Tải bản đầy đủ (.doc) (193 trang)

Tài liệu ôn Học sinh giỏi Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 193 trang )

Tiết 1 - 2
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
-Nguyễn Dữ-
A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI, giai đoạn chế độ xã hội phong kiến đang từ đỉnh cao
của sự phát triển, bắt đầu rơi vào tình trạng suy yếu.
- Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi về ở ẩn, giữ cách sống thanh cao đến trọn đời, dù
vậy qua tác phẩm, ông vẫn tỏ ra quan tâm đến xã hội và con người.
2. Tác phẩm:
Vị trí đoạn trích: "Chuyện người con gái Nam Xương" là truyện thứ 16 trong số 20
truyện của Truyền kỳ mạn lục.
a. Nội dung:
- Chuyện kể về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương.
- Chuyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt
Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
b. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật dựng truyện.
- Miêu tả nhận vật.
- Sử dụng yếu tố tự sự kết hợp với trữ tình.
c. Chủ đề.
- Số phận oan nghiệt của người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh dưới chế độ phong kiến.
B. CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 1:
Ý nghĩa của các yếu tố kỳ ảo trong "Chuyện người con gái Nam Xương".
Gợi ý:
a. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích.
b. Thân đoạn:
- Các yếu tố kỳ ảo trong truyện:


+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
+ Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp, gặp lại Vũ
Nương, được xứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
+ Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền
ảo rồi lại biến đi mất.
- Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo.
+ Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương: Nặng tình, nặng
nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
+ Thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở đời của nhân dân ta.
c. Kết đoạn:
- Khẳng định ý nghĩa của yếu tố kỳ ảo đối với truyện.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
Đề 1 : Cảm nhận của em về văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương" của
Nguyễn Dữ.
*Gợi ý
a. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Nêu giá trị nhân đạo, hiện thực và nghệ thuật đặc sắc của truyện.
b. Thân bài:
1. Giá trị hiện thực:
- Tố cáo xã hội phong kiến bất công, thối nát
+ Chàng Trương đang sống bên gia đình hạnh phúc phải đi lính.
+ Mẹ già nhớ thương, sầu não, lâm bệnh qua đời.
+ Người vợ phải gánh vác công việc gia đình.
- Người phụ nữ là nạn nhân của lễ giáo phong kiến bất công.
+ Vũ Thị Thiết là một người thuỷ chung, yêu thương chồng con, có hiếu với
mẹ
+ Trương Sinh là người đa nghi, hồ đồ, độc đoán -> đẩy Vũ Nương đến cái chết
thảm thương.

+ Hiểu ra sự thật Trương Sinh ân hận thì đã muộn.
2. Giá trị nhân đạo
- Đề cao, ca ngợi phẩm hạnh cao quý của người phụ nữ qua hình ảnh Vũ Nương.
+ Đảm đang: Thay chồng gánh vác việc nhà
+ Hiếu thảo, tôn kính mẹ chồng
+ Chung thuỷ: Một lòng, một dạ chờ chồng
3. Giá trị nghệ thuật:
- Ngôn ngữ, nhân vật.
- Kịch tính trong truyện bất ngờ.
- Yếu tố hoang đường kỳ ảo.
c. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung của truyện.
- Truyện là bài học nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc gia đình.
C. BÀI TẬP:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn (8 đến 10 dòng) tóm tắt lại "Chuyện người con gái Nam
Xương" của Nguyễn Dữ.
* Gợi ý:
- Vũ Nương là người con gái thuỳ mị, nết na. Chàng Trương là con gia đình hào phú vì
cảm mến đã cưới nàng làm vợ. Cuộc sống gia đình đang xum họp đầm ấm, xảy ra binh đao,
Trương Sinh phải đăng lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già, nuôi con. Khi Trương Sinh về thì
con đã biết nói, đứa trẻ ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm đến với mẹ nó. Chàng
nổi máu ghen, mắng nhiệc vợ thậm tệ, rồi đánh đuổi đi, khiến nàng phẫn uất, chạy ra bến Hoàng
Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ, Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho nàng.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
Đề 1: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái
Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
* Gợi ý:
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Vẻ đẹp, đức hạnh và số phận của Vũ Nương.
b. Thân bài:
- Vũ Nương là người phụ nữ đẹp.
- Phẩm hạnh của Vũ Nương:
+ Thuỷ chung, yêu thương chồng (khi xa chồng )
+ Mẹ hiền (một mình nuôi con nhỏ )
+ Dâu thảo (tận tình chăm sóc mẹ già lúc yếu đau, lo thuốc thang )
- Những nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương.
+ Cuộc hôn nhân bất bình đẳng.
+ Tính cách và cách cư sử hồ đồ, độc đoán của Trương Sinh.
+ Tình huống bất ngờ (lời của đứa trẻ thơ )
- Kết cục của bi kịch là cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
- Ý nghĩa của bi kịch: Tố cáo xã hội phong kiến.
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm.
b. Kết bài:
- Khẳng định lại phẩm chất, vẻ đẹp của Vũ Nương.
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Hướng dẫn phân tích đề
1. Phân tích nhân vật Vũ nương:
Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng nước ta vào thế kỉ XVI, quê ông ở Hải
Dương. Ông đã từng thi đỗ và ra làm quan nhưng do chán ghét chế độ phong kiến
suy tàn nên ông đã làm quan được 1năm rồi lui về ở ẩn vui thú điền viên. Trong
thời gian này ông đã sáng tác tập truyện “truyền kì mạn lục” được đánh giá là “
thiên cổ kì bút”. Các tác phẩm tong truyện chủ yếu viết về người con gái, phụ nữ
có hẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều tai ương bất hạnh. Qua đó tác phẩm nói
lên phẩm chất tốt đẹp của họ , đồng thời phê phán chế độ phong kiến mục nát suy
tàn. Và “ chuyện người con gái Nam Xương” là 1 tác phẩm như thế.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là 1 câu truyện bi thảm viết về Vũ nươg
- 1 người con gái đẹp cả người lẫn nết bị oan ức đến phũ phàng đến nỗi phải tìm
đến cái chết để chứng oan.

Câu chuyện vừa gợi lòng vị tha, vừa ca ngợi , vùa tiếc thương cho số phận 1
người phụ nữ bất hạnh. Và đó cũng cũng là tấn bi kịch trong gia đình phụ quyền
dưới chế độ xã hội cũ. Nguyên cớ của tấn bi kịch được nảy sinh trong tính cách
phẩm nết của Vũ Nương với chồng là Trương Sinh.
Mở đầu chuyện, Nguyễn Dữ đã giới thiệu về nàng là 1 người phụ nữ đạt đến hoàn
mĩ đỉnh điểm bằng những lời bút đầy trìu mến. chỉ bằng nét hác hoạ “ tính đã thuỳ
mị nết na lại thêm tư dung tôt đẹp”. có thể thấy 1 người con gái đẹp đến điểm đỉnh
như thế khó có thể ngôn từ nào miêu tả hết vẻ đẹp đó được. đó là vẻ đẹp của 1 cô
gái quê , 1 bông hoa trong vườn biếc, 1 con bướm giữa bầy . chắc chắn với vẻ đẹp
hoàn mĩ ấy không ai có thể bỏ qua sự yêu mến của mình với Vũ Nương. Trong số
ấy có Trương Sinh- người cùng làng với VN. Vì mến dung hạnh của nàng,TS đã
xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ.
Khi VN về làm vợ TS , nàng luôn tỏ ra là người vợ đảm đang,thuỳ mị đến
mức hoàn hảo. Mặc dù TS có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức nhưng “
nàng luôn giữ gìn khuôn phép không để đến lúc nào vợ chồng cũng phải xảy đến
thất hoà’. Hỏi để có được hoà khí ấy thì VN đã phải cư xử khéo đến mức nào.
Đến lúc TS vắng nhà VN một mình nuôi mẹ già, chăm sóc con thơ, làm nhiệm vụ
người con dâu, người mẹ hết sức chu đáo, hoàn hảo. khi mẹ chồng ốm “nàng hết
sức chạy chữa thuốc thang, lễ bái thần phật,lấy lời ngọt ngào khôn khéo để khuyên
lơn”. Đến khi mẹ chồng mất nàng hết lòng thương sót, một mình lo liệu ma chay
chu đáo hư với mẹ đẻ mình. Xưa nay người con gái đi lấy chồng mấy ai được thảo
lảo như VN. Còn với con thơ , sau khi TS đi lính được đầu tuần nàng sinh được 1
cậu con trai , đặt tên là Đản,ngày ngày nàng hết sức chăm sóc, yêu thương con ,
bởi lẽ đứa con là niềm hạnh phúc duy nhất trong những ngày chồng vắng nhà. Với
người chồng nàng dành tình cảm thật sâu nặng vì cả đời nàng chỉ có 1 thú vui duy
nhất là “nghi gia nghi thất’, chứ không giám được đeo ấn phong hầu,mặc áo gấm
trở về quê cũ,chỉ xin ngày về hai chữ bình yên”. Cho nên lòng nàng thấm đẫm lòn
thương nhớ “ mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn ,mây che kín núi thì nỗi buồn
chân trời góc bể không thể nào ngăn được”. và để phần nào nguôi nỗi nhớ chồng ,
nàng lấy việc chơi với con làm khuây: đêm đêm nàng dưới ngọn đèn dầu nàng trỏ

