Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

khóa luận tốt nghiệp kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân đối với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại trung tâm hô hấp – bệnh viện bạch mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.36 KB, 62 trang )

1
B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
***
TRN TH THANH
KIếN THứC, THáI Độ Và THựC HàNH CủA BệNH NHÂN
ĐốI VớI BệNH PHổI TắC NGHẽN MạN TíNH
TạI TRUNG TÂM HÔ HấPBệNH VIệN BạCH MAI
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y KHOA
Khúa 2009 - 2013
H NI 2013
B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
***
TRN TH THANH
KIếN THứC, THáI Độ Và THựC HàNH CủA BệNH NHÂN
2
§èI VíI BÖNH PHæI T¾C NGHÏN M¹N TÝNH
T¹I TRUNG T¢M H¤ HÊP–BÖNH VIÖN B¹CH MAI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y KHOA
Khóa 2009 - 2013
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS.BS Phan Thu Phương
HÀ NỘI – 2013
3
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám Hiệu, Phòng Đào
tạo Đại học, Khoa điều dưỡng hộ sinh trường Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi
được học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong suốt bốn năm qua, và được thực hiện luận văn ý
nghĩa này.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Ngô Quý Châu- Chủ nhiệm bộ môn Nội tổng


hợp- Giám đốc Trung tâm Hô hấp, cùng các thầy cô trong Bộ môn Nội đã hết lòng giúp đỡ
tôi thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến TS. BS Phan Thu Phương,
người đã tận tình dìu dắt, hướng dẫn và giúp đỡ tôi những bước chập chững đầu tiên trên
con đường nghiên cứu khoa học.
Tập thể quý Thầy Cô trong hội đồng khoa học: Thầy GS.TS Phạm Thắng, Thầy
PGS. TS Trần Hoàng Thành, Cô TS.BS Vũ Bích Ngađã cho tôi những ý kiến quý báu để
tôi toàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh, chị Bác sĩ, Y tá ở Trung tâm Hô
hấp- Bệnh viện Bạch Mai đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Thực hiện luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác rất nhiệt tình, quí
báu của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu.
Tôi vô cùng biết ơn bố mẹ và những người thân trong gia đình, với tình yêu
thương vô bờ, đã luôn động viên, khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin cảm ơn những người bạn đã luôn ở bên, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập và làm đề tài này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2013
Trần Thị Thanh
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu đưa ra trong nghiên cứu này là trung thực, chưa được công
bố trong bất kì luận văn nào. Nếu có gì sai, thiếu trung thực, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiêm.
Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện luận văn
Trần Thị Thanh
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN : Bệnh nhân
COPD : Chronic Obstructive Pulmonary Disease
BPTNMT : Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

VPQMT : Viêm phế quản mạn tính
KPT : Khí phế thũng
TCYTTG : Tổ chức y tế thế giới
CNHH : Chức năng hô hấp
FEV
1
: Thể tích thở ra tối đa trong giây đầu tiên
(Forced expiratory volume in one second)
FVC : Dung tích sống thở mạnh.
(Forced vital capacity)
GOLD : Chiến lược toàn cầu phòng chống bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
KAP : Knowledge Attitude Practice (Kiến thức, thái độ, hành vi)
6
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một tình trạng bệnh lý ở
phổi, đặc trưng bởi sự tắc nghẽn lưu lượng khí thở ra không hồi phục hoàn toàn.
Hiện tượng tắc nghẽn này thường tiến triển từ từ tăng dần và liên quan đến một
quá trình viêm bất thường của phổi dưới tác động của ô nhiễm khí thở [19].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), hiện nay trên Thế giới có
khoảng hơn 600 triệu người mắc BPTNMT. Tỷ lệ mắc ước tính khoảng
9,34/1000 ở nam giới và 7,33/1000 ở nữ giới. Tỷ lệ tử vong do BPTNMT
cũng ngày càng tăng, năm 1990 trên thế giới có khoảng 2,2 triệu người chết,
đứng hàng thứ 6 trong các nguyên nhân gây tử vong. Năm 2000 có 2,7 triệu
người chết vì BPTNMT. Hiện nay, hàng năm có khoảng 2,9 triệu người chết,
đứng hàng thứ 4 trong các nguyên nhân gây tử vong. Tại khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương tỷ lệ mắc trung bình là 6,3% và tỷ lệ mắc ở người trên 40
tuổi là 6,3% [22].
Theo dự đoán của các chuyên gia, tỷ lệ tử vong của BPTNMT đến năm
2020 đứng hàng thứ 3 chỉ sau bệnh tim thiếu máu cục bộ và tai biến mạch
máu não.

Tại Việt Nam, theo số liệu của một số bệnh viện, số bệnh nhân mắc
BPTNMT đang tăng nhanh. Theo Ngô Quý Châu, khoa Hô hấp (Bệnh viện
Bạch Mai), số bệnh nhân đến điều trị BPTNMT ngày càng tăng. Nếu như thời
điểm 1996 - 2000 chỉ có 25% bệnh nhân vào khoa hô hấp mắc BPTNMT thì
từ 2003 đến nay đã tăng lên 26% [2].
Tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (TP.HCM) số bệnh nhân BPTNMT
đến khám và điều trị tăng 1.000 bệnh nhân/năm, Bệnh viện Chợ Rẫy
(TP.HCM) bệnh nhân BPTNMT chiếm 20% bệnh nhân khoa Hô hấp [10].
7
Các bệnh nhân ở Việt Nam có xu hướng không ý thức đầy đủ về sự rủi ro và sựhiện
diện của căn bệnh này. Và nhiều người mắc bệnh, thậm chí còn không được chẩn đoán cho
tới khi họ đã đến giai đoạn cuối, việc điều trị đã trở nên khó khăn.
Với tính chất phổ biến, tiến triển kéo dài như vậy, BPTNMT đang trở thành mối lo
ngại về sức khoẻ của nhiều quốc gia trên thế giới. Để có thể ngăn chặn sự tiến triển của
bệnh chúng ta cần phải nhận thức rõ về gánh nặng bệnh tật, các yếu tố nguy cơ gây bệnh.
Sự hiểu biết, thái độ, thực hành tốt của bệnh nhân BPTNMT chính là cơ sở để phát hiện,
điều trị sớm, kiểm soát được bệnh, từ đó làm giảm gánh nặng chi phí điều trị cho gia đình,
xã hội.
Vì vậy, nhằm tìm hiểu thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân
BPTNMTchúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh
nhân đối với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Trung tâm Hô hấp – Bệnh viện Bạch
Mai” với mục tiêu:
Tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân đối với bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính tại Trung tâm Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐỊNH NGHĨA
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là một tình trạng bệnh lý ở phổi, đặc
trưng bởi sự tắc nghẽn lưu lượng khí thở ra không hồi phục hoàn toàn. Hiện
8

