Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

đánh giá giải phẫu xoang hàm trên bằng phim ct cone beam trong cấy ghép implant

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.52 KB, 40 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những thập niên gần đây, ngành nha khoa Việt Nam đã phát
triển nhanh chóng, nhiều vấn đế khó khăn trong chẩn đoán và điều trị trước
đây nay đã có hướng khắc phục mới. Cùng với sự phát triển của khoa học vật
liệu y sinh trong công nghệ sinh học đã đem lại cho khoa học nói chung và
ngành nha khoa nói riêng nhiều vật liệu mới và các phương pháp điều trị mới,
mang đến nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Một bước tiền đáng kể trong nha khoa
là kỹ thuật cấy ghép implant vào xương hàm để hỗ trợ việc phục hình răng giả
cho những bệnh nhân bị mất răng một cách chắc chắn hơn, thẩm mỹ hơn và
không ảnh hưởng đến các răng bên cạnh.
Implant nha khoa là những trụ khối titan có hình dạng tương tự chân
răng dược đặt vào xương hàm nhằm mục đích thay thế những răng đã nhổ.
Hiện nay các nghiên cứu y học đã cho thấy một sự tương tác tốt giữa răng với
implant.
Cùng với sự phát triển của implant nha khoa, các kĩ thuật chẩn đoán và
điều trị liên quan với implant ngày càng phát triển và mở rộng. Các kĩ thuật
cấy ghép implant ngày càng trở nên thường quy hơn, được nhiều nha sĩ sử
dụng trong điều trị. Sự phát triển của cấy ghép implant nha khoa đã đưa đến
một loạt các vấn đề mới mẻ trong ngành răng hàm mặt cần được nghiên cứu.
Nếu như trước đây xoang hàm trên ít được quan tâm trong thực hành nha
khoa thì ngày nay, xoang hàm trên đã được các nha sĩ quan tâm nhiều hơn, sự
hiểu biết về xoang hàm càng ngày càng mở rộng. Trong quá khứ, việc nghiên
cứu xoang hàm trên gặp nhiều khó khăn do được tiến hành trên tử thi, thì
ngày nay, với sự phát triển của chẩn đoán hình ảnh, các kĩ thuật chụp chiếu
mới được cập nhật liên tục đưa ứng dụng vào nhiều lĩnh vực, trong đó có kĩ
1
thuật chụp cắt lớp với chùm tia hình nón (CT cone beam – CBCT). Đây là
một kĩ thuật đạt bước tiến lớn trông chẩn đoán hình ảnh, mang lại một hình
ảnh 3 chiều chi tiết về đối tượng nghiên cứu, một điều mà các kĩ thuật trước
đây không làm được. Các ứng dụng về của CBCT được áp dụng rộng rãi
trong cấy ghép implant mang lại hiệu quả cao. Việc sử dụng CBCT trong


nghiên cứu xoang hàm trên trước cấy ghép implant ngày càng trở nên quan
trọng, cho nha sĩ một cái nhìn tổng thể về bệnh nhân trước khi điều trị. Tuy
nhiên, hiện nay, các nghiên cứu về xoang hàm trên bằng CBCT chưa nhiều.
Do vậy, để hiểu sâu sắc thêm cấu trúc giải phẫu xoang hàm dựa trên phim
CBCT, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đánh giá giải phẫu xoang
hàm trên bằng phim CT cone beam trong cấy ghép implant” nhằm mục
tiêu sau:
1. Đánh giá cấu trúc mạch máu, thành bên xoang hàm trên ở những
bệnh nhân có chỉ định cấy ghép implant
2. Đánh giá cấu trúc giải phẫu vách ngăn xoang hàm trên ở những
bệnh nhân có chỉ định cấy ghép implant
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu xoang hàm trên
Xoang hàm là một hốc chiếm gần hết bề dày của mỏm tháp xương hàm
trên. Hình tháp này mỏng đi ở các thành để tạo thành các vách xoang. Có thể
coi xoang hàm giống như một hình tháp ba mặt một sàn và một đỉnh hướng
về mỏm gò má của xương hàm trên [7]. Xoang hàm trên có thể tích chừng 15
ml [11]. Kích thước trung bình ở xoang người trưởng thành là 25-35 mm
(chiều rộng), 36-45 mm (chiều cao) và 38-45 mm (chiều dài) [10]. Sàn xoang
ở người trưởng thành còn răng ở dưới tầm 1cm so với nền mũi [19]. Vách
ngăn xoang có thể chia xoang thành hai hoặc nhiều khoang mà có thể kết nối
với nhau hoặc không [31]. Thành của xoang thường mỏng, ngoại trừ thành
phía trước và đỉnh ổ răng ở những bệnh nhân còn răng [11].
Chức năng của xoang hàm trên vẫn chưa được hiểu rõ ràng. Một vài
chức năng có thể là giúp cộng hưởng khi nói, một chút về khứu giác, làm ấm
và làm ẩm không khí hoặc giảm bớt trọng lượng của xương [4,21].
1.1.1. Các mặt của xoang hàm
1. Mặt trên hay còn gọi là mặt ổ mắt: mặt này tương ứng với sàn của ổ