bóng mình trên vách là cha Đản để cho con đỡ thiếu thốn tình cảm của cha và
cũng để khoả lấp nỗi cô đơn trong lòng, bởi tình cảm vợ chồng khăng khít gắn bó
như hình với bóng.
Rõ ràng ở VN ta thấy xuất hiện hình ảnh của ba con người: nàng dâu hiếu
thảo, người vợ thuỷ chung, người mẹ hiền đôn hậu. đó là hình ảnh lí tưởng của
người phụ nữ trong xã hội xưa.
Thông thường người mẹ chồng không mấy ai dễ hoà thuận với con dâu,
nhưng ở VN, những lời ca đẹp nhất về mình lại xuất phát từ người mẹ chồng; “
chồng con ở nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không thể đền ơn con được. Su
này trời xét lòng lành , ban cho phúc đức giống dòng tốt tươi con cháu đông đàn
xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”. lời nói của người mẹ
chồng đã phần nào khẳng định thêm phẩm chất hoàn hảo của VN.
Người phụ nữ - người đã mong mỏi thú vui nghi gia nghi thất- đã chịu đựng tất cả,
làm mọi việc từ lớn đến nhỏ vì hạnh phúc gia đình đáng nhẽ phải được sống 1 cuộc
sống hạnh phúc chan hoà nhưng thật trớ trêu ngày đoàn tụ gia đình lại là ngày nàng
phải rời xa tổ ấm. từ chiến trường trở về ,nghe theo lời con thơ cộng với thói ghen
tuông mù quáng, vớ vẩn vốn có TS đã cho vợ là thất tiết. mặc cho nàng dãi bày
biện bạch, hàngxóm khuyên ngăn, TS cũng không nghe. Có hỏi nguyên do vì đâu
thì TS cũng không nói. Vậy là TS đã không cho VN một cơ hội giải oan biện bạch
mà chỉ đánh nhiếc mắng mỏi duổi di. Bao nhiêu chờ đợi vọng hi nay đã tan biens,
niềm vui thứ nghi gia nghi thất ấy còn đâu. Mà nay chỉ còn “ liễu rủ bãi hoang ,
sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, ngay cả nỗi đau khổ hoá đá chờ chồng VN
cũng không đựơc. Chỉ một đoạn văn ngắn mà tác giả đã khắc hoạ, đã vẽ lên bao
nhiêu hình ảnh thảm thương, chết chóc, xa lìa: bình rơi trâm gãy, hoa rụng cuống,
én lìa đan. Nhà văn đã mượn hình ảnh của thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng của con
người theo phong cách ước lệ của văn chương trung đại. ngôn từ, nhịp điệu caur2
câu văn ấy ngân nga tượng hình, biểu cảm làng rung động lòng người.
Bị chồng ruồng rẫy, nghi cho nỗi mất nết hư thân,VN đau đớn hiểu rằng
hạnh phúc đời người, hạnh phúc gia đình nàng chỉ thế mà thôi không thể hàn gắn
được nữa. thất vọng tột cùng, nhưng nàng vẫnđể lại hình hài đẹp cho mình để tâm

sự với trời, để thần sông chứng giám cho trinh tiết thanh bạch của nàng. Lời thân
vãn trước đó phải chăng đó là 1 lời nguyền. VN đã nêu lên 2 giả định về kiếp sau
của mình bằng nhữn hình ảnh đối lập nhau: “ Ngọc Mị Nương,cỏ Ngu Mĩ” và “làm
mồi cho cá tôm, làm cơm cho diều quạ”. Nói như vậy thức chất nàng muốn khẳng
định lại phẩm chất đoan chính của mình. Nói đến đây nàng gieo mình xuống sông
tự tử. cái chết của nàng đã phần nào phê phán người chồng cacr ghen, phần nào
phê phán chiến trnah phong kiến, bởi lẽ nếu không có chiến tranh thì TS không
phải đi lính, thì sẽ không có đứa con không biết mặt cha, và nguwoif mẹ iền sẽ
không chỉ cái bóng trên vách là cha Đản để dẫn đến nỗi cơ cực như ngày hôm nay.
Thiên truyện đến đây có thể kết thúc được rồi nhưng với tấm lòng yêu
thương nhười Nguyễn Dữ không để Vn phải ấm ức chết oan một cách vô nghĩa.
Tác giả truyền kì mạn lục đã nối thêm đoạn cuộc sống của nàng dưới thuỷ cung để
kết thúc câu truyện có hậu: nguwoif tốt sẽ được giải oan và có được cuộc sống
sung sướng.
VN không chỉ đẹp lúc sống mà khi chết đi nàng còn đẹp hơn, nàng vẫn toả sáng 1
tâm hồn cao đẹp. Dù sống trong gấm nhung lụa là nhưng nang luôn hướng về quê
nhà. Chỉ nhe Phan lang kể nhà cửa: ‘ cây cối mọc thành rừng, phần mộ tổ tiên cỏ
gai rợp mắt” VN đã ứa hai hàng mi mà thay đổiquyết định” tôi tất phải tìm về có
ngày”. Qua lời dặn dò của VN với Phan Lang ta còn thấy được nàng là người giàu
lòng vị tha, coi trọng danh dự . thật cao cả cho 1 người vợ bị chồng ruồng bỏ náng
vẫn muốn trở về quê nhà để minh oan. Và VN đã trở về, ngồi trên kiệu hoa phía
sau là năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện. nhưng
nàng chỉ đứng giữa dòng mà nói vọng vào: “ đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở
vê nhân gian được nữa” rồi nàng biến mất. lời nói của VN khong thể không làm ta
day dứt cảm thương. Dù cho nỗi oan đã được giải, dù nàng có mong muốn trở về
thì cũng không thể nũa bởi nàng đã ra đi mãi mãi, và chế độ phong kiến không còn
chỗ cho những người phụ nữ như nàng. Và như thế nàng sẽ chẳng bao giờ được
làm vợ làm mẹ nữa và bé Đản mãi mãi là đưa bé mồ côi mẹ. Qua chi tiết đó, tác
phẩm có ý nghĩa tố cáo sâu sắc.
Về nghệ thuật, đây là tác phẩm được viết theo thể truyền kì. Tính chất

truyền kì được thể hiện ở kết câu hai phần: Vn ở trần gian và VN ở dưới thuỷ cung
với những chi tiết kì ảo hoang đường. với kết cấu nghệ thuật hai phần , tác giả đã
khắc hoạ được 1 cách hoà thiện vẻ đẹp nhân vật VN. Yếu tố kì ảo hoang đường ở
cuối truyện như càng làm tăng thêm ý nghĩa phê phán của câu chuyện.
Chuyện người con gái Nam Xương đã khép lại nhưng người đọc cứ vấn
vương mãi vị dư âm ngậm ngui. Dù là 1 người con gái dung hạnh vẹn toàn nhưng
cuộc đời đầy gian khổ. Ta cảm nhận được 1 tình cảm sâu sắc, xót thương vô hạn
mà Nguyễn Dữ dành cho nàng. Bi kịch của VN là 1 điển hình cho số phận người
phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Chẳng thế mà sau hơn ba thế kỉ ta còn bắt gặp
tiếng nói đồng cảm qua bài thơ Bánh trôi nước của bà chúa thơ Nôm- Hồ Xuân
Hương, và Truyện kiều của đại danh nhân thi hào Nguyễn Du

