Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tình hình sản xuất dưa chuột bao tử trên địa bàn bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.17 KB, 32 trang )

I. Phần mở đầu :
1.1 Lý do chọn đề tài :
Sau khi giải quyết vấn đề an ninh lương thực, ngành sản xuất rau quả Việt Nam đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần đáng kể trong quá trình phát triển và xây dựng
nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, nâng cao đời sống cho người
dân nông thôn. Với ưu thế về sự đa dạng của điều kiện sinh thái cả về tài nguyên đất cũng
như thời tiết khí hậu và sự phong phú về kinh nghiệm truyền thống của từng địa phương
và đặc biệt là sự quan tâm của Đảng và nhà nước, sản xuất rau quả ở Việt Nam nói chung
và các vùng sản xuất rau quả nói riêng có một số thuận lợi rất cơ bản., diện tích và sản
lượng những năm gần đây có sự gia tăng nhanh chóng.
Trong số các cây thực phẩm thì dưa chuột bao tử là cây trồng ngắn ngày, cung cấp
nguyên liệu cho ngành chế biến rau quả xuất khẩu được nhiều quốc gia ưa thích. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, dưa chuột bao tử là cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, trong quả
có nhiều vitamin A, B, B6, E…và đặc biệt có nhiều men tiêu hoá làm cho quá trình đồng
hoá và hấp thụ thức ăn được tốt hơn. Nhận thức được vai trò đó của dưa chuột bao tử,
những năm gần đây đã có nhiều cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài nước đã khảo sát
nghiên cứu và chọn Việt Nam là nơi sản xuất dưa chuột bao tử làm nguyên liệu chế biến
xuất khẩu sang nước ngoài.
Bắc Giang có 382.200 ha đất tự nhiên, bao gồm 123 nghìn ha đất nông nghiệp, 110
nghìn ha đất lâm nghiệp, 66,5 nghìn ha đất đô thị, đất chuyên dùng và đất ở, còn lại là các
loại đất khác. Nhìn chung, tỉnh Bắc Giang có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Quốc lộ 1A mới hoàn thành tạo ra quỹ đất
lớn có nhiều lợi thế cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Đất nông nghiệp của tỉnh, ngoài
thâm canh lúa còn thích hợp để phát triển rau, củ, quả cung cấp cho thủ đô Hà Nội và các
1
tỉnh lân cận. Tỉnh đã có kế hoạch chuyển hàng chục nghìn ha trồng lúa sang phát triển
cây ăn quả, cây công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao.
Bên cạnh những thuận lợi như trên, việc kinh doanh dưa chuột bao tử của tỉnh Bắc
Giang còn gặp nhiều khó khăn. Trước hết về trình độ khoa học kỹ thuật của người nông
dân còn thấp, công tác quản lý thị trường của nhà nước cũng chưa đáp ứng với yêu cầu
của từng ngành. Vì thế năng suất và hiệu quả của cây dưa chuột bao tử chưa tương xứng


với tiềm năng và lợi thế của nó. Vì thế việc nghiên cứu tình hình sản xuất, chế biến và
tiêu thụ dưa chuột bao tử ở tỉnh Bắc Giang, từ đó tìm ra giải pháp nhằm góp phần phát
triển, nâng cao hiệu quả kinh tế của cây trồng dưa chuột bao tử của tỉnh là rất cần thiết và
có ý nghĩa thực tế. Xuất phát từ thực tế đó, nhóm chúng tôi đã chọn nội dung “ Thực
trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử ở tỉnh Bắc Giang” làm đề tài
nghiên cứu.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu :
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử
ở tỉnh Bắc Giang. Nghiên cứu, đề xuất định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
dưa chuột bao tử trên địa bàn tỉnh.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản lý trong
sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử với chủ thể là các nông hộ sản xuất dưa
chuột bao tử, các đối tượng tham gia thị trường xuất khẩu dưa chuột bao tử như Công ty
cổ phần Chế biến thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang, Công ty cổ phần Chế biến thực phẩm
xuất khẩu GOC, Công ty cổ phần Chế biến thực phẩm xuất khẩu Đông Hải.
2
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các vần đề lý luận, thực tiến và các yếu tố
ảnh hưởng đến việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện
Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
- Thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2006 đến đầu năm 2010
1.4 Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu :
1.4.1 Đặc điểm địa bàn :
Huyện Lạng Giang nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bắc Giang, có vị trí là cửa ngõ nối
liền các tỉnh phía Đông Bắc với thành phố Bắc Giang. Huyện Lạng Giang có diện tích tự
nhiên 246,06 km2. Dân số của huyện đến 2010 khoảng gần 250.000 người, trong đó số
người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 42%.
Với vị trí thuận lợi, hiện nay, Lạng Giang là một trong 4 huyện thành phố của tỉnh

được xác định là vùng trọng điểm phát triển KT-XH. Nơi đây đã hình thành một số cụm
công nghiệp và một số vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến nông
sản. Điều kiện tự nhiên về đất đai, khí hậu tốt, rất thích hợp cho việc trồng cây nông sản,
đặc biệt là dưa chuột bao tử.
1.3.3 Phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp chọn điểm nghiên cứu: nghiên cứu 14 xã thuộc địa bàn huyện Lạng
Giang tỉnh Bắc Giang
- Phương pháp thu thập số liệu
- + Số liệu thứ cấp:
* Thông qua các luận án, luận văn, sách báo và tạp chí liên quan.
3
* Niên giám thống kê của tỉnh Bắc Giang đã được công bố
* Niên giám thống kê của huyện Bắc Giang đã được công bố
* Số liệu tổng quan chung của các xã trong huyện
+ Số liệu sơ cấp: Phiếu điều tra các nông hộ trồng dưa chuột bao tử trên địa bàn
Huyện Lạng Giang tỉnh Bắc Giang
- Xử lý số liệu: sử dụng các phép toán học, phần mềm Excel…
Phần II: Nội dung :
2.1 Cơ sở lý luận :
2.1.1 Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của dưa bao tử :
Cây sinh trưởng khỏe, phát triển nhanh, khả năng chống chịu bệnh, đặc biệt là các
bệnh sương mai, đốm vàng trên lá tốt hơn, giảm được chi phí sản xuất do ít phải phun
thuốc phòng trừ sâu bệnh. Sức cây bền, thời gian cho thu hoạch kéo dài nên đạt năng suất
cao.
Thực tế 3 vụ sản xuất vừa qua cho thấy năng suất trung bình đạt từ 1,5-1,6 tấn/sào,
có hộ chăm sóc tốt, thu hái kịp thờ đã đạt tới 2,4 tấn/sào, cao hơn các giống khác từ 10-
15%. Ưu điểm nổi bật là quả ra đồng đều về kích cỡ cho từng lứa nên dễ thu hái đạt chất
lượng cao và có thể cung cấp cho chế biến nhiều loại sản phẩm theo kích thước quả: dưa
bao tử, dưa trung tử, dưa 6-9 nên hiệu quả kinh tế đạt cao. Quả dưa màu xanh, thuôn đều
nên ít bị thải loại; không biến màu sau vài ngày thu hoạch; vỏ dày, đặc ruột, nhiều gai