mắt. Chạy từ sau ra trước có rãnh và ống dưới ổ mắt.
2. Mặt trước : lõm vào. Lõm này tương ứng với hố nanh. Ở phần trên của
mặt này gồ lên tạo bởi ống trên ổ mắt. Trong bề dày của mắt trước đã
mỏng lại còn lõm thành rãnh do các răng nanh và các răng hàm nhỏ.
3. Mặt sau: Hay là mặt chân bướm hàm, mặt này liên quan với hố chân
bướm hàm. Thành này dày hơn các thành khác, đi trong chiều dày của
thành xương này có các dây thần kinh răng sau.
3
1.1.2. Đáy xoang hàm
Đáy xoang tương ứng với thành ngoài của hốc mũi. Sàn xoang được
chia thành hai phần. Phần dưới liên quan với khe dưới của hốc mũi. Phần trên
liên quan với khe giữa.
1. Phần dưới
Phần dưới mỏng vừa phải được cấu tạo bởi mỏm hàm của xương cuốn
dưới và mỏm hàm xương khẩu cái khớp lại với nhau.
2. Phần trên
Có lỗ thông của xoang hàm, ở phía trước và phía sau của lỗ thông
xoang hàm, vùng tương ứng với các khuyết xương nằm ở giữa chân bám của
xương cuốn dưới, và mỏm móc chỉ có niêm mạc che phủ. Đôi khi ở vùng
niêm mạc này có một lỗ thông của xoang hàm phụ gọi là lỗ Giraldis.
Ở phía trước của phần trên này có ống lệ tị đi từ trên xuống. Ống này
làm cho thành xoang hàm nổi gờ lên như một ống nước chôn nông, chạy từ
trên xuống dưới và từ trước ra sau.
3. Các bờ của đáy
Mặc dù đáy của xoang hàm tương ứng với đáy của một hình tháp ba
mặt nhưng đường chu vi của đáy lại có bốn cạnh do sự mở rộng của mặt sau
xoang hàm về phía sau và phía trước đến gần đáy xoang. Nói khác đi là bờ sau
của đáy xoang hàm tương ứng với mặt sau thì gập khuỷu lại để tạo thành hai ờ
phụ một ở dưới và một ở sau. Hai bờ này nối lại với nhau bởi một góc tròn.
− Bờ trên của đáy xoang: chạy dọc theo bờ trên của xương hàm. Nó gồ

lên bởi một hoặc hai chỗ lồi tròn tạo ra bởi những tế bào sàng hàm ở
mặt trong của xương hàm trên.
4
− Bờ trước của đáy xoang: nằm ở phần đáy của một máng thẳng đứng và
sâu đôi khi rất là hẹp nằm giữa đường gờ của ống lệ tị và mặt trước
xoang hàm.
− Bờ dưới: Là một rãnh lõm mà đáy của rãnh chạy xuống dưới thấp hơn
là sàng mũi. Bờ này liên quan với các răng hàm nhỏ và hai răng hàm
lớn. Thay hay gặp các chân của răng hàm lớn tạo thành những phần lồi
vào trong lòng xoang.
− Bờ sau: đối xứng với lồi củ xương hàm trên và với hố chân bướm hàm.
Góc nối giữa bờ trên và bờ sau tương ứng với mỏm ổ mắt xương khẩu
cái
C. Đỉnh của xoang
Đỉnh của xoang thường kéo dài ra ngoài đến tận củ gò má của xương hàm.
D. Vách ngăn xoang
Trong giải phẫu, vách ngăn xoang là một phần nhô lên của xương mà
nằm trong xoang được mô tả lần đầu tiên bởi Arthur S. Underwood, một nhà
giải phẫu tại trường King’s College ở London [31]. Sự hiện diện của vách
ngăn xoang tại hoặc gần đáy xoang được các bác sĩ nha khoa quan tâm trong
phẫu thuật nâng xoang vì nó liên quan nhiều đến các biến chứng trong phẫu
thuật, như rách màng Schneiderian.
Tỷ lệ của vách ngăn xoang Underwood liên quan với sàn xoang hàm
trên được báo cáo gần 32% [30]
Vị trí của vách ngăn xoang:
Underwood chia vách ngăn xoang thành 3 vùng liên quan các vùng
răng mọc: phía trước (tương ứng với các răng hàm nhỏ), ở giữa ( tương ứng
với răng hàm lớn thứ nhất), và phía sau (tương ứng với răng hàm thứ hai).
5
Theo đó, tác giả xác nhận, các vách ngăn xoang luôn luôn mọc giữa các răng