2.Đề bài: Em hãy phân tích Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn
Dữ để nêu bật giá trị tố cáo xã hội và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm
này.
Bài làm
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kì mạn lục,
một tác phẩm văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được
Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật
gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể để phản ánh một vấn đề
bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người phụ
nữ nói riêng trong xã hội phong kiến.
Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái huyện Nam
Xương nết na, thuỳ mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có, nhưng ít học,
vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng
sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh
trở về thì mẹ đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất Định không chịu
nhận chàng là bố vì bố nó "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi
cũng ngồi". Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. Uất ức quá,
nàng gieo mình xuống sông mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sống thuỷ

chung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người làng là Phan Lang cũng được tiên
cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Trong lễ giải
oan nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn.
Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình
thường như trăm nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tố cáo xã hội vô cùng sâu
sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Và
chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, vì chồng nàng quá tin lời con
trẻ, nghĩ oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiên nàng phải tìm cái chết trên bến
Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một
trong muôn vàn oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người
phụ nữ. Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con
người không được đảm bảo, người phụ nữ với số phận bèo dạt, mây trôi, có thể
gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những nguyên
cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh
ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của
những đau khổ của người phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thuỷ cung, nàng đã có lúc
định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù nặng lòng với quê hương, lỗi lầm
xưa của chồng, nàng cũng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi, đánh phải sống
ở cõi chết: "Đa tạ tình chàng, thiếp chàng thể trở về nhân gian được nữa".
Chi tiết mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ phủ định của Vũ Nương,
của người phụ nữ đương thời đối với "nhân gian", đối với xã hội phong kiến thối
nát vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc.
Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, Chuyện người con gái Nam
Xương còn đề cao phẩm chất giá trị của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là
người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên chồng, nàng "giữ gìn khuôn phép", không
lúc nào để vợ chồng thất hoà. Lúc chồng đi lính, một mình nàng quán xuyến mọi
việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu
như đối với cha mẹ đẻ mình.
Còn đối với chồng, nàng một dạ thuỷ chung. Sa khi chết, được sống ở thuỷ cung
nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động "ứa nước

mắt khóc". Nàng giãi bày tâm sự :"Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi để
mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam.
Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày". Đọc đến đây, không ai không xúc động
được trước tấm lòng nặng nghĩa nặng tình với quê hương bản quán của nàng. Tuy
vừa được cứu sống, tuy được sống trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên
tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha
đất cũ và tâm niệm sẽ có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc
sống ở trần thế với cuộc sống đời thường cũng như khi làm tiên ở thuỷ cung lộng
lẫy đều là một người phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm giá, về tâm hồn.
Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội
phong kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng.
Như phần trên đã nói, viết Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã lấy
cốt truyện trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu
nặng, bằng bút pháp kể chuyện giá dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường,
lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được hình tượng nhân vật vô cùng
sống động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó tác phẩm của ông đã giáo dục chúng ta
lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống
và hạnh phúc con người
3.Phân tích nhân vật Vũ Nương
Truyện Người con gái Nam Xương là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một
người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói
ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị xỉ nhục,bị đẩy đến bước đường cùng , phải
kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phậm , hình ảnh của
Vũ Nương một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là
Vũ Nương,ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm
chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thỏa với cha mẹ chồng đồng
thời cũng hết mực thủy chung son sắc.
Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuân phép, không khi
nào vợ chồng phải để đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng tình hay

ghen tuông đối với vợ thì vòng ngừa quá mức.
Thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Vũ Nương tiễn chồng đi
lính. Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được công
danh gì mang về để vinh hiển trở về, còn đối với Vũ Nương thi lại không chông
mong vinh hiển mà chỉ cầu chồng được binh yên trở về; nàng òn cảm thông với
những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng; nàng nói đến nỗi nhớ
nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần; đằm thắm tình cảm.
Khi xa chồng . Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi
buồn nhớ cứ
Dài theo măm tháng “ bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi” tác giả đã dùng
hình ảnh ước lệ tựng trưng, mượm cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của
thời gian. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, một mình vừa nuôi
con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng đau ôm, nàng lo thuốc thang, cầu khấn
phật trời, và lúc nào cũng ân cần , dịu dàng, lấy lừi ngon ý ngọt khéo léo khuyên
mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở về, vì thế cho nên trước khi mẹ
chồng nhắm mắt bà đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương là người con dâu tốt khi
Trương Sinh về sẽ không phụ lòng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương sót
mẹ và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình.
Tưởng rằng khi Trương sinh về thì Vũ nương được sống ngập tràn trong niềm vui
và hạnh phúc và nàng cũng chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng ai ngờ
nàng bị một nỗi oan không tài nào thanh minh nổi, mặc dù nàng đã hết lời phân
trần tấm long son sắc thủy chung của mình cho chồng hiểu như: nàng nói đến thân
phận mình nghèo được nương nhờ nơi giầu có ,tình nghĩa vợ chồng bao năm và
khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Như
vậy đã chứng tỏ nàng đã hết sức cưu vãn, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình
đang có nguy cơ tan vỡ.
Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối sử bất
công, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói
giúp. Hạnh phúc gia đình niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong
bong. Tất cả những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại

được nữa.
Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được, Vũ
Nương dành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời
than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng đầy luyến
tiếc, như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá
trong của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương
bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau
mọi cố gắng không thành. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động
quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng
có sự chỉ đạo của li trí. Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận.
Vũ Nương đúng là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục ,lại đảm
đang tháo phát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy
với chồng, hết long vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng
ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy.
Có phải chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng
chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho
Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng
trong chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy
những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tinh đa
nghi ghen tuông, hồ đồ và độc đoán kia trử thành kẻ thô bạo, vũ phu là kẻ bức tử
vợ mình trong sự mù quáng, kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án.
Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của
kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm thương cảm của tác
giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. người phụ nữ bất hạnh ở đây
không những không được bênh vực, che trở mà còn bị đối sử một cách bất công,
vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu
của anh chồng ghen tuông mà phải kết liễu đời mình.
- Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết có "tư dung tốt đẹp".
Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng

và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở từng thời
điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình.
Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm:
+ khi chồng ở nhà,
+ khi chia tay,
+ khi xa chồng
+ và khi chồng trở về.
Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên
“nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân,
tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang
quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin
ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian
nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến
nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh
phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hoá.
Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ
của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ
chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau
này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết
chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ
chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi
oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng
nhuốc nhơ”.
Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ
nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo
nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp
một cách có văn hoá. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình
của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ nương.
- Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số
phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng

là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương
đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của
Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là
người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng
gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có
trong xã hội con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển
hình của cuộc sống. Tất nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng
vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái
hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.
- Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống
trong Quy động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã
tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ
Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của
Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước
mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết tha gắn bó với quê
hương đời sống mà không được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô
đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu
chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái
Ðẹp là bất tử. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi
tiên, vì nàng là cái Ðẹp.
- Chiếc bóng -tấm lòng yêu thương ->trở thành nguyên nhân của nỗi oan bi kịch.
Chỉ âu lo với niềm bất hạnh của chính mình, nàng chẳng hề muốn gieo tai họa cho
ai khác.Câu chuyện về cái bóng của mình mà Vũ Nương kể cho con nàng nghe để
dỗ con , cũng như thể đang tâm sự với chính mình ,để an ủi ngóc ngách nào đó
trong tâm hồn nàng :chồng nàng đang ở một nơi nào đó ,và hình bóng người chồng
không lúc nào xa rời nàng .
Bao nhiêu công sức, tâm sức chắt chiu để vun đắp gìn giữ cái gia đình bé nhỏ đã
trở nên hoàn toàn vô nghĩa, nàng đã trắng tay, bơ vơ, không lối thoát, nên tìm đến
cái chết
Thực chất là Vũ Nương đã bị bức tử, nhưng nàng đi đến cái chết thật bình tĩnh :

tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng
Cái chết ấy là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ,
sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc
ác, tối tăm.
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi lo luỵ đến nàng.
Chứng quả đã dôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng mấy lọ đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng."
(Lê Thánh Tông)
>Chiếc bóng có phải là một thế lực vô hình ngăn cản con người ,đặc biệt là người
phụ nữ đến với hạnh phúc
=>Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số phận con người. Hãy tôn
vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương đến
hạnh phúc đôi lứa và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh phúc là
phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng
tiếc. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được
lâu bền lại càng là một điều khó khăn hơn.
Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể nhận ra được từ : Chuyện người con gái
Nam Xương
Tiết 3
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
-Ngô gia văn Phái-
A/ TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Tác giả:
Ngô gia văn Phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai nay
thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du

làm quan thời Lê Chiêu Thống
2.Tác phẩm:
a/ Nội dung: phản ánh vẻ đẹp hào hùng của ngừơi anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong
chiến công đại phá quân Thanh. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và bè lũ bán nước Vua
tôi nhà Lê.
b/ Nghệ thuật:
- Lối văn trần thuật kết hợp miêu tả chân thực, sinh động. Thể loại tiểu thuyết viết theo lối
chương hồi. Tất cả các sự kiện lich sử trên đều được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.
- Tác phẩm được viết bằng văn xuôi chữ Hán, có quy mô lớn đạt được những thành công
xuất sắc về mặt nghệ thuật , đặc biệt trong những lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử.
c/ Chủ đề: Phản ánh chân thực vẻ đẹp của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ với lòng
yêu nước, quả cảm, tài trí, nhân cách cao đẹp. Sự hèn nhát, thần phục ngoại bang một cách nhục
nhã của quân tướng nhà Thanh và vua tôi nhà Lê.
B/ CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn tóm tắt hồi 14: Đánh Ngọc Hồi quân Thanh bị thua trận.
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài (trích Hoàng Lê nhất thống chí )của Ngô Gia
Văn Phái.
* Gợi ý:
a/ Mở đoạn: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích.
b/ Thân đoạn:
- Nhận được tin cấp báo quân Thanh chiếm được thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng đế và thân chinh cầm quân đi dẹp giặc.
- Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
- Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu
Thống.
c. Kết đoạn:
- Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ với lòng yêu nước quả cảm tài chí và sự thất
bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh và vua tôi nhà Lê.
2. Dạng đề 5- 7 điểm:

Đề 1: Phân tích ngắn gọn hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ ở hồi 14
trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
* Gợi ý
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm.
- Giới thiệu chung về hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ ở hồi 14.
b. Thân bài:
- Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán.
+ Nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long, Quang Trung định thân chinh cầm quân đi
ngay.
+ Chỉ trong vòng hơn một tháng lên ngôi Hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc gặp gỡ
người Cống Sỹ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ
dụ tướng sỹ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau
chiến thắng.
- Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén.
+ Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta
và địch.
+ Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người thể hiện qua cách xử trí với các
tướng sỹ ở Tam Điệp …
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng.
- Tài dùng binh như thần.
+ Cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung làm cho giặc phải kinh ngạc…
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc
- Hình ảnh lẫm liệt trong chiến trận.
+ Vua Quang Trung thân chinh cầm quân…
+ Đội quân không phải là lính thiện chiến, lại trải qua cuộc hành quân cấp tốc, không có
thời gian nghỉ ngơi mà dưới sự lãnh đạo tài tình của Quang Trung trận nào cũng thắng lớn…
c. Kết bài:
- Khẳng định lòng yêu nước, tài trí, mưu lược của người anh hùng Nguyễn Huệ.
C. BÀI TẬP

1. Dạng đề 2-3 điểm:
* Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn giới thiệu về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Hoàng Lê nhất thống chí.
a. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
b. Thân đoạn:
- Giới thiệu nhóm tác giả Ngô Thì với hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
- Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
c. Kết đoạn:
- Khẳng định giá trị và nội dung nghệ thuật của tác phẩm.
2. Dạng đề 5 -7 điểm:
Đề 1: Cảm nhận của em về sự thất bại của quân tướng nhà Thanh và số phận
thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân.
* Dàn bài:
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích.
b. Thân bài:
- Sự thất bại của quân tướng nhà Thanh:
+ Tôn Sĩ Nghị là một tên tướng bất tài, kiêu căng, tự mãn, chủ quan khinh địch.
+ Không đề phòng, suốt ngày chỉ lo vui chơi, yến tiệc.
+ Khi quân Tây Sơn tấn công thì sợ mất mật, quân tướng ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin
hàng, ai nấy đều rụng rời sợ hãi hoảng hồn tan tác.
- Số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân:
+ Đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược nên đã phải chịu đựng nỗi sỉ
nhục của kẻ di cầu cạnh van xin, không còn tư cách của một quân vương.
+ Chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc.
+ Tình cảnh của vua tôi nhà Lê trên đường tháo chạy.
+ Suy nghĩ của bản thân.
c. Kết bài:
- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.


Tiết 4
TRUYỆN KIỀU
Nguyễn Du
TÁC GIẢ TÁC PHẨM
A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Tác giả: Nguyễn Du
- Bản thân.
- Gia đình.
- Thời đại.
- Cuộc đời
- Sự nghiệp.
- Tư tưởng- tình cảm.
2. Tác phẩm:
- Hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ
- Tóm tắt tác phẩm.
B. CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 1: Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm Truyện Kiều trong 20 dòng.
* Gợi ý:Tóm tắt truyện.
Phần 1. Gặp gỡ và đính ước
- Chị em Thúy Kiều đi chơi xuân, Kiều gặp Kim Trọng ( bạn Vương Quan ) quyến luyến.
- Kim Trọng tìm cách dọn đến ở gần nhà, bắt được cành thoa rơi, trò chuyện cùng Thuý Kiều,
Kiều- Kim ước hẹn nguyền thề.
Phần 2. Gia biến và lưu lạc
- Kim về hộ tang chú, gia đình Kiều gặp nạn. Kiều bán mình chuộc cha.
- Gặp Thúc Sinh, Chuộc khỏi lầu xanh . Bị vợ cả Hoạn Thư đánh ghen, bắt Kiều về hành hạ tr-
ước mặt Thúc Sinh.
- Kiều xin ra ở Quan Âm Các, Thúc Sinh đến thăm, bị Hoạn Thư bắt, Kiều sợ bỏ trốn ẩn náu ở