vẫn giữ được sau khi rửa, ăn giòn.
4
Dưa bao tử dễ chế biến, mẫu mã đẹp, chất lượng sản phẩm sau chế biến cao, giòn,
giữ được hương vị đặc trưng, thích hợp cho cả dưa dầm dấm đóng lọ và dưa muối.
Theo quy trình kĩ thuật áp dụng trên đồng đất miền Bắc, cây dưa chuột bao tử được
gieo trồng một năm 2 vụ. Vụ xuân, từ 15/2 đến 28/2 dương lịch và kết thúc thu hoạch vào
khoảng 30/5 dương lịch. Vụ đông, từ 20/9 đến 15/10 dương lịch và kết thúc thu hoạch
vào khoảng 31/1 dương lịch năm tiếp theo. Tính từ lúc trồng, đến ngày thứ 30 là cây đã
cho thu hoạch. Cây dưa chuột rất khoẻ và sinh trưởng nhanh, các loại sâu bệnh thường
gặp chỉ là sâu đơn thuần như sâu xám, sâu xanh, sâu vẽ bùa; bệnh thì chỉ phòng ngừa
sương mai, chết yểu, bệnh chết xanh. Kĩ thuật trồng cũng tương đối đơn giản, mọi người
dân đều có thể làm được từ khâu xử lý hạt giống, ngâm ủ hạt, làm bầu, tra hạt vào bầu và
đưa bầu ra ruộng…
2.1.2 Tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ dưa chuột bao tử :
Dưa bao tử được sản xuất dưới sự kết hợp chặt chẽ giữa Hội nông dân, cán bộ
khuyến nông và nhà thu mua trong việc tập huấn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, thông
tin tuyên truyền và bao tiêu sản phẩm.
Từ kết quả bước đầu, cây dưa chuột xuất khẩu được lãnh đạo địa phương và ngành
chức năng đánh giá là cây trồng thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng một số đồng đất trên
địa bàn huyện. Trồng 1 sào dưa chuột bình quân thu 1,5 tấn quả loại 1 và 3-400 kg loại 2,
Công ty bao tiêu sản phẩm với giá cố định 3.000 đồng/kg loại 1; 2.200 đồng/kg loại 2 thì
mỗi sào trung bộ thu được trên 5 triệu đồng/vụ, trừ đi chi phí ban đầu mỗi sào lãi ròng từ
3, 5 -3,7 triệu đồng. Có nhà trồng 2 sào mỗi vụ có thu nhập trên 7 triệu đồng trong 3
tháng. Ba công thức so sánh giữa trồng dưa, trồng ngô hoặc rau màu các loại được bà con
nông dân đánh giá cao cây dưa. Hơn nữa, một ưu điểm vượt trội của trồng dưa chuột bao
tử là có thể trồng quanh năm đặc biệt là vụ đông muộn, giúp giải quyết được việc làm
thường xuyên khi nông nhàn.
5
Ngoài lợi ích kinh tế trước mắt, việc trồng dưa bao tử đã giúp người dân quen hơn với
sản xuất nông nghiệp hàng hoá - một điều vô cùng cần thiết khi nông nghiệp nước ta hội

nhập. Dưa bao tử đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn kỹ thuật như kích thước, trọng lượng, màu
sắc… do vậy đỏi hỏi người nông dân phải luôn tuân thủ đúng quy trình canh tác. Điều
này là rất tốt cho những chương trình, dự án nông nghiệp hàng hoá sẽ được triển khai ở
xã trong thời gian tới.
2.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức sản xuất, kinh doanh dưa bao tử
Thuận lợi trong sản xuất vụ này là thời tiết ít mưa tạo điều kiện cho nông dân làm đất
trồng các loại rau màu đúng thời vụ. Giá các loại giống cây trồng, vật tư kỹ thuật nông
nghiệp, nhất là phân bón giảm. Tại các địa phương, đạm u-rê đang được bán phổ biến ở
mức giá 6,3 nghìn đồng/kg, giảm 300-400 đồng/kg so với vụ mùa và gần 3 nghìn
đồng/kg so với vụ đông năm trước; phân tổng hợp NPK 3,3 nghìn đồng/kg, lân 2,4 nghìn
đồng/kg, ka li 10,5-11 nghìn đồng/kg, giảm nhẹ so với vụ trước. Đặc biệt, Công ty cổ
phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Bắc Giang tiếp tục triển khai chương trình cung ứng
phân bón trả chậm tạo điều kiện cho những hộ kinh tế khó khăn có đủ phân bón đầu tư
thâm canh ngay từ đầu vụ.
Nhận thức rõ vai trò của vụ đông nên chính quyền các cấp, ngành chức năng có sự
quan tâm, chỉ đạo sát sao. UBND tỉnh trích ngân sách hơn 4,2 tỷ đồng hỗ trợ nông dân
trồng khoai tây chất lượng sạch bệnh và sử dụng phân bón Neb-26 với diện tích khoảng
1.500 ha nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Nhiều địa phương cũng dành
hàng trăm triệu đồng hỗ trợ nông dân mở rộng diện tích cây trồng chủ lực, có giá trị kinh
tế cao.
Do ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu toàn cầu mà trong nhiều tháng qua không có
mưa. Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Các ao hồ chứa nước
6
trên địa bàn bị khô hạn không có đủ nước tưới và có thể dẫn đến tình trạng cây bị chết do
thiếu nước. Vì thế nguy cơ mất mùa đối với các loài cây công nghiệp trên địa bàn là hiện
hữu. Từ năm 1998 đến nay chưa có năm nào hạn hán như năm này, các sông suối chính
trên địa bàn huyện hầu như là khô cạn. Nước sinh hoạt còn không đủ dùng huống chi là
nước dùng cho việc tưới tiêu. Điều đó có thể ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng dưa
bao tử và một số cây trồng khác trên địa bàn huyện trong năm 2010.
Năm nay mưa ít, tổng lượng mưa trung bình từ tháng 1 đến tháng 9 chỉ đạt 928,4

