Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn một số vấn đề về việc dạy từ hán – việt trong trường thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.93 KB, 23 trang )

A / PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Cơ sở lý luận :
M.Go-rơ-ki nhà văn vĩ đại của nền văn học thế giới đã từng nói:“Văn học là
nhân học”, ''Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào
bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí". Đúng như
vậy! Văn học nói chung hay môn Ngữ văn nói riêng có tác động vô cùng to lớn đối
với đời sống tình cảm cũng như việc phát triển tư duy của con người; giúp giáo dục,
bồi đắp tư tưởng, tình cảm, đạo đức… cho học sinh một cách hiệu quả nhất. Không chỉ
vậy, môn Ngữ văn còn có mối liên hệ tương hỗ với các môn học khác. Học tốt môn
văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại các môn học khác cũng
góp phần học tốt môn văn. Trong mối quan hệ tích cực đó, từ Hán – Việt đóng một vai
trò không thể phủ nhận được hay nói một cách khác là nó có vai trò vô cùng to lớn.
Nhờ sự đóng góp của từ Hán – Việt mà tiếng Việt thêm giàu có, tinh tế, trang nhã,
chuẩn xác và uyển chuyển, đủ khả năng đáp ứng một cách tốt nhất mọi sự diễn đạt
của con người trong giao tiếp, trong đời sống văn hoá xã hội. Bên cạnh đó, lớp từ này
còn giúp người Việt cảm nhận được tất cả cái hay cái đẹp trong những tác phẩm văn
chương với việc hiểu tường tận từng từ Hán - Việt ở trong những tác phẩm đó.
II. Cơ sở thực tiễn :
Trong kho tàng ngôn ngữ của mình, người Việt sử dụng rất nhiều từ ngữ gốc
Hán (từ Hán - Việt chiếm 60% - 70%) nhưng việc hiểu sai, dùng sai từ Hán - Việt là
khá phổ biến. Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều từ Hán – Việt nếu
chúng ta không hiểu hoặc hiểu sai sẽ dẫn đến nhiều vấn đề đáng tiếc xảy ra. Giáo sư
Nguyễn Lân( cha của 9 vị giáo sư, tiến sĩ) đã từng nói "Một điều cần chú ý hơn nữa là
ngay trong tiếng Việt hiện nay có bao nhiêu từ vốn là Hán tự bị người ta xuyên tạc,
làm sai cả ý nghĩa, ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt phải làm thế nào
cho thanh thiếu niên ta phải biết chữ Hán thì mới dùng đúng tiếng Việt”( đăng trên
báo Đại đoàn kết, số 28, ngày 7/4/1997). Từ Hán - Việt không chỉ có trong môn ngữ
văn mà còn có trong tất cả các môn học khác. Không hiểu từ Hán Việt học sinh sẽ gặp
khó khăn trong khâu phân biệt các khái niệm, ghi nhớ khái niệm, hiểu nghĩa của từ,
hiểu nội dung bài học Nếu biết nhiều từ Hán – Việt học sinh sẽ hiểu kiến thức bộ
môn nhanh hơn, kĩ hơn do hiểu được đến “chân tơ kẽ tóc” những từ ngữ Hán - Việt


ấy.
1
Ở chương trình giảng dạy môn ngữ văn THCS số lượng các tác phẩm
học nguyên tác viết bằng chữ Hán tương đối nhiều, chưa kể ở cấp THPT. Trong quá
trình dạy và học, giáo viên và học sinh phải đối chiếu với bản phiên âm, bản dịch
nghĩa và dịch thơ Nếu cả thầy và trò biết nhiều từ Hán – Việt thì việc học, tìm hiểu,
cảm nhận cái hay, cái đẹp sẽ trở nên dễ dàng và toàn vẹn hơn. Đối với từ Hán – Việt,
người biên soạn sách giáo khoa chương trình ngữ văn THCS đã chú ý tới. Cụ thể, ở
cuối SGK học kì 2 các lớp 6,7,8 đều có bảng “phụ lục tra yếu tố Hán Việt” gồm 50 từ
ở mỗi lớp, riêng lớp 9 là 70 từ (tổng cộng 220 từ ) và trong chuẩn kiến thức kĩ năng có
ghi rất rõ : “Biết nghĩa 50 yếu tố Hán – Việt thông dụng xuất hiện nhiều trong các văn
bản học ở lớp…” nhưng qua tìm hiểu thì giáo viên giảng dạy môn ngữ văn hầu như
quên không giúp học sinh đạt được yêu cầu này. Chính vì vậy, phần lớn học sinh
không hiểu tường tận nghĩa của từ Hán - Việt. Đối với học sinh trong trường Phổ
thông thì việc trang bị cho các em kiến thức cơ bản về từ Hán – Việt sẽ giúp các em tự
hiểu đúng nghĩa của từ ở trong các tác phẩm văn học, rèn rũa lời ăn tiếng nói, học cách
sử dụng từ của cha ông………để từ đó cảm thụ được vẻ đẹp của “những viên ngọc
quí” trong văn chương một cách sâu sắc, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu mến tiếng
nói của dân tộc, vốn văn hoá của ông cha.
Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì mục tiêu
“giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” kể từ khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát
động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Tạp chí Học tập, s. 4-1966)
vì đó là “thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc” ( Hồ Chủ tịch).
Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, sự hội nhập và giao thoa với
các nền văn hóa ngày càng trở lên đậm nét. Việc vừa phải giữ gìn bản sắc dân tộc và
vừa phải có vốn kiến thức căn bản để tiếp nhận những tinh hoa văn hóa của thế giới
càng khiến chúng ta không thể không khai thác tinh hoa văn hóa của chính dân tộc
mình qua các văn bản chữ Hán của cha ông ta để lại. Trước hết, nó có thể giúp cho học
sinh hiểu và sử dụng đúng lớp từ này, cảm thụ được những nét tinh tế, cái hay, cái đẹp
trong các tác phẩm văn học cổ điển được giảng dạy trong chương trình Phổ thông.

