Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

thảo luận. PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI HÀNG MAY MẶC TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.98 KB, 34 trang )

A. LÝ THUYẾT : THƯƠNG MẠI HÀNG HOÁ.
I. BẢN CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC MUA BÁN CHỦ YẾU TRONG THƯƠNG
MẠI HÀNG HÓA.
1. Bản chất và phân loại Thương mại hàng hóa
1.1 Khái niệm Thương mại hàng hóa.
Thương mại hàng hóa là lĩnh vực trao đổi hàng hóa hữu hình, bao gồm tổng thể
các hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động hỗ trợ của các chủ thể kinh tế
nhằm thúc đẩy quá trình trao đổi đó diễn ra theo mục tiêu đã xác định.
Trong thương mại hàng hóa, quan hệ giữa người bán và người mua được thể
hiện trên thị trường thông qua hình thức trao đổi hàng hóa - tiền tệ hoặc hàng đổi
hàng.
1.2 Phân loại thương mại hàng hóa.
- Theo công dụng của hàng hóa:
+ Thương mại hàng sãn xuất: phản ánh quan hệ mua bán hoặc xuất khẩu các
hàng hóa với tư cách là các đầu tư vào sản xuất kinh doanh, bao gồm vật tư,
nguyên nhiên vật liệu, máy móc
+ Thương mại hàng tiêu dùng: là sự trao đổi mua bán hàng lương thực, thực
phẩm, công nghiệp tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu dời sống và sinh hoạt của con
người, nhu cầu tái sãn xuất sức lao động.
- Theo phạm vi trao đổi:
+ Thương mại hàng hóa trong nước: phản ánh quan hệ trao đổi hàng hóa giữa
các chủ thể trong nước tham gia thị trường trong giới hạn lãnh thổ quốc gia.
+ Thương mại hàng hóa quốc tế: phản ánh hoạt động trao đổi ngoại thương
giữa các nước trong khu vực hoặc trên thế giới.
- Theo đặc điểm của lưu chuyển hàng hóa:
+ Thương mại hàng hóa bán buôn : là sự trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các
nhà sản xuất với sản xuất, sản xuất với thương nhân Hoạt động này diễn ra chủ
yếu ở các chợ đầu mối, trung tâm bán buôn
+ Thương mại hàng hóa bán lẻ: là sự trao đổi mua bán trực tiếp về hàng hóa
giữa người sản xuất hoặc thương nhân bán lẻ và người tiêu dùng. Hoạt động này
thưởng diễn ra ở chợ, cửa hàng bách hóa, siêu thị


- Theo mức độ rào cản và hướng điều tiết vĩ mô:
+ Thương mại bảo hộ: là hoạt động trao đổi mua bán trong trường hợp có hàng
rào bảo hộ thông qua thuế quan, trợ cấp hoặc các biện pháp phi thuế nhằm cản trở
hàng hóa nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường quốc nội.
+ Thương mại tự do: là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa có rất ít hoặc
không gặp trở ngại nào về rào cản thương mại. Thường gắn liền với sự mở cửa về
thị trường hàng hóa trong quá trình hội nhập.
- Theo nhóm hàng kinh doanh: Thương mại hàng hóa có nhiều loại như Thương
mại hàng nông sản, Thương mại hàng thủy sản, Thương mại hàng dệt may, Thương
mại hàng thủ công mỹ nghệ, Thương mại hàng điện tử
2. Những đặc điểm cơ bản của thương mại hàng hóa.
2.1 Tính hữu hình của đối tượng trao đổi.
2.2 Sự chuyển quyền sở hữu của sãn phẩm trong trao đổi.
2.3 Lưu thông hàng hóa tách rời sản xuất và tiêu dùng.
2.2 Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa các khâu trong quá trình lưu thông hàng
hóa
3. Các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa.
3.1Mua bán buôn và mua bán lẻ
- Mua bán buôn: là phương thức trao đổi hàng hóa giữa các chủ thể nhà sản
xuất, thương nhân nhưng hàng hóa vẫn còn trong khâu lưu thông, chưa đến lĩnh
vực tiêu dùng.
- Mua bán lẻ: là phương thức trao đổi giữa các chủ thể người sản xuất, thương
nhân và người tiêu dùng, hàng hóa ra khỏi khâu lưu thông và bắt đầu đến lính vực
tiêu dùng.
3.2 Mua bán trực tiếp và qua trung gian
- Mua bán trực tiếp: là phương thức giao dịch và trao đổi trực tiếp hàng hóa –
tiền tệ giữa người mua và người bán.
- Mua bán qua trung gian: Nhà sản xuất và người tiêu dùng không có quan hệ
mua bán trực tiếp mà phải tiến hành giao dịch thương mại qua trung gian, tức
người thứ 3.

3.3 Mua bán qua đại lý và môi giới.
- Mua bán qua đại lý: Người sản xuất muốn trao đổi, mua bán với nhau hoặc
với người tiêu dùng, trong trường hợp này phải qua đại lý. Những mặt hàng áp
dụng phương thức mua bán này thường có quy mô sản xuất lớn, tính chuyên môn
hóa cao và được tiêu chuẩn hóa.
- Mua bán qua môi giới: Giữa người mua và người bán không tiến hành các
quan hệ giao dịch trực tiếp với nhau mà thông qua môi giới. Phương thức này
thường được áp dụng trong trường hợp người bán không biết người mua hoặc
ngược lại, ngoài ra còn có những yếu tố khác như năng lực giao dịch trực tiếp bị
hạn chế
3.4 Mua bán truyền thống và qua mạng Internet.
- Mua bán truyền thống: Người bán và người mua phải tiếp xúc trực tiếp với
nhau tại các địa điểm nhất định để thực hiện các giao dịch mua bán và thanh toán.
- Mua bán qua mạng Internet: Sử dụng Internet để tiến hành các giao dịch mua
bán hoặc xuất, nhập khẩu.
3.5 Mua bán thanh toán ngay và mua bán chịu.
- Mua bán thanh toán ngay có thể áp dụng cho toàn bộ lô hàng hoặc cả hợp đồng.
- Mua bán chịu áp dụng trong trường hợp giao hàng trước, thanh toán sau.
3.6 Các phương thức khác:
- Tạm nhập tái xuất: là phương thức xuất khẩu trở lại nước ngoài( ở nước tái
xuất) đối với những sản phẩm trước đây đã nhập khẩu nhưng chưa qua chế biến.
- Buôn bán đối lưu: Là phương thức hàng đổi hàng trong đó hoạt động mua và
bán kết hợp chặt chẽ với nhau, người bán đồng thời là người mua.
- Xuất nhập khẩu tại chỗ: Là phương thức mua bán giữa một bên trong nước và
mọt bên nước ngoài nhưng thông qua thể nhân hoặc pháp nhân của nước này đang
hiện diện ở nước bên kia.
- Gia công thương mại: Là phương thức trao đổi mà bên nhận gia công tiếp
nhận vật tư, nguyên liệu do bên đặt gia công giao hoặc bán cho, sau đó giao hoặc
bán lại cho bên đặt gia công.
- Đấu giá: Là phương thức mua bán đặc biệt trong đó hàng hóa được tổ chức