mm, bằng 77,6% so với bình quân cùng kỳ nhiều năm trước. Đây là nguyên nhân mực
nước tại nhiều hồ, đập trên địa bàn hiện đạt thấp hơn nhiều so với dung tích thiết kế.
Theo Chi cục Thuỷ lợi (Sở Nông nghiệp và PTNT), hiện chỉ có 4/24 hồ, đập đạt dung
tích thiết kế, cá biệt có hồ chỉ đạt 17,3% dung tích thiết kế. Không chỉ nguồn nước tưới
hạn chế, hệ thống kênh mương của hai công ty khai thác công trình thuỷ lợi lớn trên địa
bàn là Cầu Sơn và Sông Cầu đang được cứng hoá hàng tháng phải cắt nước một thời gian
dài phục vụ thi công gây không ít khó khăn cho việc cung cấp nước tưới thường xuyên
liên tục cho cây trồng vụ đông.
Tình hình sâu bệnh phát sinh gây hại trên cây trồng cũng là một trong những khó
khăn lớn cho sản xuất vụ đông năm nay. Nguyên nhân là do người dân không có thói
quen luân canh cây trồng trên cùng một thửa ruộng, công tác vệ sinh đồng ruộng không
tốt, kỹ thuật chăm sóc cây trồng còn hạn chế (ít bón lót, chỉ bón thúc), chủ quan trong
phòng trừ và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc,
đúng thời điểm, đúng nồng độ và đúng kỹ thuật); một số loại cây rau nhập khẩu thích
nghi chưa cao với điều kiện thời tiết, khí hậu địa phương. Bà Đỗ Thị Luyến, Phó Chi cục
trưởng Chi cục Bảo vệ thực vật nói: "Những năm trước do không làm tốt công tác phòng
trừ sâu bệnh nên một số diện tích ngô bị bệnh héo khô, dưa bao tử bị nhiễm bệnh giả
sương mai, cà chua bị héo xanh… làm giảm đáng kể năng suất cây trồng".
7
2.2 Cơ sở thực tiễn :
* Tình hình sản xuất dưa bao tử trong nước và nước ngoài:
Dưa bao tử được trồng ở nước ta từ lâu do cây dễ trồng, cho năng suất cao.Nhưng
nhiều năm trước, dưa bao tử chưa được xem là cây trồng chính mà cây lúa được người
dân chú trọng hơn. Chỉ khi đời sống người dân tăng lên thì được xem là cây trồng chính.
Dưa bao tử được trồng ở rộng khắp các tỉnh thành phía bắc và trung đặc biệt ở Bắc
Giang, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nam… với diện tích ngày càng tăng.
Năm 2007, tổng công ty rau quả Việt Nam xuất khẩu 47,425 tấn dưa chuột hộp,
552 tấn dưa chuột đóng lọ thủy tinh. Năm 2008, tổng diện tích dưa là 1.685,56 ha. Sản
lượng xuất khẩu đạt 70,478 tấn dưa chuột hộp và 1.718 tấn đóng lọ thủy tinh, tổng giá trị
xuất khẩu đạt 7,98 triệu USD.

Điều kiện sinh thái của Việt Nam, đặc biệt của miền Bắc rất thuận lợi cho trồng
dưa bao tử, đây là ưu thế cạnh tranh của VN trên thì trường nước ngoài. Khu vực sản xuất
chủ yếu là Đồng bằng sông Hồng 25,26% diện tích và 30,78 % sản lượng dưa cả nước.
Đồng bằng sông Cửu Long là 23,28% về diện tích và 25,46% về sản lượng. Dưa bao tử
thực sự trở thành cây làm giàu cho nông dân, cho nông thôn.
Tính đến nay, Dưa bao tử của nước ta đã có mặt trên 50 quốc gia cả những thị
trường khó tính như Mỹ, EU. Theo điều tra IFPRI, hiện nay nước ta có hàng trăm nhà
máy quy mô nhỏ và vừa, công suất trung bình khoảng 1000-1500 tấn nguyen liệu/năm.
Đơn giá xuất khẩu sản phẩm dưa chuột trong quý I/2010 tiếp tục giảm nhẹ: Qua
bảng giá FOB xuất khẩu dưa chuột có thể thấy giá xuất khẩu dưa chuột bao tử dầm dấm
loại 720 ml sang Mông Cổ đã giảm 20% xuống còn 0,4 USD/lọ so với cùng kỳ 2009.
Đơn giá xuất khẩu Dưa chuột trung tử dầm dấm720 ml sang Ukraina giảm 20% xuống
còn 5,2 USD/thùng. Tuy nhiên, đơn giá xuất khẩu dưa chuột muối sang thị trường Nga
tăng 39,3% đạt mức 0,39 USD/lọ.
8
Có 31 thị trường nhập khẩu dưa chuột chế biến từ Việt Nam, tăng 12 thị trường
so với 3T/2009. Đó là các thị trường như: Slovakia, Trung Quốc, NewZealand, Ôxtrâylia,
Amenia, Singapo, Slovenia, Ixraen, Đan Mạch, Saudi Arabia, Bỉ và Belarut. Trong quý
I/2010, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dưa chuột chế biến sang thị trường Nga vẫn đạt
cao nhất với hơn 4 triệu USD chiếm 53,8% tổng kim ngạch xuất khẩu dưa chuột ;giảm
41,5% so cùng kỳ năm 2009.
Trong số các sản phẩm dưa chuột xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu dưa chuột
dầm dấm 720 ml đạt kim ngạch cao nhất với hơn 2,1 triệu USD. Tiếp đến là dưa chuột
bao tử dầm dấm 720 ml đạt 1,2 triệu USD. Dưa chuột trung tử dầm dấm 1500 ml đạt 50,1
nghìn USD tăng 145,6%; dưa chuột bao tử dầm dấm vị hạt tiêu 500 ml đạt 118,1 nghìn
USD tăng 116,6%; dưa chuột bao tử dầm dấm vị hành tây 500 ml đạt 118,1 nghìn USD
tăng 71,5%;
2.3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận :
2.3.1 Thực trạng sản xuất dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc
Giang:

2.3.1.1 Tình hình sản xuất dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện :
a. Diện tích
Bảng A1.1 – Diện tích dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lạng Giang giai đoạn 2007
– 2009
( Nguồn số liệu thống kê huyện Lạng Giang )
Vùng 2007 2008 2009 2009/2007
DT CC DT CC SL CC SL CC
Toàn
huyện
120,28 100,00 136,44 100,00 148,2 100,00 27,92 23.21
9
Hương
Sơn
45,10 37,50 49,57 36,33 50,1 33,76 5 11,08
Tân
Thịnh
15,90 13,22 18,89 13,85 19,5 13,14 3,6 22,6
Hương
Lạc
8,83 7,33 10,42 7,64 11,9 8,02 3,07 34,76
An Hà 2,73 2,27 3,35 2,46 5,2 3,5 2,47 90,47
Nghĩa
Hòa
1,12 0,93 1,45 0,84 1,1 0,74 -0,02 -1,78
Nghĩa
Hưng
0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 _
Đào
Mỹ
9,83 8,17 10,80 7,92 14,8 9,97 4,97 50,55