không bao giờ đối diện ở giữa răng [31]
Hình ảnh CT Scanner cho thấy vách ngăn chia xoang thành nhiều phần
Vách ngăn tiên phát và vách ngăn thứ phát:
Các nghiên cứu gần đây phần vách ngăn xoang hàm trên thành 2 dạng:
vách ngăn tiên phát và thứ phát. Vách ngăn tiên phát là những vách ngăn
được mô tả bởi Underwood mà được cho là kết quả của sàn xoang hạ xuống
dọc theo chân của các răng mọc; theo đó các vách ngăn xoang tiên phát
thường được tìm thấy trong xoang tương ứng với khoảng trống của các răng.
Ngược lại, vách ngăn thứ phát được cho là hiện tượng bất thường của xoang
sau khi mất các răng sau [15]. Sinus pnematization là một hiện tượng chưa
được hiểu rõ mà kết quả là tăng thể tích của xoang hàm, nói chung khi mất
các răng sau, mất xương thường ở vị trí chân của các răng sau hàm trên.
6
Vách ngăn xoang ngắn ở xoang hàm trên trái
Mẫu vật được lấy từ trẻ tám tuổi tám tháng. Mặt bên của trán và xoang hàm
trên, vị trí của mỗi bên được loại bỏ bởi lát cắt đứng dọc.
7
E. Mạch máu của xoang
Mạch máu cung cấp của xoang hàm trên đến từ động mạch dưới ổ mắt
(infraorbital artery – IOA), động mạch khẩu cái lớn (greater palatine artery),
và động mạch răng trên sau (posterior superior alveolar artery – PSAA)
[11,23]. Theo Solar và cs [23], một vài mạch nối nhỏ của PSAA và IOA có
thể được tìm thấy thường xuyên ở thành bên xoang, để nuôi dưỡng màng
Schneiderian cũng như các mô xung quanh. Về mặt giải phẫu, một mạch nối
nhỏ giữa PSAA và IOA luôn được tìm thấy ở thành bên xoang [23,29].
Khoảng cách trung bình giữa mạch nối trong xương tới đỉnh xương ổ răng là
19 mm [23].
Mạch máu trong xoang
1.2. Các yếu tố giải phẫu ảnh hưởng đến quá trình nâng xoang trong cấy
ghép implant

Phẫu thuật nâng xoang là quá trình nâng cao cho phép mở rộng trong
lòng xoang, nhằm mục đích tăng kích thước theo chiều dọc trong xoang để sử
dụng cho cấy ghép nha khoa.
8
Quy trình phẫu thuật đã được hình thành và giới thiệu bởi Tatum tại
Birmingham, trong hội nghị implant Alabama năm 1976 [7,26]. Tác giả
đã biến đổi các kỹ thuật trong những năm trước kia. Công bố đầu tiên về kỹ
thuật phẫu thuật này tuy nhiên bởi Boyne, theo sau bởi Tatum [5,26]. Kĩ thuật
nâng xoang cổ điển bao gồm việc chuẩn bị của một cửa sổ ở thành bên xoang
hàm trên. Cánh cửa này được làm trật về bên trong và đi lên trên cùng với
màng Schneiderian đến một vị trí ngang tạo thành đáy xoang mới. Các không
gian bên dưới cửa sổ được nâng lên và niêm mạc xoang được làm đầy các vật
liệu ghép.
Phẫu thuật nâng xoang
Implant có thể được cấy vào đồng thời, khi có chiều cao xương đầy
đủ cho sự ổn định (chiều cao xương > 4 mm), hoặc có thể được cấy trong một
phẫu thuật lần hai sau khi sự tái cấu trúc xương ghép đã diễn ra. Phẫu thuật
hai giai đoạn được chỉ định khi không có sự ổn định chính được mong đợi
(chiều cao xương < 4 mm) [3,6,13,18]. Nguyên tắc của phẫu thuật
9
nâng sàn xoang đơn giản, tuy nhiên, có một số khía cạnh giải phẫu và sự cân
nhắc liên qua đến loại phẫu thuật cần chú ý.
Sàn xoang
Thông thường, hình dạng của cửa sổ lý tưởng nên theo hình dạng bên
trong của xoang hàm trên và thường là đường cong. Điều này có
nghĩa là việc lập kế hoạch trước phẫu thuật với việc phân tích trên phim là cần
thiết cho mọi loại phẫu thuật. Tuy nhiên, theo khía cạnh lâm sàng của
thành xoang bên sẽ cung cấp thông tin về mức độ của các xoang hàm
trên. Trong hầu hết các bệnh nhân, các thành bên xoang là khá mỏng
và trông có màu xanh xám hiển thị chu vi của các xoang. Hình dạng

