Tiểu luận an sinh xã hội
1
Trang
Lời nói đầu
Người khuyết tật là một bộ phận không nhỏ của dân số thế giới, trong
bất kỳ một xã hội nào dù phát triển hay kém phát triển, dù phải hứng chịu
chiến tranh hay không phải trải qua chiến tranh cũng tồn tại một bộ phận
người khuyết tật. Việt nam có tỷ lệ người khuyết tật khá cao so với tỷ lệ chung
của toàn thế giới, chiếm 6,4% dân số cả nước tương đương khoảng 5,3 triệu
dân. Người khuyết tật luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta cùng
một số tổ chức quốc tế. Nhà nước ta đã ban hành nhiều hệ thống văn bản
cùng với việc thực hiện các công ước Quốc tế về người khuyết tật nhằm giúp
đỡ họ có cuộc sống tốt, tạo cơ hội giúp họ hồ nhập với cộng đồng và phát
triển như những người bình thường khác.
Thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội là một đô thị nhỏ nằm cách trung
tâm thủ đô Hà Nội 42km về phía tây bắc, nền kinh tế đang trên đà phát triển
với dân số khoảng 128.000 người trong đó người khuyết tật là 2.104 người.
Trong những năm qua thực hiện theo Pháp lệnh người tàn tật, các văn bản
hướng dẫn thi hành của Chính Phủ, các bộ ngành có liên quan và UBND
thành phố Hà Nội thị xã Sơn Tây đã thực hiện nhiều chính sách và hoạt động
chăm sóc người khuyết tật, đồng thời thị xã cũng đề ra nhiều chính sách và
hoạt động dành cho người khuyết tật để họ hoà nhập với cuộc sống như
người bình thường. Từ thực trạng đó, em xin đề cập vấn đề "Thực trạng và
một số giải pháp về công tác chăm sóc, giúp đỡ người khuyết tật tại thị xã
Sơn Tây" làm đề tài cho tiểu luận An sinh xã hội nhằm đi vào tìm hiểu một
phần nhỏ trong các chính sách, hoạt động chăm sóc người khuyết tật của thị
xã - một trong những chủ trương lớn của thị xã Sơn Tây. Cho em gửi lời cảm
ơn chân thành đến giảng viên, thạc sỹ Phạm Hồng Trang và phòng Lao độngThương binh và Xã hội thị xã Sơn Tây đã giúp đỡ, hướng dẫn tận tình em
trong quá trình viết bài. Dù đã cố gắng, song bài viết khơng tránh khỏi nhiều
thiếu sót, em rất mong nhận được sự cảm thông và giúp đỡ của các thầy, cô
và phòng Lao động- Thương binh & Xã hội thị xã Sơn Tây.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
2
Trang
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ AN SINH XÃ HỘI
I. Một số khái nhiệm cơ bản.
1. Khái niệm An sinh xã hội:
An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế, chính sách, các giải pháp
của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối
phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế- xã hội làm cho họ suy giảm hoặc
mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả
khơng cịn sức lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác rơi vào
cảnh nghèo khổ, bần cùng hố và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho
cộng đồng, thơng qua các hệ thống chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, trợ giúp xã hội và trợ giúp đặc biệt. Hệ thống An sinh xã hội bao gồm sáu
hợp phần cơ bản là:
- Chính sách và các chương trình thị trường lao động tích cực mà trọng
tâm của nó là trợ giúp tạo việc làm cho các đối tượng yếu thế trong thị trường
lao động và trợ cấp cho số lao động dôi dư do quá trình sắp xếp lại các doanh
nghiệp, cổ phần hố các doanh nghiệp (chính sách Bảo hiểm thất nghiệp).
- Chính sách Bảo hiểm xã hội trong đó bao gồm các chế độ hương trí, mất
sức lao động, ốm đau, thai sản, tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất.
- Chính sách Bảo hiểm y tế bao gồm cả bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo
hiểm y tế tự nguyện và bảo hiểm y tế cho người nghèo, đối tượng bảo trợ xã
hội và trẻ em dưới 6 tuổi.
- Chính sách trợ giúp đặc biệt- chính sách ưu đãi đối với thương binh,
bệnh binh, thân nhân liệt sỹ và người có cơng với nước.
- Trợ giúp xã hội cho các đối tượng yếu thế (đối tượng xã hội) bao gồm
trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội; trợ giúp về y tế, giáo
dục, dạy nghề và tạo việc làm, tiếp cận các cơng trình cơng cộng, hoạt động
văn hố thể thao và trợ giúp khẩn cấp mà từ trước đến nay hay gọi là cứu trợ
khẩn cấp cho những người không may gặp rủi ro đột xuất bởi thiên tai.
- Chính sách và các chương trình trợ giúp người nghèo.