Tiên
Lục
3,90 3,24 4,16 3,05 5,1 3,43 1,2 30,76
Xuân
Hương
1,31 1,09 1,65 1,21 2,2 1,48 0,89 67,93
Thái
Đào
2,74 2,28 3,26 2,39 3,9 2,63 1,16 42.33
Đại
Lâm
0,30 0,25 0,60 0,44 0.66 0,44 0,36 120
Tân
Hưng
5,26 4,37 6,14 4,50 6,24 4,2 0,98 18,63
Yên
Mỹ
0,27 0,23 0,55 0,40 0,73 0,5 0,46 170,3
Quang
Thịnh
23,00 19,12 25,90 18,98 26,95 18,2 3,95 17,17
Với tiềm năng về đất đai và đặc biệt là thổ nhưỡng rất thích hợp cho việc phát triển
cây dưa chuột bao tử, diện tích dưa chuột bao tử của huyện đã giữ ở mức ổn định trên
100ha trong những năm qua. Bảng A1.1 cho thấy diễn biến về diện tích trồng dưa chuột
bao tử trên địa bàn. So với năm 2007 tổng diện tích đất trồng dưa bao tử năm 2009 tăng
10
27,92 ha, với tốc độ phát triển 23,21%. Diện tích dưa chuột bao tử thời gian qua vừa tăng
là do chuyển dịch một số đất xấu, đất kém hiệu quả, đất trồng lúa trước đây sang trồng
dưa chuột bao tử, do chính quyền địa phương hoạt động khá hiệu quả trong việc khuyến
khích hỗ trợ các nông hộ sản xuất dưa chuột bao tử.

Tuy nhiên, cây dưa chuột bao tử được trồng tập trung ở các xã đồng bằng hoặc bán
sơn địa, nơi có truyền thống, điều kiện đất đai tự nhiên phù hợp với việc phát triển cây
dưa chuột bao tử. Đây là vùng có tỷ lệ lớn đất đai có thuộc nhóm đất thịt nhẹ, đất thịt pha
có độ pH 6,5 – 7,5 ( đất có độ pH trung tính ), đất khá tơi, xốp, nhiều mùn, thích hợp cho
cây dưa chuột bao tử phát triển. Một số công ty trong và ngoài nước đã tiến hành đưa dưa
chuột bao tử giống của Pháp, Hà Lan vào sản xuất và thu mua để chế biến và xuất khẩu.
từ đó, thị trường xuất khẩu dưa chuột bao tử cưa Lạng Giang đã được mở rộng và bắt đầu
có nhiều giống dưa chuột bao tử có năng xuất cao được đưa vào sản xuất.
Bảng A1.2 Diện tích dưa chuột bao tử chia theo mùa vụ trên địa bàn huyện Lạng Giang
giai đoạn 2007 – 2009
Diễn
giải
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
SL CC SL CC SL CC
Cả năm 120,28 100 136,44 100 148,38 100,00
+ Vụ
xuân
49,12 40,84 59,12 43,33 61,3 41,31
+ vụ
đông
71,16 59,16 77,31 56,67 86,9 58,69
(Nguồn số liệu Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lạng giang)
Diện tích gieo trồng dưa chuột bao tử tiếp tục tăng qua các năm. Vụ đông là vụ sản
xuất quan trọng đối với cây dưa chuột bao tử của Lạng Giang. Bảng A1.2 cho thấy diện
tích dưa chuột bao tử vụ đông năm 2007 là 71,16 ha chiếm 59,16%, năm 2008 là 71,31ha
chiếm 56,67%, năm 2009 là 86,9 ha chiếm 58,69%. Như vậy diện tích dưa chuột bao tử
vụ đông luôn cao hơn vụ xuân do vụ đông luôn có điều kiện thời tiết phù hợp với cây dưa
chuột bao tử, do vậy cây trồng cho năng xuất cao hơn vụ xuân. Tuy nhiên, qua nhiều năm
11
sản xuất người nông dân đã có kinh nghiệm hơn trong việc chăn bón và làm hạn chế sự

tác động của thời tiết nên cơ cấu diện tích vụ đông và vụ xuân đã dần cân đối.
b. Năng xuất và sản lượng dưa chuột bao tử của huyện thời kì 2007 – 2009:
Mức độ đầu tư cho cây dưa chuột bao tử không đồng đều giữa các vùng, các xã dẫn
đến năng xuất có sự khác biệt. Trong giai đoạn 2007 – 2009, năng xuất dư chuột bao tử
của huyện Lạng Giang gia tăng nhưng không đáng kể, năng xuất dưa chuột bao tử năm
2009 so với năm 2007 đạt 109,2% và đạt 26,6 tấn/ha trong năm 2009. Mức năng xuất này
đạt ở mức trung bình so với năng xuất dưa chuột bao tử trên địa bàn toàn tỉnh Bắc Giang,
nhưng lại tăng chậm và thấp hơn các tỉnh khác.
Nguyên nhân chính là:
Thứ nhất, theo cán bộ khuyến nông, tỷ lệ các hộ dùng giống và chăm bón không đúng
kỹ thuật còn cao.
Thứ hai, hầu hết đất trồng dưa chuột bao tử là đất được chủ động nước tưới nhưng
không ổn định và phụ thuộc chủ yếu vào nước mưa. Một số xã có nhiều đồi núi thì hệ
thống các công trình thủy lợi chưa thể đáp ứng được nhu cầu nước cho các cây trồng
ngắn ngày trong đó có cây dưa chuột bao tử.
Thứ ba, một số loại sâu bệnh như vàng lá, lở cổ rễ, chết ẻo, sâu ăn lá…bùng phát mạnh.
Công tác bảo vệ thực vật vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ tư, mức độ đầu tư cho sản xuất dưa chuột bao tử còn thấp đã lam hạn chế đến năng
xuất dưa chuột bao tử ở huyện.
Bảng A2.1 Năng xuất sản lượng dưa chuột bao tử trên địa bàn huyện Lạng Giang giai
đoạn 2007 – 2009
Vùng NS(tấn/ha) Sản lượng(tấn) 2009/2007
2007 2008 2009 2007 2008 2009 NS SL
Toàn
huyện
25,3 26,5 27,2 3043,0 3611,1 4439,9 107,5 145,9
Hương
Sơn
29,5 32,0 32,3 1329,3 1587,2 1752,3 109,5 131,82
12

