Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

sức khỏe, sử dụng dịch vụ và chi phí y tế của người dân đồng bằng sông hồng, năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.26 KB, 48 trang )

B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI

NGUYN VN NG
SứC KHỏE, Sử DụNG DịCH Vụ Và CHI PHí Y Tế
CủA NGƯờI DÂN ĐồNG BằNG SÔNG HồNG, NĂM 2010
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y KHOA
KHểA 2009 2013
H Ni 2013
B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI

NGUYN VN NG
SứC KHỏE, Sử DụNG DịCH Vụ Và CHI PHí Y Tế
CủA NGƯờI DÂN ĐồNG BằNG SÔNG HồNG, NĂM 2010
KHểA LUN TT NGHIP C NHN Y KHOA
KHểA 2009 2013

Ngi hng dn:
PGS. TS. Phm Huy Tun Kit
H Ni - 2013
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này, em
đã nhận được sự giúp đỡ rất tận tình từ phía các thầy cô, anh chị, bạn bè và
gia đình
Em xin gửi lời cảm ơn tới ban giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội,
Phòng Đào tạo đại học, Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng
trường Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Kinh tế y tế đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện để em hoàn thành khóa luận này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS
Phạm Huy Tuấn Kiệt- giảng viên Bộ môn Kinh tế y tế, viện đào tạo Y học dự


phòng và Y tế công cộng, người đã hướng dẫn chu đáo, nhiệt tình, đóng góp
nhiều ý kiến quý báu cho em trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận.
Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự góp ý của
thầy cô, bạn bè để khóa luận của em được hoàn thiện hơn

Hà Nội, ngày tháng năm 2013.
Sinh viên làm khóa luận
Nguyễn Văn Đằng
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Phòng đào tạo Đại học trường Đại học Y Hà Nội
Viện đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng.
Hội đồng chấm luận văn
Tôi xin cam đoan thực hiện khóa luận một cách chính xác và trung
thực. Các kết quả, số liệu trong khóa luận đều có thật, nếu sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm
Sinh viên làm khóa luận
Nguyễn Văn Đằng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT Bảo hiểm y tế
KCB Khám chữa bệnh
TYTX Trạm y tế xã
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt chính trị,
kinh tế, xã hội, đánh dấu một thời kỳ phát triển bền vững của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ đổi mới này ngành y tế nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng, mặc dù phải đứng trước những
thử thách to lớn, nhất là khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Ngành y tế đã
từng bước phát triển thích hợp với cơ chế mới, đáp ứng những nhu cầu ngày

càng cao của nhân dân trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Cũng trên công cuộc đổi mới chung của nền kinh tế, hệ thống y tế Việt
Nam có nhiều thay đổi, thể hiện trên những chính sách của Đảng và Nhà nước
ta là: xã hội hóa công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, đa dạng hóa
các loại hình bệnh viện và các loại hình dịch vụ y tế, củng cố hệ thống tổ chức
y tế địa phương, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở. Những chính sách này ngày
càng tạo điều kiện cho ngành y tế phát triển theo hướng của dân, do dân và vì
dân. Đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe nói chung và nhất là trong
khám chữa bệnh và phòng bệnh.
Trước năm 1990 thì mọi công dân Việt Nam đều được khám chữa bệnh
không mất tiền, từ khi đất nước bước vào thời kỳ mở cửa chuyển sang nền
kinh tế thị trường thì chi phí khám chữa bệnh đã vượt quá sức bao cấp của
nhà nước. Trước tình hình đó, chính sách thu một phần viện phí ra đời đã bổ
sung ngồn kinh phí cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng của các cơ sở y
tế, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của đại bộ phận nhân
dân. Tuy nhiên, việc thực hiện thu một phần viện phí vẫn còn nhiều điểm
chưa hợp lý, chưa dựa vào khả năng chi trả của người dân, gây khó khăn cho
người nghèo, người không có khả năng chi trả hoặc chỉ có khả năng chi trả 1
phần, làm cho người nghèo hạn chế hoặc không sử dụng các dịch vụ y tế,
hoặc sử dụng các dịch vụ y tế không hợp lý, an toàn, hoặc bị nợ nần, bán đồ
đạc, giảm chi tiêu cho các hoạt động khác như thức ăn, học hành….
Mặc dù thu nhập của người dân đã được cải thiện đáng kể trong thời
gian qua, song chi phí y tế không ngừng tăng làm cho người dân ngày càng
khó khăn hơn trong việc tiếp cận với các cơ sở y tế, điều đó có thể làm ảnh
hưởng xấu tới sức khỏe của người dân. Đặc biệt là công tác khám chữa bệnh
ngày càng mang tính chất chuyên sâu thì chi phí y tế càng gia tăng nhiều hơn
nữa. Vào năm 1993 chi phí cho y tế là khoảng 5,051 tỷ đồng và tới năm 2000
chi phí này đã lên đến 14,302 tỷ đồng. Mức chi phí y tế bình quân đầu nười
năm 2002 cao gấp 1,4 lần so với năm 1998 và cao gấp 1,7 lần so với năm
1993. Mức chi phí cao cho y tế đã gây ra gánh nặng về kinh tế cho những

