chả thế mà
những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng, trăng đã từng vào thơ
Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để dỗ
giấc ngủ ngàn thu cho Người.
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình
ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Bác ra đi
nhưng hoá thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi
trong sự nghiệp và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn
trên cao.(Tố Hữu đã từng viết: Bác sống như trời đất của ta”).
- Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi
của Người. Nỗi đau xót đã được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực
tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Nỗi đau quặn thắt, tê tái
trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim
thổn thức khi đứng trước thi thể của Người. Đó là sự rung cảm
chân thành của nhà thơ.
3.Cảm xúc khi rời lăng: (khổ 4): Khép lại nỗi đau mất mát ấy là
những giọt nước mắt luyến tiếc, bịn rịn, không muốn rời xa Bác.
Khổ thơ thứ tư đã diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn
được ở mãi bên lăng Bác.
- Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời

giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình thương sâu lắng. Từ “trào”
diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa
nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ
cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ
trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người
ấm áp quá, rộng lớn quá.
- Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước
chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác.
+ Muốn làm chim hót => âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong
lành
+ Muốn làm đoá hoa => toả hương thơm thanh cao nơi Bác yên
nghỉ
+ Muốn làm cây trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho
Người.
- Điệp từ “muốn làm” + biểu cảm trực tiếp và gián tiếp => tâm
trạng lưu luyến, ước muốn, sự tự nguyện chân thành của tác giả.
- Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được khép lại bài thơ
với một nét nghĩa bổ sung: cây tre trung hiếu. Sự lặp lại như thế
đã tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng làm đậm nét
hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
23
B. Luyện tập:
Câu 3 : Mở đầu bài “VLB”, Viễn Phương viết 3 câu đầu khổ 1:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Ôi! Hàng tre, xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
và cuối bài, nhà thơ bày tỏ nguyện ước: “Muốn làm cây tre trung
hiếu chốn này”.
Theo em hình ảnh nào là hình ảnh ẩn dụ. Em cảm nhận được từ
các hình ảnh ẩn dụ đó có ý nghĩa sâu xa như thế nào về tình cảm

thiêng liêng cao đẹp của nhân dân với Bác Hồ kính yêu. Viết một
đoạn văn làm rõ điều đó và trong đoạn có sử dụng 1 câu có thành
phần phụ chú (gạch chân chỉ rõ)
Gợi ý:
- Phân tích hình ảnh ẩn dụ: “ôi hàng tre xanh xanh VN. Bão táp
mưa sa đứng thẳng hàng”.
- Cây tre là biểu tượng của dân tộc VN.
+ Xanh xanh: thể hiện sức sống dẻo dai, bền bỉ. Câu thơ thể hiện
h ình ảnh quê hương, đất nước VN. HÌnh ảnh những con người
quây quần, bảo vệ cho giấc ngủ của Người.
- Muốn làm cây tre trung h iếu chốn này: Hình ảnh ẩn dụ “cây tre
trung hiếu” là tình cảm của VP cũng như của nhân dân Miền
Nam tha thiết muốn ở mãi bên người.
Hình ảnh giản dị chính là nỗi xúc động của toàn thể nhân dân
miền nam trung hiếu: trung với Đảng, hiếu với dân. Đó vừa là
một lời ước nguyện, vừa là một lời hứa thiêng liêng: DT VN mãi
mãi trung thành với con đường CM mà Bác đã đặt ra.
Viết đoạn : Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác là một hình ảnh rất
đẹp và độc đáo. Trước hết hàng tre gợi nhớ xóm làng thân thuộc
với luỹ tre xanh bao bọc ở mỗi làng quê Việt Nam. Mặt khác, cây
tre từng được coi là biểu tượng của con người Việt Nam với các
đức tính cần cù, nhũn nhặn, hiên ngang, bền bỉ, đoàn kết. Hàng
tre xanh xanh, màu xanh tượng trưng cho sức sống của Việt
Nam. Cây tre được nhân hoá như những con người, như những
người chiến sĩ đứng thẳng hàng vừa làm hàng rào danh dự, vừa
canh giữ cho giấc ngủ bình yên mãi mãi của Người. Mặc cho bão
táp, mưa sa, cây tre vẫn đứng thẳng hàng. Đến khổ thơ cuối, cây
tre trở thành cây tre trung hiếu, thể hiện tấm lòng mãi mãi trung
thành với sự nghiệp, với tư tưởng của Bác.
Câu 4: Yếu tố nào làm nên thành công của bài thơ « Viếng