Công việc này cũng đồng thời bồi dưỡng cho học sinh tình yêu mến tiếng nói của cha
ông, niềm tự hào về truyền thống văn hóa, cũng như tinh thần trách nhiệm trong việc
“Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
2
“Ngôn ngữ là linh hồn dân tộc”. Câu nói của W. Humboldt càng cho ta thấy
được tầm quan trọng của việc bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng cuả tiếng Việt. Đây là một
việc tương đối khó khăn nhưng giáo viên phải làm và làm được. Là một giáo viên trực
tiếp giảng dạy môn Ngữ văn Trung học cơ sở tại trường PTCS Bãi Thơm, tôi hiểu rất
rõ giá trị của việc dạy và học từ Hán – Việt trong trường THCS. Chính vì những trăn
trở nhức nhối đó tôi đã suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu…để hoàn thành sáng
kiến kinh nghiệm :
“MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC DẠY TỪ HÁN – VIỆT TRONG TRƯỜNG
THCS”
III . Phạm vi đề tài :
Việc giảng dạy từ Hán – Việt là rất cần thiết nên tôi thực hiện đề tài
này trong phạm vi chương trình Ngữ văn THCS là một phạm vi tương đối rộng. Tuy
nhiên, đề tài tôi thực hiện chỉ mang tính chất điểm xuyết, “cưỡi ngựa xem hoa” với đối
tượng là học sinh điểm Rạch Tràm nơi vùng xa của huyện đảo ( Nơi học sinh chưa ý
thức được việc học, chưa có điều kiện đầy đủ, ….)
B / THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ :
I.Thực trạng, tình hình :
Như tôi đã trình bày ở trên, qua tìm hiểu thì hầu như giáo viên quên dạy các
em học sinh 220 từ Hán –Việt mà chuẩn kiến thức quy định, giáo viên chưa thấy hết
được tầm quan trọng của từ Hán –Việt đối với việc dạy và học môn ngữ văn. Học sinh
thì chưa có hứng thú đối với từ Hán –Việt, coi từ Hán – Việt như một “ngoại ngữ”…
II.Những hạn chế, khó khăn :
Ngay từ những năm đầu công tác tôi đã nhận thấy thực trạng trên song
nhận được sự giúp đỡ chưa nhiều . Thứ hai là do năng lực trình độ còn nhiều hạn chế
nên việc truyền đạt kiến thức còn chưa tốt. Thứ ba, do điều kiện kinh tế, dân trí tại
điểm Rạch Tràm cón thấp, học sinh chưa chăm học, phụ huynh chưa quan tâm, sách

thì thiếu… Khi kiểm tra thử một số từ Hán – Việt thông dụng ở 2 lớp 8/3 và 9/3 đầu
năm học 2011-2012 kết quả như sau :
Điểm Điểm 8-10 Điểm 5 - 7 Điểm dưới 5
SL % SL % SL %
Lớp 8 (7 HS) 0 0 1 14,28 6 85,72
Lớp 9 (6 HS) 0 0 1 16,67 5 83,33

3
Trước thực trạng và những khó khăn trên tôi xin mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp như sau :
C . GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ
I / TẠO HỨNG THÚ, TRUYỀN CẢM HỨNG TRONG VIỆC DẠY HỌC TỪ
HÁN VIỆT :
“ Người Thầy trung bình chỉ biết nói.
Người Thầy giỏi biết giải thích.
Người Thầy xuất chúng biết minh họa.
Người Thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng.” (William A. Ward)
1. Ý nghĩa từ những cái tên :
Khi dạy học, chúng ta cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa những cái tên của
chính bản thân các em mà các em vô tình không hay biết. Hãy nói cho các em hiểu
mỗi cái tên của các em mang biết bao mơ ước, niềm tin, hoài bão, tình cảm của ông
bà, cha mẹ dành cho các em .Ví dụ :
Tên Khôi Nguyên là mong muốn con mình sau này đỗ đạt, học giỏi,đỗ đầu các kỳ thi.
Tên Đan Tâm: tấm lòng son sắt, thủy chung , tình nghĩa.
Tên Hà Anh có nghĩa dòng sông tinh tuý, trong sáng.
Tên Vân Du (rong chơi như mây) con sau này sẽ có cuộc sống thảnh thơi, nhàn hạ
Tên Bảo Châu với ý nghĩa con là viên ngọc quý.
Tên Gia Bảo với ý nghĩa vật quý của gia đình . …v.v……
Nói chung cách nói chuyện về tên của chính học sinh sẽ gây hứng thú, sự tò
mò, ham hiểu biết của các em về từ Hán – Việt. Qua đó các em vô tình đã có kiến thức

về từ Hán – Việt đặc biệt kích thích hứng thú, sự tự học của học sinh . Có thể lấy ví
dụ về những cái tên mà các bậc tiền nhân đã mang như :
Nguyễn Ái Quốc: Người yêu nước.
Võ Chí Công : Người hết lòng hết sức vì việc công không vì việc riêng …v.v
Khi chúng ta dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường ta có thể cho học sinh tìm
hiểu tên hay bút danh của các nhà văn nhà thơ. Ví dụ :
Học văn bản “Cố Hương” ta có thể cho học sinh tìm hiểu về quá trình
Lỗ Tấn trở thành nhà văn, mục đích khi ông chuyển từ những ngành kĩ thuật, y khoa…
sang viết văn .Từ đó hỏi học sinh ý nghĩa cái tên Chu Thụ Nhân(Chu Chương Thọ
4
đổi thành Chu Thụ Nhân). Thụ Nhân có nghĩa là trồng người từ đó nói sâu hơn về
mục đích viết văn, cống hiến của Lỗ Tấn trong văn nghiệp “thụ nhân” bằng văn
chương của ông. Cũng cần nói thêm rằng trước công nguyên bảy thế kỉ, nhà chính trị
Trung Quốc thời Tiền Tần là Quản Trọng (730 – 645 TCN) đã nói trong sách Quản tử
của ông như sau :
“Trù tính việc một năm hãy có kế trồng lúa
Trù tính việc mười năm hãy có kế trồng cây
Trù tính việc trăm năm hãy có kế trồng người”
( Nhất niên chi kế mạc nhi thụ cốc
Thập niên chi kế mạc nhi thụ mộc
Bách niên chi kế mạc nhi thụ nhân)
Bác Hồ của chúng ta đã học hỏi tư tưởng này chuyển tải vào trong bài nói
chuyện với “Hội nghị cán bộ giáo dục toàn quốc” ngày 13/9/1958 :
“ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Khi dạy tác phẩm : “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cho học sinh tìm
hiểu tên nhà văn đồng thời cung cấp cho học sinh câu nói của ông về nhà văn, nghể
văn : “ Nhà văn phải là người đi tìm hạt ngọc ẩn dấu sâu trong lòng mỗi con người”.
Minh Châu là “viên ngọc sáng” và cả cuộc đời ông là cuộc đời của con người mải
miết đi tìm những “viên ngọc sáng” trong lòng mỗi con người. Đúng là tên nào, người