tượng tắc nghẽn này thường tiến triển từ từ tăng dần và liên quan đến một quá
trình viêm bất thường của phổi dưới tác động của ô nhiễm khí thở[19].
1.2. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
BPTNMT đã bắt đầu được biết đến từ hơn 200 năm trước đây và được
hiểu rõ hơn về cả cơ chế sinh bệnh học, điều trị vào cuốithế kỷ XX. Đồng thời
sự nghiên cứu về BPTNMT cũng đượcphát triển mạnh mẽ.
Năm 1966, thuật ngữ Chronic Obstructive Pulmonary Disease (COPD)
bắt đầu được dùng để thống nhất giữa thuật ngữ viêm phế quản mạn được
dùng nhiều ở châu Âu và thuật ngữ khí phế thũng dùng chủ yếu ở Hoa Kỳ .
Từ năm 1992, thuật ngữ COPD đã chính thức được áp dụng trên toàn
thế giới, được dùng trong bảng phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 9 (ICD9 mã
490-496) và lần thứ 10 (ICD 10 mã J42 - 46).
Năm 1995, các hướng dẫn về chẩn đoán, điều trị COPD được hội Lồng ngực
Mỹ , hội Hô hấp Châu Âu đưa ra và được áp dụng trên toàn thế giới.
Năm 1998, WHO và Viện nghiên cứu quốc gia bệnh Tim, Phổi và
Huyết học Hoa Kỳ đề ra sáng kiến toàn cầu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
(GOLD) và đưa ra bản khuyến cáo về chẩn đoán, điều trị và phòng COPD và
được cập nhật hàng năm.
1.3. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC
1.3.1. Tình hình dịch tễ học thế giới
Tại Mỹ (1994) có khoảng 16.365 triệu người mắc BPTNMT trong đó
14 triệu người bị viêm phế quản mạn tính (VPQMT) và hơn 2 triệu người khí
phế thũng (KPT).Trong đó có tới 50% số bệnh nhân bị bỏ sót không được
chẩn đoán.Tỷ lệ mắc bệnh ước tính vào khoảng 4 – 5% dân số, đã có xấp xỉ
96.000 người chết trong năm vì bệnh. Kể từ năm 1985 đến năm 1995 tỷ lệ tử
9
vong do BPTNMT tăng lên 22% và là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng
thứ 4 sau bệnh tim mạch, ung thư và đột quỵ. Trong số 28 nước công nghiệp,
Mỹ được xếp hàng thứ 12 về tỷ lệ tử vong do BPTNMT và các bệnh tương tự
ở nam giới và hàng thứ 7 ở nữ giới. Chi phí trực tiếp và gián tiếp cho bệnh

trong năm 2001 là 32,1 tỷ đô la.Với khoảng 15,7 triệu trường hợp mắc
BPTNMTở Mỹ, ước tính giá chi phí cho BPTNMT là 1.522 USD cho 1 bệnh
nhân trong 1 năm. Trong đó năm 1996 , tính ra mất 24 triệu ngày làm việc do
BPTNMT [13].
Ở Canada, BPTNMT cũng được coi là gánh nặng lớn về sức khoẻ. Theo
nghiên cứu của Trung tâm theo dõi sức khoẻ quốc gia của Canada đã khẳng
định 750.000 người Canada bị VPQMT và KPT được chẩn đoán bởi các bác sỹ
lâm sàng. Tỷ lệ mắc tăng theo tuổi và phân bố như sau: 4,6% ở độ tuổi từ 55 –
64,5%,ở độ tuổi từ 64 – 74 và 6,8% ở độ tuổi trên 75. Từ năm 1980 đến năm
1995 tổng số người chết vì BPTNMT tăng từ 4.438 người lên 8.583 người.
Trong thời điểm này, tỷ lệ tử vong ở nam giới khá ổn định (45/1000 dân)
nhưng lại tăng gấp đôi ở nữ giới (8,3/1000 dân năm 1980 và 17,3/1000 dân
năm 1995).Trong giai đoạn 1991 – 1992 số người nhập viện là 55.782 người,
so với giai đoạn 10 năm trước đó (1981 – 1982) là 42.102 người [16].
Các nghiên cứu của 2 thập kỷ trước cho thấy khoảng 4 – 6% dân số
người ở châu Âu mắc các triệu chứng lâm sàng của BPTNMT. Theo ước tính
của TCYTTG thì trong năm 1997 BPTNMT là nguyên nhân gây tử vong ở
4,1% nam giới, ở 2,4% nữ giới châu Âu. Hội Hô hấp châu Âu cung cấp dữ
liệu về tỷ lệ tử vong vì BPTNMT trong năm 2003 thấy thấp nhất ở Hy Lạp
(6/100.000 dân) và cao nhất ở Kyrgyzstan (95/100.000 dân).
Vương quốc Anh có khoảng 15 – 20% nam trên 40 tuổi, 10% nữ trên
45 tuổi có ho, khạc đờm mạn tính và có 3,4 triệu người được chẩn đoán là có
bệnh (bằng 6,4% dân số của nước Anh và xứ Wales) trong đó khoảng 4% nam
10
và 3% nữ (lứa tuổi > 45) được chẩn đoán mắc BPTNMT. Theo thống kê năm
1997 thì tỷ lệ mắc bệnh nói chung ở nam giới là 1,7% và ở nữ giới là 1,4%.
Từ năm 1990 đến năm 1997 tỷ lệ mắc bệnh tăng 25% ở nam và 69% ở nữ.
Mỗi năm nước Anh có khoảng 73.372 người nhập viện, chi phí trực tiếp cho
bệnh nhân mắc BPTNMT xấp xỉ 1.154 bảng hay 1.900USD/người/năm
(1996). Cùng với số ngày nghỉ việc do BPTNMT và di chứng tàn phế từ