của cửa sổ do đó có thể được xác định bởi sự kết hợp giữa phim và quan sát
trên lâm sàng. Thông thường điều này có nghĩa là làm tròn góc với nền bản
lề rộng thông thường.
Sửa soạn đường viền được thực hiện dựa trên X-quang và lâm sàng
10
Các góc được làm tròn cũng là lợi thế trong phẫu thuật để làm giảm
nguy cơ tổn hại màng Schneiderian. Màng này được cấu trúc mỏng manh và
là cấu trúc quan trọng cần giữ. Về nguyên tắc chung với màng này, trong
trường hợp bình thường, nên cần giữ nguyên, để tránh mất mát các vật liệu
ghép trong vào xoang và có miếng ghép che phủ vật liệu với chức năng mạch máu.
Thành bên xoang
Như đã đề cập việc chuẩn bị cửa sổ chỉ có thể ở những khu vực có
xương mỏng. Nếu thành bên xoang bao gồm xương dày thì toàn bộ thành bên
xoang nên được làm mỏng. Nếu không, sẽ vô cùng khó khăn để giải phóng
màng Schneiderian từ bên trong xoang do các dụng cụ không thể tiếp cận.
Thành bên xoang cần được làm mỏng trong trường hợp thành dày
Chuẩn bị cửa sổ nên đủ rộng cho xử lý thao tác dụng cụ. Do đó, nên
bắt đầu chuẩn bị là sửa soạn với mũi theo khe tròn lớn (Ø + 3 mm). Quá trình
11
chuẩn bị kết thúc với mũi kim cương tròn lớn để không làm tổn thương màng
hoặc thủng thành xương.
Màng khỏe mạnh trông có màu xám xanh tối. Ở những người hút thuốc,
màng Schneiderian có thể nhìn teo, cực kỳ mỏng và dễ dàng làm thủng.
Lung lay cửa sổ nên được thực hiện tốt nhất với ấn nhẹ bằng lực ngón
tay. Không những phẫu thuật viên có thể cảm nhận sự đề kháng và gãy của
cửa sổ, mà còn ngăn các dụng cụ sắc nhọn làm thủng niêm mạc xoang.
Màng Schneiderian
Theo giải phẫu, màng Scheneiderian là màng lót mặt trong xoang hàm
trên Cấu trúc giải phẫu bình thường của xoang sẽ cho phép cửa sổ chuyển lên vị
trí nằm ngang, chỉ khi nếu màng Schneiderian thích hợp để nâng. Giải phóng

màng này là một bước tinh tế được thực hiện với các dụng cụ nâng xoang đặc
biệt (thiết kế bởi Tatum) thực việc theo các hướng khác nhau với các góc độ và
lưỡi dao khác nhau. Bắt đầu ở rìa đuôi, từ từ và cẩn thận làm việc theo hướng về
phía gần và phía xa của xoang. Đặc biệt là ở phía xa xoang có thể mở rộng đáng
kể, làm cho việc chuẩn bị khá khó khăn.
Chỉ khi toàn bộ màng được chuẩn bị tự do từ đáy xoang, cửa sổ mới có
thể có thể được nâng hoàn toàn lên vị trí nằm ngang. Cửa sổ duy trì ở vị trí đó
nhiều hay ít cho thấy tất cả các mô niêm mạc được nâng lên tới mức phần
giữa của xoang. Tuy nhiên, nó nên được thực hiện ở mức độ đó, kể từ khi vật
liệu ghép phải được đặt đến khi mức độ này. Quá nhiều vật liệu có
thể gây hoại tử của màng tế Schneiderian với sự mất mát vật liệu ghép vào
xoang, kết quả gây viêm xoang [20,27,28]. Các vị trí và hỗ trợ của cấy ghép
12
implant đòi hỏi cấu trúc xương trong khu vực của thành mũi bên, như đã được
mô tả, quan trọng trụ cột thứ tư [32].
Giải phóng màng Schneiderian từ vách ngăn có thể rất khó khăn, và
thậm chí còn khó khăn hơn khi các đầu chân răng mọc vào trong xoang kể cả
khi các răng đã được nhổ từ trước đó.
Chân răng mọc vào trong xoang làm việc giải phóng màng xoang khó khăn
Phẫu thuật xoang trước đó đôi khi cũng là chống chỉ định cho việc nâng
xoang do mô sẹo không cho phép chuẩn bị một mô niêm mạc nâng đỡ khỏe
mạnh. Ngoài ra khi xương ổ răng hoàn toàn thiếu hụt ở một vài vị trí (do sự
tiêu xương hoặc chấn thương mất xương sau nhổ răng, ví dụ như thủng
xoang), niêm mạc xoang ngay lập tức thông thương với niêm mạc miệng. Đây
là một tình trạng khó, mà chủ yếu là màng Schneiderian không thể được giữ
nguyên. Nó sẽ dẫn đến một lỗ thủng lớn ở một vị trí khó, làm cho việc tiếp
tục chuẩn bị là không thể.
13
Vách ngăn xoang
Vách ngăn xoang gặp nhiều ở người trẻ. Vách ngăn có thể chia xoang