ấy .v.v……
2. Đi tìm vẻ đẹp của từ Hán – Việt :
2.1.Vẻ đẹp từ lối chiết tự, câu đố từ Hán – Việt :
Giáo viên hãy cho học sinh thấy được vẻ đẹp của từ Hán – Việt qua việc lồng
ghép vào các bài giảng của mình . Ví dụ khi dạy bài : “ Trưởng giả học làm sang” lớp
8 thì cho học sinh tìm hiểu từ “Kịch”, thể loại “Kịch”. Kịch là thể loại xây dựng nhiều
mâu thuẫn, xung đột và giải quyết những mâu thuẫn, xung đột đó. Để giúp học sinh
lĩnh hội nhanh ý này, giáo viên có thể vận dụng việc chiết tự chữ “Kịch” để minh họa
cụ thể như sau:
“KỊCH ( 劇 ) được kết lại từ ba bộ chữ 虍 hô (vằn con hổ) + 豕 thỉ (con lợn) +
刀 đao (con dao) ba bộ chữ có hàm ý đối kháng nhau mạnh mẽ, bức bối. Người xưa
5
khi viết chữ KỊCH 劇 đã mặc nhiên công nhận thể loại này hàm chứa nhiều mâu
thuẫn, đối kháng ”. Giảng dạy như vậy là một cách gắn liền chữ với nghĩa.
Trong bài “Tục ngữ về con người và xã hội”(Ngữ văn 7 tập 2
trang 12) khi dạy đến câu câu tục ngữ 9:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”
có thể học sinh sẽ hỏi : “ Thưa thầy(cô) cây là cây, núi là núi. Cây đứng cạnh cây,
nhiều cây thì thành rừng chứ tại sao lại thành núi được ạ ?” . Lúc đó giáo viên sẽ trả
lời như thế nào nếu không có vốn kiến thức về từ Hán – Việt nhất định ? Trong Hán tự
nét ngang ( ) được dùng tượng trưng cho mặt đất, nét sổ ( ) tượng trưng cho cây.
Nếu ba cây (3 nét sổ) trồng trên mặt đất ( nét ngang ) thì tạo thành chữ “Sơn” (山) có
nghĩa là núi. Đúng là :
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”
Giảng như vậy rõ ràng là ngoài việc học sinh hiểu được ý nghĩa của câu tục ngữ học
sinh còn hiểu được cái tài tình, thâm thúy của cha ông trong việc dùng chữ, thấy được
sự thú vị trong giờ học .
Những câu đố hay (chiết tự) cũng góp phần tạo hứng thú cho học sinh

không chỉ trong bài dạy mà còn cho học sinh thấy được cái hay của từ Hán – Việt, dĩ
nhiên học sinh không trả lời được câu đố song mục đích chính là cho các em thấy
được cái hay của chữ Hán, của từ Hán – Việt. Ví dụ khi dạy bài “Chơi chữ” giáo viên
có thể mở rộng cách chơi chữ bằng lối chiết tự qua một số câu đố :
Câu đố :
“Cô kia đội nón chờ ai
Hay cô yên phận đứng hoài thế cô.”
( Đố là chữ gì ?)
“Cô kia” là chữ “Nữ” (女)ở dưới, đội nón là trên có chữ “Miên”( lợp trùm nhà ngoài
với nhà trong, mái nhà) tạo thành chữ An 安( yên ổn ) .Ý nghĩa : Trong nhà có người
phụ nữ tạo nên sự bình yên.
Câu đố :
6
“Thiếp là con gái còn son,
Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề.”
( Đố là chữ gì ?)
“Con gái còn son” chính là chữ Nữ(女) đứng bên trái, “con dựa kề” chính là chữ Tử
đứng bên trái tạo thành chữ Hảo 好 (nghĩa là tốt).
Khi dạy các văn bản của tác gia Hồ Chí Minh ta có thể đưa thêm vào
trong bài học một số ví dụ sau để bài học thêm sinh động.
Trong kho tàng ca dao Nghệ Tĩnh có một bài ca dao hiện đại đã được tác
giả dân sử dụng hết sức độc đáo :
“Trăng xưa rọi tỏ lòng người
Treo gương nhật nguyệt cho đời soi chung”.
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu từ Hán – Việt theo chiều ngược lại, dịch từ thuần Việt
sang từ Hán : Trăng từ Hán là gì ? Xưa từ Hán là gì ? Từ đó rút ra từ trăng xưa.
Tương tự các từ lòng , nhật , nguyệt….
Trăng xưa dịch từ chữ Cổ Nguyệt[古月], Cổ và Nguyệt ghép lại thành chữ Hồ [胡].
Lòng người là thầm nói đến chữ Sĩ [士] và Tâm [心], ghép lại hai chữ này lại ta có
chữ Chí [志]; còn chữ Nhật [日] và chữ Nguyệt [月] ghép lại thành chữ Minh [明].

Vậy ba chữ chiết tự từ câu ca dao ra là Hồ Chí Minh [胡 志 明]. Bài ca dao thể hiện
tình cảm tôn kính mến yêu của nhân dân đối với vị cha già của dân tộc. Thật là tinh
diệu ,thật là tài hoa!
Hay bài thơ “Chiết tự” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một bài thơ
giúp học sinh hiểu rõ vẻ đẹp của từ Hán – Việt :
“ Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc
Hoạn quá đầu thời thủy kiến trung
Nhân hữu ưu sầu,ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long”
Giải thích bài thơ như sau: Chữ Tù (囚) bỏ chữ Nhân (人), cho chữ Hoặc (或)vào,
thành chữ Quốc (國 ). Chữ Hoạn (患 ) bớt phần trên đi thành chữ Trung 忠. Chữ
Nhân (人) có thêm chữ Ưu (憂) trong ưu lo, thành chữ Ưu (優) trong ưu điểm, người
7
biết lo là người có ưu điểm. Chữ Lung( 籠) bỏ (khai trúc) chữ trúc (竹) (2 chữ trúc
trên)thành chữ Long 龍
Dịch thơ : (Người thoát khỏi tù ra dựng nước
Qua cơn hoạn nạn rõ người ngay
Người biết lo âu, ưu điểm lớn
Nhà lao mở cửa, ắt ra rồng)
2.2.Cách sử dụng, lựa chọn từ :
Trong việc dùng từ thì tiếng Việt có rất nhiều sự lựa chọn, nhưng chọn từ như thế nào
để diễn đạt một cách sâu sắc, trọn ven nhất thì cần phải hiểu cặn kẽ từng từ ngữ .
Khi dạy bài: “Trau dồi vốn từ” lớp 9 giáo viên có thể phân tích hai tử “Cảm
tử” và “Quyết tử” trong câu chuyện về trung đoàn Thủ đô. Tết Đinh Hợi 1947, Bác
Hồ đã viết thư khen ngợi Trung đoàn Thủ đô với câu nói nổi tiếng: "…Các em quyết
tử để Tổ quốc quyết sinh". Để ghi dấu sự kiện quan trọng này, năm 1984, tượng đài
"Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh" đã được dựng bên cạnh đền Bà Kiệu, hồ Hoàn Kiếm.
Các cụ từng là chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô quả quyết rằng, họ chưa bao giờ thề là
cảm tử mà chỉ thề quyết tử mà thôi. Sắc thái biểu cảm của chữ “Quyết” mạnh mẽ hơn
chữ “Cảm”. Nghĩa ban đầu của chữ “Quyết” là vỡ đê. Mà thế nước vỡ đê thường tạo