Tân
Thịnh
18,8 19,5 19,97 298,8 369,1 432,4 106,2 144,7
Hương
Lạc
17,9 18,3 19,00 158,1 190,8 235,3 106,14 148,83
An Hà 15,8 16,1 16,9 43,1 53,9 76,4 106,96 177,26
Nghĩa
Hòa
15,8 17,0 18,6 17,7 19,5 28,6 117,72 161,58
Nghĩa
Hưng
_ _ _ _ _ _ _ _
Đào Mỹ 18,4 19,9 20.74 180,7 215,1 421,7 112,71 233,33
Tiên Lục 17,1 18,5 19,30 66.5 76,9 92,7 112,86 139,39
Xuân
Hương
15,5 16,7 17,2 20,3 27,6 41,2 110,96 202,9
Thái Đào 18,4 19,9 20,87 50,3 65,0 71,8 113,42 142,74
Đại Lâm _ _ _ _ _ _ _ _
Tân Hưng 18,1 19,4 20,18 95,1 119,2 236,3 111,49 248,47
Yên Mỹ _ _ _ _ _ _ _ _
Quang
Thịnh
34,0 34,2 35,07 783,0 886,8 1051,2 103,14 134,25
( Nguồn số liệu thống kê huyện Lạng Giang)
Bảng A2.2 Năng xuất sản lượng dưa chuột bao tử chia theo mùa vụ trên địa bàn huyện
Lạng Giang giai đoạn 2007 – 2009
Diễn giải ĐVT Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
SL CC SL CC SL CC

-Năng suất Tấn/ha
+Vụ xuân 22,80 _ 24,37 _ 26,03 _
+Vụ đông 27,03 _ 28,07 _ 29,7 _
-Sản lượng Tấn 3043,0 100,0
0
3611,1 100 4439,9 100,0
0
+Vụ xuân 1119,8
1
36,80 1440,8
5
39,9 1929,0
6
43,44
+Vụ đông 1923,1
5
63,20 2170,3
0
60,1 2510,7
4
56,56
13
(Nguồn số liệu Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lạng Giang)
Một số xã có năng xuất dưa chuột bao tử cao và ổn định chủ yếu là do có kinh nghiệm
sản xuất dưa chuột bao tử, có trình độ thâm canh cao hơn: Hương Sơn, Hương Lạc, Tân
Thịnh…Những xã có diện tích dưa chuột bao tử lớn và có tỷ lệ dưa chuột bao tử hàng
hóa cao thì năng xuất luôn giữ được ở mức ổn định như: Hương Sơn, Tân Thịnh, Quang
Thịnh.
Mặc dù năng suất dưa chuột bao tử tăng chậm nhưng do diện tích trồng dưa chuột
bao tử tăng lên làm cho sản lượng dưa chuột bao tử tăng đáng kể, sản lượng năm 2009 so

với năm 2007 là 145,9%. Sản lượng dưa chuột bao tử năm 2009đạt 4439,9 tấn chiếm
27,8% sản lượng dưa chuột bao tử của tỉnh. Một số xã có sản lượng dưa chuột cao và ổn
định là Hương Sơn, Hương Lạc, Tân Thịnh, Quang Thịnh…Tuy nhiên sản lượng dưa
chuột bao tử vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trên
địa bàn huyện. Vì thế các nhà máy này vẫn phải thu mua dưa nguyên liệu từ các huyện,
tỉnh khác và dưa chuột bao tử được sản xuất trên địa bàn rất được thị trường ưa thích.
2.3.1.2 Kết quả sản xuất của các nông hộ :
a. Tình hình đầu tư sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ :
• Đặc điểm sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất dưa chuột bao tử
Kết quả sản xuất phụ thuộc rất nhiều yếu tố đầu vào, bao gồm những yếu tố có thể kiểm
soát được và những yếu tố không thể kiểm soát được. Để tìm ra các nhân tố làm ảnh
hưởng tích cực đến sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ, đặc biệt là những nhân tố kiểm
soát được, chúng ta xem xét những điểm khác nhau về đầu tư của nhóm hộ có năng suất
khác nhau. Ta chia các hộ ra 3nhóm:
- Nhóm hộ sản xuất dưa chuột bao tử kém: dưới 550 Kg/sào
- Nhóm hộ sản xuất dưa chuột bao tử trung bình: 550 – 650 Kg/sào
- Nhóm hộ sản xuất dưa chuột bao tử khá giỏi: trên 650Kg/sào
Bảng A3.1 Mức độ đầu tư các yếu tố trong sản xuất dưa chuột bao tử của các nhóm hộ
( tính bình quân 1 sào)
14
Chỉ
tiêu
ĐVT Hộ kém Hộ trung bình Hộ khá Bình quân
SL Khoản
g tin
cậy
SL Khoản
g tin
cậy
SL Khoản

g tin
cậy
SL Khoả
ng tin
cậy
Số hộ 41 40 39 120
1.NS
trung
bình
Ta/sà
o
462,4
3
26,10 613,0
8
15,21 737,1
5
24,87 604,2
2
24,00
2.Giốn
g
kg/sà
o
21,00 0,42 21,38 0,31 21,21 0,33 21,20 0,20
3.phân
chuồng
Tạ/sà
o
5,22 0,3 6,54 0,28 7,67 0,21 6,47 0,24

4.đạm
Urê
Kg/s
ào
20,89 0.20 22,34 0,24 24,32 0,21 22,51 0,28
5. lân Kg/s
ào
41,66 0,32 44,65 0,35 48,1 0,47 44,80 0,52
6. kali Kg/s
ào
14,13 0,04 14.44 0,04 14,86 0,08 14,47 0,06
7. vôi Kg/s
ào
20,79 0,20 22,26 0,20 2,07 0,24 22,37 0,27
8.
thuốc
hóa
học
1000
đ/sào
236,3
3
3,74 208,7
8
4,00 191,7
8
5,05 212,2
9
4,11
9. CP

làm
đất
1000
đ/sào
71,01 0,29 74,03 0,40 77,63 0,54 74,22 0,54
10.
Công

Ngày
-
ngườ
25,69 0,23 28,85 0,42 33,10 0,55 29,21 0,60
15
i/sào
(Nguồn số liệu điều tra các hộ năm 2009- độ tin cậy 95% )
Tóm lại, mức độ đầu tư của các yếu tố đầu vào cho một sào dưa chuột bao tử
chưa cao và có sự chênh lệch giữa các nhóm hộ, nhất là nhóm hộ có năng suất khá và
năng suất kém. Mức độ thâm canh sản xuất dưa chuột bao tử của các nông hộ còn thấp
so với yêu cầu. Đây là tiềm năng để có thể tăng năng suất dưa chuột bao tử trong thời
gian tới.
• Tình hình đầu tư sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ
Tuy là vùng chuyên sản xuất dưa chuột bao tử của tỉnh nhưng phương thức sản xuất
của các hộ được tiến hành theo lối kinh nghiệm. Các yếu tố về giống, về khoa học kỹ
thuật như mức độ đầu tư, quy trình kỹ thuật do trung tâm Khuyến Nông và Phòng
Nông Nghiệp huyện chuyển giao. Mức độ đầu tư và cơ cấu đầu tư cho sản xuất dưa
chuột bao tử của các hộ được trình bày ở bảng A3.2
Bảng A3.2 Chi phí sản xuất dưa chuột bao tử của các nhóm hộ
( tính bình quân 1 sào) ĐVT: SL: 1000 đồng
CC: %
Chỉ tiêu Hộ kém Hộ trung bình Hộ khá Bình quân