bán công khai tại một địa điểm nhất định và bán cho người trả giá cao nhất.
- Đấu thầu: Là phương thức mua bán đặc biệt trong đó người mua( người đấu
thầu) công bố các điều kiện mua hàng để người bán( người dự thầu) báo giá cả và
các điều kiện trả tiền sau đó người mua sẽ chọn mua của người bán rẻ nhất.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA KINH TẾ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA.
1. Nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa.
1.1 Nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua hàng hóa
-Là nhu cầu về hàng hóa bị giới hạn bởi khả năng thanh toán bằng tiền hay các
tài sản thanh toán của dân cư và xã hội.
- Sức mua hàng hóa phản ánh khối lượng hàng hóa mà người tiêu dùng nhận
được khi sử dụng quỹ mua để thanh toán tiaanf hàng trong điều kiện giá cả xác
định.
1.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán
* Nhóm yếu tố thuộc về nhu cầu nói chung:
- Các yếu tố về dân cư, điều kiện sinh hoạt và lao động của con người.
- Các sở thích, tập quán, thói quen tiêu dùng.
- Các điều kiện về tự nhiên.
* Nhóm yếu tố về thu nhập và phân phối thu nhập của dân cư, của xã hội.
- Thu nhập về tiền tăng lên thì nhu cầu có khả năng thanh toán sẽ mở rộng và cơ
cấu của nhu cầu cũn thay đổi theo hướng sử dụng nhiều hàng phi lương thực, thực
phẩm hơn và ngược lại.
- Hướng sử dụng thu nhập bằng tiền ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô và cơ cấu
chi tiêu của dân cư, của xã hội để mua hàng hóa trên thị trường.
* Nhóm yếu tố về sản xuất, cung ứng.
- Sản xuất và cung ứng dịch vụ phù hợp sẽ làm tăng khả năng thanh toán của xã
hội và ngược lại.
- Hoạt động sản xuất, cung ứng với tính ổn định càng cao và chi phí càng thấp
càng kích thích làng tăng nhu cầu có khả năng thanh toán.
* Nhóm yếu tố về giá cả, thị trường và cạnh tranh.
- Giá cả hàng tiêu dùng tăng thông thường làm hạn chế hoặc giảm nhu cầu có

khả năng thanh toán của dân cư và ngược lại.
- Hạ tầng của thị trường về kỹ thuật, về dân cư và pháp lý, dung lượng thị
trường, quan hệ cung cầu, xu hướng cạnh tranh về chất lượng đều ảnh hưởng tới
nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội.
* Nhóm yếu tố về chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ.
Chính sách của chính phủ có thể điều tiết cung, cầu và mối quan hệ đó, cũng
như giá cả.
1.3 Hoạt động mua hàng trên thị trường.
- Hoạt động mua hàng là bộ phận cấu thành của hoạt động thương mại. Hoạt
động mua hàng luôn phản ánh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhu cầu có khả
năng thanh toán của dân cư, của xã hội và doanh nghiệp.
- Đối với thương nhân, hoạt động mua hàng bao giờ cũng là khởi đầu của hoạt
động thương mại.
2. Cung ứng và nguốn cung ứng hàng hóa
2.1 Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hóa.
* Khái niệm: Cung ứng hàng hóa là tổng trị giá và cơ cấu hàng hóa hiện có và sẽ
có bán trên thị trường để đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán trong một
khoảng thời gian nhất định.
Cung ứng hàng hóa bao gồm những hàng hóa là các thành phẩm đã kết thúc quá
trình sản xuất.
*Các yếu tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hóa:
- Yếu tố về sản xuất
- Yếu tố về nguồn hàng nhập khẩu.
- Yếu tố về thị trường.
- Các chính sách vĩ mô.
2.2 Nguồn hàng cung ứng trên thị trường.
* Khái niệm: Nguồn hàng là nguồn tạo ra hàng hóa để cung ứng trên thị trường.
* Tạo lập nguồn hàng cung ứng trên thị trường:
- Nguồn hàng có 2 loại là nguồn hàng trong nước và nguồn nhập khẩu.
- Một mặt quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến

hoạt động cung ứng hàng hóa trên thị trường, mặt khác sự phát triển của nguồn
hàng phụ thuộc vào sản xuất,chính sách vĩ mô của chính phủ
2.3 Hoạt động bán hàng của các nhà cung ứng.
- Chủ thể là các nhà sản xuất hoặc thương nhân trong và ngoài nước.
- Đối với thương nhân, bán hàng(T-H’) là khâu kết thúc của mọi hoạt động
thương mại, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả thương mại.
3. Dự trữ hàng hóa trong lưu thông.
3.1 Khái niệm và sự cần thiết của dự trữ hàng hóa.
* Khái niệm: Dự trữ hàng hóa là một hình thái dự trữ sản phẩm xã hội, bao gồm
toàn bộ hàng hóa cần thiết đang vận động trong các khâu khác nhau của quá trình
lưu thông.
Các hình thái dự trữ sản phẩm xã hội gồm: dự trữ trong sản xuất, trong lưu thông
và trong tiêu dùng.
*Sự cần thiết của dự trữ hàng hóa.
- Dự trữ hàng hóa là điều kiện cần thiết của lưu thông, đảm bảo cho lưu thông
hàng hóa diễn ra liên tục thông suốt. Không có dự trữ hàng hóa thì không có lưu
thông hàng hóa.
- Dự trữ hàng hóa hình thành là do quan hệ cung cầu, giá cả và tình hình cạnh
tranh thị trường, do yêu cầu xữ lý mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, nhằm đảm
bảo cho quá trình lưu thông hàng hóa diễn ra liên tục, thông suốt.
3.2 Phân loại dự trữ hàng hóa.
* Theo công dụng của hàng hóa dự trữ.
- Dự trữ hàng sản xuất: bao gồm toàn bộ hàng hóa vật tư, nguyên, nhiên phụ
liệu, máy móc, thiết bị, phụ tùng,v.v.là những “đầu vào” phục vụ sản xuất được lưu
thông trên thị trường.
- Dự trữ hàng tiêu dùng bao gồm hàng lương thực, thực phẩm và hàng công
nghiệp tiêu dùng được lưu thông trên thị trường phục vụ tiêu dùng đời sống dân
cư.
* Theo mục đích sử dụng.
Phân loại theo mục đích sử dụng bao gồm: dự trữ thường xuyên, dự trữ thời vụ,

dự trữ bảo hiểm.
- Dự trữ thường xuyên : bao gồm toàn bộ những hàng hóa thường xuyên phải có
trên thị trường, nếu thiếu hàng sẽ gián đoạn lưu thông gây khó khăn và trở ngại cho
sản xuất và đời sống.
- Dự trữ thời vụ : bao gồm những hàng hóa được hình thành ở vào thời vụ của
sản xuất và tiêu dùng nhằm tận dụng tối đa các cơ hội trong mua và bán hàng hóa
hoặc khắc phục tính thời vụ của sản xuất và tiêu dùng.
- Dự trữ bảo hiểm: là loại dự trữ đề phòng những rủi ro, bất trắc xảy ra.
* Các phân loại khác như theo qui mô, thời gian, hình thức biểu hiện, và sự vận
động của dự trữ.
- Theo qui mô : bao gồm dự trữ thấp, cao nhất, và bình quân.
- Theo thời gian : gồm dự trữ hiện vật, tri giá dự trữ và thời gian dự trữ.
- Theo quá trình vận động : gồm hàng hóa dự trữ trong các kho hàng hóa đang
trên đường đi, hàng gửi bán hoặc quảng cáo tại các hội chợ thương mại.
3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới dự trữ hàng hóa.
Các nhân tố ảnh hưởng tới dự trữ hàng hóa bao gồm:
- Các yếu tố thuộc về sản xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ, tính chất và sự
phân bố sản xuất.
- Hệ thống giao thông và hạ tầng kỹ thuật.
- Mạng lưới thương mại và hệ thống phân phối, cơ sở vật chất kỹ thuật thương
mại.
- Tình hình thị trường và cạnh tranh trong thương mại, quan hệ cung cầu hàng
hóa giá cả, mức độ cạnh tranh và xu hướng biến động của các yếu tố và các quan
hệ khác.
3.4. Chi phí lưu thông hàng hóa.
* khái niệm.
Chi phí lưu thông là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động vật hóa phục
vụ cho việc tổ chức và quản lý quá trình lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế.
Chi phí lưu thông trong nền kinh tế bao gồm chi phí lưu thông của nhà sản xuất
trong mua các yếu tố đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, chi phí lưu thông của nhà