người nghèo [23].
Chi phí cho các dịch vụ y tế không chỉ là một yếu tố quan trọng có ý
nghĩa quyết định sử dụng dịch vụ y tế và lựa chọn cơ sở y tế mà còn ảnh
hưởng đến mức sống và mức độ nghèo đói của người dân. Vấn đề chi phí y tế
có liên quan mật thiết đến vấn đề công bằng trong chăm sóc sức khỏe, gánh
nặng chi phí y tế là nguyên nhân hàng đầu làm cho người dân có thu nhập
thấp không tiếp cận được với các dịch vụ y tế.
Bản chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa đã xác định trọng
tâm về công tác y tế là thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, chú ý
ưu tiên các đối tượng chính sách. Mục tiêu trong chiến lược chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho nhân dân cũng đã xác định đến năm 2020 nước ta chấm dứt
tình trạng người không được khám chữa bệnh vì không có tiền. Trên thực tế
nguồn tài chính cho các đối tượng chính sách còn hạn chế nên vẫn còn rất
nhiều người nghèo không được khám chữa bệnh. Thực tế ngành y tế vẫn phải
tiếp tục đổi mới, đặc biệt là các hình thức thu viện phí, hoạt động khám chữa
bệnh và nâng cao các loại hình dịch vụ y tế, cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu
CSSK của nhân dân, đảm bảo mặt bằng khám chữa bệnh cho mọi đối tượng
theo quy định hướng công bằng và hiệu quả, đặc biệt việc KCB cho người
nghèo. Do đó những thông tin về sử dụng dịch vụ và chi phí y tế là vô cùng
quan trọng giúp cho ngành y tế đổi mới.
Đồng bằng sông Hồng là một trong hai vùng kinh tế của miền Bắc Việt
Nam, có tốc độ phát triển kinh tế nhanh trong cả nước, đóng góp khoảng
24% GDP cho cả nước.
Đồng bằng sông Hồng còn là vùng có dân cư đông đúc nhất cả
nước.Mật độ dân số trung bình là 1238 người/km
2
(năm 2010).Mặc dù tỉ lệ
gia tăng tự nhiên của dân số trong vùng giảm mạnh nhưng mật độ dân số vẫn
cao, gấp 5 lần so với mật độ trung bình của cả nước, gấp gần 3 lần so với
Đồng bằng sông Cửu Long, gấp 10 lần so với Miền núi và trung du Bắc Bộ và

gấp 17,6 lần so với Tây Nguyên. Đây là một thuận lợi vì vùng có nguồn lao
động dồi dào với truyền thống kinh nghiệm sản xuất phong phú, chất lượng
lao động dẫn đầu cả nước. Thế nhưng, dân số đông cũng đem đến những khó
khăn nhất định, gây sức ép nặng nề lên sự phát triển kinh tế - xã hội và ngành
y tế của vùng. Cùng với sự phát triển kinh tế của vùng thì đời sống của nhân
dân cũng được cải thiện, dịch vụ khám chữa bệnh, cơ sở hạ tầng y tế được
nâng cao, cùng với đó vùng cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ việc khám
chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người nghèo và một số đối tượng ưu
tiên.Hiện nay, đã có một số nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe và đời sống
nhân dân của các tỉnh trong vùng nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào nói về
sức khỏe của cả vùng.
Chính vì lý do trên mà tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu sau:
1. Mô tả tình hình sức khỏe, sử dụng dịch vụ y tế và chi tiêu cho y tế
của người dân ĐBSH- Từ số liệu điều tra của tổng cục thống kê
năm 2010.
2. So sánh tình hình sức khỏe, sử dụng dịch vụ y tế và chi phí cho y
tế của vùng ĐBSH với cả nước và các vùng sinh thái ở Việt Nam
trong năm 2010.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Định nghĩa sức khỏe và các quan điểm, chính sách y tế của Đảng,
Nhà nước và Bộ Y tế liên quan đến vấn đề sử dụng dịch vụ và chi phí y tế
của người dân
1.1.1. Định nghĩa sức khỏe.
Theo định nghĩa về sức khoẻ của Tổ Chức Y tế Thế Giới (WHO):
"Sức khoẻ là một trạng thái hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tâm
thần và xã hội, chứ không phải là chỉ là không có bệnh tật hay tàn tật".
Theo định nghĩa trên, mỗi người chúng ta cần chủ động để có một sức
khoẻ tốt.Cần chủ động trang bị cho mình kiến thức về phòng bệnh và rèn
luyện sức khoẻ. Thực hành dinh dưỡng hợp lý, luyện tập thể dục thể thao phù

hợp, an toàn lao động và khám bệnh định kỳ để chủ động trong việc phòng và
chữa bệnh.Để có sức khoẻ tốt với sự nỗ lực của mỗi cá nhân là chưa đủ mà
cần có sự đóng góp của cả cộng đồng, của toàn xã hội trong các vấn đề an
sinh, việc làm và giáo dục hay cụ thể hơn như các vấn đề về môi trường và vệ
sinh an toàn thực phẩm…
Vì vậy sức khỏe được coi là tài sản quý giá của con người, sức khỏe đã
có và tồn tại từ khi con người sinh ra cho đến khi chết, nhưng mức độ thì
thường xuyên thay đổi trong suốt cuộc đời.
1.1.2. Các quan điểm và chính sách y tế của Đảng, nhà nước và Bộ y tế liên
quan đến vấn đề sử dụng sịch vụ và chi phí y tế của người dân.
1.1.2.1. Các qua điểm cơ bản của Đảng về công tác chăm sóc bảo vệ sức
khỏe nhân dân [15], [16].
- Sức khỏe vốn là quý nhất của con người và toàn xã hội, là nhân tố quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì vậy chúng ta phấn đấu để mọi
người đều được quan tâm chăm sóc sức khỏe.
- Việc chăm sóc sức khỏe và giải quyết các vấn đề bệnh tật cần phải theo quan
điểm dự phòng tích cực và chủ động, đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng
bệnh, rèn luyện thân thể đi đôi nâng cao hiệu quả.
- Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc.
- Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân
của cấp Đảng ủy, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội,
trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt.
- Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đa dạng hóa các
hình thức tổ chức chăm sóc sức khỏe trong đó y tế nhà nước là chue đạo, tận
dụng mọi tiềm năng sẵn có trong nước và mở rộng hợp tác quốc tế.
1.1.2.2. Chính sánh BHYT.
BHYT chính thức bắt đầu ở Việt Nam 1993 với hai phương thức bảo
hiểm: BHYT bắt buộc (áp dụng với tất cả cán bộ, nhân viên nhà nước đương
chức cũng như nghỉ hưu và các doanh nghiệp tư nhân lớn) và BHYT tự
nguyện (áp dụng với các đối tượng như nông dân, học sinh phổ thông và