2. Khái niệm người tàn tật:
Theo Liên Hiệp Quốc: Người tàn tật có nghĩa là bất cứ những người
nào mà khơng có khả năng tự đảm bảo cho bản thân, toàn bộ hay từng phần
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
3
Trang
những sự cần thiết của một cá nhân bình thường hay của cuộc sống xã hộ do
sự thiếu hụt (bẩm sinh hay không bẩm sinh) trong những khả năng về thể chất
hay tâm thần của họ. (Tuyên ngôn về quyền của người tàn tật do Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 09/12/1975).
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): Người có khuyết tật là người
mà triển vọng tìm giữ một việc làm thích hợp, cũng như triển vọng tiến bộ về
mặt nghề nghiệp đều bị giảm sút một cách rõ rệt do một sự khiếm khuyết về
thể chất hoặc tinh thần được công nhận rõ ràng. (Cơng ước số 159 về tái thích
ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật, 1983).
Ở Việt Nam, khái niệm người tàn tật được quy định tại Điều 1 Pháp
lệnh về Người tàn tật ngày 30/7/1998: Người tàn tật theo quy định của Pháp
lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết
một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng thể hiện dưới những dạng tật
khác nghau làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt,
học tập gặp nhiều khó khăn.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Người khuyết tật ngày 17/06/2010 có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011 : Người khuyết tật là người bị khiếm
khuyết một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được
biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.
Như vậy có rất nhiều cách hiểu, cách tiếp cận, định nghĩa khác nhau về
người tàn tật ở Việt Nam: Pháp lệnh về Người tàn tật và Luật Người khuyết
tật. Do vậy trong khuôn khổ bài viết này em xin phép được đồng nhất khái
niệm Người tàn tật và Người khuyết tật để thuận lợi cho việc phân tích, đánh
giá các vấn đề được đề cập trong các phần tiếp theo.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận, định nghĩa khác nhau nhưng đều chỉ ra
một số đặc trưng của người tàn tật:
Là người có khuyết tật: đó là bị thiếu, hỏng, khơng bình thường về thể
chất hoặc tâm thần do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Khả năng hoạt động bị suy giảm: do có khuyết tật nên các bộ phận hoặc
các chức năng của cơ thể không được thực hiện đầy dủ, bình thường như: khả
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
4
Trang
năng vận động, ngôn ngữ, thính giác, thị giác, nhận thức bị giảm sút hoặc mất
đi hoàn toàn.
3. Một số khái niệm liên quan:
3.1. Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục người khuyết tật
chung với người không khuyết tật trong các cơ sở giáo dục.
3.2. Giáo dục bán hoà nhập là phương thức giáo dục người khuyết tật
tại các lớp dành riêng cho người khuyết tật trong các cơ sở giáo dục.
3.3. Giáo dục chuyên biệt là phương thức giáo dục người khuyết tật
trong các cơ sở giáo dục dành riêng cho người khuyết tật.
3.4. Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hồ nhập là tổ chức cung cấp
chương trình, nội dung, thiết bị, tài liệu dạy và học, các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ
giáo dục và tổ chức giáo dục phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của người
khuyết tật.
3.5. Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn
trọng người khác vi lý do khuyết tật của người đó.
3.6. Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối,
ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khác vì lý
do khuyết tật của người đó.
3.7. Cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho lao động là người
khuyết tật bao gồm các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế theo quy
định của Luật Doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập theo quy định của
pháp luật có sử dụng từ 35% lao động là người khuyết tật trở lên.
3.8. Sống độc lập là việc người khuyết tật được tự chủ quyết định
những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của chính bản thân, thơng qua sự trợ
giúp của Nhà nước, hỗ trợ của gia đình và xã hội.
3.9. Tiếp cận là việc bảo đảm cho người khuyết tật sử dụng một cách
bình đẳng như những người khác các cơng trình cơng cộng, phương tiện giao
thơng, cơng nghệ thơng tin, các dịch vụ văn hố, thể thao, du lịch và các dịch
vụ khác để có thể hoà nhập đầy đủ vào đời sống xã hội.
3.10. Tổ chức của người khuyết tật là các tổ chức xã hội tự nguyện do
người khuyết tật thành lập, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của người
khuyết tật.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
5
Trang
3.11. Tổ chức vì người khuyết tật là các tổ chức xã hội do cơ quan, tổ
chức, cá nhân thành lập thực hiện các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của họ.