chùa Giác Duyên. Kiều rơi vào tay Bạc Bà, rồi lại rơi vào lầu xanh lần hai.
- Kiều gặp Từ Hải, được chuộc khỏi lầu xanh. Kiều báo ân báo oán. Bị mắc lừa HồTôn Hiến. Từ
Hải chết. Kiều bị gán cho viên Thổ quan. Kiều nhảy xuống dòng Tiền Đường tự vẫn. Sư bà Giác
Duyên cứu thoát về tu ở chùa.
Phần 3. Đoàn tụ
- Sau khi hộ tang trở về được gả Thúy Vân, Kim vẫn khôn nguôi nhớ Kiều, tìm kiếm Kiều. Kim
lập đàn lễ, gặp Kiều, gia đình sum họp. Kiều không muốn nối lại duyên xưa. Chỉ coi nhau là bạn.
Đề 2: Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật Tác phẩm Truyện Kiều - Nguyễn Du.
* Gợi ý:
1. Nội dung:
- Giá trị nhân đạo: Đề cao tự do, ước mơ đẹp về tình yêu; khát vọng công lí, khát vọng về quyền
sống Ca ngợi phẩm chất con người (Kiều: Đẹp, tài, trí, hiếu thảo, trung hậu, vị tha)
- Giá trị hiện thực: Bức tranh hiện thực về một xã hội bất công. Tiếng nói lên án, tố cáo các thế
lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.
2. Nghệ thuật:
- Truyện Kiều là sự kết tinh tthành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn
ngữ thể loại (Văn học dân tộc; thể thơ lục bát; nghệ thuật tự sự ; Nghệ thuật miêu tả thiên
nhiên ; khắc hoạ tính cách , tâm lý con người).
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:
Đề 1: Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Du.
* Gợi ý:
1. Bản thân.
- Sinh 3.1.1766 (Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng) Mất 16.9.1820. Tên chữ Tố Như hiệu
Thanh Hiên.
- Quê Tiên Điền, Nghi Xuân , Trấn Nghệ An. 10 tuổi mồ côi mẹ.
- Là một trong năm người nổi tiếng đương thời.
2. Gia đình.
- Đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống khoa bảng. Có thế lực bậc nhất lúc bấy giờ.
- Cha là Nguyễn Nghiễm - nhà văn - nhà nghiên cứu sử học- nhà thơ và từng làm tể tướng.
- Mẹ là Trần Thị Tần xuất thân dòng dõi bình dân, người xứ Kinh Bắc, là vợ thứ ba và ít hơn

chồng 32 tuổi.
-Thuở niên thiếu Nguyễn Du chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ.
3. Thời đại.
- Cuối Lê đầu Nguyễn - thời kì phong kiến Việt Nam suy tàn , giai cấp thống trị thối nát, đời
sống xã hội đen tối, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Khởi nghĩa Tây Sơn.
4. Cuộc đời.
- Từng làm quan cho nhà Lê, chống lại Tây Sơn nhưng thất bại, định trốn vào Nam theo Nguyễn
Ánh nhưng không thành, bị bắt rồi được thả.
- Sống lưu lạc ở miền Bắc, về quê ở ẩn, nếm trải cay đắng
- Năm 1802 làm quan cho triều Nguyễn, tài giỏi được cử đi xứ sang Trung Quốc hai lần.
5. Sự nghiệp thơ văn.
- Ông để lại một di sản văn hóa lớn cho dân tộc:
+ Thơ chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập, Bắc hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm.
+ Thơ chữ Nôm: Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều),Văn chiêu hồn,Văn tế sống hai
cô gái trường lưu.
6. Tư tưởng tình cảm
- Đối với những kẻ thuộc tầng lớp trên, tướng lĩnh hay quan lại cao cấp Nguyễn Du vạch trần tội
ác của chúng.
- Đối với những con người bất hạnh ông dành hết tình thương đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
* Tóm lại:
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ chữ Hán đến truyện Kiều, văn chiêu
hồn đều sáng ngời Chủ nghĩa nhân đạo. Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc, Nguyễn Du lăn
lộn nhiều trong cuộc sống, yêu thương quần chúng, lắng nghe tâm hồn, nguyện vọng của quần
chúng nên ông ý thức được những vấn đề trọng đại của cuộc đời.Với tài năng nghệ thuật tuyệt
vời ông đã làm cho vấn đề trọng đại càng trở nên bức thiết hơn, da diết hơn, nóng bỏng hơn.Thơ
Nguyễn Du dù chữ Hán hay Nôm đều đạt tới trình độ điêu luyện. Riêng truyện Kiều là một công
hiến to lớn của ông đối với sự phát triển của văn học dân tộc.
- Nguyễn Du - đại thi hào dân tộc- người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc- một danh
nhân văn hóa thế giới.
- Thơ Nguyễn Du là niềm tự hào dân tộc – Niềm tự hào của văn học Việt Nam.

- Tố Hữu ca ngợi: Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.”

Tiết 5 - 6
CHỊ EM THUÝ KIỀU
A/ TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1. Nội dung:
- Khắc hoạ những nét riêng về nhan sắc tài năng, tính cách số phậnThuý Vân,
Thuý Kiều.
- Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của con người.
2. Nghệ thuật:
- Bút pháp nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp con người.
B/ CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 3 điểm
Đề 1: Cảm nhận của em về vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều qua đoạn trích
Chị em Thuý Kiều của Nguyễn Du.
* Gợi ý:
- Mở đoạn: Giới thiệu chung về vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều.
- Thân đoạn: Vẻ đẹp chung của hai chị emThuý Vân, Thuý Kiều.
- Kết đoạn: Khẳng định vẻ đẹp cao quý của chị em Thuý Kiều qua nghệ thuật tả người tài
tình của tác giả Nguyễn Du.
2. Dạng đề 5 đến7 điểm
Đề 2: Cảm nhận của em về đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" (Trích "Truyện Kiều"
Nguyễn Du).
a. Mở bài.
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích;
- Cảm nhận chung về đoạn trích.
b. Thân bài.

* Bốn câu đầu Vẻ đẹp chung của hai chị em.
- Nhịp điệu, hình ảnh được lựa chọn theo bút pháp ước lệ cổ điển “ Mai cốt cách m-
ười phân vẹn mười” hoa, tuyết ước lệ cho người phụ nữ, người đẹp.
Hình mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái. Tinh thần trắng trong, tinh khiết, thanh
sạch. Hai vế đối nhau, câu thơ trở nên tao nhã gợi cảm. Âm điệu nhịp nhàng nhấn mạnh
sự đối xứng làm nổi bật vẻ đẹp cân đối hoàn hảo của hai chị em.
* 16 câu tiếp theo: - Vẻ đẹp của Thúy Vân và tài sắc của Thúy Kiều.
- Bốn câu tả Thúy Vân.
+ Hình ảnh: Khuôn mặt đầy đặn, cân đối phúc hậu, suối tóc óng như mây, điệu cười,
giọng nói đoan trang, làn da sáng hơn tuyết.
Tác gỉa miêu tả Thúy Vân toàn vẹn bằng những nét ước lệ hình ảnh ẩn dụ thích hợp, tinh
tế từ khuôn mặt, nét mày, điệu cười giọng nói, mái tóc làn da. Kì diệu hơn Nguyễn Du
vừa miêu tả nhan sắc đã cho thấy ngay số phận an bài hạnh phúc của nhân vật.
- 12 câu tả Kiều.
+Số lượng câu chứng tỏ Nguyễn Du dùng hết bút lực, lòng yêu mến vào nhân vật này.
lấy Vân làm nền để làm nổi bật Kiều, Vân xinh đẹp là thế nhưng Kiều còn đẹp hơn.
Nếu Vân đẹp tươi thắm, hiền dịu thì Thúy Kiều lại đẹp sắc sảo “ nghiêng nước, nghiêng
thành”
- Trích dẫn: Thơ
- Nhận xét: - Kiều đẹp tuyệt đối,
- Phân tích: bằng nghệ thuật ước lệ, tác giả điểm xuyết một đôi nét dung nhan khiến
Thúy Kiều hiện lên rạng rỡ :
+ “làn thu thủy”: đôi măt trong xanh như nước mùa thu gợi cảm mà huyền ảo.
+ “ nét xuân sơn”: nét mày thanh thản tươi xanh mơn mởn đẹp như dáng núi mùa
xuân tươi trẻ.
- Phân tích: phép tu từ nhân hóa, từ ngữ chọn lọc thể hiện thái độ của thiên nhiên với
Kiều. Với vẻ đẹp của Vân thiên nhiên chẳng đố kị mà chịu thua, chịu nhường còn
với vẻ đẹp của Kiều “ hoa ghen”, “ liễu hờn” thể hiện sự đố kị.
- Tả vẻ đẹp lấy từ điển cố “ nhất cố khuynh thành, tái cố khuynh quốc" tạo sự súc tích,
có sức gợi lớn làm bật vẻ đẹp có sức hút mạnh mẽ