lăng Bác » ?
Trước hết bài thơ thành công là do cảm xúc chân thành, sâu sắc
của tác giả. Những người con miền Nam không có mặt trong
ngày Bác mất (1969), mãi bảy năm sau mới có dịp ra viếng Bác.
Nguyên một điều đó thôi cũng làm cho tác giả xúc động mạnh
mẽ. Khi vào lăng viếng Bác, lại thấy lăng Bác với « hàng tre
trong sương bát ngát » thân thuộc như mọi làng quê Việt Nam.
Tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác, tình cảm của cả
nước đối với Bác, Người đã làm cho đất nước, cho dân tộc vẻ
vang. Chính tình cảm đó cộng với những xúc động của nhà thơ là
yếu tố cộng hưởng, làm cho bài thơ thành công. Mặt khác, những
hình ảnh bình dị giàu tính tượng trưng ; lời thơ giản dị, chân
thành làm cho bài thơ dễ đi vào lòng người.
Câu 5 : Trong bài thơ « Viếng lăng Bác », VP viết : « kết tràng
hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ».
Dựa trên hiện tượng chuyển nghĩa của từ, từ « mùa xuân » có
thể thay thế cho từ nào ? Theo phưong thức chuyển nghĩa nào ?
Việc thay thế từ trên có tác dụng diễn đạt như thế nào ?
Gợi ý : Mỗi một năm xuân đến, con người lại thêm một tuổi.
Cho nên « 79 mùa xuân » cũng được hiểu là 79 tuổi, 79 năm
trong một đời người. Nếu để từ « tuổi » thì chỉ nói được BH đã
sống 79 năm, thọ 79 tuổi, câu thơ chỉ thuần tuý chỉ tuổi tác. Còn
dùng từ « Xuân » có nghĩa là : cả cuộc đời Bác là 79 năm cống
hiến cho nhân dân, 79 năm dành cho đất nước để đất nước có sắc
xuân. Thêm nữa, kết « tràng hoa dâng 79 mùa xuân » gợi thêm
sắc xuân bên lăng Bác. VÀ từ « mùa xuân » như làm cho xúc
cảm của câu thơ, âm điệu câu thơ thêm mượt mà, sâu lắng, thiết
tha. Câu thơ hay, ý thơ trở nên đa nghĩa và sâu sắc hơn nhiều. ư
Câu 7: Hãy phân tích ý nghĩa của hình ảnh ẩn dụ “mặt trời
trong lăng” ở câu thơ:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng.
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Chép hai câu thơ có hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong một bài thơ mà
em đã học (ghi rõ tên và tác giả bài thơ)
Gợi ý:
- Hai câu thơ sóng đôi hình ảnh thực và ẩn dụ “mặt trời”. Điều đó
khiến ẩn dụ “mặt trời trong lăng” nổi bật ý nghĩa sâu sắc.
- Dùng hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” để viết về Bác, VP
đã ca ngợi sự vĩ đại của Bác, công lao của Bác đối với non sông
đất nước.
- Đồng thời, hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” cũng thể hiện
sự tôn kính, lòng biết ơn của nhân dân với Bác, niềm tin Bác
sống mãi với non sông đất nước ta.
- Hai câu thơ có hình ảnh ẩn dụ mặt trời:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi.
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng (Khúc hát ru những em bé lớn
trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm)
Câu 8: Viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của em khi
đọc khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
(Tham khảo phần phân tích)
====================
PHÂN TÍCH BÀI THƠ : “VIẾNG LĂNG BÁC”
A. MỞ BÀI:
- “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ
hay viết về Bác sau ngày Bác Hồ “đi xa”.
- Bài thơ được viết trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc
công trình lăng Bác được hoàn thành sau khi miền Nam được
giải phóng, đất nước được thống nhất, đồng bào miền Nam có
thể thực hiện mong ước được viếng lăng Bác.
- Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô

hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu
cảm xúc sâu lắng.
B. THÂN BÀI: (tham khảo bài phân tích trên)
C. Kết luận:
- “Viếng lăng Bác” là một bài thơ đẹp về hình ảnh thơ, hay về
cảm xúc… gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc.
- Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách
sáng tạo, tác giả thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất
giản dị, chân thành đối với Bác.
- Xin nguyện như Viễn Phương, sống một cuộc đời đẹp để trở
thành những bông hoa đẹp dâng lên Bác.
Đề 2: Hãy làm rõ những tình cảm chân thành và tha thiết của
nhân dân ta với Bác Hồ được thể hiện qua bài thơ : “Viếng
Lăng Bác” của Viễn Phương.
I – Mở bài :
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân
tộc Việt Nam suốt bao thập kỷ qua. Người là hiện thân cho
những gì cao đẹp nhất của dân tộc. Lăng Bác là nơi lưu giữ
những hình ảnh thân thương về Người. Nhiều người đã làm thơ
về Bác và lăng Bác. Trong đó “Viếng lăng Bác”của nhà thơ Viễn
Phương là một trong những bài thơ viết về lãnh tụ hay nhất. Bài
thơ được viết trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công
trình lăng Bác được hoàn thành sau khi Miền Nam được giải
phóng, đất nước được thống nhất, đồng bào miền Nam có thể
thực hiện mong ước được viếng lăng Bác. Nhà thơ Viễn Phương
cũng ở trong số đồng bào, chiến sĩ từ miền Nam ra viếng Bác.
Trong niềm xúc động thiêng liêng, thành kính pha lẫn nỗi xót
đau, nhà thơ đã viết bài thơ này. Bài thơ đã thể hiện được những
tình cảm chân thành và tha thiết của nhân dân ta với Bác Hồ kính
yêu.

II – Thân bài
Khổ 1 : Cảm xúc của tác giả khi đến thăm lăng Bác
24
- Khi đến thăm lăng Bác, tác giả chứa chan cảm xúc. Mạch cảm
xúc ấy được mở đầu bằng lời thơ tự sự :
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
- Câu thơ thật giản dị thân quen với cách dùng đại từ xưng hô
“con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân thương. Ta cảm
tưởng giọng thơ tác giả run run khi thốt lên từ “con” gần gũi mà
thân thương biết mấy. Tâm trạng của Viễn Phương bây giờ là
tâm trạng của người con ra thăm cha sau bao năm xa cách, mong
mỏi như Tố Hữu đã từng viết : “Miền Nam mong Bác nỗi mong
cha”. Song ước nguyện ấy không thành vì người cha ấy mãi mãi
không còn nữa. Câu thơ giản dị, chân thành và xúc động biết
bao! Dòng cảm xúc như vỡ òa, chan chứa sau bao tháng năm
kìm nén.
- Tác giả sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” mong sao giảm
nhẹ được nỗi đau thương, mất mát ấy để ta thấy rằng trong tiềm
thức của tác giả, Bác Hồ vẫn còn sống mãi. Nhưng dường như sự
thật Bác đã đi xa là nỗi đau quá đỗi lớn lao khiến Viễn Phương
không khỏi xót xa, xúc động.
- Từ tâm trạng ấy, tác giả nhìn ra xa : “Đã thấy trong sương hàng
tre bát ngát”. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao
năm in vào tâm hồn mỗi người dân Việt Nam : hình ảnh hàng tre.
Gặp lại hàng tre ấy, nhà thơ có cảm giác thân thuộc như được trở
về quê hương, trở về cội nguồn. Hàng tre ấy như tỏa bóng mát
rười rượi trên con đườn dẫn vào lăng Bác và như bao bọc ôm lấy
bóng hình của Người – vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.
Như vậy hàng tre cũng là biểu tượng cho đất nước, quê hương và
tất cả như hội tụ lại đây để canh cho giấc ngủ của Người