BPTNMT ở Anh ước tính mất 24 triệu ngày làm việc. Tổng chi phí cho bệnh
là 846 triệu bảng/năm xấp xỉ 1.393 tỷ đô la Mỹ. Trong đó 402 triệu bảng
(47,5%) cho thuốc men, 207 triệu bảng (24,5%) cho điều trị ôxy tại nhà, 151
triệu bảng (17,8%) cho chăm sóc tối thiểu ở bệnh viện và khoảng 10% được
dùng cho việc chăm sóc ban đầu và trợ cấp xã hội [15].
Cộng hoà Pháp: có khoảng 2,5 triệu người (bao gồm những người hút
thuốc lá có triệu chứng của VPQMT) mắc BPTNMT, chiếm 5% dân số cả
nước. Khoảng 1/3 số này có hội chứng tắc nghẽn, 1/5 số bệnh nhân tắc nghẽn
có suy hô hấp mạn tính, như vậy có khoảng 150.000 đến 200.000 người có
suy hô hấp mạn tính. Ở Pháp số người chết do BPTNMT được xác định dựa
vào giấy chứng tử, chiếm 2,3% tổng số người chết bởi tất cả các nguyên nhân
khác (550.000 người). Năm 1997 tổng số người chết vì BPTNMT là 14.942
người (8.730 nam và 6.212 nữ), tương đương với 25,5 người/100.000 dân
(30,7 đối với nam giới và 20,7 đối với nữ giới). Tỷ lệ tử vong do BPTNMT
vẫn tăng đều đặn từ 20 năm nay và đặc biệt tỷ lệ tử vong ở nữ giới tăng nhanh
hơn so với nam giới (1980: 10.387 người chết, trong đó tỷ lệ chết/100.000
dân là 26,7 đối với nam giới và 12,3 đối với nữ giới).
Cộng hoà Liên bang Đức có 2,7% triệu người mắc BPTNMT và hàng
năm có 125.598 người nhập viện điều trị vì bệnh này.
Tây Ban Nha: có 1,5 triệu người mắc bệnh và có 45.624 người nhập
viện trong một năm.
11
Cộng hoà Czech năm 2001 có 1.666 người chết vì BPTNMT, tỷ lệ tử
vong vì BPTNMT ở nam giới là 21,3/100.000 dân và ở nữ giới là
11,6/100.000dân. Tỷ lệ mắc bệnh chung cho 2 giới là 7,7%. Chi phí cho
BPTNMT tương đương với chi phí cho ung thư phổi.
BPTNMT được ước tính với tỷ lệ mắc là 6,2% ở 11 nước thuộc Hiệp
hội bệnh Hô hấp châu Á Thái Bình Dương [17].
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có tỷ lệ mắc BPTNMT cao nhất so với
các vùng khác trong cùng khu vực (26,2/1.000 ở nam và 23,7/1.000 ở nữ).

BPTNMT là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 4 ở thành phố lớn và
đứng hàng đầu ở nông thôn của trên 50% nam giới hút thuốc ở Trung Quốc.
Theo đánh giá của Hội Lồng ngực Đài Loan thì có tới 16% dân số Đài Loan
(lứa tuổi > 40 tuổi) mắc bệnh này. Năm 1994, tỷ lệ tử vong do BPTNMT là
16,16/100.000 dân và BPTNMT là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 6
ở Đài Loan [24].
1.3.2. Tình hình dịch tễ học ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo Nguyễn Đình Hường (1994), VPQMT là bệnh hay gặp
nhất trong số các bệnh phổi mạn tính ở người lớn, với tỷ lệ mắc từ 4 – 5 %.
Theo một sốthống kê ở Bệnh viện Bạch Mai từ năm 1981 – 1984,
VPQMT chiếm tỷ lệ 12,1% tổng số bệnh nhân nhập viện tại khoa Hô hấp.
Trong 3606 bệnh nhân vào điều trị tại khoa từ 1996 – 2000, tỷ lệ bệnh nhân
được chẩn đoán BPTNMT lúc ra viện chiếm 25,1%, đứng hàng đầu trong các
bệnh lý về phổi và có 15,7% trong số này được chẩn đoán tâm phế mạn [1].
Các nghiên cứu dịch tễ về BPTNMT trong cộng đồng ở nước ta còn rất
ít. Trong nghiên cứu điều tra của Nguyễn Quỳnh Loan (2002), tỷ lệ mắc
COPD trong cộng đồng dân cư >35 tuổi của phường Khương Mai, quận
Thanh Xuân, Hà Nội là 1,53% [5].
12
Ngô Quý Châu và cộng sự nghiên cứu dịch tễ học BPTNMT trong cộng
đồng dân cư có tuổi từ 40 trở lên của thành phố Hà Nội thấy tỷ lệ mắc chung
cho cả 2 giới là 2%. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam là 3,4% và ở nữ là 0,7% [4].
1.4.NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
− Hút thuốc hoặc tiếp xúc với khói thuốc: BPTNMT xảy ra ở khoảng 15% người nghiện thuốc và
việc sử dụng thuốc lá chiếm90% nguy cơ mắc bệnh này.Hút thuốc lá thụ động hoặc tiếp xúc
với khói thuốc cũng làm gia tăng tỷ lệ nhiễm trùng đường hô hấp dẫn đến giảm chức năng
của phổi.
− Ô nhiễm không khí: Người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn việc ô nhiễm không khí
có gây BPTNMT hay không. Tuy nhiên, nếu có thì hậu quả của nó cũng nhỏ so với thuốc
lá.