*Tóm lại: Vẻ đẹp của Kiều gây ấn tượng mạnh, một trang tuyệt sắc.
- Không chỉ là giai nhân tuyệt thế mà Kiều còn rất đa tài.
- Tài đánh đàn, Soạn nhạc: khúc “ bạc mệnh oán” (Tâm hồn đa sầu, đa cảm, phong phú.
Khúc nhạc dự đoán cho số phận đau khổ, bất hạnh của Kiều sau này).
- So với đoạn tả Thúy Vân, chức năng dự báo còn phong phú hơn.
- Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận đã thể hiện quan niệm
“ thiên mệnh” của nho gia, thuyết tài mệnh tương đố” của Nguyễn Du.
- Nét tài hoa của Nguyễn Du bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật tả người ở đoạn thơ.
- Bút pháp nghệ thuật có tính truyền thống của thơ văn cổ nhưng ông đã vượt lên được
cái giới hạn đó. 16 câu tả vẻ đẹp của hai chị em Kiều gần như đầy đủ vẻ đẹp của người
phụ nữ theo quan niệm xưa: Công - dung - ngôn - hạnh. Tài ấy thể hiện cả ở tả tình, tâm
hồn của nhân vật và dự báo số phận nhân vật.
* Đức hạnh và phong thái của hai chị em Kiều.
- Cuộc sống “êm đềm”, “ phong lưu” khuôn phép, đức hạnh mẫu mực.
- Đoạn cuối: khép lại bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều đồng thời khép lại toàn
đoạn trích khiến nó thêm chặt chẽ với tác phẩm, với số phận từng nhân vật. Vân êm ái,
Kiều bạc mệnh.
- Cách miêu tả - giới thiệu chính xác số phận từng nhân vật.
Cuối đoạn miêu tả vẫn trong sáng, đằm thắm như chở che bao bọc cho chị em Kiều - 2
bông hoa vẫn còn trong nhụy.
* Nhận xét chung về nội dung - nghệ thuật.
C.Kết bài:
Khẳng định vẻ đẹp trong sáng thanh cao của chị em Thuý Kiều. Nghệ thuật miêu tả
nhân vật tài tình, tình cảm yêu quý trân trọng của tác giả dành cho Vân, Kiều.
Hướng dẫn phân tích đề
.Phân tích chị em thúy kiều
Truyện Kiều là một bài ca lớn về giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái
ác, cái phản nhân bản, một tập đại thành của nghệ thuật văn chương
Nguyễn Du là một thi hào dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm "Truyện
Kiều” - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều là một bài ca lớn về

giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái ác, cái phản nhân bản, một tập đại
thành của nghệ thuật văn chương. Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nhận vật, Nguyễn
Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ trích đoạn Chị em
Thúy Kiều đả thể hiện được trọn vẹn vè đẹp, tài năng va đức hạnh của hai chị em nàng
Thúy kiều. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh
của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.
Đoạn trích "Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần : "Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới
thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử
dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc
hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du
cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt "tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai
chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa
mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một
cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật
ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang
trọng, quý phái, phúc hậu: Sau khi giới thiệu vẻ dẹp chung về hình thức lẫn tâm hồn của
hai chị em bằng bốn câu thơ , Nguyễn Du bắt đầu miêu tả vẻ đẹp riêng của Thúy Vân :
Vân xem trang trong khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngóc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da,
Chỉ vài nét chấm phá, bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật nghiêm trang , đứng
đắn và phúc hậu. Gương mặt của nàng đầy đặn như mặt trăng tròn. chân mày của nàng
đẹp như mày của con bướm tằm. Đuôi mắt của nàng đẹp như mắt phượng . miệng của
nàng nở nụ cười tươi như đóa hoa đang khoe sắc , tỏa hương. Tiếng nói của nàng trong

như ngọc. Những làn mây trên không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà của
nàng. Tuyết là biểu tượng của màu trắng nhưng không nhường màu cho da mịn màng,
trắng trẻo của nàng.
Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ, nhân hóa, liệt
kê, đối ngữ, thậm xưng và cách dùng các từ láy, từ Hán Việt một cách điệu luyện,
Nguyễn Du không những miêu tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân mà còn dự báo
được tương lai của nàng. Đặc biệt, các từ " thua ", "nhương " cho chúng ta thấy số phận
bình an, tốt lành của Thúy Vân trên những chặng đường đời .
Còn đây là bức chân dung của nàng kiều :
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thủy tinh , nét xuân sơn
Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu. Còn lông mày lại thanh
nhẹ, tương đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng .đây cũng là vẻ đẹp
ước lệ, tượg trưng thường gặp trong thơ văn cổ. Những nghệ thuật nhân hóa , thậm xưng,
so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điển cố,liệt kê, đối ngữ, tương hỗ đã tiếp tục đưa sắc đẹp của
Thúy kiều đến tuyệt điỉnh, khiến cho :
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
"Hoa" và "liễu" là những loài vô tri, vô giác, vậy là phải "ghen" , "hờn", tức giận trước vẻ
đẹp "sắc sảo mạn mà", "mười phân vẹn mười" của nàng. Còn đối với con người , nàng
Kiều chỉ cần ngoảnh lại một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại cái nữa thì nước
người ta bị đổ Chao ôi ! Thúy Kiều đúng là một tuyệt thế giai nhân
Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy ,đài các, kiêu sao , có sức cuốn hút mãnh
liệt của Thúy Kiều . Nhất là các từ "ghen" , "hờn" , Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta
thấy những cơn sóng gió bảo tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của nàng
.
Nếu như ở Thúy Vân , Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nhà thơ vưa miêu
tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài năng :
Sắc đành tài một, tại đành hoạ hai
Như vậy, về sắc thì đành chỉ có một mình Thúy Kiều về tài thì may ra, họa hoằn lắm mới