-Bởi vậy tác giả bật lên câu cảm thán : Ôi hàng tre xanh xanh
Việt Nam!”
- “Ôi!” Thể hiện sự xúc động của nhà thơ trước hình ảnh cây tre.
Cây tre bình dị, mộc mạc, chân quê mà bên trong như tiềm tàng
một sức sống dai dẳng : “Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”. Phải
chăng đó cũng là sức sống của dân tộc Việt Nam ? Sức sống ấy
cũng dồi dào như màu xanh của sự kiên cường, bất khuất, không
lùi bước trước kẻ thù.
- Thật tài tình khi tác giả sử dụng hình ảnh “hàng tre” vừa mang
ý tả thực lại vừa mang ý ẩn dụ. Cây tre tuy gầy guộc song vẫn
hiên ngang. Đó cũng chính là dân tộc Việt Nam tuy nhỏ bé
nhưng rất kiên cường, sắt son.
=>Đến thăm lăng Bác, gặp lại hình ảnh hàng tre, tác giả vô cùng
xúc động. Đó là sự tiếc thương bùi ngùi khi được gặp Bác song
Bác đã đi xa. Song đó không chỉ là tình cảm riêng của tác giả mà
còn của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác.
2. Sự tôn kính của tác giả đối với Bác khi đứng trước lăng
Người.
-Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh
thực và ẩn dụ sóng đôi :
“Ngày ngày mặt trời
đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời
trong lăng rất đỏ”
- Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh mặt trời thực,
mặt trời tự nhiên đem lại nguồn sáng cho thế gian. Mặt trời ấy là
sức sống của muôn vàn cỏ cây hoa lá.
- “Mặt trời trong lăng” là mặt trời ẩn dụ, chỉ Bác Hồ kính yêu.
Tác giả nhấn mạnh “mặt trời rất đỏ’ làm ta nhớ đến một trái tim
nhiệt huyết chân thành vì nước vì dân. Ví Bác như “mặt trời”,

nhà thơ muốn nói Bác như là người soi sáng cho dân tộc Việt
Nam trên bước đường chién đấu, đưa cả dân tộc thoát khỏi bóng
tối nô lệ đến với cuộc sống tự do, hạnh phúc. Mỗi hành mặt trời
tự nhiên vẫn hành trình trên quỹ đạo cũng như mặt trời trong
lăng lúc nào cũng tỏa sáng. Bác tuy đã ra đi nhưng mãi thuộc về
vĩnh cửu đối với hàng triệu con người Việt Nam.
=>Thông qua hình ảnh ẩn dụ “mặt trời”, nhà thơ đã nêu lên sự vĩ
đại của Bác, đồng thời thể hiện niềm tôn kính, lòng biết ơn vô
hạn của nhân dân ta với Bác.
- Nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh nữa về Bác : Ngày ngày
dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng
hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
- Thời gian cứ trôi ngày tiếp ngày nhưng dòng người vẫn nối
nhau vào lăng viếng Bác. Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm như
bước chân dòng người vào viếng Bác. Nhưng “dòng người đi
trong thương nhớ” là đi trong nỗi xúc động bồi hồi, trong lòng
tiếc thương kính cẩn.
- Và đến đây, cảm xúc thăng hoa : hình ảnh dòng người thành
một tràng hoa trước lăng. Mỗi con người vào viếng lăng giống
như một bông hoa đẹp, dâng lên Bác cả tấm lòng, cả cuộc đời,
niềm thương nỗi nhớ. Điệp từ “ngày ngày” nhẫn mạnh trang hoa
dâng lên Bác là bất tận. Chỉ một từ “thương” thôi mà gửu gắm cả
tấm lòng dân tộc Việt Nam đối với Bác. Quả là cách diễn đạt mới
lạ, thích hợp. Và tràng hoa ấy dâng lên “bảy mươi chín mùa
xuân” – một hình ảnh hoán dụ thật hay. Con người bảy mươi
chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa
xuân và làm ra mùa xuân cho đất nước, cho mỗi chúng ta. Cuộc
đời chúng ta nở hoa dưới ánh sáng của Bác.
=>Hình ảnh “tràng hoa” một lần nữa tô đậm thêm sự tôn kính,