thương mại và chi phí thời gian mua sắm của người tiên dùng.
Trong đó chi phí lưu thông của thương mại là bộ phận lớn nhất.
* Ý nghĩa của việc hạ thấp chi phí lưu thông trong nền kinh tế.
- Giúp cho doanh nghiệp ưu tiên chi phí khác.
- Tiết kiệm chi phí và vốn đầu tư của nhà nước, của xã hội và của doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả thương mại và sức cạnh tranh của hàng hóa, của doanh
nghiệp cũng như của cả nền kinh tế.
- Tiết kiện chi phí thời gian và tiền bạc trong quá trình mua sắm hàng hóa của
người tiêu dùng.
Cần rút ngắn thời gian lưu thông để hàng hóa phát triển.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí lưu thông.
- Khối lượng và cơ cấu hàng hóa lưu thông, sự chuyển dịch cơ cấu hàng hóa lưu
chuyển sẽ làm thay đổi quy mô và cơ cấu chi phí lưu thông.
- Dự trữ hàng hóa và thời gian lưu thông, dự trữ hàng hóa càng lớn, thời gian lưu
thông hàng hóa càng kéo dài chi phí càng tăng và thậm chí gây lãng phí lớn tiền
vốn đầu tư vào lĩnh vực thương mại.
- Giá cả hàng hóa và giá các dịch vụ.tỉ suất chi phí lưu thông có quan hệ tỉ lệ
nghịch với giá cả và tỉ lệ thuận với giá cả dịch vụ.
- Sử dụng các phương thức mua bán, các phương tiện kinh doanh thích hợp thúc
đấy chu chuyển hàng hóa, giúp giảm thấp chi phí trong lưu thông nói chung và
trong khâu thanh toán tiền hàng.
- Ngoài ra còn có các nhân tố khác như điều kiện tự nhiên, những bất chắc do
chiến tranh, xung đột sắc tộc, dịch bệnh, thiên tai.
3.5. Kết quả trong thương mại hàng hóa,
* Khái niệm kết quả thương mại.
Kết quả thương mại là phạm trù kinh tế phản ánh kết cục hoạt động thương mại
của chủ thể nào đó trong một thời kỳ nhất định. Được xác định trên tầm vĩ mô và
doanh nghiệp. Kết quả phản ánh mục tiêu mà hoạt động thương mại cần hoặc đã
đạt được trong một thời gian nhất định.
Kết quả và hiệu quả thương mại có quan hệ tỉ lệ thuận với nhau.

* Các chỉ tiêu chủ yếu biểu hiện kết quả trong thương mại hàng hóa.
- Tổng mức lưu chuyển hàng hóa, thể hiện kết quả hoạt động thương mại nội địa
hay lưu thông hàng hóa trong nước.
- Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán buôn phản ánh kết quả dưới hình thái giá
trị các giao dịch thương mại diễn ra trên thị trường giữa các doanh nghiệp với nhau
trong hoạt động mua bán.
- Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng
của hoạt động lưu thông hàng hóa trong nước. Chỉ tiêu này rất cần thiết cho các
phân tích kinh tế vĩ mô về cân đối cung cầu, quĩ mua và nhu cầu có khả năng thanh
toán của cư dân và xã hội.
- Tổng kim nghạch xuất nhập khẩu phản ánh toàn bộ hoạt động thương mại
quốc tế hai chiều của một quốc gia, bao gồm kim nghạch xuất khẩu và nhập khẩu.
- Giá trị gia tăng trong thương mại hàng hóa là một chỉ tiêu rất quan trọng trong
hoạt động thương mại. Nó phản ánh khoảng cách chênh lệch tuyệt đối giữa kết quả
đạt được và chi phí nguồn lực bỏ ra trong trao đổi thương mại hàng hóa của quốc
gia. Giá trị gia tăng là chỉ tiêu phản ánh kết quả tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Là thước đo về hiệu quả và sức cạnh tranh của thương mại.
- Ngoài ra còn có chỉ tiêu tri giá thương mại hàng gia công. Trong thương mại
ngoài kết quả trao đổi theo các giao dịch thông thường còn có gia công, lắp ráp,
chế biến sản phẩm. Tuy mang tính sản xuất nhưng lại diễn ra trong khâu lưu thông
nên được tính là giá trị thương mại. Trị giá hàng hóa gia công trong lưu thông
thương mại quốc tế được coi là kim nghạch xuất khẩu thương mại. Có ý nghĩa
quan trọng trong đánh giá hiệu quả xã hội của thương mại thể hiện ở thu hút việc
làm, khai thác lợi thế về nhân công dồi dào, giá rẻ.
* Đặc điểm phát triển có tính quy luật trong thương mại hàng hóa.
Quy mô thương mại hàng hóa ngày càng tăng lên trên cả thị trường nội địa và
thị trường xuất khẩu, tỷ trọng thương mại có xu hướng giảm trong tổng thương
mại.
Cơ cấu thương mại hàng hóa ngày càng thay đổi theo hướng đa dạng hơn,
phong phú hơn và đáp ứng ngày càng nhanh hơn, tốt hơn nhu cầu thị trường.

Hàng hóa ngày càng phong phú về nhãn hiệu, có xuất xứ ngày càng đa dạng và
được tiêu chuẩn hóa.
4. Hiệp định gatt và các xu hướng tự do hóa, các vấn đề bảo hộ trong thương mại
hàng hóa.
4.1. Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) và những hiệp định có
liên quan tới GATT của WTO.
Mục tiêu của hiệp định gatt đó là tổ chức việc xây dựng và đề ra các nguyên tắc
đa phương về thương mại hàng hóa nhằm tạo ra một hệ thống thương mại tự do và
thông thoáng. Nhờ đó mà các doanh nghiệp của các nước thành viên với nhau có
thể buôn bán trao đổi với nhau trong những điều kiện cạnh tranh lành mạnh. Tạo ra
môi trường kinh doanh an toàn, ổn định và có thể dự đoán trước, đồng thời đảm
bảo cạnh tranh an toàn không phân biệt đối xử. Khuyến khích thúc đẩy phát triển
thương mại, đầu tư, sản xuất trên cơ sở xử dụng tốt hơn về nguồn lực.
Để đạt mục tiêu trên, gatt đưa ra 4 quy tắc cơ bản, đó là : bảo hộ nghành sản
xuất trong nước thông qua thuế quan; ràng buộc về thuế quan (giảm thuế và cam
kết không tăng thêm); đối xử tối huệ quốc (mfn); đối xử quốc gia (nt).
4.2. Vấn đề bảo hộ trong thương mại hàng hóa.
* Căn cứ của chính sách bảo hộ trong thương mại hàng hóa.
Do năng lực cạnh tranh trong nước về hàng hóa còn hạn chế.
Do yêu cầu bảo vệ sản xuất nội địa đối với các nghành, nhóm hàng nhạy cảm,
nghành sản xuất non trẻ đòi hỏi phải có sự hỗ trợ trong nước.
Do yêu cầu khác như về an ninh kinh tế, vấn đề việc làm thất nghiệp.
* Các biện pháp rào cản của chính sách bảo hộ trong thương mại hàng hóa.
Bảo hộ hàng hóa trong nước tránh sự thâm nhập của hàng nhập khẩu bao gồm
nhiều hình thức khác nhau như thuế, trợ cấp, lãi suất, thưởng và hỗ trợ tài chính
khác.
* Ảnh hưởng và hạn chế của chính sách bảo hộ trong thương mại hàng hóa
- Tích cực: bảo vệ nghành sản xuất mới, non trẻ,các nghành nhạy cảm và liên
quan tới an ninh kinh tế và an ninh quốc gia. Bảo vệ lợi ích kinh doanh nhỏ và
quyền lợi người tiêu dùng. Chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập và cạnh tranh.