ra cơn hồng thuỷ, vốn được xếp hàng đầu trong bốn đại họa: thuỷ, hoả, đạo, tặc. Ngày
24/10/2004, tượng đài "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" được dựng tại vườn hoa
Hàng Đậu để kỷ niệm nghìn năm Thăng Long - Hà Nội. Qua việc phân tích từ ngữ như
trên học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn nghĩa của từ “Cảm” từ “Quyết” và đặc biệt có ý
thức trong việc lựa chọn từ ngữ trong viết và nói. Một ví dụ khác cũng sẽ giúp học
sinh thích thú khi tìm hiểu cặn kẽ nó như từ “Khoái trá” chúng ta vẫn hay viết như
thế, vẫn hiểu là vui vẻ, vừa ý , thích thú. Khoái thì đúng là vui vẻ, thích thú rồi
nhưng Trá là giả dối . Tra quyển “ Hán – Việt từ điển” của Đào Duy Anh thì từ Chá
( chứ không phải từ Trá) có nghĩa là miếng thịt, miếng chả , là đồ ăn ngon” (trang
461) như vậy viết Khoái Chá mới đúng.
Khi dạy bài : “Sông nước Cà Mau” trong chương trình Ngữ văn lớp 6 ta có
thể cho học sinh tìm hiểu về rừng U Minh, giáo viên hỏi tại sao khu rừng đó lại có tên
là U Minh ? U là gì ? Minh là gì ? v.v……U là vắng vẻ yên lặng, tối tăm. Minh thì
học sinh sẽ biết nghĩa là sáng nhưng thực ra nghĩa từ Minh có nhiều nghĩa .
8
Minh 1 : Sáng trái với tối như bình minh, thông minh….
Rõ ràng như xác minh, minh bạch……….
Minh 2 : Thề như thệ hải minh sơn…….
Liên kết như đồng minh, liên minh……
Minh 3 : Tối tăm như u minh ………
Minh 4 : Kêu, bày tỏ như minh oan, cộng minh………
Và từ Minh(冥) trong U Minh có nghĩa là tối tăm. Với hai từ cùng có
nghĩa tối tăm thì học sinh hiểu được đặc tính của khu rừng này một cách cụ thể qua đó
học sinh cũng có được kiến thức liên môn khi học Vật lí, Địa lí, Lịch sử ……….với
những khái niệm, thuật ngữ : “quân đội đồng minh”, “ Rừng U Minh”, “Minh oan”,
“Quang minh chính đại” ………….
Khi dạy bài: “Từ đồng nghĩa” trong sách Ngữ văn 7 khi cho học sinh
tìm những từ cùng nghĩa là chết giáo viên có thể giải thích từ “ Quy tiên” cho học
sinh, “ Quy tiên” nghĩa là chết. “Quy” là về, nhưng tiên nghĩa là gì? Có người cho
rằng “ tiên” là “trước” rồi tưởng đến từ ghép “ tổ tiên” và cho rằng “quy tiên” là về

với tổ tiên. Như vậy một em bé chết cũng có nghĩa là “quy tiên” sao ? Thực ra “tiên”
trong quy tiên là “ người ở trên núi”. Vậy “quy tiên” là “về cõi tiên”. Chính vì vậy
người ta dùng từ này để nói đến cái chết nhẹ nhàng, thanh thoát của những cụ ông, cụ
bà đã có tuổi thọ. Từ đó học sinh nhận ra rõ nét hơn sự khác nhau về sắc thái của từ
đồng nghĩa, và từ đó cũng có thêm kiến thức về từ Hán – Việt.
Giáo viên có thể phân tích giúp học sinh phân biệt các mà chúng ta hay sử dụng
lẫn lộn, không đúng khi dạy các bài “Trau dồi vốn từ” trong chương trình ngữ văn 9,
“Chuẩn mực sử dụng từ” trong chương trình Ngữ văn 7……… như :
JDu côn - Du đãng Ò đều chỉ người không có nghề nghiệp
làm ăn, sinh sống lương thiện, chỉ biết ăn chơi, quậy phá bằng những hành động phi
pháp.
+ Côn Ò là cái gậy, tượng trưng cho sức mạnh thô bạo.
+ Đãng Ò là sống phóng túng, không theo khuôn phép.
“Du đãng” Ò là dân sống vỉa hè , sống lang thang, không chịu sự quản lí của
chính quyền địa phương và công an khu vực. Như vậy tên “Du đãng” có hành vi quậy
phá như thằng “Du côn”, nhưng “Du đãng” không có hành vi côn đồ như “Du côn”.
J Thường xuyên – Thường trực:
9
“Xuyên” nghĩa là dòng sông trôi chảy không ngừng, còn “ Trực” là ở yên
một chỗ để làm việc gì đó. Vậy cái gì thường có mặt mà ở trạng thái động ta gọi là
“Thường xuyên”. Còn cái gì có mặt mà ở trạng thái tĩnh ta gọi là “ Thường trực”.
J Cô độc và cô đơn :
“Cô độc” là chỉ có một mình, tách khỏi mọi liên hệ chung quanh . “Cô đơn” là
chỉ một mình, không có đôi, không biết nương tự vào đâu. Như vậy “cô độc” và “cô
đơn” đều có ngĩa chung là một mình, nhưng “một” trong “cô độc” là chủ động, tự tại;
còn “một” trong “cô đơn” lại cần đến một cái gì khác để được là hai.
J Công nhân và nhân công :
“Công nhân” là người lao động
“Nhân công” là sức lao động của người. ( theo từ điển Hán Việt)
J Cực hình và nhục hình :

“ Hình” là sự trừng phạt người có tội. “Cực” ở đây có thể hiểu là quá chừng
quá mức.“Cực hình” là hình phạt nặng nhất, nặng hơn cả tử hình nói chung, vì “cực
hình” làm cho tội nhân chết một cách đau đớn. Để trừng phạt kẻ giám chống lại quyền
uy của triều đình, vua chúa ngày xưa dùng các cực hình như lăng trí ( bắt chết chậm
bằng cách cắt từng phần của cơ thể con người), tứ mã phanh thây (cho bốn ngựa xé
xác).“Nhục” là thịt, “nhục hình” là hình phạt làm tội nhân đau đớn về thể xác.
của con người, gần giống nhược điểm, khuyết điểm
J Trạm xá – bệnh xá, y xá, trạm y tế :
Từ trạm xá: Hai tiếng này cùng nghĩa là nhà nhưng nhiều nơi dùng từ
trạm xá để chỉ nơi khám và chữa bệnh, tức là dùng thay cho từ trạm y tế, y xá hay
bệnh xá . Như vậy nơi khám chữa bệnh phải gọi là trạm y tế, y xá hay bệnh xá.
J Mại – Mãi :
Những từ như khuyến mãi, khuyến mại, gái mại dâm, gái mãi dâm hay
bị sử dụng lầm lẫn . Mại là bán, Mãi là mua khác nhau rõ ràng. Gái bán hoa phải gọi
là gái mại dâm chứ không thể là gái mãi dâm được .
J Mạn và Mãn :
“Mãn” là tràn đầy, “mạn” là chậm. Nói “Mãn tính” (Vd: Viêm xoang là một
bệnh mãn tính là không đúng). Cần nói những bệnh phát triển chậm, lâu là bệnh “mạn
tính”.…v.v…………
10
Giáo viên cũng có thể chỉ cho học sinh lỗi dùng thừa từ mà chúng ta hay gặp
như : đường quốc lộ (lộ: đường), cây cổ thụ (thụ: cây), bà quả phụ (phụ: bà), ngày
sinh nhật (nhật: ngày)… v.v ………. Như vậy, chúng ta thấy nhà trường có vai trò rất
quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và mỗi người giáo viên phải
có nhiệm vụ góp sức nhỏ bé của mình vào việc giữ gìn sự trong sáng đó.
3. Kể chuyện :
Kể chuyện là một phương pháp giảng dạy gắn lí thuyết với
thực tiễn. Kể chuyện không chỉ giúp cung cấp kiến thức, mở ra một chân trời mới cho
học sinh mà còn giúp tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học.
Với bài “Chơi chữ” trong sách Ngữ văn 7 giáo viên có thể vào bài