4. Các dạng khuyết tật bao gồm :
4.1. Khuyết tật vận động;
4.2. Khuyết tật nghe nói;
4.3. Khuyết tật nhìn;
4.4. Khuyết tật trí tuệ;
4.5. Khuyết tật tâm thần;
4.6. Khuyết tật khác.
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về người khuyết tât.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến cơng tác chăm sóc, giúp đỡ
người khuyết tật. Ngay từ tháng 7 năm 1998 Uỷ ban thường vụ quốc hội đã
thông qua Pháp lệnh về người tàn tật. Pháp lệnh gồm 8 chương và 35 điều thể
hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống,
hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Để quy định hướng dẫn
chi tiết cho việc thực hiện Pháp lệnh này Chính phủ đã đã ban hành Nghị định
số: 07/2000/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2000 về chính sách cứu trợ xã hội
và đến ngày 20 tháng 9 năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số:
168/2004/NĐ-CP để sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số
07/2000/NĐ-CP; đến ngày 13 tháng 4 năm 2007 Chính phủ đã ban hàng Nghị
định số: 67/2007/NĐ-CP quy định chi tiết về chính sách trợ giúp các đối
tượng bảo trợ xã hội, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 về bổ
sung một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính
Phủ. Ngồi ra cịn có 02 nghị quyết và 20 luật có quy định về các vấn đề liên
quan đến người khuyết tật. Để triển triển khai thực hiện nghị quyết, các luật
và pháp lệnh, Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương đã ban hành trên 200
văn bản.
Đến nay hệ thống văn bản pháp luật về người khuyết tật tương đối đầy
đủ và cơ bản đã thể chế hố được các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với người khuyết tật; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các cơ
quan, tổ chức, gia đình và cá nhân tham gia tích cực vào việc chăm lo, trợ
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
6
Trang
giúp người khuyết tật và tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để người khuyết
tiếp khắc phục khó khăn hồ nhập cộng đồng xã hội. So sánh với Công ước
quốc tế về quyền của người khuyết tật và pháp luật của một số nước cho thấy
các quy định pháp luật về người khuyết tật của Việt Nam về cơ bản đã có sự
tương đồng.
Đến ngày 17/06/2010 Quốc hội đã thông qua Luật Người khuyết tật,
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011 cho đến nay Chính phủ
chưa ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
7
Trang
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC CHĂM SÓC, GIÚP ĐỠ
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY
I. Đặc điểm tình hình của thị xã Sơn Tây.
Thị xã Sơn Tây là một đô thị nhỏ nằm cách Thủ đơ Hà Nội khoảng
45km về phía tây- bắc bao gồm 15 đơn vị hành chính xã, phường có diện tích
tự nhiên là 113,46 héc ta, dân số ( năm 2009) khoảng 128.000 người, mật độ
dân số là 1.128 người/ha. Tuy nhiên thị xã có số lượng người khuyết tật khá
lớn, vào khoảng 2.104 người chiếm khoảng 1,64 % dân số trong đó khuyết tật
là thương binh, bệnh binh là 251 chiếm 11,9%, người khuyết tật thuộc gia
đình hộ nghèo là 1.105 người chiếm 52,5 và 748 người thuộc gia đình cận
nghèo, chiếm 35,6%. Phân theo dạng khuyết tật thì khuyết tật nhóm vận động
là 860 người chiếm 40,87%, khuyết tật nhóm thần kinh là 841 người chiếm
39,97% cịn lại 404 người là các dạng tật khác như khiếm thị, khiếm thính, dị
dạng chiếm 19,16% số người khuyết tật của thị xã Sơn Tây. Cuộc sống của họ
gặp rất nhiều khó khăn, họ rất khó tìm việc làm phù hợp với mình. Cơng tác
chăm sóc, giúp đỡ người khuyết tật không phải là một việc làm đơn thuần như
giúp đỡ họ về ăn, mặc, ở, đi lại,… mà còn là q trình giúp đỡ nghười khuyết
tật hồ nhập với cuộc sống cộng đồng, sinh hoạt, học tập và phát triển như
những người bình thường nên cơng việc này địi hỏi sự giúp đỡ tận tình, trách
nhiệm của cả gia đình, cộng đồng và chính quyền các cấp.
Những năm qua Uỷ ban nhân dân thị xã Sơn Tây cùng với chính quyền
địa phương, cộng đồng dân cư và gia đình có người khuyết đã có nhiều hoạt
động chăm sóc, giúp đỡ về y tế, giáo dục, phục hồi chức năng, dạy nghề và hỗ
trợ việc làm cho Người khuyết tật bước đầu đạt được những kết quả nhất
định.