- Tiêu cực: bóp méo thương mại cà cạnh tranh, phân biệt đối xử. Có nguy cơ tạo
nên sự trì trệ, thiếu năng động, không thúc đẩy đổi mới và phát triển nếu bảo hộ
không hợp lí, không có giới hạn,
* Xu hướng cơ bản về hội nhập trong thương mại hàng hóa quốc tế.
Đơn phương mở của thị thường, hợp tác song phương và tự do hóa thương mại
hàng hóa.
Khu vực hóa tự do hóa thương mại khu vực.
Tăng cường hợp tác, thực hiện các cam kết và thỏa thuận đa phương.
B. PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI HÀNG MAY MẶC TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI
ĐỊA.
I. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình chung của thị trường may mặc nội địa.
1. Tính cấp thiết:
Từ năm 2005, ngoài việc tập trung sử dụng hiệu quả lượng hạn ngạch vào Mỹ,
khai thác tốt thị trường Nhật, SNG, đặc biệt là EU, các chuyên gia cho rằng, doanh
nghiệp dệt may VN nên tập trung đầu tư hơn cho "sân nhà".
Theo tính toán của Tổng công ty Dệt may VN (Vinatex), năm 2004, các doanh
nghiệp may đã dành tới hơn 92% lượng sản phẩm để xuất khẩu. Điều đó cho thấy
thị trường nội địa chưa được chú trọng đúng mức.
Các chuyên gia thương mại khuyến cáo, trong bối cảnh các nước thành viên Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) đã được bãi bỏ hạn ngạch, còn VN thì chưa, hàng
dệt may sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trên thị trường xuất khẩu. Do
đó, trong thời gian tới, ngoài việc tiếp tục tận dụng cơ hội hạn ngạch được xoá bỏ ở
một số thị trường xuất khẩu trọng điểm, các doanh nghiệp dệt may VN nên tập
trung nguồn lực để phát triển thị trường nội địa nhiều hơn nữa.
Trong chiến lược quay về "sân nhà", các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có vai trò
quan trọng. Chủ tịch Hiệp hội Dệt may cho rằng, lợi thế của các doanh nghiệp này
là rất linh hoạt và bắt nhịp rất nhanh với xu hướng thị trường.
Hơn nữa, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp và Hiệp hội Dệt may đã có chủ
trương thành lập những liên kết chuỗi để có thể cộng sức mạnh của các doanh
nghiệp trung ương và địa phương, giữa doanh nghiệp lớn và nhỏ với nhau.

Mô hình này lâu nay đã được Vinatex triển khai theo hướng các doanh nghiệp
lớn của Vinatex chỉ phụ trách khâu thiết kế mẫu mã, quản lý kỹ thuật và làm
thương mại. Khâu sản xuất sẽ chuyển dịch dần xuống các địa phương, năng lực của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được tận dụng triệt để nhằm thực hiện mục tiêu
chung.
Sống tốt tại thị trường nội địa không phải là điều dễ dàng, hàng nội vẫn chịu
phần thua thiệt khi cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu. Hai dòng sản phẩm ngoại
đang "thịnh" trên thị trường nội địa là hàng thời trang nữ của Trung Quốc và hàng
thời trang cao cấp của một số nước xung quanh. Trong mảng thời trang nam, trẻ
em, đồng phục các doanh nghiệp VN dần khẳng định vị thế. . Cái yếu của các
doanh nghiệp VN là hàng thời trang cho phái nữ chưa cạnh tranh được với hàng
ngoại.
Thứ trưởng Công nghiệp Bùi Xuân Khu cũng nhìn nhận năm 2005 sẽ là năm
khởi đầu của thời kỳ hội nhập thế giới, chắc chắn những khó khăn mà ngành dệt
may VN phải đối mặt là không nhỏ. Ông cho rằng, nếu các doanh nghiệp dệt may
VN khai thác tốt thị trường nội địa bên cạnh chiến lược nâng cao khả năng cạnh
tranh, đẩy mạnh xuất khẩu, chắc chắn ngành dệt may trong những năm tới sẽ phát
triển mạnh. Theo ông Khu, các doanh nghiệp nên mở ra nhiều siêu thị, trung tâm
thương mại và tiếp tục phát triển thêm nhiều hệ thống phân phối hàng hoá.
2. Tình hình chung của hàng may mặc nội địa.
Trong những năm gần đây, nhờ mẫu mã đa dạng, chất lượng tốt, hàng may mặc
của Việt Nam ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trên thị trường, không chỉ ở dòng sản
phẩm phổ thông mà cả những sản phẩm cao cấp.
Nếu như trước đây, nhiều người tiêu dùng (NTD) Việt Nam khi mua những
trang phục cắt may sẵn thường có xu hướng chọn những sản phẩm nhập khẩu, đặc
biệt là hàng Trung Quốc, bởi mẫu mã đa dạng, hợp thời trang, giá rẻ Tuy nhiên, ở
nguồn hàng nhập khẩu này thường xảy ra các sự cố như hàng nhái, hàng kém chất
lượng Đây cũng chính là cơ hội để các thương hiệu thời trang may mặc của các
công ty lớn trong nước đã có những chiến lược kinh doanh. Bằng chất lượng, hàng
may mặc Việt Nam ngày càng thu hút được sự quan tâm của nhiều đối tượng NTD.

Hàng may mặc Việt Nam không chỉ tập trung ở hệ thống siêu thị, mà ngày càng
xuất hiện nhiều cửa hàng chuyên bán các sản phẩm may mặc Việt Nam. Theo nhận
định của giới kinh doanh, hệ thống các cửa hàng này đã “đủ sức” cung ứng ra thị
trường nhiều mẫu mã quần áo hợp thời trang, phù hợp cho mọi đối tượng và thị
hiếu NTD. Đặc biệt, NTD trong nước có thể chấp nhận giá bán khá hợp lý (từ vài
chục ngàn đến vài triệu đồng/sản phẩm), hàng thời trang Việt đang dần chiếm lĩnh
thị trường, nhất là phân khúc thị trường cao cấp – trước đây chủ yếu thuộc về các
hàng nhập khẩu. Theo thống kê từ các siêu thị, hàng may mặc Việt Nam chiếm
khoảng 90% tổng lượng hàng đang kinh doanh. Trên thị trường hiện nay, các
thương hiệu như: Việt Tiến, Việt Thắng, Mattana, An Phước, Việt Thy, Ninomaxx,
M&N, Sifa, Foci, Blue Exchange ngày càng được khách hàng tin dùng.
Hàng may mặc Việt cạnh tranh bằng chất lượng, đa dạng chủng loại từ dòng
hàng phổ thông đến trung và cao cấp, các nhãn hàng thời trang trẻ em “Made in
Vietnam” đang có chỗ đứng khá vững trên thị trường. Nhiều nhãn hàng đã xác lập
được thương hiệu của mình như: Việt Thy Kids, Sanding, Kids & Kico, YF, A&T,
Pencil
II. Hiện trạng, tiềm lực và chiến lược phát triển của thương mại hàng may mặc trên
thị trường nội địa.
1. Hiện trạng thị trường hàng may mặc nội địa.
1.1 Tích cực.
1.1.1 Sự tăng trưởng khá của may mặc Việt Nam.
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, với 85 triệu dân hiện nay và sẽ tăng lên 100
triệu dân trong năm 2015, thị trường tiêu thụ nội địa rất lớn, các doanh nghiệp sản
xuất hàng dệt may không thể bỏ qua cơ hội để chiếm lĩnh thị trường nội địa. Năm
2009, tổng tiêu thụ nội địa ước đạt 1,8 tỷ USD, trong khi đó, xuất khẩu dệt may đạt
gần 6 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ hàng nội địa đạt khoảng 15%/năm,
nhưng thực tế chỉ chiếm 1/4 năng lực sản xuất. Phần lớn doanh nghiệp dệt may
trong nước chỉ chú trọng đầu tư để xuất khẩu là chính, chưa quan tâm nhiều cho
phát triển xây dựng thương hiệu tại thị trường nội địa
Các doanh nghiệp phải xác định, dùng thị trường nội địa làm căn bản, thị trường