thành nhiều phần nhỏ hơn. Ngoài các đường viền bên trong xoang, sự hiện
diện của vách ngăn cũng xác định hình dạng của cửa sổ. Nếu vách ngăn chỉ
nằm ở dưới cùng xoang, sửa sổ có thể được sửa soạn với hình dạng bình
thường do nó không bị chặn bởi vách ngăn, cửa sổ có thể được lung lay và
xoay lên trên và vào trong dễ dàng. Tuy nhiên, nếu vách ngăn nằm ở vị trí
cao hơn, cửa sổ phải được làm theo hình chữ W hoặc hai cửa sổ, hoặc cửa
sổ chỉ được nằm ở một phía của vách ngăn (thường là phía gần), nếu như
implant được mong muốn đặt tại vị trí đó. Một phương pháp khác là sử
dụng phương pháp antrostomy [6]. Sau khi sửa soạn niêm mạc mạc, vách
ngăn sẽ được loại bỏ.
Cửa sổ xoang hình chữ W
Xoang hẹp
Xoang hẹp, mặc dù hiếm gặp, nhưng cũng có thể được nhận ra trên
phim CT scaner. Do vậy, cần chụp phim CT scanner trước nâng xoang cho
14
mọi trường hợp. Xoang hẹp sẽ gây khó khăn cho việc chuẩn bị cửa sổ. Một
cách để giải quyết vấn đề xoang hẹp là làm mở một phần bên xoang thay vì
sửa soạn cửa sổ. Trong trường hợp này, xương hỗ trợ khỏe mạnh và đáy mới
của xoang sẽ không có và làm tăng nguy cơ biến chứng khi cấy ghép implant.
Lòng xoang hẹp
Sự chảy máu
Việc cung cấp máu cho xoang hàm đến từ ba động mạch: động mạch
dưới ổ mắt, động mộng răng trên sau và động mạch khẩu cái lớn. Chảy máu
trong suốt quá trình nâng xoang là hiếm gặp từ khi các mạch lớn không nằm
trong khu vực phẫu thuật. Tuy nhiên những mạch máu nhỏ có thể bị nguy
hiểm. Nếu chúng ở vị trí tiếp xúc với màng Schneiderian, chúng có thể từ cầm
máu hoặc cầm máu với gạc trên áp lực nhẹ. Phẫu thuật dao điện có thể gây
hoại tử màng và do đó đe dọa sự che phủ của miếng ghép.
15
1.3. Kĩ thuật chụp cắt lớp với chùm tia hình nón