SL CC SL CC SL CC SL CC
1.Giống 136,00 8,25 143,90 8,34 158,90 8,64 146,08 8,42
2.Phân
bón
555,71 33,72 604,73 35,05 656,31 35,69 604,75 34,84
3.Thuốc
hóa học
236,33 14,34 208,78 12,10 191,78 10,43 212,66 12,25
4.CP
làm đất
71,01 4,31 74,03 4,29 77,63 4,22 74,17 4,27
5.Công

639,63 38,81 683,90 39,64 743,40 40,43 688,11 39,64
6. Khác 9,36 0,57 10,02 0,58 10,83 0,59 10,06 0,58
16
Tổng
cộng
1648 100 1725,3 100 1838,8 100 1735,8 100
(Nguồn số liệu điều tra năm 2009)
Chi phí sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ có sự gia tăng theo kết quả sản xuất.
Bình quân mỗi hộ chi phí 1735,80 nghìn đồng/sào. Nhóm hộ khá có mức đầu tư cao nhất
và hơn các nhóm hộ trung bình và kém. Chi phí của nhóm hộ trung bình là 1725,35 nghìn
đồng/sào cao hơn nhóm hộ kém là 4,69% và ít hơn nhóm hộ khá là 6,58%. Mặc dù sự
khác biệt về tổng đầu tư giữa các nhóm hộ là không lớn nhưng một số chi phí quan trọng
lại có sự chênh lệch rõ rệt.
Nhóm hộ sản xuất kém và trung bình là nhóm hộ có mức đầu tư thâm canh thấp
hơn. Đặc biệt mức độ đầu tư về phân chuồng, phân bón hóa học còn thấp và chưa cân
đối. Vì vậy, để tăng năng suất dưa chuột bao tử các hộ cần đầu tư thâm canh, nhất là đầu
tư phân bón và đồng thời cần phổ biến kinh nghiệm, tiến bộ kỹ thuật cho các hộ về làm

đất, mật độ gieo trồng hơp lý, phát hiện và phòng trừ sâu bệnh kịp thời và hiệu quả.
b. Hiệu quả kinh tế sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ
Kết quả và hiệu quả sản xuất dưa chuột bao tử luôn là mối quan tâm hàng đầu của
các hộ. Do mức đầu tư và kinh nghiệm sản xuất dưa chuột bao tử của các hộ khác nhau
dẫn đến hiệu quả kinh tế sản xuất dưa chuột bao tử của các nhóm hộ cũng khác nhau. Ta
có bảng số liệu điều tra như sau:
Chỉ tiêu ĐVT Hộ kém Hộ TB Hộ khá BQ
1.NS TB Tạ/sào 462,43 613,08 737,15 604,22
2.GO 1000 đ 2293,50 2867,65 3380,08 2838,02
3.IC 1000 đ 1648,03 1725,35 1838,84 1735,80
4.VA 1000 đ 645,47 1142,30 1541,24 1102,22
5.VA/GO Lần 0,28 0,40 0,46 0,39
6.VA/IC Lần 0,39 0,66 0,84 0,63
7.GO/IC Lần 1,39 1,66 1,84 1,63
8.VA/công 1000 đ 25,13 39,59 46,56 37,73
17

( Nguồn số liệu điều tra các hộ năm 2009 )
Kết quả sản xuất dưa chuột bao tử ở các hộ là khá cao. Bình quân 1 sào sản xuất dưa
chuột bao tử đem lại GO là 2838,02 nghìn đồng, VA là 1102,22 nghìn đồng. GO giữa các
nhóm hộ có sự chênh lệch khá lớn, GO nhóm hộ sản xuất kém đạt 2293,50 nghìn đồng,
hộ trung bình và nhóm hộ khá giỏi đạt cao hơn lần lượt là 23,74% và 25,03%. Có 3
nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên:
- Thứ nhất, do chất lượng ( tỷ lệ loại quả I ) dưa chuột bao tử của các hộ khá giỏi đạt
cao hơn nhóm hộ kém nên có giá bán cao hơn
- Thứ hai, năng suất dưa chuột bao tử thu được cao hơn
- Thứ ba, nhóm hộ khá, giỏi có kinh nghiệm sản xuất dưa chuột bao tử tốt hơn, đầu tư
tốt hơn nên họ thường thu được quả dưa loại I nhiều hơn, dẫn đến bán được giá cao
hơn.
Tóm lại, sản xuất dưa chuột bao tử cho hiệu quả tương đối cao. Đầu tư về phân bón,

vôi, công lao động có ảnh hưởng tích cực đối với việc nâng cao năng suất dưa chuột bao
tử. Nếu được đầu tư và áp dụng các kỹ thuật tiến bộ thì hiệu quả sản xuất dưa chuột bao
tử của các hộ còn cao hơn nữa.
2.3.2 Tình hình chế biến dưa chuột bao tử ở Bắc Giang :
Song song với việc không ngừng mở rộng diện tích trồng cây dưa chuột xuất khẩu
trên địa bàn tỉnh, các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất chế biến dưa chuột xuất
khẩu cũng gia tăng nhanh chóng, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và hoạt động
chế biến nông sản trên địa bàn.
Tuy nhiên sản xuất chế biến dưa chuột xuất khẩu nói riêng và rau quả nói chung
trên địa bàn tỉnh nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu về chế biến nông sản xuất khẩu
trong giai đoạn hiện nay.
18
Thực tế là doanh nghiệp, cơ sở chế biến dưa chuột xuất khẩu của tỉnh nhiều nhưng
nhìn chung quy mô sản xuất nhỏ, đầu tư trung bình từ vài trăm triệu đến vài tỷ đồng, trình
độ khoa học công nghệ thấp, sản xuất chưa ổn định, dây chuyền không đồng bộ. Chỉ có
một vài doanh nghiệp có công nghệ chế biến hiện đại hoặc bán tự động, có quy trình sản
xuất, sản phẩm một cách bài bản, còn lại là chế biến thủ công, nhất là các cơ sở chế biến.
Hầu hết các doanh nghiệp đều phát triển từ mô hình kinh tế hộ gia đình, vốn hạn
chế nên thường tận dụng mặt bằng sẵn có và ít có điều kiện đầu tư mở rộng nhà xưởng,
lắp đặt công nghệ sản xuất hiện đại. Thậm chí ở các cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ mà quy trình
sản xuất từ khâu thu gom, sơ chế, đóng lọ, dán nhãn… đều làm bằng phương pháp thủ
công.
Dưa bao tử sau khi thu hoạch được dùng để chế biến ra nhiều loại sản phẩm khác
nhau để phục vụ cho nhu cầu của xã hội. Các sản phẩm sản xuất ra chủ yếu do các công
ty chế biến trên địa bàn lân cận. Sản phẩm chủ yếu nhất là: Dưa chuột bao tử dầm dấm.
Dưa bao tử được sản xuất thành nhiều loại sản phẩm khác nhau để phục vụ nhu cầu
trong nước và xuất khẩu nước ngoài.Còn một số ít sản phẩm được người dân trực tiếp sử
dụng để chế biến thàh các món ăn phục vụ nhu cầu hàng ngày của mình.
Dùng làm thực phẩm dùng cho xuất khẩu : dưa sau khi chế biến được xuất khẩu
sang các nước khác.các sản phẩm thường là trung tử đóng lọ, dưa 6-9 dầm dấm đóng lọ,