− Tăng nhạy cảm đường dẫn khí: Là tình trạng đường dẫn khí phản ứng quá mức với những
chất kích thích từ không khí, như khói thuốc lá và chất ô nhiễm.Vai trò làm yếu tố nguy cơ
của chứng bệnh nàyđối với BPTNMT ở những người hút thuốc vẫn chưa được chứng minh
rõ ràng.
− Thiếu men α 1antitrypsin : Men α1 antitrypsin là một loại protein của cơ thể được gan sản
xuất để giúp bảo vệ phổi khỏi bị tổn thương. Thiếu men α1 antitrypsin có tính chất di
truyền, và nó là yếu tố nguy cơ di truyền duy nhất của BPTNMT được biết đến. Nó chiếm
khoảng dưới 1% số trường hợp bị BPTNMT ở Hoa Kỳ. Thiếu men α 1 antitrypsi n nặng có
thể dẫn đến khí phế thủng ở những người trẻ tuổi, và ở những người không hút thuốc, độ
tuổi khởiphát trung bình của khí phế thủng là 53 tuổi, đối với những người hút thuốc là 40
tuổi.
1.5. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA BỆNH
1.5.1. Các yếu tố liên quan đến môi trường
− Khói thuốc lá
+ Hút thuốc chủ động
Khói thuốc là một yếu tố nguy cơ quan trọng gây ra những bệnh đường
hô hấp. Khoảng 20% những người hút thuốc có giảm chức năng phổi ở giai
đoạn sớm và có tỷ lệ cao các triệu chứng ho, khạc đờm. Bỏ thuốc lá có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân BPTNMT đặc biệt là nhóm mắc
13
BPTNMT giai đoạn sớm. Khói thuốc đóng vai trò là yếu tố nguy cơ ở 80 -
90% số các bệnh nhân mắc BPTNMT.
+ Hút thuốc thụ động
Tiếp xúc thường xuyên với khói thuốc của những người hút thuốc trong
cùng phòng (nhà ở hoặc nơi làm việc) làm tăng tỷ lệ mắc BPTNMT.Con của
những người nghiện thuốc lá bị nhiễm trùng đường hô hấp nhiều hơn và nặng
hơn con những người không hút thuốc lá, sau này chúng thường có biến
chứng mạn tính về hô hấp. Một số đối tượng không hút thuốc nhưng đã phơi
nhiễm đến mức độ cao của khói thuốc lá: chồng hút thuốc lá nặng, vợ không
bao giờ hút thuốc, dấu hiệu tắc nghẽn tìm thấy ở cả hai vợ chồng .

− Bụi và hoá chất nghề nghiệp
Ô nhiễm nghề nghiệp làm gia tăng tần suất mắc bệnh đường hô hấp,
làm tắc nghẽn đường dẫn khí, giảm thể tích thở ra tối đa trong giây đầu tiên
(FEV
1
) nhanh hơn. Bụi và hoá chất nghề nghiệp (hơi, chất kích thích, khói)
gây BPTNMT khi phơi nhiễm với tác động mạnh và kéo dài.
− Ô nhiễm không khí
Mặc dùkhông rõ ràng là yếu tố nào của ô nhiễm không khí là thực sự
gây hại, nhưng có vài bằng chứng cho rằng các tiểu phần ô nhiễm không khí
sẽ làm thêm gánh nặng ở lượng khí hít vào.Vai trò của ô nhiễm không khí gây
ra BPTNMT không rõ ràng. Tác động của ô nhiễm không khí tới sự xuất hiện
BPTNMT thấp hơn thuốc lá.
− Nhiễm trùng đường hô hấp
Bệnh nhân bị VPQM dễ mắc các đợt nhiễm trùng cấp hơn so với người
bình thường.Nhiễm trùng có liên quan đến nguyên nhân cũng như tiến triển
của BPTNMT.Những người hút thuốc có thể bị viêm tắc đường thở ngay khi
chỉ nhiễm trùng đường hô hấp nhẹ. Nhiều nghiên cứu đã làm rõ quan hệ giữa
14
các bệnh đường hô hấp với nhiễm virus, nấm, nhiễm vi khuẩn. Tiền sử có
nhiễm trùng hô hấp khi còn nhỏ có liên quan đến giảm chức năng phổi và tăng
các triệu chứng ở tuổi trưởng thành. Viêm phổi nặng do virus xảy ra khi còn nhỏ
có thể dẫn đến tắc nghẽn mãn tính các đường thở sau này. Nhiễm virus có thể
liên quan đến các yếu tố khác như là trọng lượng khi sinh thấp và bản thân điều
này cũng là yếu tố nguy cơ của BPTNMT .
− Tình trạng kinh tế xã hội
Nguy cơ xuất hiện BPTNMT không hoàn toàn liên quan đến tình trạng
kinh tế xã hội. Tuy nhiên, những cư dân có tình trạng kinh tế xã hội thấp
thường có tình trạng dinh dưỡng nghèo nàn, cũng như môi trường sống ẩm
thấp và bị ô nhiễm, do vậy tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhiễm khuẩn hô