II. Thực trạng về cơng tác chăm sóc người khuyết tật trên địa bàn
thị xã Sơn Tây
1. Chăm sóc đời sống người khuyết tật
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
8
Trang
Thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số: 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 quy định chi tiết chính sách trợ giúp
xã hội đối với người tàn tật nặng khơng có nguồn thu nhập và không nơi
nương tựa, người mắc bệnh tâm thần mãn tính, hộ gia đình có từ hai người tàn
tật nặng khơng có khả năng tự phục vụ, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày
27/02/2010 về bổ sung một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày
13/4/2007 của Chính Phủ. Thực hiện chính sách này đến năm 2010, thị xã đã
thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho 758 người khuyết tật nghèo. So với
năm 1998, số người số người khuyết tật được hưởng các chính sách trợ giúp
xã hội tăng gấp 8 lần. Các chế độ trợ giúp cũng đã đựơc điều chỉnh tăng từ
45.000 đồng/tháng năm 2000 lên 65.000 đồng/tháng năm 2004;
120.000đồng/tháng năm 2007 và 250.000 đồng/tháng năm 2009. Phòng Lao
động- Thương binh và Xã hội thị xã Sơn Tây đã phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban
nhân dân các xã, phường và cán bộ lao động thương binh và xã hội tại các xã,
phường trên địa bàn tiến hành thống kê, rà soát và kiểm tra các hộ gia đình có
người khuyết tật để đảm bảo tất cả các đối tượng theo Nghị định 67/2007/NĐCP và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 của Chính Phủ đều
được hưởng đúng, đủ và kịp thời trợ cấp theo quy định của Nhà nước. Trợ cấp
hàng tháng của đối tượng được Phòng Lao động Thương binh Xã hội chi trả
cùng kỳ với trợ cấp hàng tháng của đối tượng chính sách người có cơng vào
từ ngày 05 đến ngày 10 hàng tháng. Chính sách trợ giúp xã hội đã đã góp
phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người
khuyết tật.
Ngồi ra cịn có 251 người khuyết tật là thương binh, người hưởng
chính sách như thương binh, bệnh binh, quân nhân bị tai nạn lao động, quân
nhân bị bệnh nghề nghiệp, 358 người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ
bị nhiễm chất độc hóa học và khoảng 109 người hưởng trợ cấp tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
Tuy vậy, còn một bộ phận người khuyết tật nặng chưa được hưởng
chính sách trợ giúp xã hội do quy định của Pháp lệnh là đối tượng thuộc diện
hưởng chính sách phải là người khuyết tật nặng khơng có nguồn thu nhập và
khơng nơi nương tựa; mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn quá thấp so với mặt
bằng mức sống dân cư (mới chỉ bằng 60% chuẩn nghèo của Hà Nội), chưa
bảo đảm được những nhu cầu sống tối thiểu của người khuyết tật.
2. Chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
9
Trang
Theo kết quả cấp thẻ bảo hiểm y tế thì đến nay Bảo hiểm xã hội thị xã
đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 851 người khuyết tật đạt 100% người khuyết tật
thuộc đối tượng được cấp bảo hiểm y tế. Việc cấp thẻ bảo hiểm y tế được thực
hiện nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ cho người khuyết tật đã tạo điều kiện
thuận lợi cho người khuyết tật có thể khám chữa bệnh. Nếu có sự sai lệch về
họ tên hay tuổi của thẻ bảo hiểm y tế so với chứng minh thư nhân dân của
người khuyết tật thì Phịng Lao động Thương binh Xã hội đều phối hợp với
Bảo hiểm xã hội thị xã Sơn Tây làm xác nhận để người khuyết tật có thể
khám chữa bệnh kịp thời và tiến hành đề nghị Bảo hiểm xã hội thị xã cấp lại
thẻ bảo hiểm y tế cho đúng với giấy tờ tuỳ thân của người khuyết tật. Người
khuyết tật là đối tượng yếu thế trong xã hội lại thường phải chịu các rủi ro
trong cuộc sống nên việc đảm bảo khám chữa bệnh kịp thời cho họ là một
trong những việc làm vơ cùng quan trọng góp phần bảo vệ sức khoẻ và đời
sống của người khuyết tật.
Thực hiện chủ trương giúp người khuyết tật hoà nhập với cuộc sống
cộng đồng, phòng Lao động- Thương binh và Xã hội thị xã đã phối hợp với
Trung tâm kỹ thuật chỉnh hình và phục hồi chức năng - Bộ Lao động- Thương
binh và Xã hội (Xuân Khanh- Sơn Tây- Hà Nội), Trung tâm phục hồi chức
năng Việt- Hàn (Quốc Oai- Hà Nội) tiến hành chỉnh hình phục hồi chức năng
và cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí cho 215 người khuyết tật. Việc làm này
đã góp phần to lớn trong việc giúp người khuyết tật tự phục vụ trong sinh hoạt
và có thể tham gia vào các hoạt động lao động sản xuất.
Phối hợp với Phòng Bảo trợ xã hội- Sở Lao động- Thương binh và Xã
hội thành phố Hà Nội, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi thành phố
Hà Nội, phòng Lao động- Thương binh và Xã hội thị xã đã cấp trên 200
phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy cho người khuyết tật. Đến nay hầu hết
những người khuyết tật có nhu cầu xe lăn, xe đẩy đều được cấp.
Những hoạt động chăm sóc sức khoẻ, chỉnh hình, phục hồi chức năng
cho người khuyết tật trên địa bàn thị xã không chỉ là sự giúp đỡ về vật chất
mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn giúp họ yên tâm, tự tin trong việc
hoà nhập với cuộc sống cộng đồng.