biết ơn tự hào của tác giả cũng như của dân tộc VN đối với Bác.
- Khổ 3 : Đến đây niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm
xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác :
“ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng
dịu hiền”
Bác nằm đó thanh thản như đang trong giấc ngủ giữa ánh sáng
dịu hiền của vầng trăng. Sau chặng đường bảy mươi chín mùa
xuân cống hiến không ngừng nghỉ, dành trọn cuộc đời cho dân
cho nước, Bác chưa có một đêm nào ngon giấc : “Cả cuộc đời
Bác có ngủ ngon đâu!”( Hải Như)
Giờ đây, Miền Nam được giải phóng, đất nước được giải phóng,
Bác có thể yên lòng và thanh thản nghỉ ngơi. Từ ánh sáng của
màu xanh mát dịu trong lăng, nhà thơ liên tưởng tới vầng trăng
sáng dịu hiền ru giấc ngủ cho Bác.
+ Hình ảnh “vầng trăng” được nhà thơ dùng thật thích hợp khi
nói đến Bác. Hình ảnh “vầng trăng” gợi giấc ngủ ban đêm bởi
một mặt Viễn Phương không muốn cảm nhận một giấc ngủ vĩnh
viễn giữa ban ngày. Mặt khác tác giả muốn đưa vầng trăng vào
nâng niu, ôm ấp, tỏa sáng cho giấc ngủ của Bác vì sinh thời
Người rất yêu trăng, coi trăng như người bạn tri âm tri kỉ gắn bó
thắm thiết của Người.
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ lại được biểu biện bằng một
hình ảnh thơ ẩn dụ diễn tả sự mất mát và nỗi nhớ thương một
cách độc đáo :Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác ra đi nhưng đã hóa thân vào thiên nhiên, đất trời của dân tộc,
như Tố Hữu đã từng viết : “Bác sống như trời đất của ta”. Trong
cuộc sống yên bình hôm nay, đâu đâu ta cũng như thấy một phần
công lao của Bác. Bác sẽ còn mãi với non sông đất nước. Dù lý

trí mách bảo nhà thơ là Bác còn sống mãi nhưng trái tim nhả thơ
vẫn mách rằng Bác đã mãi ra đi. Bởi vậy nhà thơ không sao ngăn
được nỗi đau : “Nghe nhói ở trong tim”. Đó là nỗ đau xót, tê tái,
quặn thắt đến cực độ ! Một sự mất mát không gì có thể bù đắp
được ! Câu thơ tựa như một tiếng nấc nghẹn ngào ! Đây cũng là
tâm trạng và cảm xúc của những người đã từng vào lăng viếng
Bác.
3.Khổ 4 : Khép lại nỗi đau mất mát ấy là những giọt nước mắt
luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa Bác
Mai về miền Nam
thương trào nước mắt
Muốn làm con chim
hót quanh lăng Bác
Muốn làm bông hoa
tỏa hương đâu đây
25

×