hấp và xuất hiện BPTNMT.
1.5.2. Các yếu tố liên quan đến cơ địa
− Yếu tố gen
Nhiều nghiên cứu cho thấy BPTNMT tăng lên trong những gia đình có
tiền sử mắc bệnh, yếu tố nguy cơ gen được biết rõ nhất là thiếu hụt di truyền
α1antitrypsin. Mặc dù thiếu α1 antitrypsin là yếu tố nguy cơ lớn cho
BPTNMT nhưng chỉ có < 1% dân số có thiếu hụt yếu tố này.
− Tăng đáp ứng đường thở
Hen và tăng đáp ứng đường thở cũng được xác định là yếu tố nguy cơ cho
BPTNMT. Tăng phản ứng đường thở không đặc hiệu thường thấy ở nữ > nam.
Cơ chế của tăng phản ứng đường thở dẫn đến BPTNMT còn đang được
nghiên cứu nhưng các tác giả cho rằng tăng phản ứng đường thở là hậu quả
rối loạn thông khí trong BPTNMT.
− Sự phát triển của phổi
Sự phát triển của phổi có liên quan đến quá trình phát triển ở bào thai,
trọng lượng khi sinh và các phơi nhiễm trong thời niên thiếu. Nếu chức năng
15
phổi của một cá thể khi trưởng thành không đạt được mức bình thường thì
những cá thể này có nguy cơ sau này dễ bị BPTNMT.
− Giới tính
Người ta thấy rằng tỷ lệ mắc BPTNMT của nam giới cao hơn nữ giới
liên quan tới hút thuốc lá.Nhưng những năm trở lại đây tỷ lệ mắc BPTNMT ở
nữ ngày càng tăng.Sự khác nhau về giới trong BPTNMT là kết quả của sự
tương tác về gen giới tính và sự khác biệt giới tính về văn hoá xã hội trong
thời kỳ niên thiếu, dậy thì và trưởng thành.Sự khác biệt về giới tính trong
chức năng sinh lý của phổi và đáp ứng của hệ miễn dịch ảnh hưởng đến
BPTNMT.Ngày càng có nhiều bằng chứng rằng những hormon giới tính ảnh
hưởng đến sự phản ứng của đường thở trong suốt cả cuộc đời. Ngoài ra sự
khác biệt này còn liên quan đến sự khác nhau ở mức độ phơi nhiễm và các
loại yếu tố phơi nhiễm khác như khói thuốc lá, nghề nghiệp và ô nhiễm môi

trường . . . và thường giới nữ có nhiều rủi ro hơn nên cần lưu ý hơn nhất là ô
nhiễm trong nhà.
1.6. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
1.6.1. Đặc điểm lâm sàng
− Các triệu chứng cơ năng
Các triệu chứng cơ năng chủ yếu của các bệnh nhân BPTNMT đó là:
ho (thường kèm theo khạc đờm) và khó thở khi gắng sức.
+ Ho có đờm thường gặp ở 50% số đối tượng hút thuốc và có thể xuất hiện
ngay trong 10 năm đầu tiên hút thuốc. Ho khạc đờm mạn tính thường vào
buổi sáng hoặc sau khi hút điếu thuốc đầu tiên. Ho thường nặng lên trong
những tháng mùa đông và đặc biệt là sau nhiễm khuẩn hô hấp. Lúc đầu là ho
ngắt quãng sau đó là ho hàng ngày và thường ho cả ngày.Ở giai đoạn ổn định
16
ho kèm theo khạc đờm nhầy, số lượng đờm thay đổi tuỳ theo từng bệnh nhân.
Đờm trở thành đờm mủ trong đợt cấp.
+ Sự xuất hiện khó thở khi gắng sức làm cho tiên lượng bệnh tồi hơn và chứng
tỏ sự suy giảm chức năng hô hấp nặng lên. Khó thở tiến triển từ từ và bệnh
nhân cố gắng làm giảm cảm giác khó thở bằng cách tự giảm gắng sức biến đổi
kiểu thông khí để thích nghi do vậy việc phát hiện bệnh bị chậm trễ. Mức độ
khó thở khi gắng sức có thể đánh giá dựa trên khả năng hoạt động của bệnh
nhân trong cuộc sống hàng ngày (leo cầu thang, khoảng cách đi bộ trên đường
phẳng) và lượng giá theo thang khó thở.
+ Sự giảm sút cân, ăn kém, yếu và suy nhược cơ thể thường gặp trong các giai
đoạn tiến triển của bệnh.
− Các triệu chứng thực thể
Khám lâm sàng bệnh nhân mắc BPTNMT không thấy có biểu hiện
bệnh lý nếu chưa có tắc nghẽn mức độ trung bình hoặc nặng.
+ Thở nhanh, nhịp thở > 20 lần/phút.
+ Kiểu thở chúm môi ở cuối thì thở ra thường gặp ở bệnh nhân thuộc giai đoạn
nặng, kiểu thở này nhằm làm chậm xẹp đường thở ở thì thở ra.

+ Kiểu thở ra kéo dài (trên 4 giây) tương quan với mức độ tắc nghẽn phế quản.
+ Xương ức lồi ra tăng đường kính trước sau dẫn đến biến dạng lồng ngực tạo
cho lồng ngực có hình thùng.
+ Dấu hiệu Hoover: Sự giảm bất thường đường kính lồng ngực khi hít vào (ở
người bình thường đường kính lồng ngực tăng khi hít vào).
+ Sự co các cơ hô hấp phụ lúc nghỉ ngơi (cơ ức đòn chũm) là dấu hiệu chứng tỏ
bệnh đã tiến triển nặng hoặc là trong đợt cấp.
+ Khám đầu chi còn có thể phát hiện ra một số triệu chứng quan trọng: Ngón
tay ám khói vàng điều này chứng tỏ bệnh nhân đang nghiện thuốc lá.
17
+ Khám phổi: Rì rào phế nang giảm ở những bệnh nhân có giãn phế nang nặng.
Đôi khi có thể có ran ngáy thay đổi với ho. Thở rít là triệu chứng gặp thường
xuyên. Có thể có ran nổ.
+ Có thể có dấu hiệu của tăng áp lực động mạch phổi và tâm phế mãn: Phù, thổi
tâm thu nghe thấy ở mũi ức, phản hồi gan tĩnh mạch cổ dương tính, tĩnh mạch
cổ nổi.
1.6.2. Đặc điểm cận lâm sàng
Cần làm các xét nghiệm để chẩn đoán BPTNMT trong đó quan trọng
nhất là đo chức năng hô hấp.
− X quang phổi thường
Hiếm khi chẩn đoán sớm được bệnh
+ Ở giai đoạn đầu đa số bình thường, có thể thấy hình tăng đậm các nhánh phế
huyết quản: "phổi bẩn".
+ Giai đoạn nặng, thấy rõ hình ảnh viêm phế quản mạn tính tắc nghẽn và giăn
phế nang:
• Lồng ngực giăn: tăng khoảng sáng truớc và sau tim, vòm hoành bị đẩy xuống,
xương sườn nằm ngang.
• Dày thành phế quản: thường tìm thấy ở phế quản phân thuỳ trước hoặc sau
của thuỳ trên hoặc phế quản phân thuỳ trên của thuỳ dưới.
• Cácmạch máu ngoại vi thưa thớt tạo nên vùng giảm động mạch kết hợp với