bằng câu chuyện “Đại điểm quần thần”. Cụ thể : năm 1934, quận Tâm ( Nguyễn Văn
Tâm) được thăng ngạch Đốc phủ sứ. Ngày khai bằng khánh hạ, mấy trăm người đến
dự và tặng rất nhiều quà cáp. Bấy giờ ở Long Tiên có ông Nguyễn Thiện Tiên, tục gọi
là Hương Nghị Sảnh, nguyên là con trai cụ Nguyễn Minh Triết, người của phong trào
Minh Tân. Ông Nghị vốn là người học giỏi và cương nghị, tuy chỉ làm chức vụ nhỏ
trong Ban hội hương nhưng cũng bị buộc phải đi dự lễ khai bằng. Ông bèn thuê thợ
làm một tấm hoành phi sơn son thếp vàng, chạm khắc bốn chữ “Đại điểm quần thần”,
hàm ý khen tặng, trong số bầy tôi của mẫu quốc, quan Đốc phủ làm điểm nổi bật nhất,
to nhất.
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu tử Hán – Việt : Đại nghĩa là gì? Điểm nghĩa là gì?
Quần thần nghĩa là gì? Từ đó giải thích ý nghĩa câu chuyện. Đại nghĩa là to, lớn.
Điểm nghĩa là chấm. Quần thần là bề tôi, miền Nam là bầy tôi(Quận Tâm ở Tây
Ninh). Câu chuyện tiếp theo như sau:
Ít lâu sau mới có người phát hiện đây chỉ là câu chơi chữ, nói lái:
- Đại điểm là chấm to, lái lại là chó Tâm.
- Quần thần là bầy tôi, nói lái là bồi Tây.
Quận Tâm tức cành hông, nhưng tác giả thì đã cao chạy xa bay.
Như vậy, học sinh ngoài hiểu, thích thú với nghệ thuật chơi chữ còn thấy
được cái hay của từ Hán – Việt.
Còn với bài : "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” trong chương trình
Ngữ văn 7 ta có thể kể một câu chuyện làm sáng tỏ truyền thống, tinh thần yêu nước
của nhân dân ta như chuyện về vị sứ thần “Bất Nhục Quân Mệnh” Giang Văn Minh.
11
Giang Văn Minh (1582 – 1639) tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, người làng Mông Phụ
(tên nôm là Kẻ Mía), xã Đường Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Lộc, tỉnh Sơn Tây
(nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây nay là Hà Nội). Ông đỗ đầu thi
Hội (Hội nguyên) rồi thi Đình đỗ Đình nguyên Thám hoa (không có Trạng nguyên,
Bảng nhãn) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Làm
quan đã từng trải qua các chức: Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh
(1631). Năm Đinh Sửu, niên hiệu Dương Hoà năm thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự

sử Nguyễn Duy Hiểu được cử làm chánh sứ cùng với bốn phó sứ là: Nguyễn Quang
Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong
và tuế cống nhà Minh. Lúc này mặc dù nhà Mạc đã chạy đi Cao Bằng nhưng nhà Minh
vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả Lê và Mạc) và vẫn ngầm mong cho
cuộc nội chiến Lê - Mạc kéo dài, nên sau khi sang đến Yên Kinh, sứ bộ ta phải ăn
chực nằm chờ ở dịch xá gần một năm trời. Đến khi triều kiến, Minh Tự Tông lấy lý do
“Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ
tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” và – để thị uy – Minh Tự Tông đã ngạo mạn ra
cho sứ bộ một vế đối:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Nhắc việc Mã Viện đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn
một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì
Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong). Không chút do dự, Giang Văn Minh đối ngay:
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
Vế đối vừa chỉnh, vừa nhắc lại việc các triều đình phong kiến phương Bắc
trong quá khứ đã ba lần bị quân dân Đại Việt đánh cho đại bại trên sông Bạch Đằng.
Đó là: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938), Lê Hoàn phá Tống (981) và Trần
Hưng Đạo đại phá quân Nguyên Mông lần thứ ba – 1288). Trước đông đảo văn võ bá
quan của Thiên triều và sứ bộ các nước, việc làm của Giang Văn Minh quả là ngang
với tát vào mặt vua Minh Tự Tông. Bất chấp luật lệ bang giao, Minh Tự Tông đã hèn
hạ thét bọn đao phủ trói ông lại, gắn trám đường vào miệng và mắt rồi cho người mổ
bụng xem “sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”! Hôm đó nhằm ngày mùng 2
tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tính ra, ông mới 58 tuổi. Hòng uy hiếp vua, dân Đại
12
Việt, sau đó Minh Tự Tông còn cho ướp xác ông bằng bột thuỷ ngân và cho sứ bộ ta
đem thi hài ông về nước. Khởi hành từ tháng Chạp năm Đinh Sửu (1637) đến cuối
mùa thu năm Kỷ Mão (1639), phái bộ ta mới đặt chân về đến cửa quan. Như vậy,
chuyến đi sứ lần này tính ra kéo dài gần hai năm. Thi hài Giang Văn Minh được quàn

tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm (quê ông). Vua Lê
Thần Tông đã cho cử hành lễ quốc tang và đích thân viết bài văn tế .
Với khí phách của một sứ thần “Đi sứ không để nhục mệnh vua”, Giang
Văn Minh đã đựơc vua Lê Thần Tông truy tặng chức: Công bộ Tả thị lang, tước Vinh
Quận công.
Rõ ràng câu chuyện không chỉ là dẫn chứng hết sức sinh động cho bài
học mà còn là cơ hội cung cấp, phát triển kĩ năng học từ Hán – Việt của học sinh bằng
cách hỏi học sinh những từ Hán – Việt có trong câu đối .
Khi dạy về văn học địa phương giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu
đôi câu đối về Nguyễn Trung Trực :
“Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khốc quỉ thần”
( Lửa đỏ sông Nhật Tảo vang trời đất
Kiếm Kiên Giang tung hoành khiến quỉ thần phải khiếp sợ)
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu nghĩa từng chữ, tên địa danh gắn liền với chiến
công hiển hách của vị anh hùng dân tộc qua đó không những giáo dục lòng yêu nước
mà còn cung cấp kiến thức về từ Hán – Việt, về lịch sử, địa lí cho học sinh…….
II / MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TỪ HÁN – VIỆT :
1. Lập sổ tay Hán – Việt :
Giáo viên cho học sinh tự lập sổ tay để ghi chép từ Hán – Việt có trong bài
học về từ Hán – Việt, có ở phần phụ lục sách giáo khoa Ngữ văn kì hai các lớp, ở phần
chú thích sau các văn bản, ở trong các bài thơ Đường luật ( như “Hồi hương ngẫu
thư”, “Nam quốc sơn hà” ) hoặc giáo viên cung cấp trong bài, hoặc học sinh sưu
tầm
Ví dụ :
Yếu tố H–V Nghĩa Từ chứa yếu tố H –V
Dĩ 1.Dùng, lấy Dĩ hòa vi quí
13
2 . Thôi , đã rồi Dĩ nhiên
Dị Khác , không bình thường , quái lạ,