3. Học văn hoá đối với người khuyết tật
Thực hiện Luật giáo dục, Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ, các bộ
ngành, địa phương đã có nhiều quan tâm tạo điều kiện để người khuyết tật
tiếp cận dịch vụ giáo dục. Chính quyền Thị xã Sơn Tây cũng đã có nhiều
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
10
Trang
chính sách hỗ trợ người khuyết tật đến trường như miễn giảm tiền học phí cho
người khuyết tật nghèo, hỗ trợ về vay ưu đãi cho người khuyết tật đi học các
trường đào tạo chuyên nghiệp, cùng với các đoàn thể nhân dân tuyên truyền
vận động nhân dân nơi cư trú, gia đình tạo điều kiện thuận lợi để người
khuyết tật đến trường, tuyên truyền, lên án các hành vi phân biệt đối xử, kỳ
thị đối với người khuyết tật. Kết quả đạt được là đến cuối năm 2010 tồn thị
xã đã có 956 người khuyết tật hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, 186 người
đã tốt nghiệp trung học phổ thông, 25 người tốt ngiệp trung học chuyên
nghiệp và 16 người tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Hiện này hầu hết những
người khuyết tật trong độ tuổi đều được đến trường và được tạo những điều
kiện thuận lợi để theo học các ngành, nghề phù hợp với khả năng, sức khoẻ
của họ. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng để người khuyết tật có thể hồ
nhập với cuộc sống cộng đồng. Ngoài việc giúp người khuyết tật tiếp cận với
hệ thống giáo dục quốc dân- giáo dục hồ nhập, thì phịng Lao động- Thương
binh và Xã hội còn phối hợp với các gia đình và 02 cơ quan là Trung tâm Kỹ
thuật Chỉnh hình và phục hồi chức năng và Trung tâm phục hồi chức năng
Việt- Hàn đưa một số em khuyết tật vào các lớp giáo dục đặc biệt. Đây là
những trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hoà nhập được trang bị những thiết
bị, có nội dung, chương trình và phương thức giáo dục phù hợp với các đặc
điểm, hoàn cảnh của người khuyết tật. Các lớp học này bước đầu đã thu được
những kết quả khả quan.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì cơng tác trợ giúp người khuyết tật
tiếp cận với những dịch vụ giáo dục trên địa bàn vẫn cịn những hạn chế. Tính
đến thời điểm hiện nay, thị xã vẫn còn gần 500 người khuyết tật mù chữ. Tuy
nhiên số người này chủ yếu là đối tượng trung và cao tuổi. Điều này là một
khó khăn lớn trong việc giúp họ tiếp cận với giáo dục.
4. Học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật
4.1. Học nghề của người khuyết tật
Học nghề là một nhu cầu quan trọng đối với người khuyết tật, bởi
nghề nghiệp là điều kiện quan trọng để họ có thể tiếp cận với việc làm, tạo
thu nhập đảm bảo cuộc sống. Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy
nghề cho người khuyết tật, chính quyền thị xã đã có nhiều chính sách hỗ trợ
họ trong việc giúp họ tiếp cận với việc học nghề. Một điều kiện thuận lợi là
trên địa bàn thị xã có một số các trường đào tạo và dạy nghề như trường Cao
đẳng Việt- Hung, trường nghề Việt- Ba (nay là trường Đại học lao động xã
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
11
Trang
hội cơ cở Sơn Tây), trường Trung cấp kỹ thuật ô tô, xe máy, Học Viện Ngân
hàng cơ sở Sơn Tây, trường Trung cấp Quân y thuộc Học viện quân y... là
điều kiện thuận lợi để người khuyết tật có thể tiếp cận với việc học nghề.
Tuy nhiên, những trường nghề này có những địi hỏi nhất định về học vấn,
sức khoẻ và tài chính nên khơng phải người khuyết tật nào cũng có khả năng
theo học những trường đó mặc dù nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ
về học phí và vay ưu đãi cho người khuyết tật.
Đứng trước thực trạng này, Uỷ ban nhân dân thị xã Sơn Tây đã phối
hợp và khuyến khích một số doanh nghiệp và cơ sở sản xuất tư nhân nhận
người khuyết tật vào học nghề như học nghề may tại Công ty CP may Sơn
Hà, Công ty may Tuấn Hà, học nghề thêu ren tại cơ sở sản xuất thêu gen
Chiến Thắng, cơ sở thêu gen Quỳnh Nguyệt ngồi ra cịn học một số nghề
mộc tại một số cơ sở mộc trên địa bàn. Với việc học nghề này, nguời khuyết
tật dễ dàng tiếp cận được với nghề và có cơ hội làm việc ngay tại nơi học
nghề đã bước đầu đem lại kết quả đáng khích lệ.