xuất khẩu là động lực phát triển của ngành dệt may. Khi gia nhập WTO, Việt Nam
có thêm nhiều cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu và đón nhận đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực dệt may. Tuy nhiên, thị trường nội địa cũng sẽ đối mặt với nhiều cạnh
tranh mới về giá cả, nhất là đối với hàng thời trang Trung Quốc. Hiện thuế nhập
khẩu hàng Trung Quốc đi qua đường chính ngạch vào Việt Nam chỉ còn 10%, thay
vì 40%-50% như trước.
năm vừa qua cũng như trong thời gian tới ngành dệt may vẫn luôn định hướng đi
sâu vào các thị trường nội địa. Chính những khó khăn về xuất khẩu trong năm qua
cũng như trong những năm tiếp theo, đã khiến nhiều doanh nghiệp cơ cấu lại hoạt
động sản xuất kinh doanh, đầu tư mạnh cho thị trường nội địa. Nỗ lực cạnh tranh
với các nước xuất khẩu để dành lấy phần thị trường đang bị co hẹp và đẩy mạnh
chiếm lĩnh thị trường nội địa là chiến lược hành động thành công của hầu hết các
doanh nghiệp dệt may.
Thị trường nội địa, được coi là một cứu cánh của nhiều doanh nghiệp dệt may
trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Năm 2011, mặc dù nền kinh tế có nhiều khó
khăn nhưng doanh thu từ thị trường nội địa của các doanh nghiệp dệt may vẫn tăng
trưởng khá. Theo báo cáo của Bộ Công thương, kết thúc năm 2011, doanh thu từ
thị trường nội địa của các doanh nghiệp thuộc Vinatex ước đạt 17.200 tỷ đồng, tăng
trưởng 15%.
Năm 2011 mặc dù người dân phải thắt chặt chi tiêu, nhưng ngành vẫn có mức tăng
trưởng khá. Điều này chứng tỏ sản phẩm dệt may đã có chỗ đứng vững chắc hơn
trên thị trường nội địa.
Năm 2011, sản phẩm dệt may “Made in Vietnam” tiếp tục được người tiêu dùng
sản lựa chọn. Nghiên cứu mới đây của Niesel - công ty chuyên cung cấp thông tin
về đo lường các chỉ số truyền thông và thị trường còn cho thấy, có đến 90% người
được hỏi ở Tp.HCM và 83% ở Hà Nội cho biết họ có thể hoặc chắc chắn sẽ mua
hàng Việt Nam nhiều hơn.
Năm 2012, kế hoạch tăng trưởng doanh thu từ thị trường nội địa được Vinatex
đặt ra ở mức 18 – 20%. Hệ thống phân phối của Tập đoàn và các đơn vị thành viên
đã được mở rộng về các tỉnh, thành phố với hơn 3.445 điểm bán tại các đại lý, cửa

hàng; 60 siêu thị Vinatex – mart, Trung tâm thương mại. Với chiến lược phát triển
thị trường nội địa, các doanh nghiệp thuộc tập đoàn đã tích cực tham gia các hoạt
động như đưa hàng về nông thôn, hội chợ quảng bá sản phẩm dệt may…
Trong năm qua, các doanh nghiệp (DN) thành viên của Tập đoàn Dệt may Việt
Nam (Vinatex) đã nỗ lực đầu tư sản xuất, chú trọng đổi mới mẫu mã sản phẩm,
củng cố và phát triển thương hiệu, mở rộng kênh phân phối để chiếm lĩnh thị phần
tại thị trường trong nước. Nhiều đơn vị có tăng trưởng cao như Tổng Công ty May
Đức Giang - tăng 27%; các công ty may Tân Châu, Đáp Cầu, Bình Minh… tăng
hơn 16%. Trong đó, hệ thống phân phối của Công ty CP Kinh doanh hàng thời
trang Việt Nam (Vinatexmart) đóng vai trò quan trọng đưa sản phẩm đến với người
tiêu dùng.
Bằng việc mở rộng điểm bán hàng để chiếm lĩnh thị trường, đến nay
Vinatexmart đang sở hữu 82 siêu thị tại 28 tỉnh, thành phố trên cả nước. Ngoài ra,
các đơn vị thành viên của Vinatex cũng tích cực mở rộng hệ thống cửa hàng giới
thiệu sản phẩm, đại lý về khắp các tỉnh, thành phố với khoảng 4.000 điểm bán
hàng. Kênh phân phối này đã góp phần đưa hàng dệt may chất lượng tốt, giá cả
hợp lý đến người tiêu dùng. Bên cạnh đó, trong chương trình hợp tác tiêu thụ sản
phẩm của nhau giữa các tập đoàn, tổng công ty thuộc Bộ Công thương mới đây,
Vinatex đã ký kết 7 biên bản ghi nhớ với các tập đoàn: Dầu khí Việt Nam, Xăng
dầu Việt Nam, Điện lực Việt Nam, Hóa chất Việt Nam… Ngoài ra, Vinatex còn
thực hiện hơn 15 đợt bán hàng phục vụ công nhân tại các khu công nghiệp khắp cả
nước; đưa hàng về vùng sâu, vùng xa các tỉnh phía Bắc, miền Trung, khu vực
Đông Nam bộ, Tây Nam bộ…
Để tăng năng lực cạnh tranh cho các DN, Tập đoàn đã đầu tư mới và bổ sung
hơn 50 dự án, chủ yếu trong lĩnh vực sợi, dệt nhuộm và may. Trong đó có những
dự án trọng điểm đã đi vào hoạt động trong năm qua như: Đầu tư 4 vạn cọc sợi của
Công ty CP Dệt may Nha Trang, với công suất thiết kế 4.200 tấn/năm; Nhà máy
sợi Phú Xuyên, với sản lượng thiết kế 2.800 tấn/năm; đầu tư bổ sung 1 vạn cọc sợi
tại Tổng Công ty Dệt may Hòa Thọ, với công suất thiết kế 1.200 tấn/năm… Nhờ
đó, năng lực tăng thêm sau khi đầu tư đạt gần 8.000 tấn sợi, 868 tấn vải dệt kim,