riêng , đặc biệt
Dị bản , kì dị
Diêm Muối Diêm sinh, diêm dân
Diệm(Diễm) Nhan sắc đẹp đẽ, sáng sủa Kiều diễm
Tham khảo thêm tài liệu: “Bồi dưỡng về từ Hán– Việt” của trường PTCS Bãi
Thơm năm 2009 tại : hptt://baithom.tk.
Giáo viên sẽ hướng dẫn, nhắc nhở, kiểm tra, động viên học sinh giúp
học sinh có thêm thật nhiều vốn từ.
2. Dạy học qua thành ngữ Hán – Việt :
Thành ngữ Hán - Việt dùng để chỉ những kết cấu ngôn ngữ rất ổn định,
thông thường cô đọng về mặt ngữ nghĩa thịnh hành trong tiếng Hán, được du nhập vào
nước ta và được nhân dân sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay . Trước khi ghi tên bài
học mới lên bảng giáo viên ghi một câu thành ngữ ( sau đó có thể là một câu danh
ngôn, tục ngữ, câu thơ trong Kinh Thi ) lên góc phải bảng để học sinh có thêm kiến
thức về từ Hán – Việt, kích thích sự tò mò, ham hiểu biết của học sinh Cuối giờ giáo
viên cho học sinh tìm hiểu nghĩa của từng thành tố Hán – Việt sau đó tìm hiểu nghĩa
của thành ngữ đó. Ví dụ một số thành ngữ :
Bạch diện thư sinh :
Nghĩa :
+ Nghĩa đen : học trò mặt trắng
+ Nghĩa bóng : Người học trò chưa có kinh nghiệm
Bất nhập hổ huyệt, bất đắc hổ tử :
Nghĩa :
+ Nghĩa đen : Không vào hang hùm sao bắt được cọp con
+ Nghĩa bóng : Phải có gan mạo hiểm mới làm được việc khó.
Khắc cốt minh tâm :
Nghĩa :
+ Nghĩa đen : chạm vào xương, ghi vào lòng.
+ Nghĩa bóng : ghi nhớ không bao giờ quên
Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ :

Nghĩa : Một ngày cũng là thầy, suốt đời mới là cha.
Nhất tiếu thiên kim :
14
Nghĩa :
+ Nghĩa đen: Một cái cười đáng giá nghìn vàng.
+ Nghĩa bóng : Ca tụng một phụ nữ đẹp.
Phu xướng phụ tùy .
Nghĩa :
+ Nghĩa đen: Tùy nghĩa là theo. Chồng nói, làm gì, vợ cũng làm theo.
+ Nghĩa bóng : Một quan niệm phong kiến cho là người phụ nữ phải luôn luôn
phục tùng người chồng…
Như vậy ngoài việc học tìm hiểu từ Hán – Việt học sinh còn hiểu cặn kẽ
các thành ngữ đó để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày hoặc trong đời sống.
3. Trò chơi : Chơi mà học – học mà chơi đó là cách học hiệu quả nhất.
3.1.Ván bài lật ngửa :
Giáo viên hướng dẫn các em làm bộ bài để chơi. Bộ bài kích thức
hình dáng giống như bộ bài Tây chỉ khác hai mặt đều ghi chữ được( Hai mặt màu khác
nhau). Một mặt ghi từ Hán – Việt, một mặt ghi nghĩa của từ Hán – Việt đó. Khi hướng
dẫn xong giáo viên sẽ giao cho mỗi nhóm một lượng từ khác nhau để các nhóm về nhà
thực hiện. Sau khi đã hoàn thành bộ bài giáo viên hướng dẫn cách chơi như sau : Cả
lớp sẽ thành nhiều đội chơi, mỗi đội chơi gồm hai người, bộ bài sẽ được chia đều số
quân cho cả hai. Quy định cách đánh tùy theo sự thống nhất của cặp chơi. Nếu người
đầu tiên đánh mặt từ Hán – Việt thì người kia sẽ phải trả lời nghĩa của nó. Trả lời
không đúng hoặc không trả lời được thì người đánh sẽ đánh tiếp, còn trả lời được thì
người trả lời sẽ được quyền đánh. Cứ như thế nếu ai hết bài trước sẽ là người chiến
thắng. Trò chơi này học sinh có thể sử dụng đánh trong những thời gian rảnh rỗi ở
nhà , ở lớp hoặc tự mình chơi để nhớ nghĩa từ Hán – Việt.
3.2.Tìm từ cùng chủ đề :
Giáo viên chia lớp thành bốn đội. Giáo viên cho bốn chủ đề học sinh
các đội sẽ thay nhau chạy lên bảng để ghi từ mà đội mình tìm được theo chủ đề mà

thầy đã giao, đội nào ghi đúng và nhiều thì đội đó sẽ thắng. Ví dụ chủ đề màu sắc :
bạch, hắc, hoàng , thanh, hồng
3.3.Nối cột :
15
Giáo viên treo bốn bảng phụ, mỗi bảng gồm hai cột từ Hán – Việt và
nghĩa của nó, quy định thời gian rồi cho các đội từng em một chạy nên nối cột đội nào
ghi nhiều, đúng sẽ thắng. Ví dụ :
Nối các từ HV với nghĩa của nó :
Từ Hán – Việt : Nghĩa :
Thái bình Ngàn xưa
Thiên cổ Rất yên ổn, yên bình.
Giang san Núi sông
Thiên bẩm Dưới gầm trời (chỉ toàn xã hội; người ta)
Thiên hạ Trời cho, trời ban.
4. Cung cấp tài liệu :
Giáo viên cung cấp những tài liệu giúp học sinh học tập tốt từ
Hán – Việt như cung cấp những bài đọc vần, thơ vần. Ví dụ :
“Thiên trời , địa đất , vân mây
Vũ mưa, phong gió, nhật ngày, dạ đêm
Cân khăn, y áo, thường xiêm
Đao dao, phủ búa, liêm liềm, sáp mai
Song đôi, nhất một, nhị hai
Bát tám, cửu chín, thập mười, vạn muôn
Họat bùi, cam ngọt, chỉ ngon
Toan chua, khổ đắng, quỷ dòn, tân cay
Tâm lòng, diện mặt, thủ tay
Tu râu, phát tóc, mi mày, túc chân
Lượng lường, xích thước, hoành cân
Cao sào, trượng gậy, can cần, tiêu nêu
Kê gà, nga ngỗng, đồn heo