4.2. Việc làm của người khuyết tật
Theo khảo sát năm 2010, có trên địa bàn thị xã có 386 người khuyết tật
trong độ tuổi lao động có việc làm, trong đó chủ yếu làm việc trong khu vực
nơng nghiệp và thủ cơng nghiệp. Thực hiện các chính sách giải pháp tạo việc
làm người khuyết tật, cả thị xã hiện có gần10 doanh nghiệp và cơ sở sản xuất,
kinh doanh có người khuyết tật đang làm việc, tạo việc làm ổn định cho 250
lao động là người khuyết tật, khoảng 65% số hộ có người khuyết tật được
hưởng các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, như: miễn giảm thuế, hỗ trợ
tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đất sản xuất. Cụ thể thông qua quỹ quốc gia giải quyết
việc làm, phòng Lao động- Thương binh và Xã hội thị xã phối hợp với Ngân
hàng chính sách Sơn Tây hỗ trợ về vốn vay ưu đãi cho các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh dạy nghề và nhận người khuyết tật vào làm việc, riêng
trong 3 năm 2008-2010, số vốn ưu đãi hỗ trợ các doanh nghiệp và cơ sở này
là trên 6 tỉ đồng và số người khuyết tật được nhận vào làm việc trong 3 năm là
gần 325 người, ngồi ra cịn một số người khuyết tật được đào tạo nghề
nhưng về nhà tự tạo việc làm. Số vốn hỗ trợ cho các gia đình có người khuyết
tật để tạo việc làm, phát triển kinh tế trong 3 năm vừa qua là gần 1,5 tỉ đồng
với 72 hộ. Ngồi ra thị xã cịn tạo điều kiện giúp đỡ về địa điểm, kinh phí cho
hội người mù thị xã hoạt động. Đến nay hầu hết người mù trên địa bàn thị xã
đều tham gia vào hội- một tổ chức của người khuyết tật. Tại đây hội đã dạy
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
12
Trang
một số nghề cho những người khuyết tật có nhu cầu như nghề làm tăm che,
chổi chít, xoa bóp, bấm huyệt. Việc giúp đỡ người khuyết tật trong việc tiếp
cận với việc làm đã góp phần to lớn để họ có thu nhập tự đảm bảo cuộc sống,
thấy cuộc sống có ý nghĩa, có niềm tin vàơ cuộc sống và tự tin hoà nhập cộng
đồng.
Bên cạnh những kết quả đạt được như vậy thì vẫn cịn những hạn chế
nhất định, đó là hiện trên địa bàn thị xã vẫn cịn khoảng 520 người khuyết tật
có khả năng lao động nhưng thiếu hoặc chưa có việc làm. Điều này đặt ra yêu
cầu phải có sự quan tâm giúp đỡ hơn nữa của chính quyền thị xã, cộng đồng
dân cư, gia đình người khuyết tật để tạo ra cơ hội tiếp cận nghề nghiệp và việc
làm cho họ và sự nỗ từ phía người khuyết tật cũng là một yếu tố vô cùng quan
trọng trong vấn đề tạo và tìm việc làm.
5. Tiếp cận văn hóa, thể thao
Trong những năm qua nhiều hoạt động văn hóa, thể thao đã được tổ
chức từ Trung ương đến địa phương. Các hoạt động văn hố, thể thao, giải trí
của người khuyết tật ngày càng được quan tâm, nhiều cuộc thi đấu thể thao
được tổ chức để người khuyết tật được tham gia hoạt động góp phần tăng
cường sức khỏe, cải thiện đời sống tinh thần người khuyết tật xóa bỏ mặc
cảm. Tham gia hoạt động thể dục thể thao giúp người khuyết tật hịa nhập
cộng đồng.
Mặc dù kinh phí cịn hạn chế nhưng hàng năm thị xã vẫn hỗ trợ kinh
phí cho câu lạc bộ thể thao người khuyết tật hoạt động, Trung tâm thể dục thể
thao thị xã đã tạo những điều kiện về vật chất để câu lạc bộ thể thao người
khuyết tật luyện tập. Kết quả bước đầu đã đem về 1 huy chương bạc mơn
bóng bàn giải Đại hội thể dục thể thao người khuyết tật tồn quốc.