3,6 triệu mét vải jean, 2,7 triệu mét vải dệt thoi…
Doanh thu nội địa đạt gần 1 tỷ USD, đóng góp 30% trong tổng giá trị doanh
thu của Tập đoàn, thực sự là kết quả đáng khích lệ so với mức 15% của những năm
trước. Phát huy kết quả đó, các DN thành viên tiếp tục chiến lược tập trung vào
phân khúc trung và cao cấp, thể hiện rõ với hơn 80 điểm bán hàng đặt tại các siêu
thị hiện đại ở các thành phố lớn.
Dù doanh thu tại thị trường trong nước vẫn tăng trưởng nhưng do mức giá còn
khá cao nên độ phủ của sản phẩm dệt may trong nước chưa rộng. Một bộ phận
không nhỏ người tiêu dùng có thu nhập thấp lại chưa thể sử dụng được hàng Việt
Nam cũng là điều đang khiến các DN trăn trở. Lý giải cho vấn đề này, đại diện Tập
đoàn cho biết, do chỉ chiếm 20% thị phần nên Vinatex phải chú trọng phát huy thế
mạnh bằng các sản phẩm chất lượng cao. Mặc dù thị trường sản phẩm may mặc
khu vực nông thôn được ví là "miếng bánh ngon" nhưng việc triển khai hệ thống
phân phối tại khu vực này còn gặp nhiều khó khăn do nhu cầu tiêu dùng chưa cao,
các kênh phân phối nhỏ khi giao hàng thường nợ đọng vốn, nên lượng vốn lưu
động cần rất lớn. Vì thế, dù đây là thị trường tiềm năng, nhưng Vinatex vẫn chưa
giải quyết được việc cân đối nguồn lực theo thứ tự ưu tiên. Tuy nhiên, với 4.000
DN dệt may hiện nay, việc điều tiết trong lựa chọn hướng ưu tiên tiêu dùng nội địa
của các DN vừa và nhỏ có nhiều cơ hội.
Với những kinh nghiệm tích lũy được trong năm 2011, trong năm 2012, ngành dệt
may sẽ đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa. Hiệp hội Dệt may khuyến cáo các
doanh nghiệp trong ngành cần tìm hiểu thị hiếu của từng vùng, lắng nghe ý kiến
của người dân để từng bước hoàn thiện sản phẩm cho phù hợp, phân khúc lại thị
trường nhằm mục tiêu kinh doanh lâu dài.
* Tái cấu trúc ngành dệt may hướng tới phát triển bền vững
Để ngành dệt may Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển bền vững thì việc tái
cấu trúc ngành là rất cần thiết. Tập đòan dệt may cho biết, việc tái cấu trúc lại
ngành dệt may đã và đang được thực hiện theo hướng sản xuất những sản phẩm
sinh thái, sản phẩm kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng là điều tất
yếu. Thực tế, ngay ở thời điểm hiện tại nhiều nước nhập khẩu sản phẩm may mặc

của Việt Nam đã xây dựng những tiêu chí về môi trường, tiêu chí về đảm bảo sức
khỏe của người tiêu dùng rất chặt chẽ. Đây không chỉ là vấn đề đảm bảo môi
trường, đảm bảo cho quyền lợi của người tiêu dùng mà đây cũng chính là những
rào cản thương mại khó vượt của các nước nhập khẩu.
Mặt khác, theo Tập đoàn dệt may, việc tái cấu trúc còn tập trung phát triển
ngành theo chiều sâu như đầu tư cho khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa công nghệ sản
xuất thông qua đó giảm số lượng công nhân, nâng cao giá trị gia tăng cho sản
phẩm, tiết kiệm năng lượng, cải thiện môi trường làm việc cho người lao động…
Điều đáng mừng là một số doanh nghiệp trong ngành bao gồm : Tổng công ty Cổ
phần dệt may Hòa Thọ, May Việt Tiến… đã rất chủ động trong việc đầu tư cho
khoa học kỹ thuật, đặc biệt sử dụng phương pháp Lean. Đây là phương pháp sản
xuất tinh gọn, giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian gia công sản phẩm, tiết kiệm
năng lượng, giảm chi phí sản xuất giúp tăng lợi nhuận. Cùng đó, Tập đoàn dệt may
sẽ tiếp tục hướng doanh nghiệp tập trung theo hướng đẩy mạnh thương mại điện tử
và nên có định hướng cùng nhau phối hợp xây dựng một sàn giao dịch sản phẩm
dệt may điện tử. Khi có một hệ thống hàng hóa được mã hóa, số hóa doanh nghiệp
sẽ rất thuận lợi trong việc quản lý, phân phối.
Tái cấu trúc lại ngành dệt may không phải là điều dễ dàng, nhưng với những
thành quả mà ngành đạt được trong những năm qua thì đây không phải là những
khó khăn không thể vượt qua.

1.1.2 Người tiêu dùng đã nhận thức đúng hơn về hàng Việt.
Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển và mức thu nhập bình quân đầu
người chưa cao. Nhìn chung, người tiêu dùng Việt Nam chưa thực sự cần hàng dệt
may có thương hiệu nổi tiếng, mà chủ yếu là giá cả hợp lý, kiểu dáng chấp nhận
được, chất liệu phù hợp là được.
Người tiêu dùng Việt Nam khó tính. Với thu nhập bình quân đầu người thấp,
hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Thực tế thì trong lĩnh vực may mặc,
thời trang
Tâm lý chung ai cũng muốn mặc đồ tốt và rẻ. Hiện tại Việt Nam có 3 xu thế chính.

Xu thế phổ biến nhất ở các vùng nông thôn, xa các trung tâm đô thị, là mặc đồ rẻ,
không quan tâm tới thương hiệu cũng như các vấn đề khác. Xu thế thứ 2 thì chỉ
thích hàng có thương hiệu, mà phải là thương hiệu ngoại, và đắt mấy cũng mua.
Còn xu thế thứ 3 là tìm đến các thương hiệu trong nước có tên tuổi, có uy tín và có
trách nhiệm với người tiêu dùng.
Từ năm 1996, May 10 đã làm hàng sơ mi cho Pierre Cardin. Thế nhưng phải
nhiều năm sau người tiêu dùng trong nước mới biết tới và thích dùng hàng Pierre
Cardin.
Từ thực tế, người tiêu dùng Việt Nam là những người tiêu dùng rất khó tính. Họ
đòi hỏi giá sản phẩm không được cao mà chất lượng thì phải tốt nhất.
Thực tế cuộc sống cho thấy, tâm lý thích hàng ngoại ở người tiêu dùng Việt Nam
vẫn còn lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có rất nhiều thương hiệu tốt nhưng
nếu so với các thương hiệu có lịch sử cả trăm năm ở nước ngoài thì các thương
hiệu trong nước chưa thể cạnh tranh được, dù giá trị sử dụng của sản phẩm có khi
không khác nhau. Thậm chí, người tiêu dùng mua hàng ngoại không phải lúc nào
cũng được phục vụ tốt như khi mua hàng nội.Dẫu rằng Việt Nam đã hội nhập kinh
tế quốc tế và chúng ta phải tuân thủ các cam kết quốc tế mà mình đã đưa ra, nhưng
để doanh nghiệp dệt may của Việt Nam lớn mạnh vẫn cần bàn tay hỗ trợ của Nhà
nước.
Tuy vậy, sau 3 năm triển khai thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam”, người tiêu dùng đã có những hiệu quả đáng ghi nhận.
Người tiêu dùng đã nhận thức đúng hơn về chất lượng của hàng Việt nên có
chuyển biến tích cực trong việc mua sắm. Xu hướng chọn dùng hàng nội thay cho
hàng ngoại ngày càng tăng.
1.1.3 Các thương hiệu nổi tiếng, có chỗ đứng vững chắc trong thị trường nội địa.
Trong năm qua, ngành Dệt - May Việt Nam đã có bước phát triển khá mạnh mẽ,
thu hút được nhiều lao động, đang là ngành kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong
toàn ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Và góp
phần vào những bước thành công trong ngành may mặc ta không thể không nhắc
đến một số doanh nghiệp đi đầu về sản phẩm may mặc trong nước. Đó là các