Ngưu trâu, khuyển chó, miêu mèo, dương dê
Mộc cây, thảo cỏ, duân tre
Lương khê, mạch bắp, ma mè, giá dâu
Trì ao, tỉnh giếng, kiều cầu
Lang cau, yên thuốc, phù trầu, hôi vôi
Thán than, sài củi, mai mồi
Phùng may, hoạ vẽ, hồ bồi, tú thêu
Hổ hùm, thố thỏ, chương cheo
16
Lộ cò, ô quạ, diêu diêù, âu le
Vi làm, kiến thấy ,văn nghe
Tín tin, thành thật, khoa khoe, nhượng nhường
Kê trâm, trất lược, kính gương
Duy màn, tịch chiếu, sàng giường, phiên phên
Tông dòng, tính họ, danh tên
Vinh sang, đại cả, kiên bền, cửu lâu
Nhân người, tế rể, hôn dâu
Phu chồng, thê vợ, thiềp hầu, nhi con
Phương vuông, khúc vạy, viên tròn
Thành nên, kí dã, do còn, ngọ chưa
Thái rau, hàn mắm, thư đưa
Du bòng, lại mít, đa dừa, hoa bông
Nguyên nguồn, tể gặn, thanh trong
Hồ ao, hải biển, hà sông, ngạn bờ
Niên năm, nguyệt tháng, thời giờ
Tốc mau, trì chậm, giãi chờ ,vọng trông
Bất chăng, hữu có, vô không
Canh cày, quán tưới, thực hồng, bá gieo
Hành đi, tẩu chạy, duyên leo
Bả cầm, bạt rút, huyền treo, bão bồng

Lân long, phương phượng, long rồng
Quy rùa, hạc hạc, tước công, bàng hàng
Luận bàn, ẩm uống, thực ăn
Gián can, xiểm nịnh, tưởng khen, thệ thề
Du chơi, cư ở, quy về
Thiện lành, ác dữ, xi chê, tiếu cười
Khứ đi, trú ở, thiên giời
Kỉ 12 năm, kiếp vận, thế đời, đại thay
Cổ xưa, tân mới, kim nay
Thanh xanh, khô héo, tiên tươi, tạ tàn »
Hay :
17
« Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà,
quốc nước ,tiền trước, hậu sau, ngưu trâu, mã ngựa, cự cựa, nha răng, vô chăng, hữu
có, khuyển chó, dương dê, quy về, tẩu chạy, bái lạy, quỳ qùy, khứ đi, lai lại, nữ gái,
nam trai, đái đai ,quan mũ, túc dủ, đa nhiều, ái yêu, tăng ghét, thức biết, trí hay, mộc
cây, căn rễ, di dễ ,nan khôn, chỉ ngon, cam ngọt, trụ cột, lương rường, sàng giường,
tịch chiếu, khiếm thiếu, dư thừa, sứ bừa, cúc quốc, chúc đuốc, đăng đèn, thăng lên,
giáng xuống, điền ruộng, trạch nhà, lão già, đồng trẻ, tước sẽ, kê gà, ngã ta, tha khóc,
bá bác, di dì… ».
Học sinh sẽ dễ dàng học thuộc và từ đó đã có vốn từ Hán – Việt tương
đối . Lại có nhiều ý kiến cho rằng phải dạy trong trường Phổ thông (PTCS, PTTH)
cách viết 214 bộ thủ ta cũng có thể cung cấp từ Hán- Việt( ví dụ mộc, thủy ), nghĩa
(cây, nước…) của 214 bộ này để học sinh học trước khi việc dạy này được Bộ Giáo
dục triển khai (các nước như Nhật, Hàn Quốc, Singgapo đã làm) :
DIỄN CA BỘ THỦ
“MỘC (木) - cây, THỦY (水) - nước, KIM (金) - vàng
HỎA (火) - lửa, THỔ (土) - đất, NGUYỆT (月)- trăng, NHẬT (日) - trời
XUYÊN (川) - sông, SƠN (山) - núi, PHỤ (阜) - đồi
TỬ (子) - con, PHỤ (父) - bố, NHÂN (人) - người, SỸ (士) - quan

MIÊN (虍) - mái nhà, HÁN (虍) - sườn non
NGHIỄM (虍) - hiên, HỘ (戶) - cửa, cổng - MÔN (門), LÝ (里) - làng
CỐC (谷)- thung lũng, HUYỆT (穴)- cái hang
TỊCH (夕) - khuya, THẦN (辰) - sớm (4), Dê – DƯƠNG (羊), HỔ(虍) - hùm
NGÕA (瓦) - ngói đất, PHẪU (缶) - sành nung
Ruộng - ĐIỀN (田), thôn - ẤP 邑 (5), què - UÔNG (虍), LÃO(老) - già
DẪN 虍- đi gần, SƯỚC 虍 - đi xa
BAO 虍 - ôm, TỶ 比 - sánh, CỦNG 虍 - là chắp tay
ĐIỂU 鳥 - chim, TRẢO 爪 - vuốt, PHI 飛 - bay
18
TÚC 足 - chân, DIỆN 面 - mặt, THỦ 手 - tay, HIỆT 頁 - đầu
TIÊU 虍 là tóc, NHI 而 là râu
NHA 牙 - nanh, KHUYỂN 犬 - chó, NGƯU 牛- trâu, GIÁC 角 - sừng
DỰC 虍 - cọc trâu, KỶ 己 - dây thừng
QUA 瓜 - dưa, CỬU 虍 - hẹ, MA 麻 - vừng, TRÚC 竹 - tre
HÀNH 行 - đi, TẨU 走 - chạy, XA 車 - xe
MAO 毛 - lông, NHỤC 肉 - thịt, Da 皮 - Bì, CỐT 骨 - xương
( Xin được không dẫn hết)
III / KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC :
Những giải pháp được trình bày ở trên, tôi đã áp dụng từ những năm đầu công
tác trong ngành giáo dục. Cuối năm học 2011-2012 kiểm tra thử hai lớp 8/3, 9/3 đã
đạt được những kết quả rất khả quan :
Điểm Điểm 8-10 Điểm 5 - 7 Điểm dưới 5
SL % SL % SL %
Lớp 8 (7 HS) 3 42,84 3 42,84 1 14,32
Lớp 9 (6 HS) 3 50 3 50 0 0
D / KẾT LUẬN :
1 . Tóm lược giải pháp :
Như vậy, muốn học sinh học tốt từ Hán – Việt thì công việc đầu tiên
giáo viên cần tạo hứng thú, truyền cảm hứng cho học sinh bằng nhiều cách như tìm