người nhà của các đối tượng có bảo hiểm y tế bắt buộc).
Chương trình bảo hiểm y tế bắt buộc thanh toán cho các dịch vụ nội trú,
ngoại trú và cả tiền thuốc cho bệnh nhân nội trú. Phương thức tự nguyện được
chia ra làm 2 loại: loại phí thấp thanh toán cho các dịch vụ nội trú, loại phí cao
thanh toán cho cả dịch vụ ngoại trú và trong một số trường hợp cả tiền thuốc.
Nguồn thu từ bảo hiểm cũng đang tăng dần qua các năm tuy nhiên mức độ
bao phủ của bảo hiểm y tế còn thấp và phần lớn các đối tượng tham gia bảo hiểm
đều là bắt buộc. Như vậy người dân vẫn phải tự trả các chi phí cho KCB.
1.1.2.3. Chính sách thu 1 phần viện phí.
Để cụ thể hóa chính sách thu một phần viện phí trong các cơ sở y tế
Nhà nước đã ban hành nhiều thông tư, nghị định hướng dẫn thực hiện vấn đề
này. Trước năm 1989, người dân không phải trả bất kỳ một khoản tiền nào
cho khám chữa bệnh. Nghị định 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng do thủ
tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 24/4/1989 về thu một phần viện phí ở cấc cơ sở y
tế Nhà nước. Tiền thu viện phí bao gồm một khoản tiền khám chữa bệnh, tiền
giường nằm…. kể cả khám chữa bệnh nội trú và ngoại trú. Tuy nhiên, nghị
định cũng quy định miễn thu cho các đối tượng:
- Trẻ em dưới 5 tuổi.
- Người bệnh tâm thần phân liệt, động kinh, phong, lao phổi BK+.
- Người bệnh ở các xã vùng cao do UBND tỉnh quy định.
- Đồng bào khai hoang, xây dựng kinh tế mới trong 3 năm đầu mới đến.
- Người tàn tật, mồ côi, già yếu không nơi nương tựa, người quá nghèo.
- Người có công với cách mạng.
- Thương binh từ hạng I đến IV.
Đối tượng phải nộp viện phí:
- Những người ngoài diện được miễn giảm trên.
- Những người muốn khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng.
- Những người bị tai nạn lao động, giao thông, say rượu, đánh nhau.
1.2. Một số vấn đề liên quan đến sử dụng dịch vụ y tế trong chăm sóc sức
khỏe của người dân.

1.2.1. Khái niệm chung
Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người
cung cấp dịch vụ và khách hàng để đáp ứng một nhu cầu nào đó của người
tiêu dùng. Một dịch vụ chỉ tồn tại khi tạo ra được niềm tin và uy tín đối với
khách hàng. Dịch vụ ngày càng phát triển và đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong mỗi quốc gia.
Dịch vụ y tế là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa
người cung cấp dịch vụ và khách hang để đáp ứng nhu cầu về sức khỏe như:
Khám chữa bệnh, phòng bệnh, giáo dục sức khỏe, tư vấn sức khỏe do các cơ
sở y tế Nhà nước (Trạm y tế xã, Trung Tâm y tế huyện/TP, các cơ sở y tế
tuyến tỉnh và trung ương) và các cơ sở y tế tư nhân( Phòng khám, bệnh viện
tư, hiệu thuốc ) cung cấp
Ngoài ra, dịch vụ y tế là dịch vụ chi toàn bộ các hoạt động chăm sóc
sức khoẻ cho cộng đồng, cho con người mà kết quả là tạo ra các sản phẩm
hang hóa không tồn tại dưới dạng hình thái vật chất cụ thẻ, nhằm thỏa mã kịp
thời thuận tiện và có hiệu quả hơn các nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng
và con người về chăm sóc sức khỏe [1], [2].
1.2.2. Đặc điểm của dịch vụ y tế.
Dịch vụ y tế gồm 2 yếu tố: Tiêu thụ và đầu tư, sức khỏe là kết quả trực
tiếp của việc tiêu thụ phúc lợi đồng thời người lao động có sức khỏe sẽ đóng
góp cho sản xuất và đầu tư.
Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở các
mức độ khác nhau. Chính vì không dự đoán được thời điểm mắc bệnh nên thường
người ta gặp khó khăn trong chi trả các chi phí y tế không lường trước được.
Dịch vụ y tế là hàng hóa gắn liền với sức khỏe, tính mạng con người
nên không giống nhu cầu khác, khi bị ốm, mặc dù không có tiền nhưng người
ta vẫn phải mua (khám chữa bệnh) đây là đặc điểm đặc biệt không giống các
loại hàng hóa khác.
Dịch vụ y tế nhiều khi không bình đẳng trong mối quan hệ, đặc biệt
trong tình trạng cấp cứu: Không thể chờ đợi được và chấp nhận dịch vụ bằng