doanh nghiệp như: Nhà Bè, Việt Tiến, May 10
Công ty may Nhà Bè khởi đầu từ hai xí nghiệp may Ledgine và Jean Symi
thuộc khu chế xuất Sài Gòn hoạt động từ trước năm 1975. Sau hơn 30 năm, thành
công lớn nhất của Nhà Bè là tạo được uy tín với khách hàng trong và ngoài nước
về năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, đồng thời xây dựng được một đội ngũ
vững mạnh, đoàn kết hướng đến những mục tiêu cao hơn.
Được biết đến là công ty đi đầu về ngành may mặc Việt Nam, Việt Tiến được
người tiêu dùng bình chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao 15 năm liền từ 1997-
2012 qua báo Sài Gòn Tiếp Thị. Với trình độ tay nghề cao cùng với đội ngũ quản lí
chuyên nghiệp, công ty may Việt Tiến đưa đến cho người tiêu dùng nhiều sản
phẩm chất lượng , mỗi năm công ty đưa đến thị trường khoảng 40.000.000 sản
phẩm cùng hàng chục mẫu mã khác nhau, doanh thu hàng chục tỷ đồng. Không chỉ
dừng lại ở thị trường trong nước, sản phẩm may mặc của Việt Tiến còn có giá trị
xuất khẩu ra nước ngoài, thị trường chính: Mỹ, Tây Âu, châu Á, các nước
ASEAN…
Nằm trên số 765 Nguyễn Văn Linh, Sài Đồng, Long Biên, Hà Nội, May 10 với
hơn 60 năm hình thành và phát triển đã trở thành doanh nghiệp mạnh trên thị
trường may mặc Viêt Nam. Mỗi năm tổng công ty cung ứng ra thị trường khoảng
21 triệu sản phẩm chất lượng cao các loại, hơn 80% xuất khẩu sang các thị trường:
Mỹ, EU, Nhật Bản công ty còn nhận được các giải thưởng: Giải thưởng Chất
lượng Việt Nam, Giải thưởng Chất lượng Châu Á - Thái Bình Dương.
Chính nhờ sự phát triển của các doanh nghiệp may hiện nay đã góp phần thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, tăng tổng thu nhập quốc dân, đưa Việt Nam lên tầng cao
mới về phát triển các ngành công nghiệp trong nền kinh tế.
1.1.4 Hàng may mặc giảm giá để chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Trước sự tẩy chay hàng Trung Quốc mạnh mẽ của người tiêu dùng Việt, hàng
Việt Nam lại càng có cơ hội bao phủ thị trường trong nước. Thế nhưng một số
doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng với chính thị trường nước nhà bởi từ trước đến
nay, họ chỉ quen làm ra các sản phẩm phục vụ xuất khẩu, nay kinh tế khó khăn
không xuất đi được đành quay về bán cho người tiêu dùng trong nước. Vì thế, mẫu

mã và công dụng, kiểu dáng nhiều khi không phù hợp với người Việt.
Xét về năng lực thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam, đa số sản phẩm có
chất lượng phù hợp với phân khúc thị trường trung bình thấp, chỉ một số mặt hàng
trung bình khá. Thế nhưng giá cả lại chưa phù hợp với đối tượng người tiêu dùng
thu nhập thấp.
Ngoài ra, khi các doanh nghiệp nỗ lực để có sản phẩm phù hợp đã khó, lúc đưa
sản phẩm vào siêu thị lại càng khó hơn. Dù các siêu thị chỉ đặt ra những tiêu chuẩn
cơ bản để bảo đảm chất lượng hàng hóa bán tại kênh cung cấp của mình, nhưng
một số nhân viên kinh doanh đã lợi dụng điều đó để làm khó doanh nghiệp, vòi
tiền. Vì thế, nhiều nhà sản xuất cho biết, muốn vào được siêu thị thì phải mất tiền,
muốn hàng hóa được bày ở vị trí đẹp cũng phải mất tiền… Chi phí bất thành văn
quá lớn khiến doanh nghiệp nản chí.
Nhưng rất may là các doanh nghiệp dệt may trong nước đã kịp thời đón được
làn sóng tiêu dùng quay lại với hàng Việt, nên họ đã có những chiêu thức phù hợp
với thị trường. Có thể thấy, hầu hết các nhà công ty may mặc nội địa đều đang tăng
sức cạnh tranh cho thương hiệu bằng cách thiết kế các mẫu mới, gia tăng dịch vụ,
vừa giảm giá bán lẻ…
Cụ thể, công ty thời trang Việt đã tung ra 300 mẫu thiết kế mới nhất, với hai
nhãn hiệu chủ lực là Ninomaxx và N&M, chiến lược thiết kế mới, nghiêng về “thời
trang cơ bản” với những mẫu mã dễ mặc, dễ sử dụng. Đồng thời, mức giá bán lẻ
trên mỗi sản phẩm chỉ còn khoảng 100.000 – 150.000 đồng/sản phẩm, phù hợp với
khả năng chi tiêu của người tiêu dùng trung bình.
Cũng trong thời gian này, công ty thời trang Việt Thy tung ra thị trường hơn 100
mẫu thiết kế mới, tăng gấp đôi so với năm ngoái, với giá bán nằm trong khoảng từ
79.000 – 349.000 đồng/sản phẩm, thấp hơn khoảng 20% so với năm trước. Đến
đầu tháng 12/2012 này, công ty sẽ tung ra chương trình bán giảm giá 40 – 50%,
đồng thời bán hàng đồng giá với mức vài chục ngàn đồng/sản phẩm.
Tương tự, thương hiệu thời trang Foci cũng giới thiệu với thị trường 300 mẫu
thiết kế mới, số lượng sản xuất mỗi mẫu cũng giảm chỉ bằng 50% năm ngoái. Giá
bán lẻ sản phẩm bình quân chỉ còn 128.000 đồng/sản phẩm, so với mức 168.000

đồng/sản phẩm vào dịp cuối năm ngoái. Ngoài ra, năm nay, thương hiệu còn gia
tăng thêm dịch vụ bán hàng trên mạng, mua hàng cho đổi trả trong 30 ngày và thực
hiện chương trình bán hàng lưu động tại các ký túc xá sinh viên, với mức giảm giá
30 – 70% tuỳ mặt hàng.
Mặc dù là sản phẩm mới, nhưng các siêu thị như Co.opmart tung ra bộ sưu tập
hàng may mặc Giáng sinh với 450 mẫu mới, cũng giảm giá đến 50%. Vinatexmart
cũng tương tự, giảm giá đến 50% cho hơn 500 mẫu mới dành cho Noel và Tết.
Có thể thấy, song song với việc tung hàng mới, các nhãn hiệu may mặc đều có
chương trình khuyến mãi giảm giá mạnh, mức giảm giá lên đến 90% để thanh lý
hàng tồn, và tạo tâm lý giá rẻ kéo khách. Với những chiêu quảng cáo bằng cách
giảm giá mạnh, cộng với các thiết kế phù hợp với người tiêu dùng trong nước, hy
vọng ngành dệt may Việt Nam sẽ bao phủ được thị trường trong nước, không chỉ ở
thành thị mà còn có mặt tại nông thôn, đánh bật những mặt hàng bẩn và độc hại ra
khỏi cuộc sống người Việt.
1.2 Tiêu cực.
1.2.1 Thị trường nội địa chưa được khai thác tốt, chưa đáp ứng đủ nhu cầu người
tiêu dùng.
Suốt một thời gian dài tập trung chủ yếu vào hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp
(DN) kinh doanh hàng may mặc trong nước hầu như chưa coi trọng thị trường nội
địa, trong khi đã có hơn 140 thương hiệu nước ngoài có mặt tại Việt Nam, cùng
lượng lớn hàng nhái đồ hiệu Trung Quốc.
Các doanh nghiệp chưa khai thác tốt thị trường nội địa. Khi nhận thức rõ tầm
quan trọng của thị trường nội địa với hơn 80 triệu dân là thị trường giàu tiềm năng,
nhất là trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, xuất khẩu khó khăn, các DN đã đầu tư
cho việc xây dựng thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường quảng
bá. Song để có thể đứng vững trên thị trường nội địa trong bối cảnh yêu cầu của
người tiêu dùng ngày càng cao, DN cùng nhà thiết kế (NTK) cần nghiên cứu một
cách bài bản về nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
Hiện nay, khách hàng tiêu dùng thời trang có thể tạm chia làm 3 nhóm:
- Nhóm có thu nhập thấp thường sử dụng hàng may sẵn, rẻ tiền nhưng nhanh