hiểu ý nghĩa những cái tên, đi tìm vẻ đẹp của từ Hán – Việt Công việc thứ hai là
phải có phương pháp dạy từ Hán – Việt sao cho phù hợp như cho học sinh lập sổ tay
Hán – Việt, dạy thành ngữ Hán – Việt, sử dụng trò chơi trong dạy học hoặc cung cấp
tài liệu bổ ích, dễ học, dễ thuộc cho học sinh
Tóm lại, với những hình thức, phương pháp như trên giáo viên có thể
linh động lồng ghép, tích hợp vào các bài học có liên quan hay khi gặp những từ Hán –
Việt trong bài học giáo viên hỏi và giải thích cho học sinh góp phần giúp cho bài giảng
sinh động cũng như giúp học sinh có hứng thú, có thêm kiến thức về từ Hán – Việt.
Trong hai tiết học về từ Hán – Việt chính thức trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn 7 kì 1 ngoài việc truyền đạt đầy đủ kiến thức giáo viên có thể nâng cao, mở rộng
19
vấn đề truyền cảm hứng cho học sinh. Ngoài ra giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho
học sinh thực hiện thường xuyên ở lớp, ở nhà ( có thể có ý kiến chúng ta đang thực
hiện giảm tải nhưng tôi nghĩ nếu học sinh đã hứng thú thì các em sẽ tự học thêm,
càng giao nhiều học sinh càng thích) hoặc có thể đưa một nội dung lớn vào trong một
đến hai tiết tự chọn Nhưng trên hết giáo viên phải biết tiết chế, tránh sa đà làm ảnh
hưởng đến nội dung bài học. Đó là bản lĩnh của người giáo viên cần phải có.
2 . Phạm vi áp dụng :
Qua tìm hiểu các trường trong huyện và tỉnh, tôi thấy đề tài này có thể
áp dụng cho toàn huyện Phú Quốc và tỉnh Kiên Giang.
3.Kiến nghị :
Từ những vấn đề đã trình bày , tôi xin kiến nghị lên các cấp trường,
phòng và sở giáo dục hãy quan tâm hơn nữa đối với việc dạy và học từ Hán – Việt ít
nhất cũng phải đề nghị các giáo viên dạy hoặc cho học sinh cấp PTCS học thuộc nghĩa
của 220 từ ở cuối sách giáo khoa ngữ văn kì 2 các lớp 6,7,8,9 .
Do trình độ chuyên môn còn hạn chế, do kinh nghiệm công tác còn
ít, do là lần đầu viết sáng kiến kinh nghiệm nên kinh nghiệm, giải pháp của tôi còn
rất nhiều sai sót. Kính mong thầy cô các cấp chỉ bảo, giúp đỡ để kinh nghiệm, giải
pháp của tôi được hoàn thiện hơn, bản thân tôi được lĩnh hội những đóng góp, sửa
chữa của các thầy cô để nâng cao trình độ tiếp tục theo đuổi sự nghiệp trồng người.

Cuối cùng, Tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô các cấp đã tạo điều kiện
cho tôi hoàn thành kinh nghiệm, giải pháp này. Xin chân thành cảm ơn!
Bãi Thơm ngày 14/4/2012
Người viết :
TỐNG HOÀNG LINH .
20
E / TÀI LIỆU THAM KHẢO :
Sách :
1. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn , Từ điển tiếng Việt , NXB Văn hóa Sài
Gòn, 2005
2. Thiều Chửu, Từ điển Hán – Việt , NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
3. Trần Mai Nhân , Tiếng Việt thực hành, Trường ĐH Văn Hiến
4. Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB ĐHQG HCM, 2002.
5. Nguyễn Tri Tài - Giáo trình tiếng Hán cơ sở tập 1, NXB ĐHQG HCM, 2002.
6. Phan Ngọc Hiền, Giáo trình Hán – Nôm, Trường Đại học Văn Hiến
7. Đặng Quốc Bảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB GDVN, 2009
8. Thơ ca Hồ Chủ tịch, NXB GD Giải Phóng, 1974.
9. Phan Huy Đông, Đố tục, đố thanh, NXB Văn hóa dân tộc, 2002.
10.Lê Xuân Thại, Từ Hán – Việt và việc giảng dạy từ Hán – Việt, NXB GD, 2005
11.Đinh trọng Lạc, Phương tiện và biện pháp tu từ từ vưng, NXB GD, 2008
12.Nguyễn Ngọc San, Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm, NXB ĐHSP, 2003.
…v.v……
Tài liệu :
1. Đinh Hà Triều, Nâng cao khả năng học từ Hán – Việt
2. Nguyễn Xuân Tư, Cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
3. Trần Thị Thanh, Vài suy nghĩ về vấn đề trang bị từ Hán-Việt HS, SV
4. Lê Kế Hòa, Tìm hiểu cấu trúc thành ngữ Hán – Việt.
5. Trường PTCS Bãi Thơm, Tài liệu bồi dưỡng về từ Hán – Việt năm 2009
6. Chử Anh Đào, Sử dụng từ Hán- Việt hiện nay.
7. PGS.TS Đoàn Lê Giang, Cần khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường.

8. Nguyễn Văn Duận, Dạy chữ Hán để biết và hiểu.
9. Nguyễn Đức Hùng, Đề xuất giải pháp đưa chữ Hán Nôm vào giảng dạy ở
trường học.
10. Lâm Uyên, Học sinh cần được học chữ Hán .
11. I.S. Lisevich , Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa.
12 . Hồ Thúy An - Giải mã một câu tục ngữ .
…v.v……
F / MỤC LỤC :
Trang
A / PHẦN MỞ ĐẦU: 1
I. Cơ sở lý luận : 1
II. Cơ sở thực tiễn : 1
21
III . Phạm vi đề tài : 3
B / THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ : 3
I.Thực trạng, tình hình : 3
II.Những hạn chế, khó khăn : 3
C . GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ 4
I/ TẠO HỨNG THÚ, TRUYỀN CẢM HỨNG TRONG
VIỆC DẠY HỌC TỪ HÁN VIỆT : 4
1. Ý nghĩa từ những cái tên : 4
2. Đi tìm vẻ đẹp của từ Hán – Việt : 5
2.1.Vẻ đẹp từ lối chiết tự, câu đố từ Hán – Việt : 5
2.2.Cách sử dụng, lựa chọn từ : 8
3. Kể chuyện : 11
II / MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TỪ HÁN – VIỆT : 13
1. Lập sổ tay Hán – Việt : 13
2. Dạy học qua thành ngữ Hán – Việt : 14
3. Trò chơi : 15
3.1.Ván bài lật ngửa 15

3.2.Tìm từ cùng chủ đề : 15
3.3.Nối cột 15
4. Cung cấp tài liệu : 16
III / KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC : 20
1 . Tóm lược giải pháp : 20
2 . Phạm vi áp dụng : 20
3 . Kiến nghị : 20
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG THI ĐUA CẤP TRƯỜNG:
22
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG THI ĐUA CẤP PHÒNG:
23

×