mọi giá
Chi phí chăm sóc sức khỏe có thể cao hơn so với thu nhập, sức khỏe
kém sẽ giảm khả năng kiếm sống, khi bị bệnh người bệnh thường ít tính toán
khả năng kinh tế mà dồn hết sức để chữa bệnh, thậm chí là cầm cố cả gia tài
để điều trị số khác có tiền thường yêu cầu phục vụ rất cao.
Người bệnh trực tiếp tham gia sản xuất cũng như tiêu thụ dịch vụ y tế.
Quyết định dịch vụ y tế có khi không hồi phục được (thầy thuốc quyết định
chữa bệnh, còn bệnh nhân phải trả tiền, có khi phải trả tiền ngưng vẫn bi đát)
Dịch vụ y tế không hướng tới tự do cạnh tranh.
Sự cạnh tranh và hành phải có tiêu chuẩn và cần có cả uy tín và sự tin
cậy (bệnh nhân nào cũng muốn đến nơi chữa bệnh tốt dù chi phí rất cao).
Maketing của dịch vụ y tế không phải là chữa bệnh. Mục đích của y tế là làm
sao cho dân khỏe mạnh ít vào bệnh viện, vì vậy maketing chỉ sử dụng cho
phòng bệnh tạo ra sức khỏe và tăng cường sức khỏe.
Dịch vụ y tế hoạt động ở bệnh viện không phải bao giờ cũng lãi có khi
lỗ nhưng vẫn phải duy trì lợi ích của xã hội và cộng đồng.Đo lường lợi nhuận
ở bệnh viện không có tiêu chuẩn, không rõ ràng, ở bệnh viện không khuyến
khích lợi nhuận.
Bên cung cấp dịch vụ có thể là một tổ chức hay cũng có thể là một cá
nhân. Để được là bên cung cấp dịch vụ y tế thì phải có giấy phép hành nghề
theo quy định của Nhà nước.
1.2.3. Phân loại dịch vụ y tế
1.2.3.1. Phân lọai theo đối tượng phục vụ.
Có 3 loại dịch vụ y tế: dịch vụ y tế công cộng, dịch vụ y tế cho các đối
tượng cần chăm sóc ưu tiên và dịch vụ y tế cá nhân.
Dịch vụ y tế công cộng là các dịch vụ mà lợi ích của những dịch vụ này
không chỉ giới hạn ở việc cung ứng trực tiếp (dịch vụ khám chữa bệnh) cho
người sử dụng mà còn cung ứng gián tiếp cho cộng đồng như các dịch vụ
phòng bệnh, giáo dục y tế .
Dịch vụ y tế cho các đối tượng cần chăm sóc ưu tiên: sẽ được dành cho

một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, bà mẹ- trẻ em, người có công với
cách mạng….
Dịch vụ y tế cá nhân là các dịch vụ chỉ cung ứng trực tiếp cho người sử
dụng dịch vụ.
1.2.3.2. Phân loại theo tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh.
Danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh là những dịch vụ y tế mà các
cơ sở y tế đăng ký cới Nhà nước được cung cấp tại đơn vị mình.Danh mục kỹ
thuật trong khám chữa bệnh được sắp xếp theo chuyên khoa, chuyên ngành
như: Dịch vụ khoa ngoại, chấn thương, nội,sản nhi….
Phân tuyến kỹ thuật là những quy định của cơ quan Nhà nước trong
phạm vi chuyên môn kỹ thuật cho các tuyến xã, huyện, tỉnh đến Trung ương
(Phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh trong nghị
quyết số 23/2005/QĐ-BYT ngày 30/8/2005 của Bộ y tế về việc ban hành Quy
định phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh).
Theo tiêu thưc này dịch vụ y tế bao gồm các hoạt động sau:
- Hoạt động y tế dự phòng (Bao gồm cả lĩnh vực vệ sinh an toàn thực
phẩm);
- Hoạt động khám chữa bệnh và phục hồi chức năng;
- Hoạt động khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền;
- Hoạt động sản xuất, kiểm nghiệm và phân phối thuốc.
1.2.3.3. Phân loại theo tiêu thức của WHO.
- Các dịch vụ nha khoa và y tế: Các dịch vụ chủ yếu nhằm mục đích dự phòng,
chẩn đoán và chữa bệnh qua tham vấn với các bệnh nhân mà không có chăm
sóc tại bệnh viện….
- Các dịch vụ do hộ sinh, y tá, vật lý trị liệu và nhân viên kỹ thuật y tế cung
cấp; các dịch vụ như giám sát trong thai kỳ và sinh con…chăm sóc (không
nhập viện), tư vấn và dự phòng cho bệnh nhân tại gia.
- Các dịch vụ bệnh viện: Các dịch vụ được cung cấp theo chỉ dẫn của bác sĩ chủ
yếu đối với các bệnh nhân nội trú nhằm mục đích chữa trị.phục hồi và/hoặc
duy trì tình trạng sức khỏe….

- Các dịch vụ y tế con người khác: Các dịch vụ ngoại trú; các dịch vụ y tế kèm
nơi thay vì các dịch vụ bệnh viện.
1.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ y tế.
1.2.4.1. Tiếp cận.
Tiếp cận y tế là khả năng mà người sử dụng các dịch vụ sức khỏe cần có
thể đáp ứng tại nơi cung cấp. Mục đích của dịch vụ y tế là đến với mọi người
cộng đồng, nhằm thỏa mãn nhu cầu về sức khỏe cho con người và cộng đồng.
Tiếp cận dịch vụ y tế phục vụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố sau:
- Nhóm khoảng cách từ nơi ở đến cơ sở y tế.
Nhóm này bao gồm khoảng cách đường đi, chất lượng đường xá,
phương tiện giao thông thông thường và các biến động thời tiết theo mùa.
Tổng hợp lại có thể đo bằng thời gian đi bằng phương tiện thông thường từ
nhà đến cơ sở y tế (càng tốn thời gian để đến được cơ sở y tế, càng khó tới đó
thì tiếp cận về khoảng cách càng thấp).
- Nhóm yếu tố kinh tế.
Thông thường, càng nghèo, càng bị hạn chế đến với cơ sở y tế.Mức
nghèo có thể tuyệt đối và cũng có thể tương đối với mức chi phí cho toàn bộ
đợt ốm phải đến cơ sở y tế để khám, chữa bệnh.Sự chênh lệch về thu nhập
dẫn đến sử dụng DVYT giữa người giàu và người nghèo ở thành thị cũng như
nông thôn không giống nhau. Hộ gia đình có thu nhập cao, người ta sẽ dễ
dàng quyết định đi KCB kể cả ở nơi xa nhất, nhưng có chất lượng nhất, ngược
lại những người nghèo thường có xu hướng tự chữa ở nhà hoặc có xu hướng
đến thầy thuốc gần nhà để giảm bớt chi phí hoặc hạn chế đến cơ sở y tế có
chất lượng cao, thu phí cao… [23].
Đối với các nước đang phát triển thì yếu tố kinh tế có quyết định rất lớn
tới khả năng tiếp cận DVYT của người dân.
- Nhóm yếu tố dịch vụ y tế.
Trong nhóm này đề cập tới tính thuận tiện về giờ giấc, thời gian mở
cửa, tính thường trực, tính sẵn sàng của các DVYT mà người dân cần, đạo
đức thái độ của người cung ứng dịch vụ và chất lượng các dịch vụ theo yêu