có người thứ hai. Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương .
Khúc nhà tay lựa nên chương .
Xét riêng về tài đánh đàn thì Thúy kiều vượt xa những người khác . Những nốt cung ,
thương , giốc , chũy , vũ trong âm giai của nạhc cổ trung Quốc và Việt Nam được nàng
phối hợp một cách nhuần nhuyễn , tinh thông , dạt dào cảm xúc . Đặt biệt , một bản nhạc
nhan đề là " Bạc mệnh " - đưa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi sâu
thẳm trong tâm hồn của con người , khiến ai thưởng thức cũng phải đau khổ , sâầunão
đến rơi nước mắt , đến buốt nhói tim . Phải chăng " một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
" ấy như muốn dư báo những đâu khổ , bất hạnh chồng chất trong suốt 15 năm ròng của
đời người con gái tài sắc vạn toàn ?
Nhìn chung , Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều ,
nhà thơ đã cực tả Thúy vân , tưởng như sắc đạp của Thúy Vân không ai hơn được nữa ,
để rồi sau đó , Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc
đẹpcủa Thúy Kiều là tuyệt đỉnh . Còn tài của nàng cũng là tuyệt đỉnh . ( Giáo sư Nguyễn
Lộc )
Có thế nói rằng , lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà , hình ảnh người phụ nữ
hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn du
một cách say sưa , nồng nhiệt ,tập trung và trân trọng nhất. Đó là một cái nhìn của con
gnười có tấm lòng nhân dạo mênh mông như ngọn nước triều dâng . Nguyễn du dã mở
đườngbcho tư tưởng của mình đi trước thời đại . Bởi lẽ , trong xã hôi phong kiền đầy rẫy
nhưng bất công , ngang trái , hà khắc , phụ nữ luôn bị lép vế , bị ruồn rẫy , chà đạp , xô
đẩy đến bức đường cùng .
Một lần nữa ở bốn câu kết thúc của trích đoạn Chị em Thúy Kiều , Nguyễn Du miêu tả
cuộc sống phong lưu, êm đềm, khuôn phép , mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của cá hay
chị em :
Phong lưu rất mực hồng quần ,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê ,
Em đềm trướng rủ màn che .
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm , có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều
vẫn sống hòa thuận , vui vẻ trong cảnh trướng rủ màn che , không tơ tươởngđến những kẻ
dđ tìm tình yêu , đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa . Chính những nét hồn nhiên ,
trong sáng . thơ ngây đã nuôi dưỡng , bồi đắp cho sự hình thành - phát triển nhân cách và
ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này, đặc biệt là Thúy Kiều .
Tóm lại, bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú, tính tế , kỳ diệu , bằng một bút pháp
điêu luyện, bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết hợp với lòng thương yêu của con
người , nhất là người phụ nữa, Nguyễn du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã , vừa có
sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn chị em Thúy Kiều.
Có thế nói rằng , lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà , hình ảnh người phụ nữ
hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn du
một cách say sưa , nồng nhiệt ,tập trung và trân trọng nhất. Càng nâng niu , quý trọng
truyện Kiều ,chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du. Đó là một cái nhìn của con người có tấm lòng nhân dạo mênh mông như ngọn nước
tràn ly
=======//=========
Bài 2.Trong dòng văn học cổ Việt Nam,Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm văn học
kiệt xuất . Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, hấp dẫn ,lời văn trau chuốt,
giá trị tố cáo đanh thép , giá trị nhân đạo cao cả mà còn vì các nhân vật trong truyện được
ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẻ, sinh động . Đặc biệt là các nhân
vật mà tác giả tâm đắc nhất như Thúy Vân, Thúy Kiều .
Ngay phần đầu của Truyện Kiều Nguyễn Du đã khắc họa bức chân dung xinh đẹp của hai
chị em Thúy Kiều và Thúy Vân :
“ Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị , em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Nói đến Mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao ; nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng
,tinh sạch . Cả mai và tuyết đều rất đẹp .Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao , trong trắng của
hai chị em nhưlà mai là tuyết và đều đạt đến độ hoàn mĩ “ Mười phân vẹn mười” .
Tiếp đó tác giả giới thiệu vẻ đẹp của Thúy Vân :
“ Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn ,nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân .
Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm thiếu nữ nào có được với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm
,lông mày cong hình cánh cung như mày ngài . Miệng cười của nàng tươi như hoa nở,
giọng nói của nàng trong như ngọc . Lại nữa da trắng mịn đến tuyết phải nhường . Ôi,
thật là một vẻ đệp đoan trang, phúc hậu ít ai có được . Nguyễn Du đã miêu tả bức chân
dung nàng Thúy Vân có thể nói là tuyệt đẹp .Đọc đoạn này ta thấy rung động trước vẻ
đệp tuyệt vời cảu Thúy Vân và thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du. Ông đã vận dụng
biện pháp tu từ của văn thơ cổ vừa đúng đắn vừa sáng tạo .
Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân đã khiến ta rung động đến vậy , ông miêu tả Thuý Kiều thì
ta còn bất ngờ hơn nữa . Bất ngờ đến kinh ngạc . Bắt đầu từ câu :
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nàng Vân đã tuyệt diệu như vậy rồi , nàng Kiều còn đẹp hơn nữa ư ? Có thể như vậy
được không ? Ta hãy xem ngòi bút của Nguyễn du viết về nàng Kiều :
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kếm xanh
Một hai nghiên nước nghiên thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Đến đây , chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục . Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp
Thuý kiều không dài , chỉ vài cau thôi , vậy mà ta như thấy hiện ra trước mắt một thiếu
nữ “ tuyệt thế gia nhân” . Mắt nàng thăm thẳm như làn nước mùa thu , lông mày uốn
cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân ; dung nhan đằm thắm đến hoa củng phải ghen ,

dáng người tươi xinh mơn mởn đén mức liễu cũng phải hờn . Khi đọc đến đoạn này ta
không chỉ rung động , thán phục mà có một cảm giác xốn xang khó tả bởi nàng Kiều
Xinh đẹp quá . Thủ pháp ước lệ,nhân hoá là biện pháp tu từ phổ biến trong văn học cổ
được tác giả sử dụng xuất sắc , kết hợp với việc dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng
thành” , tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận , mà như thấy tận
mắt nàng Kiều . Nàng quả là có một vẻ đẹp “ sắc sảo mặn mà” Ta có thể nói là “có một
không hai” làm mê đắm lòng người . Đọc hết những câu trên, ta mới hiểu được dụng ý
của Nguyễn Du Khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thuý Vân trước vẻ đẹp
“sắc sảo mặn mà” của Thuý Kiều . Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy , dùng vẻ đệp
của Thuys Vân để làm để làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều , quyến rũ của Thuý Kiều rất có
hiệu quả .
Sắc đã vậy còn tài của nàng Kiều thì sao ? ta sẽ không cảm nhận được hết toàn bộ vẻ đẹp
hình thể củng như vẻ đẹp tâm hồn cua Thuý Kiều nếu như ta không biết đến tài của
nàng , mặc dù Nguyễn Du đã nói “ Sắc đành đòi một , tài đành hoạ hai” . Về sắc thì chắc
chắn chỉ có miònh nàng là đẹp như vậy , về tài hoạ chăng có người thứ hai sánh kịp :
"Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Nàng có cả tài thơ , tài hoạ , tài đàn , tài nào cũng xuất sắc , cũng thành “nghề” cả . Riêng
tài đàn nàng đã sáng tác một bản nhạc mang tiêu đề “ Bạc mệnh” rất cuốn hút lòng
người .
Với hai nhân vật như Thuý Kiều Thuý Vân , Nguyễn Du đã sử dụng các biện pháp tu từ
phổ biến trong văn thơ cổ như ước lệ , ẩn dụ , nhân hoá , dùng điển cố . Qua đó ta thấy vẻ
đẹp phúc hậu , đoan trang của Thuý Vân Và vẻ đẹp “ sắc sảo măn mà” của Thuý Kiều .
Hai bức chân dung của hai chị em Thuý Kiều Thuý Vân , mà Nguyễn Du khắc hoạ phải
nói là rất thành công . Đặc biệt là Thuý Kiều nhà thơ đã giành trọn tâm huyết , sức lực và
tài năng của mình để sáng tạo nên nàng . Bởi nang là nhân vật chính của Truyện Kiều