Tuy nhiên, phong trào văn hóa, thể thao của người khuyết tật mới chỉ
phát triển bước đầu và chủ yếu ở khu vực các phường nội thị, còn khu vực các
xã nông thôn chưa được quan tâm đúng mức.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
13
Trang
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Từ thực trạng về cơng tác chăm sóc, giúp đỡ người khuyết tật trên địa
bàn thị xã Sơn Tây thời gian qua cho thấy cơng tác chăm sóc, giúp đỡ người
khuyết tật hồ nhập với cộng đồng đã được chính quyền, cộng đồng dân cư và
các gia đình quan tâm, chú trọng và bước đầu đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ, song bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số hạn chế cần được tiếp tục
giải quyết. Để có thể giúp đỡ tối đa người khuyết tật tham gia vào các hoạt
động xã hội, hoà nhập với cuộc sống cộng đồng, em xin được đưa ra một số
đề xuất như sau:
I. Về chính sách, pháp luật của Nhà nước
Hiện nay đã có Luật Người khuyết tật, do đó Chính Phủ cần ban hành
Nghị định hướng dẫn thực hiện để Luật được đi vào cuộc sống. Những văn bản
này phải nghiêm cấm và lên án mạnh mẽ mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử
với người khuyết tật; cần có những cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hố
cơng tác chăm sóc, giúp đỡ người khuyết tật. Những chính sách khuyến khích
này có thể là hỗ trợ về thuế, mặt bằng, vốn... để các doanh nghiệp, tổ chức
tham gia tích cực hơn nữa vào cơng tác giúp đỡ người khuyết tật hoà nhập
cộng đồng cả về văn hoá, thể thao, y tế, giáo dục, nghề nghiệp và việc làm.
Nghị định 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 của Chính Phủ bổ sung
một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/04/2007 của Chính Phủ
đã có hiệu lực thi hành cần được thực hiện đúng, kịp thời đảm bảo quyền lợi
cho đối tượng người khuyết tật theo quy định.
Chính sách hỗ trợ người khuyết tật của Nhà nước phải là một chỉnh thể
đồng bộ thì mới đem lại hiệu quả thiết thực, hy vong trong thời gian tới Chính
phủ, các bộ ngành có liên quan cần có những điều chỉnh, bổ sung kịp thời để
hệ thống chính sách này ngày càng hồn thiện hơn nữa.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
14
Trang
II. Về chính sách của thị xã Sơn Tây.
1. Chính sách về chăm sóc y tế.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song vẫn khơng tránh khỏi những sai sót
trong việc cấp thẻ bảo hiểm y tế, do vậy đề nghị cán bộ lao động thương binh
xã hội các xã, phường và Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội thị xã,
Bảo hiểm xã hội Sơn Tây cần có sự phối kết hợp đồng bộ, khoa học để việc
cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người khuyết tật được đầy đủ, kịp thời, đúng các
thông tin ghi trên thẻ đảm bảo việc khám chữa bệnh của họ được thuận tiện,
kịp thời.
Mặt khác các cơ sở khám chữa bệnh cần tiếp tục nâng cao tinh thần
phục vụ nhân dân, tránh phân biệt việc khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y
tế với khám chữa bệnh dịch vụ; cần có sự ưu tiên trong việc khám chữa bệnh
cho người khuyết tật.
2. Chính sách hỗ trợ về giáo dục đối với người khuyết tật.
Hiện nay phần lớn người khuyết tật trong độ tuổi đều được đến trường
nhưng không phải người khuyết tật nào cũng phù hợp với loại hình giáo dục
hồ nhập này nên cho kết quả giáo dục là chưa cao; trong khi các trung tâm
hỗ trợ phát triển giáo dục hồ nhập cịn rất ít và hạn chế cả về năng lực, cơ sở
vật chất kỹ thuật cũng như khả năng tiếp nhận đối tượng. Từ thực trạng này
địi hỏi thị xã Sơn Tây nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung cần có chính
sách khuyến khích, tạo điều kiện hơn nữa trong việc khuyến khích các tổ
chức, cá nhân đầu tư hơn nữa vào lĩnh vực này giúp cho nhiều người khuyết
tật có điều kiện tiếp cận với các loại hình giáo dục phù hợp.
3. Chính sách hỗ trợ về văn hố, thể thao.
Phong trào văn hoá, thể thao của người khuyết tật trên địa bàn thị xã
trong những năm qua đã được quan tâm chú trọng song vẫn còn hạn chế và
mới chỉ tập trung ở một số phường trọng điểm mà chưa tạo thành một phong
trào sâu rộng trên toàn thị xã. Để phong trào văn hoá, thể thao của người
khuyết tật phát triển hơn nữa, chính quyền thị xã, Trung tâm Thể dục- Thể
thao thị xã cũng như các xã, phường cần tạo điều kiện hỗ trợ về kinh phí, địa
điểm sinh hoạt và luyện tập, tiến hành tổ chức thường niên các giải văn hoá
văn nghệ, thể dục thể thao cho người khuyết tật.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
15
Trang
4. Chính sách hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật.
Mô hình hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh, hộ gia đình nhận dạy nghề và giải quyết việc làm cho người
khuyết tật bước đầu đã phát huy được hiệu quả to lớn, song nó vẫn cịn một
bộ phận khá lớn người khuyết tật có khả năng lao động nhưng thiếu hoặc
chưa có việc làm. Từ thực tế đó, chính quyền thị xã Sơn Tây cần tiếp tục có
những chính sách khuyến khích đầu tư và hỗ trợ có hiệu quả cho những doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh dạy nghề và giải quyết việc làm cho người
khuyết tật. Tiếp tục giao phòng Lao động- Thương binh và Xã hội thị xã phối
hợp với các Hội, đồn thể và Ngân hàng chính sách xã hội Sơn Tây giúp đỡ
về vốn ưu đãi cũng như mơ hình sản xuất kinh doanh phù hợp cho các hộ gia
đình có người khuyết tật để người khuyết tật có thể tự tạo việc làm phù hợp
với đặc điểm và hồn cảnh của họ.