hỏng.
- Nhóm có thu nhập cao sử dụng sản phẩm của các hãng thời trang cao cấp.
- Nhóm trung lưu chiếm số lượng khá đông đảo, không chấp nhận lối mặc đại
trà, hàng kém chất lượng của Trung Quốc, nhưng lại không quan tâm tới các loại
hàng hiệu. Đối tượng này khá khó tính, nhưng lại có nhu cầu lớn về thời trang.
Thời trang của họ phải đẹp, độc đáo, sang trọng, lại hợp túi tiền. Phục vụ nhóm
khách hàng trung lưu chủ yếu vẫn là các nhà may, cửa hàng thời trang đơn lẻ. Một
số DN có tên tuổi đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu nhóm này, nhưng lại chuyên về
thời trang của "phái mạnh" như Việt Tiến, May 10, Thành Công, Nhà Bè mà
chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn của "phái đẹp".
* Thị trường may mặc Việt Nam vẫn còn nhiều phân khúc bị bỏ trống:
- Chưa chú trọng hàng may mặc phân khúc từ 7-10 tuổi:
Trên thực tế, nhu cầu sinh con ngày càng ít, hơn nữa với tâm lý luôn dành
những điều tốt đẹp nhất cho con, nên giá bán cho dù có đắt thì các bà mẹ cũng
đành “bấm bụng” mua. Đáp ứng nhu cầu này, đồng thời lấp khoảng trống mà các
DN trong nước chưa quan tâm, đầu tư đúng mức, tại TPHCM đã xuất hiện ngày
càng nhiều các shop chuyên bán hàng xách tay từ các nước như Mỹ, Pháp, Anh,
hoặc được nhập từ Hàn Quốc, Hồng Công, Thái Lan…
Giá bán các loại quần áo ở độ tuổi này không hề rẻ. Một bộ đồ thun bé trai từ 7 - 9
tuổi từ 300.000 - 500.000 đồng/bộ; bộ đầm rẻ nhất cũng có giá 400.000 đồng, cao
cấp hơn có thể lên tới 800.000 - 1 triệu đồng.
Khách hàng đến mua chủ yếu là những người có thu nhập ở mức trung bình khá
trở lên, họ không đặt nặng vấn đề giá cả mà chỉ quan tâm đến mẫu mã, chất liệu.
Với những người có mức thu nhập thấp hơn thì hàng Trung Quốc, giá rẻ luôn là lựa
chọn hàng đầu trong bối cảnh hàng trong nước chưa đa dạng phong phú.
- Khoảng trống của thị trường áo lót.
Trước thông tin về chất lạ trong áo ngực Trung Quốc khiến một số người
tiêu dùng bị dị ứng, không ít chị em lo ngại việc sử dụng sản phẩm giá rẻ, kém chất
lượng, hàng trôi nổi, Tuy nhiên, mua các sản phẩm có thương hiệu, đảm bảo chất
lượng, an toàn không phải là điều người tiêu dùng nào cũng dễ dàng làm được,

nhất là đối với những người có thu nhập thấp. Bởi, hiện các sản phẩm áo ngực có
thương hiệu- dù sản xuất trong nước- giá vẫn đắt hơn nhiều so với sản phẩm của
Trung Quốc.
Ghi nhận tại thị trường cho thấy, các sản phẩm áo ngực bình dân chủ yếu là
hàng có xuất xứ từ Trung Quốc, giá chỉ 20.000 - 50.000 đồng/chiếc. Một số loại
cao cấp hơn, giá cũng chỉ 70.000 - 80.000 đồng/chiếc. Trong khi đó, hàng sản xuất
trong nước có thương hiệu được nhiều người biết đến lại không nhiều và giá bán
các loại từ 100.000 - 250.000 đồng/chiếc Đại đa số các nhãn hàng này đều đã có
mặt tại các siêu thị hoặc một số rất ít DN đã và đang thiết lập mạng lưới cửa hàng
phân phối. Tuy nhiên, để tồn tại, họ buộc phải bán thêm sản phẩm của nhiều
thương hiệu khác. Riêng loại áo ngực ở phân khúc cao cấp, có giá bán từ 250.000
đồng trở lên, đều rơi vào tay của các tập đoàn đa quốc gia như Triump, Pierre
Cardin, Bon Bon, La Senza…
Theo tính toán của một đơn vị sản xuất, để may được một chiếc áo ngực, DN cần
nhiều loại nguyên phụ liệu cộng với tiền công may từ 25.000 - 30.000 đồng/chiếc,
nên giá thành sản phẩm rẻ nhất cũng khoảng 50.000 - 60.000 đồng/chiếc. Nếu cộng
thêm các khoản thuế, phí, chiết khấu, chi phí bán hàng , giá sản phẩm không thể
nào rẻ hơn hàng Trung Quốc đang bán đại trà trên thị trường. Không những vậy,
các DN còn cho biết, để đầu tư sản xuất mặt hàng này đòi hỏi DN đầu tư vốn lớn
cho một dây chuyền thiết bị chuyên dụng. Bên cạnh đó, việc tuyển dụng, đào tạo
công nhân cũng vất vả hơn so với may các sản phẩm khác vì đường may đòi hỏi
phải chính xác
- “Thua” cả những phân khúc của trang phục thường ngày:
Cả các loại trang phục mặc thường ngày, các sản phẩm bằng chất liệu thun cũng bị
hàng Trung Quốc áp đảo bởi yếu tố giá rẻ, mẫu mã phong phú. Trong khi đó, phân
khúc thị trường này không nhỏ. Dạo qua các chợ cho thấy, hầu hết các sạp hàng
kinh doanh quần áo may sẵn đều bày bán đa phần là quần áo có xuất xứ Trung
quốc, với giá từ 20.000 - 100.000 đồng/chiếc. Các sản phẩm này không chỉ đáp
ứng thị hiếu, nhu cầu của đối tượng thanh thiếu niên mà có cả trang phục cho tuổi
trung niên, người lớn tuổi với đủ kích cỡ.

Tuy các sản phẩm thời trang của Việt Nam gần đây phong phú hơn nhưng đa phần
là trang phục công sở, dự tiệc và tập trung phục vụ đối tượng teen hoặc 25-40 tuổi.
Còn các sản phẩm trang phục thông thường, phục vụ đối tượng 7-14 tuổi và những
người trung niên, lớn tuổi thì hàng Việt chưa nhiều. Đó là chưa kể đến yếu tố giá,
hàng may mặc sản xuất trong nước thường có mức giá cao hơn.
1.2.2 Hàng Trung Quốc tràn ngập thị trường VN:
Đi các chợ vỉa hè, chợ sinh viên, chợ vùng ven, ai xũng dễ nhận ra hàng Trung
Quốc được bày bán tràn ngập. Mặt hàng Trung Quốc đang lấn lướt trên thị trường
nội địa chủ yếu vẫn là hàng may mặc.
Nhận xét của tất cả ai đã mua hàng Trung Quốc vào dịp này là giá rẻ, nhiều mặt
hàng nếu biết mặc cả có khi chỉ bằng 30 đến 50% so với hàng Việt Nam cùng loại.
Vào cuối năm, hàng Trung Quốc thường về rất nhiều. Toàn bộ quần áo bày bán tại
chợ đều là hàng có xuất xứ từ Trung Quốc.
Muốn mua hàng may mặc Việt Nam chỉ có ra cửa hàng, đại lý có trưng bày sản
phẩm của những công ty đó; còn tại các chợ truyền thống, các sạp quần áo đều bày
bán hàng may mặc Trung Quốc. Giá bán dao động từ 60.000 đến 200.000 đồng. Áo
len, ao khoác mỏng 60.000-70.000 đồng/cái, loại dày dặn hơn giá trên 100.000
hoặc lên đến 200.000 đồng/cái; giày da, giày thể thao khoảng 100.000 đồng/đôi
Đối tượng mua đủ mọi tầng lớp nhưng chủ yếu là sinh viên hoặc tầng lớp bình dân.

×