hình ảnh căng giăn phổi, bóng khí.
• Tim:
 Cung động mạch phổi nổi, đường kính động mạch phổi thuỳ dưới bên phải >
16mm là dấu hiệu của tăng áp động mạch phổi.
 Tim dài và thon, giai đoạn cuối có hình ảnh tim to toàn bộ.
− Chức năng hô hấp
Là xét nghiệm quan trọng để chẩn đoán bệnh và mức độ nặng của bệnh.
18
Rối loạn thông khí trong BPTNMTlà rối loạn thông khí tắc nghẽn với
FEV1 giảm, chỉ số Tiffeneau (FEV1/VC) < 70% hoặc chỉ số Gaensleur
(FEV1/FVC) < 70%.Ở giai đoạn sớm của BPTNMT, khi FEV1 và chỉ số
Gaensler còn bình thường, để đánh giá rối loạn chức năng thông khí phải dựa
vào thăm dò thông khí đường thở nhỏ: đo lưu lượng thở ra tối đa ở đoạn giữa
(V
25
, V
50
, V
75
) hoặc FEF
25-75%.
Thể tích khí cặn tăng. DLCO giảm.
Test phục hồi với thuốc giăn phế quản:15%<FEV1 tăng<30% sau xịt
400mcg salbutamol 30 phút. Test (+) giúp loại trừ chẩn đoán Hen.Ngoài ra,
test giúp đánh giá khả năng đáp ứng với thuốc giăn phế quản của bệnh nhân
BPTNMT, giúp tiên lượng và hướng điều trị.
Test phục hồi với thuốc corticoid (+): FEV1 tăng > 200 ml và/ hoặc >
12% (so với gía trị ban đầu)sau khi dùng corticoid dạng xịt từ 6 tuần đến 3
tháng. Lúc đó́ bệnh nhân được xem là có đáp ứng với corticoid. Đây là tiêu
chí để quyết định điều trị corticoid kéo dài cho bệnh nhân.

− Đo khí máu động mạch
Với những bệnh nhân BPTNMT tiến triển là rất quan trọng.Test này
nên tiến hành ở bệnh nhân có FEV1 <50% hoặc suy hô hấp lâm sàng: Tím
trung tâm, phù mắt cá chân, tăng áp lực tĩnh mạch cổ), cận lâm sàng: PaO
2
<
8,0 kPa (60mmHg) có hoặc không kèm theo tăng PaCO
2
> 6,7 kPa (50 mmHg)
khi thở khí trời hoặc suy tim phải.Đo khí máu thì lấy máu bằng chọc động
mạch, hoặc đo độ bão hoà oxy (SaO2) ở ngón tay, tai.
− Chụp CT Scan ngực lớp mỏng với độ phân giải cao
Thường được tiến hành khi có giăn phế nang. Hình ảnh:thấy các vùng
sáng, không có mạch máu, các bóng khí.Nặng: có hình mạng nhện.
− Điện tâm đồ giúp chẩn đoán biến chứng tâm phế mạn ở bệnh nhân BPTNMT
19
Tuy nhiên có thể bình thường ngay cả ở 1 số ca bệnh nặng. Một số
trường hợp có thể thấy các dấu hiệu của dày thất phải, nhĩ phải. Trên hình ảnh
điện tim có thể thấy:
+ P phế ở D
II
, D
III
, aVF: P cao > 2,5 mm, nhọn, đối xứng.
+ Dày thất phải: theo TCYTTG, có dày thất phải khi có ít nhất 2 trong số các
dấu hiệu sau:
• Trục phải a > 110
0.
• R/S ở V5, V6 < 1.
• Sóng S chiếm ưu thế ở D

I
hoặc block nhánh phải không hoàn toàn.
• P > 2mm ở D
II
.
• T đảo ngược ở V1 tới V4 hoặc V2 và V3.
− Siêu âm Doppler tim: Nhằm đánh giá tình trạng tăng áp động mạch phổi,
giăn thất phải, suy tim trái phối hợp.
− Định lượng α1 antitrypsin: Ở những bệnh nhân BPTNMT tuổi trẻ (<45
tuổi), người có tiền sử gia đình nặng nề.
1.7.CHẨN ĐOÁN VÀ PHÂN LOẠI CÁC GIAI ĐOẠN
1.7.1.Chẩnđoán BPTNMT
− Theo khuyến cáocủa GOLD 2006
Gợi ý chẩn đoán BPTNMT ở bất kỳ bệnh nhân nào trên 40 tuổi có ít
nhất một trong các chỉ điểm sau:
− Khó thở với đặc điểm:
+ Tiến triển (nặng dần theo thời gian).
+ Khó thở tăng lên khi vận động.
+ Liên tục (xuất hiện hàng ngày).
+ Được bệnh nhân mô tả “phải gắng sức để thở”, “thở nặng”, “thiếu không
khí” hoặc “thở hổn hển”.
20
− Ho mạn tính: có thể gián đoạn và có thể ho khan.
− Khạc đờm mạn tính: bất cứ bệnh nhân nào có khạc đờm mạn tính đều có thể
chỉ điểm BPTNMT.
− Tiền sử: tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ đặc biệt là khói thuốc lá, bụi và hóa
chất công nghiệp , khói bếp, khói Diesel, bụi bông.
Để khẳng định chẩn đoán phải dựa vào kết quả đo thông khí, tốt nhất
bằng phế dung ký, có tắc nghẽn lưu lượng thở hồi phục không hoàn toàn
(FEV