5. Chính sách hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận các cơng trình cơng
cộng.
Hiện nay, trên địa bàn thị xã Sơn Tây nói riêng và trên cả nước nói
chung mới có rất ít các cơng trình cơng cộng hạ tầng cơ sở bảo đảm điều kiện
tiếp cận cho người khuyết tật, nhất là việc tiếp cận các cơng trình giao thơng,
cơ quan hành chính nhà nước, bệnh viện, trường học... Nguyên nhân chính là
do nhận thức và quan tâm của xã hội đối với người khuyết tật còn hạn chế,
thiếu chế tài xử phạt và sự giám sát của các cơ quan thực thi pháp luật. Do
vậy để người khuyết tật có cơ hội để thụ hưởng đầy đủ các chính sách hỗ trợ
của nhà nước, trước mắt cần cải tạo, sửa chữa các cơng trình cơng cộng theo
hướng đảm bảo điều kiện tiếp cận cho cả người khuyết tật, và tăng cường
công tác quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc thực hiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng các cơng trình cơng cộng
đảm bảo cho người khuyết tật tiếp cận.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
16
Trang
Lời kết
Người khuyết tật là đối tượng yếu thế nên dễ chịu tổn thương từ những
thay đổi trong xã hội hơn bất cứ đối tượng nào khác. Do vậy việc chăm sóc,
giúp đỡ người khuyết tật trong hoà nhập cuộc sống cộng đồng là một việc
làm hết sức quan trọng, cần sự chung tay của cả Nhà nước, cộng đồng và gia
đình. Nhận thức được vấn đề này, trong những năm qua các cấp chính quyền
ở thị xã Sơn Tây đã có sự phối hợp với các tổ chức và gia đình người khuyết
tật để đưa ra những chủ chương, chính sách giúp đỡ người khuyết tật, động
viên họ tiếp tục nỗ lực phấn đấu vượt lên trên hoàn cảnh để hoà nhập với mọi
người trong xã hội. Những hoạt động này đã đem lại những kết quả đáng ghi
nhận. Những kết quả này tuy nhỏ bé nhưng đã là nguồn động viên to lớn đối
với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã Sơn Tây tiếp tục cố gắng hơn
nữa để chung tay chăm sóc, giúp đỡ người khuyết tật nói riêng và xây dựng
thị xã Sơn Tây giàu đẹp nói chung. Từ kết quả đã đạt được và với quyết tâm
của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã Sơn Tây, chúng ta tin tưởng
trong thời gian tới sẽ có thêm rất nhiều người khuyết tật trên địa bàn thị xã
được thụ hưởng thành quả từ những chính sách hỗ trợ mà Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân thị xã Sơn Tây đã, đang và tiếp tục quan tâm thực hiện./.
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
17
Trang
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ AN SINH XÃ HỘI
CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY
I. Một số khái niệm cơ bản
1. Khái niệm An sinh xã hội
2. Khái niệm người khuyết tật
3. Một số khái niệm liên quan
4. Các dạng khuyết tật
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ CƠNG TÁC CHĂM SĨC, GIÚP ĐỠ
NGƯỜI KHYẾT TẬT TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY
I. Đặc điểm tình hình thị xã Sơn Tây
II. Thực trạng về cơng tác chăm sóc người khuyết tật trên địa bàn thị xã Sơn
Tây
1. Chăm sóc đời sống cho người khuyết tật
2. Chăm sóc sức khoẻ, chỉnh hình, phục hồi chức năng
3. Học văn hố đối với người khuyết tật
4. Học nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật
4.1 Học nghề của người khuyết tật
4.2 Việc làm của người khuyết tật
5. Tiếp cận văn hoá, thể thao
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
I. Về chính sách, pháp luật của Nhà nước
II. Về chính sách của thị xã Sơn Tây
1. Chính sách về chăm sóc y tế
2. Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người khuyết tật
3. Chính sách hỗ trợ về văn hố, thể thao
4. Chính sách hỗ trợ về học nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp
Tiểu luận an sinh xã hội
18
Trang
5. Chính sách hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận các cơng trình cơng cộng
Lời kết
Sinh viên : Đỗ Trọng Minh
LCĐ4.QL6
Khoa Quản trị nhân lực - Lớp