CT cone beam (Cone beam computed tomography – CBCT) là một kỹ
thuật chuẩn đoán hình ảnh ngày càng quan trọng trong kế hoạch điều trị và
chẩn đoán cấy ghép implant. Có lẽ vì lợi ích của công nghệ này, máy chụp
CT cone beam ngày càng được sử dụng nhiều trong nha khoa, chẳng
hạn như trong nội nha và chỉnh hình răng mặt. Trong suốt quá trình chụp CT
cone beam , máy chụp xoay quanh đầu của bệnh nhân, chụp đến gần 600 hình
ảnh riêng biệt. Các phần mềm số sẽ thu thập các dữ liệu và tái cấu trúc, tạo
nên hình ảnh khối 3 chiều về đối tượng đượng chụp.
1.3.1. Các dạng của CT cone beam
Chụp cắt lớp vi tính có thể được chia thành 2 loại dựa trên cách thu lại
lại chùm tia x, cụ thể là: chùm tia hình quạt và chùm tia hình nón.
Chùm tia hình quạt và chùm tia hình nón
Trong các máy quét chùm tia hình quạt (fan-beam), một nguồn chiếu
tia X và một đầu đo phát hiện thể rắn được đặt trên một giàn quay (Hình 1a).
16
Dữ liệu được thu lại bằng cách sử dụng một chùm tia X hình quạt hẹp
truyền qua bệnh nhân. Bệnh nhân được chụp ảnh từng lát một, thường theo
trục, và sự phiên dịch được thực hiện bằng cách chồng lát các hình ảnh để có
được các hình ảnh 2D. Sự sắp xếp thành hàng của các đầu đo được sử dụng
trong máy CT scanner với chùm tia hình quạt xoắn ốc truyền thống thực sự là
nhiều đầu đo thằng hàng. Cấu hình này cho phép các đầu đo CT (MDCT) của
máy quét thu đến 64 lát đồng thời, làm giảm đáng kể thời gian quét so với các
hệ thống cát 1 lát duy nhất đơn thuần và cho phép tạo ra các hình ảnh 3D ở
liều bức xạ thấp hơn đáng kể hơn so với máy CT với chùm tia hình quạt có một
đầu dò duy nhất.
1.3.2. Kĩ thuật CT Cone-Beam
Máy quét CT cone beam được dựa trên cắt lớp thể tích, bằng cách sử
dụng mảng 2D kỹ thuật số mở rộng cung cấp một đầu đo vùng. Điều này kết
hợp với chùm tia X 3D (Hình 1b). Kỹ thuật CT cone beam liên quan đến việc
quét 360°, trong đó nguồn tia và đầu đo di chuyển xung quanh đầu của bệnh

17
nhân, ở tư thế bệnh nhân ngồi ổn định. Với khoảng thời gian mức độ nhất
định, hình ảnh chiếu duy nhất, được gọi là hình ảnh "cơ sở", được ghi
lại. Nó tương tự như hình ảnh trên phim mặt nghiêng cephalometric. Các hình
ảnh chiếu cơ sở được gọi là các dữ liệu kế hoạch. Chương trình phần mềm kết
hợp các thuật toán phức tạp, sử dụng các dữ liệu hình ảnh để thiết
lập một khối dữ liệu 3D, mà có thể được sử dụng để cung cấp hình ảnh tái
thiết chính theo 3 chiều (cắt trục, cắt đứng và cắt ngang).
Mặc dù nguyên tắc CT cone beam đã được sử dụng trong gần hai thập
kỷ qua, nhưng chỉ gần đây, với sự phát triển của ống tia X rẻ tiền, hệ thống đầu
đo chất lượng cao và các máy tính cá nhân có cấu hình mạnh - giá cả phải
chăng khiến CT cone beam trở nên thương mại. Bắt đầu với NewTom QR
DVT 9000 (Quantitative Radiology srl, Verona, Italy) được giới thiệu vào
tháng 4 năm 2001, các hệ thống khác bao gồm CB MercuRay (Hitachi Medical
Corp, Kashiwa-shi, Chibaken, Nhật Bản), 3D Accuitomo XYZ Slice View
Tomograph (J.Morita Mfg Corp, Kyoto, Nhật Bản) và i-CAT
(XoranTechnologies, Ann Arbor, Michigan, và Imaging Sciences International,
Hatfield, PA).
Các đơn vị này có thể được phân loại theo hệ thống đầu đo phát hiện tia
X. [1,2] Hầu hết các đơn vị CB cone beam ứng dụng cho hàm mặt sử dụng
một ống khuếch đại hình ảnh (IIT) - một thiết bị tích điện kép. Gần đây,
một hệ thống sử dụng một màn hinh phẳng (FPI) được phát hành (i-CAT)
[24,25]. Hình ảnh tạo nên với một IIT nói chung có kết quả nhiễu hơn so
với hình ảnh từ FPI và cũng cần được xử lý trước để giảm bớt sai lệch hình
học vốn có trong cấu hình máy đo [1,2].
18
1.3.3. Lợi ích của CT cone beam
CT cone beam là thích hợp cho các hình ảnh ở sọ mặt.Nó cung
cấp hình ảnh rõ ràng của các cấu trúc với độ tương phản cao và cực kỳ hữu
ích để đánh giá xương [24,34]. Mặc dù vẫn còn những hạn chế hiện tồn