1
/ FVC < 70%). Test giãn phế quản là một chỉ định bắt buộc ngoài việc
định danh kiểu tắc nghẽn còn giúp chẩn đoán phân biệt với hen phế quản.
− Chẩn đoán xác định BPTNMT khi:
+ Sau test giãn phế quản: FEV
1
/ VC < 70% và/ hoặc FEV
1
/ FVC < 70%.
+ Có hoặc không triệu chứng ho, khạc đờm mạn tính.
1.7.2. Phân loại giai đoạn BPTNMT
Bảng 1.1. Phân loại giai đoạn BPTNMT
Giai đoạn Triệu trứng lâm sàng
Chức năng hô hấp
FEV
1
/ FVC FEV
1
%
I: Nhẹ Có hay không kèm theo triệu chứng
khác
< 70% > 80%
II: Trung bình Có hay không kèm theo triệu chứng
khác
< 70% 50 – 80%
III: Nặng Có hay không kèm theo triệu chứng
khác
< 70% 30 – 49%
IV: Rất nặng Khó thở, ho, khạc đờm, có biểu hiện suy
hô hấp hoặc suy tim

< 70% < 30%
1.8.ĐIỀU TRỊ
1.8.1. Điều trị BPTNMT giai đoạn ổn định
− Loại bỏ các yếu tố nguy cơ
+ Thuốc lá: là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây BPTNMT, cần ngăn ngừa cả hút thuốc lá chủ động
và thụ động.
21
+ Ô nhiễm không khí: khói, bụi nghề nghiệp, bụi nhà, khói bếp Bệnh nhân cần tránh tiếp
xúc với những nghề có mật độ khói bụi cao. Cần sắp xếp môi trường trong nhà hợp lý,
tránh đun bếp than; bếp ga và bếp điện nên để cạnh cửa số và xa bệnh nhân
+ Nhiễm khuẩn hô hấp: nên giữ ấm cẩn thận mỗi khi đi ra ngoài, nếu xuất hiện nhiễm khuẩn
hô hấp, cần điều trị đầy đủ ngay từ đầu.
− Giáo dục
Nhằm giúp bệnh nhân hiểu đúng về bệnh của mình, từ đó hợp tác với bác sĩ trong việc
theo dõi và quản lý bệnh tốt, tránh các yếu tố nguy cơ, cung cấp cho bệnh nhân các kỹ năng
dùng thuốc đúng. Chủ đề của giáo dục bao gồm:
+ Bỏ thuốc lá, thuốc lào.
+ Những thông tin cơ bản về BPTNMT.
+ Mục tiêu điều trị chung và các kỹ năng tự quản lý, chiến lược giúp hạn chế tối đa khó thở (như
kỹ thuật thở và các bài tập), khi nào thì cần tìm kiếm sự giúp đỡ của bác sỹ, tự quản lý và đưa
ra quyết định trong tình trạng nặng.
− Điều trị thuốc
+ Các thuốc giăn phế quản.
+ Glucocorticosteroid.
+ Điều trị các thuốc khác:
• Vaccine cúm.
• Điều trị tăng cường α1 antitrypsin:ở bệnh nhântrẻ tuổi bị khuyết tật di truyền thiếu hụt
α1antitrypsin nặng.
• Kháng sinh: chỉ nên dùng trong đợt cấp BPTNMT do nhiễm trùng.
• Thuốc loăng đờm: chỉ dùng trong đợt cấp có ho khạc đờm nhiều.

+ Chống chỉ định dùng các thuốc giảm ho thường xuyên, an thần (morphin, gardenal,
diazepam-gây ức chế trung tâm hô hấp).
− Điều trị không dùng thuốc
+ Phục hồi chức năng hô hấp.
+ Điều trị với oxy dài hạn tại nhà.
+ Cải thiện tình trạng dinh dưỡng: Ăn nhiều bữa nhỏ, thêm các chất dinh dưỡng lỏng, tránh
thức ăn làm đầy bụng.
− Điều trị phẫu thuật
+ Cắt bỏ kén khí.
+ Phẫu thuật làm giảm thể tích phổi.
+ Ghép phổi.
1.8.2. Điều trị đợt cấp BPTNMT
− Xác định nguyên nhân gây đợt cấp
+ Nhiễm khuẩn hô hấp: Viêm phế quản cấp, viêm phổi do virus hoặc vi khuẩn.
22
+ Các bệnh lý hô hấp: Tràn khí màng phổi, tắc động mạch phổi.
+ Các bệnh lý khác: Suy tim trái, rối loạn nhĩ thất. Các rối loạn chuyển hoá, nhiễm khuẩn
phủ tạng khác.
+ Do dùng thuốc an thần, chẹn beta (thuốc nhỏ mắt…), dùng oxy ko đúng (lưu lượng cao),
dùng thuốc ko đúng hoặc dừng thuốc đột ngột.
+ Các nguyên nhân khác: Mệt cơ hô hấp, thay đổi thời tiết.
− Điều trị
+ Kháng sinh trong đợt bội nhiễm.
+ Thuốc giãn phế quản.
+ Corticoide uống hoặc truyền tĩnh mạch.
+ Điều trị Oxy.
+ Thuốc long đờm nên dùng ở bệnh nhân có đờm nhiều.
+ Phục hồi CNHH, dẫn lưu tư thế.
+ Những trường hợptiến triển nặng với suy hô hấp cấp nhiễm toan hô hấp thì phải tiến hành
đặt ống nội khí quản, mở khí quản nếu phải thông khí nhân tạo dài ngày.