cầu của người dân [22].
- Nhóm yếu tố văn hóa.
Đó là các tập quán về chữa bệnh, như coi trọng chữa bệnh chon am hơn
nữ, coi trọng trẻ em hơn người già, ngại đến thầy thuốc nam giới, ngại phải
thổ lộ bệnh tật của mình. …Các yếu tố về trình độ hiểu biết, văn hóa của
người ốm và chủ hộ cũng ảnh hưởng tới quá trình quy định tới sự tiếp cận
DVYT [23].
1.2.4.2. Yếu tố bệnh.
Mức độ sẽ quyết định sự lựa chon cách thức chữa bệnh của người
dân.Khi đau ốm nhẹ: Cảm cúm, đau bụng, nhức đầu… Thông thường mọi
người đều chung cách thức giải quyết, đó là để tự khỏi hoặc sử dụng các loại
thuốc có sẵn trong nhà hoặc tự ý mua thuốc tự chữa mà không có sự can thiệp
của thầy thuốc.Họ chỉ đến các cơ sở y tế khi bệnh không khỏi hoặc tiến triển
nặng hơn.Còn đối với những người có điều kiện khá hơn thì đi khắp tuyến
trên; đối với những người nghèo thì chọn y tế địa phương.
1.2.4.3. Yếu tố giá cả.
Các trường hợp bệnh nặng, cấp cứu tính nghiêm trọng ảnh hưởng đến
sức khỏe và tính mạng, thì việc lựa chọn các dịch vụ y tế không phụ thuộc
vào thu nhập. Dù nghèo khó đến mức nào họ cũng sẵn sang bán cả tài sản
thậm chí cả nhà cửa, chỉ mong sao người than của họ được cứu sống. Thế
nhưng các trường hợp nhẹ và vừa thì vấn đề thu nhập và giá cả có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc lựa chọn và sử dụng dịch vụ y tế. Lúc này họ đến các cơ sở
y tế thuộc địa bàn họ cư trú để khám chữa bệnh, vì giá cả thấp hơn hợp lý với
thu nhập của họ.
1.2.4.4. Yếu tố dịch vụ
Thường không được đo lường bằng các biến định lượng mà bằng cách
biến định tính, thẻ hiện nguyện vọng ý kiến của người dân đối với cơ sở y tế.
Yếu tố dịch vụ y tế bao gồm: Trình độ chuyên môn của thầy thuốc,
trang thiết bị và vật liệu y tế.
1.2.4.5. Yếu tố đặc trưng cá nhân.

Nhiều tác giả cho thấy rõ cá yếu tố liên quan gần nhất đến việc sử dụng
dịch vụ y tế yếu tố cá thể của con người như: Tuổi, giới, văn hóa, nghề
nghiệp, dân tộc…
1.2.4.6. Cơ sở sử dụng dịch vụ y tế.
Cơ sở y tế là nơi khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe bao gồm bệnh
viện, viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, phòng khám đa khoa khu vực
và trạm y tế xã, phường.
- Bệnh viện nhà nước là cơ sở y tế được tổ chức tương đối hoàn chỉnh với quy
mô như: Có các chuyên khoa, có phòng mổ, có phòng xét nghiệm, có các
phương tiện phục vụ cho việc chẩn đoán bệnh, có đội ngũ cán bộ y tế gồm các
bác sĩ, y sĩ, y tá… Bệnh viện có chức năng chăm sóc sức khỏe nhân dân,
khám chữa bệnh nội, ngoại trú; phòng bệnh, giáo dục sức khỏe; nghiên cứu
đào tạo cán bộ. Bệnh viện tỉnh/thành phố, bệnh viện quận, huyện, thị xã. Bệnh
viện có thể là bệnh viện đa khoa hoặc bệnh viện chuyên khoa.
- Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng là cơ sở y tế có chức năng tiếp
nhận những người ốm hoặc sau khi điều trị bệnh cần được bồi dưỡng, nghỉ
ngơi đẻ tăng them sức khỏe hoặc phục hồi chức năng cho các bộ phận của cơ
thể.
- Phòng khám đa khoa khu vực là cơ sở y tế có chức năng khám chữa bệnh cho
cán bộ, nhân dân ở cơ sở thuộc tuyến quận, huyện, thị xã hoặc một cụm xã,
phường.
- Trạm y tế xã, phường là cơ sở y tế, là tuyến đầu tiên thực hiện các hoạt động
khám, chữa bệnh, ghi chép và chăm sóc sức khỏe như phát hiện và báo cáo
kịp thời các bệnh dịch lên tuyến trên. Tổ chức sơ cứu, chăm sóc sức khỏe ban
đầu, đỡ đẻ, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia
đình, xây dựng tủ thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn, hợp lý phục vụ
nhân dân trong phạm vi một xã, phường .
-Y tế tư nhân: Những người khám chữa bệnh tại cơ sở y tế tư nhân, kể cả những
người đến khám chữa bệnh tại nhà riêng của các cán bộ y tế của trạm y tế, của
bệnh viện hoặc những cán bộ y tế về hưu.