tại trong việc sử dụng của công nghệ này cho hình ảnh mô mềm, các nỗ
lực đang được hướng để phát triển kỹ thuật và các thuật toán phần mềm để cải
thiện tỷ lệ tín hiệu tới nhiễm và tăng độ tương phản.
Việc sử dụng công nghệ CT cone beam trong thực hành lâm sàng cung
cấp nhiều lợi ích trong răng hàm mặt so với hình ảnh CT thông thường;
• Giảm cường độ tia X-ray: Giảm kích thước của chùm tia tới khu vực
chiếu xạ cần chụp với liều tia xạ tối thiểu. Hầu hết các đơn vị CT cone beam
có thể được điều chỉnh để quét các khu vực nhỏ cho những chẩn đoán cụ thể.
Mặt khác vẫn có khả năng quét toàn bộ phức hợp sọ mặt khi cần thiết.
• Cho hình ảnh chính xác: thiết lập dữ liệu thể tích bao gồm một khối
3D của các cấu trúc hình lập phương nhỏ hơn, được gọi là voxels, mỗi đại
diện cho một mức độ hấp thụ tia X cụ thể. Kích thước của các voxel xác định
độ phân giải của hình ảnh. Trong CT thông thường, các voxel là đẳng hướng
– hình khối chữ nhật có kích thước dài nhất của voxel là các trục lát dày và
được xác định bởi lát răng, một chức năng của giàn chuyển động. Mặc dù bề
mặt CT voxel có thể được làm nhỏ như khối vuông 0,625 mm, độ sâu của họ
thường là theo thứ tự 1-2 mm. Tất cả các đơn vị CT cone beam cung cấp độ
phân giải voxel là đẳng hướng – ngang bằng trong tất cả 3 chiều. Điều này tạo
ra độ phân giải dưới milimet (thường vượt quá mức cao nhất của đa lát cắt
CT), từ 0,4 mm đến 0,125 mm (Accuitomo).
19
• Thời gian quét nhanh: Bởi vì CT cone beam thu lại tất cả các hình
ảnh cơ sở trong một vòng quay duy nhất, thời gian quét nhanh (10-70 giây) và
có thể so sánh với của hệ thống MDCT. Mặc dù thời gian quét nhanh hơn
thường có nghĩa là ít hình ảnh cơ sở hơn để từ đó tái tạo lại dữ liệu thể tích, sự
chuyển động của bệnh nhân cần được giảm.
• Giảm liều: Các báo cáo công bố cho thấy hiệu quả liều bức xạ (phạm
vi trung bình 36,9-50,3 microsievert [μSv]) [8,14,16,17,22] được giảm đáng
kể lên 98% so với hệ thống máy chụp CT chùm tia hình quạt "thông thường"
(phạm vi trung bình cho hàm dưới là 1,320-3,324 μSv, phạm vi trung bình

cho hàm trên 1,031-1,420 μSv) [8,22]. Điều này làm giảm liều ảnh hưởng trên
bệnh nhân xấp xỉ một phim cận chóp khảo sát toàn bộ hàm răng (13-100 μSv)
[9,12,33] hoặc 4-15 lần so với một X-quang toàn cảnh (2,9-11 μSv)
[9,12,16,33]
• Chế độ hiển thị hình ảnh hàm mặt duy nhất: Truy cập và tương
tác với các dữ liệu CT là không thể như các máy trạm yêu cầu. Mặc dù dữ
liệu này có thể được "chuyển đổi" và nhập vào các chương trình bản quyền để
sử dụng trên máy tính cá nhân (ví dụ, Simplant, Materialise, Leuven, Bỉ), quá
trình này tốn kém và đòi hỏi một giai đoạn trung gian để có thể mở rộng chẩn
đoán. Tái thiết của dữ liệu CT cone beam được thực hiện bởi máy
tính cá nhân. Ngoài ra, phần mềm có thể có sẵn cho người sử dụng, không chỉ
cho các bác sĩ chụp x-quang, hoặc thông qua mua trực tiếp hoặc qua mỗi lần
sử dụng từ các nhà cung cấp khác nhau (ví dụ, Imaging Sciences
International). Điều này cung cấp cho các bác sĩ có cơ hội sử dụng hiển
thị hình ảnh trên ghế, phân tích thời gian thực và các chế độ MPR cho các
nhiệm vụ cụ thể. Bởi vì thể tích bộ dữ liệu CT cone beam là đẳng hướng, toàn
bộ khối thể tích có thể được định hướng lại để các đặc điểm giải phẫu của
20
bệnh nhân được sắp xếp lại. Ngoài ra, các thuật toán đo lường điều khiển con
trỏ cho phép các bác sĩ để đánh giá các chiều theo thời gian thực.
• Giảm hình ảnh nhân tạo: Với các thuật toán từ nhà sản xuất và tăng
số lượng các thể tích, kinh nghiệm lâm sàng cho thấy hình ảnh CT cone beam
có kết quả giảm hình ảnh nhiễm, đặc biệt trong tái tạo thì hai cho quan sát
răng và hàm [8]
1.3.4. Máy chụp CT cone beam Sirona GALILEOS (Sirona Dental
Systems, Đức).
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng máy chụp CT cone
beam Sirona GALILEOS (Sirona Dental Systems, Đức).
Máy chụp CT cone beam Sirona GALILEOS
21