dưa muối nguyên quả v.v…
Dùng làm thực phẩm tiêu dùng trong nước:các sản phẩm đóng lọ ngoài đem xuất
khẩu còn được tiêu thụ ở thị trường trong nước.đặc biệt dưa dược dùng trực tiếp để chế
biến làm các món ăn như: Món bao tử trộn dưa kiệu, Bao tử khìa nước dừa tiêu xanh, cá
xào dưa bao tử
2.3.3 Tình hình tiêu thụ dưa chuột bao tử ở huyện :
2.3.3.1 Tình hình cung cấp dưa chuột bao tử cho các cơ sở chế biến :
19
a/ Tình hình chung của huyện
Lạng Giang là huyện có diện tích đất canh tác, sản lượng rau quả phục chế biến thuộc
dạng cao của cả nước. Bao gồm các sản phẩm như dưa chuột bao tử, ớt xuất khẩu, cà
chua xuất khẩu … đã thu hút các doanh nghiệp xuất khẩu, chế biến nông sản đầu tư sản
xuất, hợp đồng thu mua sản phẩm. Diện tích sản xuất, sản lượng hàng hóa DCBT thực
hiện theo hợp đồng.
Diện tích sản xuất, sản lượng hàng hóa DCBT thực hiện theo hợp đồng
Xã Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
DT
(ha)
SL
(tấn)
DT
(ha)
SL
(tấn)
DT
(ha)
SL
(tấn)
Hương Sơn 44.7 1317.1 49.6 1587.2 50.1 1752.3
Tân Thịnh 14.9 280.6 18.9 369.1 19.5 432.4

Hương Lạc 8.9 159.3 10.4 190.8 11.9 235.3
An Hà 2.7 43.1 3.4 53.9 5.2 76.4
Nghĩa Hòa 1.1 17.7 1.1 19.5 1.1 28.6
Đào Mỹ 9.9 181.7 10.8 215.1 14.8 421.7
Tiên Lục 3.8 64.5 4.2 76.9 5.1 92.7
Xuân
Hương
1.3 20.4 1.7 27.6 2.2 41.2
Thái Đào 2.7 50.3 3.3 65.0 3.9 71.8
Tân Hưng 5.3 95.1 6.1 192.2 6.8 236.3
Quang
Thịnh
23 783.0 25.9 886.8 27.6 1051.2
Toàn
huyện
118.3 3012.8 136.4 3611.1 148.2 4439.9
( Nguồn số liệu báo cáo các xã của huyện Lạng Giang)
20
Thư vậy ta có thể thấy, năm 2007 toàn huyện có 118.3 ha đất canh tác thì dến năm
2009 đã có 148.2 ha đất canh tác được đưa vào sản xuất theo hợp đồng, tăng gần 1.3 lần
so với năm 2007. Cùng với sự tăng lên về về diện tích đất trồng DCBT là sự tăng lên về
sản lượng hàng hóa dưa chuột bao tử ở các xã cụ thể là năm 2007 sản lương dưa chuột
bao tử mới đạt 3012.8 tấn mà đến năm 2009 con số đó đã lên tới 443.9 tấn tăng gấp gần
1.5 lần trong đó tăng mạnh nhất là tại xã Hương Sơn sản lượng đạt 1752.3 tấn chiếm
39.47% tổng sản lượng dưa chuột bao tử cả huyện năm 2009. Đây là dấu hiệu cho thấy
cây dưa chuột bao tủ thích hợp với vùng đất Lạng Giang và được người nông dân trong
huyện tập trung đưa vào sản xuất.
Đến nay, tình sản xuất của công ty, cả doanh nghiệp xuất khẩu không ngừng tăng lên
dẫn đến nhu cầu mở rộng nguồn cung ứng đã thực hiện và tận dụng ngay địa thế thuận lợi
của mình là ở trên địa bàn có nguồn nguyên liệu dồi dào, tiết kiệm được chi phí vận

chuyển. thêm vào việc giảm được chi phí các doanh nghiệp, các công ty xuất nhập khẩu
dưa chuột bao tử nội tỉnh đã tăng giá mua dưa chuột bao tử của nông dân lên từ 100-200
đồng/kg nhằm tạo nguồn cung cấp nguyên liệu ỏn định cho chế biến ( có nghĩa là công ty
mua dưa chuột bao tử của nông dân với mức giá 5.400 – 6.500 đồng /kg). Các công ty nội
tỉnh khai thác nguồn tiềm năng này sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động thu gom
dưa chuột bao tử phục vụ cho hoạt động xuất khẩu dưa chuột bao tử của tỉnh.
Tóm lại, sản lượng dưa chuột bao tử của huyện càng ngày càng tăng.Sự tăng lên và ổn
định về diện tích và sản lượng đặc biệt năng suất khá cao của cây dưa chuột bao tử được
các hộ chú ýđầu tư thâm canh và mong muốn của họ là được mở rôm\ngj diện tích và làm
ăn lâu dài với công ty xuất nhập khẩu nông sản.
b/ Tình hình tiêu thụ dưa chuột bao tử của các hộ:
Trên địa bàn huyện Lạng Giang thì dưa chuột bao tử là cây đem lại thu nhập cao hơn
so với các loại cây trồng khác. Giá bán dưa chuột bao tử vào thời điểm thu hoạch thường
thấp hơn thời điểm gieo trồng. giá bán bình quân loại I là 6500 đồng/kg và loại II là 3500
21
đồng/kg dưa chuột bao tử. Sản lượng dưa chuột bao tử tuy cao nhưng vẫn chưa đáp ứng
đủ nhu cầu của các nhà máy nằm trên địa bàn huyện như vậy, cây dưa chuột bao tử huyện
đã trở thành mặt hàng có tiềm năng mở rộng và phát triển.
Tình hình tiêu thụ dưa chuôt bao tử của các hộ được thể hiện qua bảng
Chỉ tiêu SL (kg) %
Sản lượng của các hộ 79518.63 100
1. Bán cho nhà máy theo hợp đồng 55742.56 70.10
2. Bán buôn cho các đại lý nhà máy 23776.07 29.90
(nguồn số liệu điều tra các hộ năm 2009)
Hiện tại tình hình tiêu thụ dưa chuột bao tử của các hộ chủ yếu tồn tại dưới 2 dạng: (1)
bán cho các nhà mây theo hợp đồng; (2) bán buôn cho tư thương, các tư thương này đóng
vai trò như các như các đại lý thu mua cho các nhà máy. Trong hình thức tiêu thụ thì bán
cho các nhà máy theo hợp đồng được các hộ dùng phổ biến, có đến trên 70% dưa chuột
bao tử được thu mua qua hợp tác xã. Như vậy nhu cầu tiêu thụ của các nhà máy còn rất
lớn và về phía nông dân vẫn còn một số hộ bán cho tư thương( chiếm 29.9% sản lượng