-Lang y (Đông y): Những người đến khám bệnh tại nhà hoặc cơ sở của các thầy
lang.
1.3. Một số vấn đề liên quan đến chi tiêu trong chăm sóc sức khỏe.
1.3.1. Các khái niệm chung.
1.3.1.1. Khái niệm về chi tiêu.
Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của
doanh nghiệp hay người dân, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số
chi tiêu bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp, chi tiêu cho quá trình sản
xuất và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ
Chi tiêu y tế hộ gia đình là tổng số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các
thành viên của hộ đã chi cho y tế trong một thời gian nhất định, bao gồm cả tự
sản, tự tiêu về lương thực, thực phẩm, phi lương thực, thực phẩm và các
khoản chi tiêu khác (biếu, đóng góp…). Các khoản chi tiêu của hộ không bao
gồm chi phí sản xuất, gửi tiết kiệm cho vay, trả nợ và các khoản chi tương tự.
Chi tiêu y tế bình quân đầu người của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và
giá trị hiện vật mà hộ gia đình và các thành viên của hộ đã chi cho y tế bình
quân cho một người trong thời gian nhất định.
1.3.1.2. Sự khác nhau giữa chi tiêu và chi phí.
Chi phí là nguồn lực được sử dụng trong một trường hợp cụ thể để thực
hiện một hoạt động nào đó.Trong lĩnh vực y tế,chi phí là giá trị nguồn lực
được sử dụng để tạo ra một dịch vụ y tế như một chương trình y tế hoặc một
lần khám sức khỏe cộng đồng [3].
Chi phí hay còn gọi là giá thành, là chi phí mà cơ sở cung cấp dịch vụ
phải bỏ tiền chi trả cho nhân công, vật tư, thiết bị, nhà xưởng và phí quản lý
hành chính để có thể cung cấp được một dịch vụ nào đó.
Chi phí để tạo ra một sản phẩm, dịch vụ là cơ hội thay thế tốt nhất bị
mất đi do sử dụng các nguồn lực để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đầu ra.
Trong lĩnh vực y tế, chi phí là giá trị của nguồn lực được sử dụng để tạo ra
một dịch vụ y tế
Để tiện so sánh, chi phí thường được thể hiện dưới dạng tiền tệ song

chi phí không có nghĩa là giá cả mà chỉ thể hiện nguồn lực được sử dụng.Do
sự khan hiếm nguồn lực nên chi phí cho một hoạt động là mất đi cơ hội của
người hoạt động là thu nhập mất đi do sử dụng nguồn lực cho hoạt động này
hơn là cho hoạt động khác [4].
1.3.1.3. Khả năng chi trả phí dịch vụ y tế:
Là mức chi phí mà hộ gia đình cá nhân có thể trả được bằng tiền để
nhận một loại dịch vụ y tế và thường được đo lường bằng thu nhập của cá
nhân hoặc hộ gia đình
1.3.2. Góc độ xem xét chi phí
Dưới góc độ của khu vực y tế: người ta quan tâm đến chi phí của người
cung cấp dịch vụ y tế như chi phí của các cơ sở y tế hoặc của cơ quan
BHYT.Phân tích chi phí dưới góc độ khu vực y tế có thể cung cấp các thông
tin cho việc lập kế hoạch và dự toán ngân sách.
Dưới góc độ của cá nhân/hộ gia đình: do chi phí của người bệnh và gia
đình thường có quan hệ mật thiết với nhau và người nhà thường phải cùng
chịu chi phí với người bệnh, người ta xem xét chi phí của người bệnh và gia
đình dưới cùng góc độ. Chi phí người bệnh và gia đình bao gồm các khoản
chi tiêu từ túi người bệnh và gia đình, mất/giảm thu nhập do tham gia can
thiệp, chi phí đi lại và vận chuyển, chi phí chăm sóc trẻ em, đau đớn, mất mát
về tinh thần.
Góc độ xã hội bao trùm tất cả chi phí bất kể chi phí đó xảy ra với
ai.Cần lưu ý rằng 1 số khoản chi trên có thể là chi phối đối với một bộ phận
xã hội nhưng thực chất không phải là chi phí của toàn xã hội và không được
tính là chi phí khi phân tích chi phí của toàn xã hội. Những khoản chi trả chỉ
luân chuyển từ bộ phận này sang bộ phận khác của xã hội, nhưng không phải
là chi phí đối với toàn xã hội được gọi là các khoản thanh toán hoán đổi.Các
khoản thanh toán hoán đổi không phải là chi phí dưới góc độ xã hội và phải
được loại ra khi tính toán chi phí.
1.4. Một số nghiên cứu về tình hình sức khỏe, dịch vụ y tế và chi tiêu cho y tế.
1.4.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài.