Như đã nói . Truyện Kiều thu hút người đọc phần lớn là nhờ nghệ thuật miêu tả nhân vật
của Nguyễn Du . Quả vậy nghệ thuật tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bạc thầy
trong nền văn học cổ Việt Nam . Tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm toát
lên cái tính cách , tâm hồn bên trong của nhân vật đó .
Với Thuý Vân ông đã thực hiện biện pháp ước lệ để miêu tả vẻ đẹp :
“ Khuôn trăng dầy đặn , nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Tất cả các từ ngữ , hình ảnh được ông sử dụng trong các câu thơ trên đều tập trung làm
cho người đọc thấy được vẻ đẹp “ đoan trang , thuỳ mị” của Thuý Vân . Không những
khắc hoạ vẻ đẹp hình thể bên ngoài Nguyễn Du còn như dự báo số phận bình lặng, êm ả
của nàng qua từ “ thua” và từ “ Nhường”. Mây và tuyết thua avẻ đẹp của Thuý Vân
nhưng cả hai đều chịu “ thua” và chịu “ nhường”một cách êm ả .
Với Thuý Kiều , Tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả vẻ đẹp “sắc sảo , mặn
mà” của nàng.Những câu thơ miêu tả nàng có thể xem là tuyệt bút :
“ Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kém xanh”
Trong hai câu thơ ,Nguyễn Du như đã dự báo số phận bấp bênhchìm nổi của Kiều qua
các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp của nàng nhưng không cam chịu thua mà còn “
ghen” còn “ hờn” và khúc nhạc bạc mệnh nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó .
Nói tóm lại , Nguyễn Du có nghệ thuật tả người rất đặc sắc và tiêu biểu . Mỗi nhân vật
ông miêu tả dù tốt hay xấu , dù chính diện hay phản diện cũng đề biểu hiện được bản chất
tâm hồn bên trong qua hình dáng bên ngoài . Nghệ thuật miêu tả , xây dựng nhân vật của
Nguyễn Du rất đáng để chúng ta trân trọng và học tập .
IV.Phân tích:Chị em thúy Kiều
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần : “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới
thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử
dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc
hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du
cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai
chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa
mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một
cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật
ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang
trọng, quý phái, phúc hậu: Sau khi giới thiệu vẻ dẹp chung về hình thức lẫn tâm hồn của
hai chị em bằng bốn câu thơ , Nguyễn Du bắt đầu miêu tả vẻ đẹp riêng của Thúy Vân :
Vân xem trang trong khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngóc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc , tuyêếtnhường màu da,
Chỉ vài nét chấm phá, bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật nghiêm trang , đứng
đắn và phúc hậu. Gương mặt của nàng đầy đặn như mặt trăng tròn. chân mày của nàng
đẹp như mày của con bướm tằm. Đuôi mắt của nàng đẹp như mắt phượng . miệng của
nàng nở nụ cười tươi như đóa hoa đang khoe sắc , tỏa hương. Tiếng nói của nàng trong
như ngọc. Những làn mây trên không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà của
nàng. Tuyết là biểu tượng của màu trắng nhưng không nhường màu cho da mịn màng,
trắng trẻo của nàng.
Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ, nhân hóa, liệt
kê, đối ngữ, thậm xưng và cách dùng các từ láy, từ Hán Việt một cách điệu luyện,
Nguyễn Du không những miêu tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân mà còn dự báo
được tương lai của nàng. Đặc biệt, các từ " thua ", "nhương " cho chúng ta thấy số phận
bình an, tốt lành của Thúy Vân trên những chặng đường đời .
Còn đây là bức chân dung của nàng kiều :
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thủy tinh , nét xuân sơn
Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu. Còn lông mày lại thanh
nhẹ, tương đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng .đây cũng là vẻ đẹp
ước lệ, tượg trưng thường gặp trong thơ văn cổ. Những nghệ thuật nhân hóa , thậm xưng,
so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điển cố,liệt kê, đối ngữ, tương hỗ đã tiếp tục đưa sắc đẹp của
Thúy kiều đến tuyệt điỉnh, khiến cho :
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
"Hoa" và "liễu" là những loài vô tri, vô giác, vậy là phải "ghen" , "hờn", tức giận trước vẻ
đẹp "sắc sảo mạn mà", "mười phân vẹn mười" của nàng. Còn đối với con người , nàng
Kiều chỉ cần ngoảnh lại một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại cái nữa thì nước
người ta bị đổ Chao ôi ! Thúy Kiều đúng là một tuyệt thế giai nhân
Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy ,đài các, kiêu sao , có sức cuốn hút mãnh
liệt của Thúy Kiều . Nhất là các từ "ghen" , "hờn" , Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta
thấy những cơn sóng gió bảo tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của nàng
.
Nếu như ở Thúy Vân , Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều , nhà thơ vưa
miêu tả nhan sắc , vừa ca ngợi tài năng :
Sắc đành tài một , tại đành hoạ hai
Như vậy, về sắc thì đành chỉ có một mình Thúy Kiều về tài thì may ra, họa hoằn lắm mới
có người thứ hai. Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương .
Khúc nhà tay lựa nên chương .
Xét riêng về tài đánh đàn thì Thúy kiều vượt xa những người khác . Những nốt cung ,
thương , giốc , chũy , vũ trong âm giai của nạhc cổ trung Quốc và Việt Nam được nàng
phối hợp một cách nhuần nhuyễn , tinh thông , dạt dào cảm xúc . Đặt biệt , một bản nhạc
nhan đề là " Bạc mệnh " - đưa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi sâu
thẳm trong tâm hồn của con người , khiến ai thưởng thức cũng phải đau khổ , sâầunão

đến rơi nước mắt , đến buốt nhói tim . Phải chăng " một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
" ấy như muốn dư báo những đâu khổ , bất hạnh chồng chất trong suốt 15 năm ròng của
đời người con gái tài sắc vạn toàn ?
Nhìn chung , Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều ,
nhà thơ đã cực tả Thúy vân , tưởng như sắc đạp của Thúy Vân không ai hơn được nữa ,
để rồi sau đó , Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc
đẹpcủa Thúy Kiều là tuyệt đỉnh . Còn tài của nàng cũng là tuyệt đỉnh . ( Giáo sư Nguyễn
Lộc )
Có thế nói rằng , lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà , hình ảnh người phụ nữ
hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn du
một cách say sưa , nồng nhiệt ,tập trung và trân trọng nhất. Đó là một cái nhìn của con
gnười có tấm lòng nhân dạo mênh mông như ngọn nước triều dâng . Nguyễn du dã mở
đườngbcho tư tưởng của mình đi trước thời đại . Bởi lẽ , trong xã hôi phong kiền đầy rẫy
nhưng bất công , ngang trái , hà khắc , phụ nữ luôn bị lép vế , bị ruồn rẫy , chà đạp , xô
đẩy đến bức đường cùng .
Một lần nữa ở bốn câu kết thúc của trích đoạn Chị em Thúy Kiều , Nguyễn Du miêu tả
cuộc sống phong lưu, êm đềm, khuôn phép , mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của cá hay
chị em :
Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê ,
Em đềm trướng rủ màn che .
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm , có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều
vẫn sống hòa thuận , vui vẻ trong cảnh trướng rủ màn che , không tơ tươởngđến những kẻ
dđ tìm tình yêu , đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa . Chính những nét hồn nhiên ,
trong sáng . thơ ngây đã nuôi dưỡng , bồi đắp cho sự hình thành - phát triển nhân cách và
ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này , đặc biệt là Thúy Kiều .
Tóm lại . bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú , tính tế , kỳ diệu , bằng một bút pháp
điêu luyện, bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết hợp với lòng thương yêu của con
người , nhất là người phụ nữa, Nguyễn du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã , vừa có

sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn chị em Thúy Kiều.
Có thế nói rằng , lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà , hình ảnh người phụ nữ
hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn du
một cách say sưa , nồng nhiệt ,tập trung và trân trọng nhất. Càng nâng niu , quý trọng
truyện Kiều ,chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du. Đó là một cái nhìn của con người có lòng nhân dạo mênh mông như ngọn nước tràn
ly
V. Phân tích
Nguyễn Du là một thi hào dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện
Kiều” - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều là một bài ca lớn về
giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái ác, cái phản nhân bản, một tập đại
thành của nghệ thuật văn chương . Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nhận vật, Nguyễn
Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ trích đoạn Chị em
Thúy Kiều đả thể hiện được trọn vẹn vè đẹp, tài năng va đức hạnh của hai chị em nàng
Thúy kiều. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh
của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần : “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới
thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử
dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc
hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du
cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

×