1.9. NGHIÊN CỨU DỰA TRÊN KAP
1.9.1. Nghiên cứu dựa trên KAP
Nghiên cứu dựa trên KAP (Knowledge Attitude Practice : Kiến thức- thái độ- hành
vi) là một mô hình nghiên cứu nhấn mạnh đến sự thay đổi về kiến thức, thái độ và hành vi
của con người về một vấn đề cụ thể nào đó trong đời sống xã hội. Mô hình này được sử
dụng rộng rãi trên thế giới gần nửa thế kỷ qua chủ yếu ở các lĩnh vực y tế công cộng, cung
cấp nước sạch, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục, tâm lý học, xã hội học, công tác xã hội….
KAP cho chúng ta biết nhận thức, cảm nhận và hành vi của con người
về một vấn đề nghiên cứu. Với mỗi nghiên cứu dựa trên KAP được thiết kế
với từng đối tượng và bối cảnh cụ thể.
• KAP tập trung vào kiến thức nhằm vào xem xét cách hiểu của người tham gia
nghiên cứu về chính vấn đền nghiên cứu.
• KAP tập trung vào thái độ để xem xét những cảm xúc của người tham gia
nghiên cứu cũng như những ý kiến của họ liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
• KAP tập trung đến hành vi như là cách đề cập đến cách thức mà chính người
tham gia nghiên cứu thể hiện hành vi của mình trong mối quan hệ với nhận
thức và thái độ của họ về vấn đề nghiên cứu.
23
Có thể hiểu mô hình KAP tìm ra sự khác biệt giữa nhận thức- thái độ-
hành vi của người tham gia nghiên cứu về một vấn đề nghiên cứu cụ thể.
Trong thực tế của cuộc sống, rất nhiều người có nhận thức đúng đắn nhưng
hành vi lại không dựa trên nhận thức của họ (ví dụ: nhận thức và thái độ về
việc hút thuốc lá ảnh hưởng xấu tới sức khỏe nhưng không phải ai cũng bỏ
được việc hút thuốc lá; nhận thức việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là cần thiết
nhưng đa số mọi người không tạo cho mình thói quen đi khám, chỉ khi có các
triệu chứng thì nhều khi đã quá muộn…). KAP sẽ tạo cho một bức tranh
chung về vấn đề nghiên cứu.
Nhiều nghiên cứu về KAP được tiến hành lặp để đo lường sự biến đổi
của chủ thể nghiên cứu.
Một tiến trình nghiên cứu về KAP thường được thực hiện ở các bước:

• Xác định nội dung (về K-A-P)
• Xác định đối tượng nghiên cứu và lượng mẫu cho nghiên cứu
• Lấy thông tin qua các hình thức bảng hỏi bằng giấy, trực tuyến, gửi qua thư
tín hoặc điện thoại.
• Phân tích và viết kết quả
Ở Việt Nam, mô hình KAP được áp dụng nhiều ở các chương trình
đánh giá của các tổ chức quốc tế như UNICEF, World Bank, UNDP,…Mô
hình nghiên cứu này được đánh giá là mang lại hiệu quả kinh tế cao và giá trị
khoa học tin cậy.
KAP rất phù hợp trong nghiên cứu và nhìn nhận các vấn đề của thân
chủ trong công tác xã hội. Đây là cách nhìn dựa trên quan điểm kiến tạo luận
xã hội. Hiểu được vấn đề chung liên quan đến thân chủ trước khi đi vào đánh
giá điểm mạnh- yếu- khả năng can thiệp.
24
Nghiên cứu với KAP cũng cần kết hợp các phương pháp thu thập thông
tin khác, đặc biệt là phỏng vấn. KAP trang bị cho bức tranh chung, còn phỏng
vấn hay quan sát cho biết được những đường nét cụ thể của bức tranh đó.
Một số nghiên cứu về KAP trong y học:
• Kiến thức, thái độ, hành vi về chế độ ăn và tập luyện ở người bệnh đái tháo
đường tuýp 2.
• Kiến thức, thái độ, thực hành của bệnh nhân tăng huyết áp tại Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương năm 2007.
• Kiến thức, thái độ, hành vi của người chăm sóc chính của trẻ sốt cao co giật.
1.9.2. Áp dụng phương pháp nghiên cứu dựa vào KAP
− Đánh giá kiến thức của bệnh nhân.
− Đánh giá thái độ của bệnh nhân.
− Ðánh giá hành vi của bệnh nhân.
1.9.3. Ý nghĩa, hạn chế của phương pháp KAP
− Ý nghĩa: đánh giá được kiến thức ,thái độ, hành vi của bệnh nhân.
− Hạn chế: do phương pháp nghiên cứu dựa vào KAP chủ yếu thực hiện qua

việc phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân nên nghiên cứu mang tính chất chủ quan,
không đại diện cho toàn bộ quần thể.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
− Bệnh nhân được chẩn đoán là BPTNMT điều trị nội trú tại Trung tâm Hô Hấp – Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 1 năm 2013.
− Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
25
− Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
− Bệnh nhân không thể hợp tác vì các lý do:
+ Hôn mê
+ Các bệnh tâm thần
+ Già yếu, lú lẫn hoặc không có khả năng giao tiếp
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
− Địa điểm: Trung tâm Hô Hấp- Bệnh viện Bạch Mai
− Thời gian: Từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 1 năm 2013
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu
− Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
− Chọn mẫu: Trong quá trình nghiên cứu, tôi chọn cỡ mẫu là 154 BN để thuận tiện
cho quá trình nghiên cứu.
2.2.3. Tiến hành nghiên cứu
− Thiết kế bộ câu hỏi theo mục tiêu nghiên cứu. Bộ câu hỏi gồm 2 phần: phần đặc điểm
chung của đối tượng và phần chuyên môn.
+ Phần đặc điểm chung bao gồm các câu hỏi điều tra về các thông tin: tuổi, giới,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi ở và các câu hỏi về nguồn cung cấp thông tin cho bệnh
nhân.

+ Phần chuyên môn gồm 3 mảng lớn: kiến thức về bệnh, thái độ đối với bệnh, các
hành vi liên quan đến BPTNMT.
− Thu thập số liệu:
+ Lựa chọn đối tượng nghiên cứu dựa vào tiêu chuẩn chọn bệnh nhân.
+ Nhận định bệnh nhân dựa theo bảng câu hỏi đã thiết kế.
2.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Số liệu nghiên cứu được xử lý bằng máy tính theo phương pháp thống kê y học
bằng chương trình SPSS 16.
2.4. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu không ảnh hưởng đến quá trình điều trị.
- Các thông tin nhạy cảm về bệnh tật được giữ bí mật, mọi thông tin thu thập được do sự hợp
tác của người tham gia và người làm đề tài.

×