Có nhiều nghiên cứu và báo cáo về thực trạng và làm thế nào để cải
thiện hệ thống cung cấp dịch vụ y tế trên thế giới bao gồm các chính sách tài
chính, các yếu tố chất lượng, độ bao phủ dịch vụ và chi phí y tế……Các báo
cáo này đề cập đến cả y tế nhà nước và y tế tư nhân [30], [31], [32].
Các nghiên cứu sử dụng dịch vụ y tế trên thế giới đều cho thấy quyết
định của người bệnh đi đâu, làm gì khi bị bệnh phụ thuộc khá nhiều vào tính
sẵn có của dịch vụ, chất lượng dịch vụ y tế, giá thành cũng như cấu trúc xã
hội niềm tin về sức khỏe và các đặc trưng cá nhân của người bệnh cũng như
loại bệnh, mức độ bệnh, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế và khả năng tiếp
cận tới các dịch vụ y tế của người dân.
Nghiên cứu sử dụng dịch vụ y tế và chi phí y tế đã được thực hiện ở
nhiều nước như Thụy Điển, Mỹ, Anh từ đầu thế kỷ XX.
Một điều tra tại 4 làng của Thái Lan với 1755 trường hợp ốm được ghi
chép lại cho thấy có tới 70% tự điều trị khi ốm được khám bởi các cán bộ
chuyên môn [5].
Một tỷ lệ số người tự điều trị là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lạm
dụng thuốc. Đối với các nước đang phát triển, hiện tượng lạm dụng thuốc
càng xảy ra nghiêm trọng, tình trạng tự mua thuốc điều trị đã trở thành phổ
biến. Một nghiên cứu 25.951 trường hợp ở Andhra Pradesh cho thấy 47%
thuốc ở các hiệu thuốc trong thành phố được bán không có chỉ định của thầy
thuốc [5].
Ở các nước đang phát triển, với nhiều lý do khác nhau, y tế tư nhân đã
được huy động tham gia cung cấp dịch vụ y tế, giảm bớt gánh nặng của y tế
nhà nước, đồng thời đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân.
Ở các nước mới công nghiệp hóa và các nước khu vực Đông Nam Á do sự
tăng trưởng kinh tế cao, nên mức sống của người dân tăng lên và nhu cầu sử
dụng dịch vụ y tế cũng tăng theo nhưng y tế nhà nước chưa đáp ứng đủ. Đối
với một số nước đang trải qua thời kỳ quá độ chuyển từ nền kinh tế hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường nguồn bao cấp của nhà nước bị cắt giảm dẫn
đến tình trạng thiếu trang thiết bị y tế, suy giảm tinh thần và thái độ phục vụ

trong đó có Việt Nam. Đây là những yếu tố và lý do dẫn đến sự phát triển của
hệ thống y tế tự nhiên tại các nước này.
Cuộc điều tra tìm hiểu nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế ở trẻ em Philippin
cho thấy 55,2% trẻ ốm sử dụng y học hiện đại, 11% trẻ ốm sử dụng y học cổ
truyền, 37% trẻ ốm tự điều trị. Việc lựa chọn y học cổ truyền không phụ thuộc
vào thu nhập mà phụ thuộc vào trình độ của người mẹ [24].
Điều tra về việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở vùng nông thôn
Ấn Độ trên 200 hộ gia đình cho thấy 52% sử dụng dịch vụ y tế hiện đại, 26%
sử dụng y tế cổ truyền, 6% tự xử lý, 16% vừa cổ truyền vừa hiện đại [25].
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì chi phí cho sử dụng dich vụ y
tế cũng ngày càng tăng.Mỹ là nức có chi phí y tế đứng đầu thế giới, những
năm 90, chi phí y tế chiếm 11,9% GDP, đến năm 2009 chi phí y tế tăng lên
chiếm 16% GDP, với chi phí y tế bình quân là 7.290 Đô- la/người [27]. Chi
phí y tế Mỹ gấp 2,5 lần mức chi bình quân của các nước trong OECD- Tổ
chức phát triển và hợp tác kinh tế,gấp 11,8 lần Thổ Nhĩ Kỳ (nước có chi phí y
tế thấp nhất trong Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế) [28]. Hàn Quốc, năm
1990 chi phí y tế mới chỉ chiếm 4,3% GDP nhưng đến năm 2007 chi phí y tế
nước này tăng lên chiếm 6,85 GDP [29].
Tại Trung Quốc, sau thời kỳ mở cửa hệ thống hợp tác xã nông thôn bị
sụp đổ, chi phí không còn là bao cấp nữa, người dân nhất là ở nông thôn tự trả
các dịch vụ khám chữa bệnh khi bị ốm đau. Việc thu phí dịch vụ y tế là rào
cản rất lớn đối với người dân khi bị ốm đau muốn tiếp cận dịch vụ y tế vì
không có khả năng chi trả. Chi phí y tế cho y tế so với tổng chi phí hộ gia
đình ở Trung Quốc vào khoảng 12%, trong đó 15,7% số hộ phải vay tiền để
chi phí cho việc CSSK, 8,8% số hộ phải nợ tiền bệnh viện, 5,6% số hộ phải
bán tài sản của gia đình sau khi đi khám chữa bệnh và 3,3% số hộ phải nhờ
đến sự cứu trợ của chính phủ dành cho bệnh tật [26].
1.4.2. Các nghiên cứu trong nước.
Ngay từ những năm 1990, ở nước ta đã có những cuộc nghiên cứu về
sử dụng dịch vụ và chi phí y tế [6], [7], [8], [9], [10]. Điều này hoàn toàn phù