thu hoạch)
2.3.3.2 Tình hình thu mua nguồn hàng cho xuất khẩu :
Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang chế biến thu mua chủ yếu theo hình
thức sau: ký hợp đồng với các đại lý thu mua ở từng địạ phương (đó là các hơp tác xã).
Ngoài ra doanh nghiệp còn ký hợp đồng với các đại lý thu mua ở từng địa phương.
- Thu gom từ các hộ nông dân:
Ngay từ đầu vụ hợp tác xã đã thống nhất với các doanh nghiệp tiêu thụ dưa chuột bao
tử cho các hộ nông dân, thống nhất về giá, chất lượng chủng loại thời gian giao hàng và
phương thức thanh toán:
22
Dưa loại I: đường kính 1.5 cm, dài 3.5 – 5cm giá 6.400 đồng/kg
Dưa loại II: đường kính 2cm, dài 5 -6 cmgias 3.500 đồng/kg
Phương thức thanh toán: 20 tấn thanh toán 1 lần băng tiền mặt.
Quá trình thu gom dưa chuột bao tử của các công ty từ các hộ nông được thể hiện qua
sơ đồ:
Sơ đồ mạng
lưới thu gom từ hộ trồng DCBT đươc triển khai ở huyện Lạng Giang tỉnh Bắc
Giang
Theo sơ đồ này, các công ty (công ty vừa là nhà chế biến vừa tiêu thụ sản phẩm) sẽ hỗ
trợ một phần vốn cho người trồng và hướng đẫn kỹ thuật trồng dưa chuột bao tử cho các
hộ nông dân thông qua các hợp tác xã (HTX) sau đó công ty sẽ thu mua tại HTX sản
phẩm này. HTX là trung gian bao tiêu sản phẩm dưa chuột bao tử cho các hộ nông dân
nên việc ký kết hợp động kinh tế với doanh nghiệp được HTX trực tiếp đứng ra ký. Tùy
theo từng tình hình cụ thể mà công ty tạm ứng trước một phần vốn theo đúng yêu cầu sản
phẩm phục vụ chế biến xuất khẩu.
23
Htx
Thu
gom
Công ty

thu mua
đóng hộp
và xuất
khẩu
Đầu

Hộ

nông
dân
Nội dung hợp đồng được ký kết cụ thể , rõ ràng về giá cả, số lượng , chất lượng, chủng
loại, phương thức thanh toán và trách nhiệm mỗi bên. HTX được hưởng hoa hồng (tỷ lệ
này ở mỗi xã khác nhau tùy vào số lượng, chất lượng sản phẩm loại I nhiều hay ít) từ
phía công ty và từ các dịch vụ như điện nước khuyến nông… Khi giá thị trương biến
động thì vẫn được trả theo giá đã ký kết trên hợp đồng, song nếu giá thị trường quá cao
so với giá trên hợp đồng thì HTX đề nghị doanh nghiệp nâng giá thu mua cho các hộ
nông dân) nếu doanh nghiệp chấp nhận. Nếu dưa chuột bao tử bị mất mùa thi doanh
nghiệp sẽ đền bù đúng băng lợi nhuận thu được từ trồng cây trồng cũ.
Ví dụ nếu nông dân mất mùa 1 sào dưa chuột bao tử thì doanh nghiệp sẽ đền bù bàng 1
sào ngô.
HTX tổ chức điểm thu gom thuận lợi, theo dõi ghi chép tưng loại từng ngày và chịu
trách nhiệm trực tiếp với bà con và thanh toán sau khi kết thúc vụ mua.
Tình hình thu gom DCBT nguyên liệu trên địa bàn huyện Lạng Giang của các cơ sở
chế biến
Hình thức thu

gom nguyên liệu
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
SL
(tấn)

CC
(%)
SL
(tấn)
CC
(%)
SL
(tấn)
CC
(%)
1.CtyCPCBTPX
K Bắc Giang
1450.0 100.0 1500.0 100.0 1570.0 100.0
Thu gom từ các
hộ nông dân
1144.5 78.9 1322.0 88.1 1472.2 93.77
Thu gom từ các
đại lý thu mua
305.5 21.1 178.1 11.9 97.8 6.23
2.CtyCPCBTPX 1032.8 100.0 1400.0 100.0 1680.0 100.0
24
K Đông Hải
Thu gom từ các
hộ nông dân
695.4 67.3 1009.8 72.1 1399.1 83.28
Thu gom từ các
đại lý thu mua
337.4 32.7 390.2 27.9 280.9 16.72
3.Cty CBTPXK
GOC

280.0 100.0 381.1 100.0 6620 100.0
Thu gom từ các
hộ nông dân
- - - - - -
Thu gom từ các
đại lý thu mua
280.0 100.0 381.1 100.0 662.0 100.0
4.Cty TTNHH
Viêt Nga
250.0 100.0 330.0 100.0 527.9 100.0
Thu gom từ các
hộ nông dân
- - - - - -
Thu gom từ các
đại lý thu mua
250.0 100.0 330.0 100.0 527.9 100.0
Tổng sản lượng 3012.8 100.0 3611.1 100.0 4439.9 100.0
Thu gom từ các
hộ nông dân
1839.9 61.1 2331.8 64.6 2871.3 64.67
Thu gom từ các
đại lý thu mua
1172.9 38.9 1279.3 35.4 1568.6 35.32
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra từ các công ty XK rau quả ở tỉnh
25

×