hợp với yêu cầu đổi mới chính sách y tế. Các nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô
hình sử dụng dịch vụ y tế rất khác nhau tùy theo vùng địa lý, theo các đặc
trưng của người ốm và theo mức độ của bệnh. Nhìn chung, các nghiên cứu
đều đưa ra kết quả chung là hình thức tự mua thuốc điều trị là cao nhất với lý
do bệnh nhẹ, trạm y tế xã. Nơi khám chữa bệnh của người dân cũng đa dạng:
Ở bệnh viện 25,665, trạm y tế xã: 15,29%, y tế tư nhân 35,46%và tại gia đình
17,36% [9].
Trong báo cáo của Bộ y tế về nhân lực chăm sóc sức khỏe ban đầu năm
1993 cho thấy sử dụng dịch vụ y tế của cộng đồng là 49,9% tại các cơ sở y tế
tư nhân,trong đó 38,7% khám tại y tế xã phường [6]. Năm 1998 một nghiên
cứu của Uỷ ban kế hoạch nhà nước và Tổng cục thống kê và cách ứng xử của
người dân khi bị bệnh thì thấy người bệnh đến với y tế tư nhân là 19,47%, y tế
nhà nước là 15,05%, tự điều trị là 65,08%. Phổ biến ở những nhóm có thu
nhập thấp, trên 70% người nghèo không đến khám chữa bệnh, trong đó chỉ có
55% số người giàu tự chữa bệnh.Đến với y tế tư nhân có 16% người nghèo so
với 25% người giàu đến với y tế tư nhân [6].
Cuộc điều tra ở Quảng Ninh về sử dụng dịch vụ y tế cho thấy rằng 35%
tự mua thuốc,31% đến với y tế nhà nước, 22% tự chữa không mua thuốc và
12% đến với y tế tư nhân.
Về chi phí khám chữa bệnh: Gía phải trả cho hình thức tự mua thuốc
chữa bệnh về tự điều trị là ít tốn kém nhất (trung bình 11.000 đồng), tiếp theo
là đến TYTX khám bệnh rồi mua thuốc (trung bình 14.500 đồng), trong khi
đó đến với thầy thuốc tư có phần tốn kém hơn (trung bình 28.000 đồng),
khám chữa bệnh tại tuyến trên là rất tốn kém (trung bình 57.000 đồng) ngay
cả khi trường hợp chỉ đi khám bệnh. Nằm viện là tốn kém nhất [9].
Theo nghiên cứu của đơn vị chăm sóc sức khỏe ban đầu- Bộ y tế năm
1994 đến năm 1995 tại Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Long An, Cần Thơ, thì tỷ
lệ người ốm tự mua thuốc về nhà mà không qua khám chữa bệnh là phổ biến.
Nơi cao nhất là Long An (47,7% ), thấp nhất là Thừa Thiên Huế (28,9%) [2].
Năm 1997, Lữ Ngọc Kính, Nguyễn Thành Trung và cộng sự đã nghiên

cứu đánh giá thực trạng hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân ở xã Hợp
Tiến – Đồng Hỷ - Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ người ốm đến trạm y tế là
32,8% với lý do người ốm đến khám tại trạm y tế là gần nhà và tinh thần phục
vụ của cán bộ y tế tốt [11].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Chúc trong công trình nghiên cứu về tình
hình sử dụng dịch vụ y tế của người dân Ba Vì năm 1999, cho thấy tỷ lệ ốm
trong vòng 4 tuần là 47,7% tỷ lệ người dân tự điều trị khi ốm từ 62,73% được
phân bố không có sự khác biệt lớn giữa các nhóm kinh tế, văn hóa và nghề
nghiệp.Các cơ sở y tế tư nhân được sử dụng nhiều hơn, trong khi đó các trạm
y tế đã được sử dụng với tỷ lệ thấp. Tỷ lệ đến khám chữa bệnh tại bệnh viện
cao hơn ở nhóm tuổi có trình độ học vấn cao và nhóm cán bộ nhà nước và
công nhân.Không có sự khác biệt giữa các nhóm kinh tế về mô hình sử dụng
dịch vụ y tế; nghề nghiệp là một yếu tố liên quan một cách có ý nghĩa thống
kê đến sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh bệnh viện [12].
Nghiên cứu của Nguyễn Đình Dự ở huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang về
sự tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cho biết cách xử trí của người ốm trong
vòng 4 tuần trước điều tra là: Cao nhất là đến trạm y tế xã:53,5%. Sau đó là
đến bệnh viện huyện: 23,2%, thấp nhất là đến cán bộ y tế thôn, phòng khám
tư nhân và tự mua thuốc với tỷ lệ ngang nhau: 0,8% [18].
Tác giả Nguyễn Minh Tuấn và Hoàng Khải Lập, khi nghiên cứu về
thực trạng khám chữa bệnh của bệnh nhân có Bảo hiểm y tế và bệnh nhân
phải trả viện phí ở một số bệnh viện của tỉnh Lào Cai và cho thấy: Không có
sự khác nhau về thái độ phục vụ và chăm sóc giữa người bệnh có bảo hiểm y
tế và người bệnh phải trả viện phí, trong một số trường hợp bệnh nhân có thẻ
bảo hiểm y tế vẫn mua thuốc bên ngoài (47,5%) và 50,8% số bệnh nhân đã
không từng dùng bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh.
Khi nghiên cứu về “ Thực trạng sự lựa chọn mua thuốc của người dân
Huyện Từ Sơn”, tác giả Phạm Văn Khanh cho thấy khi bị ốm, người dân đến
trạm y tế xã là 20,79%, nhà thuốc tư nhân 4,03%, hiệu thuốc nhà nước 2,96%.
Ở Việt Nam chi phí y tế có xu hướng tăng dần từ 4,9% năm 1999 lên

5,9% GDP năm 2005, trong đó khu vực công chiếm 1,42%, khu vực tư nhân
chiếm 4,49% [14].
Theo Điều tra Y tế quốc gia 2001-2002, tổng chi phí KCB trực tiếp của
hộ gia đình trên toàn quốc trong 12 tháng trước ngày điều tra (bao gồm chi
phí khám, xét nghiệm, điều trị nội, ngoại trú và tự mua thuốc) là khoảng
16.159 tỷ đồng. Như vậy tổng chi phí y tế của hộ gia đình chiếm khoảng
63,7% trong tổng chi phí y tế và chiếm 3,3% GDP, trong khi đó ở Thái Lan
tổng chi phí y tế hộ gia đình chiếm 1,8% GDP; Singapore chiếm 2,1% GDP;
Ấn Độ chiếm 4,7%; Trung Quốc chiếm 2,5% [20].
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Dữ liệu thứ cấp

×