Máy Sirona GALILEOS được sử dụng với công nghệ chùm tia hình
côn mới nhất, hỗ trợ tốt hơn cho việc chẩn đoán và điều trị. Một thể tích hình
ảnh 3D lớn được tạo ra sau khi quét đối tượng trong 14 giây, cung cấp hình
ảnh với độ phân giải cao nhất với liều bức xạ thấp nhất. Phim toàn cảnh thông
thường cũng được tự động tạo và hiển thị bằng phần mềm GALAXIS, một
phần mở rộng của phần mềm Sirona. Các đơn vị hình và và phần mềm của nó
hoạt động hài hòa để cung cấp một dữ liệu tích hợp đầy đủ từ chẩn đoán đến
điều trị và hướng dẫn cho phẫu thuật cấy ghép implant.
* Các thông số kĩ thuật của máy CT cone beam Sirona GALILEOS
Khối hình ảnh (15x15x15) cm3
Kích thước khối voxel đẳng hướng 0,3/0,15 mm
Thời gian quét/thời gian phơi nhiễm 14/2-6s
Thời gian phục hồi 4,5 phút
Tư thế bệnh nhân Đứng/ngồi
Ống tia X
kV
mA
85
5-7
Liều ảnh hưởng 29µSv (21 mAs, 85 kV)
22
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên phim CT cone beam ở các bệnh nhân:
- Có chỉ định cấy ghép implant vùng răng sau hàm trên
- Được chụp phim CT cone beam tại bệnh viện Việt Nam Cu Ba – Hà Nội
2.2. Thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng …. đến tháng …
2.3. Phương pháp nghiên cứu:

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Các biến nghiên cứu:
2.3.2.1. Phần hành chính
Bệnh nhân được ghi chép theo tuổi, giới
2.3.2.1.1. Tuổi:
Bệnh nhân phân theo các mức tuổi
2.3.2.1.2. Giới:
Giới tính của bệnh nhân được ghi nhận
23
2.3.2.2. Các hình ảnh đo trên phim CT cone beam
Chúng tôi lựa chọn các hình ảnh đo để đánh giá thành bên xoang, lòng
xoang, mạch máu xoang và vách ngăn xoang
2.3.2.2.1. Độ dày của thành bên xoang phía má:
Vị trí tham chiếu lựa chọn hình ảnh cắt ngang là răng hàm lớn thứ nhất
hàm trên. Độ dày của thành bên xoang phía má ở khu vực 3mm từ đáy xoang,
13mm từ đáy xoang, và 15mm từ đỉnh xương ổ răng được đo trên hình ảnh
cắt ngang.
2.3.2.2.2. Chiều rộng của lòng xoang:
Vị trí tham chiếu lựa chọn hình ảnh cắt ngang là răng hàm lớn thứ nhất
hàm trên. Chiều rộng của lòng xoang ở vị trí 3mm từ đáy xoang, 13 mm từ
đáy xoang, và 15mm từ đỉnh xương ổ răng được đo trên hình ảnh cắt ngang.
Khoảng cách này là một đường bắt đầu từ điểm tham chiếu vuông góc với
trục của răng hàm lớn thứ nhất hàm trên (hoặc trục tưởng tượng trong trường
hợp mất răng)
24
2.3.2.2.3 Góc A:
Vị trí tham chiếu lựa chọn hình ảnh cắt ngang là răng hàm lớn thứ nhất
hàm trên. Góc A là góc hợp giữa thành xương ổ răng về phía má và thành
xương thành xương ổ răng về phía khẩu cái được đo trên hình ảnh cắt ngang.
Góc A được chia thành 3 nhóm: nhóm 1 (<30), nhóm 2 (31-60), nhóm 3

(>61)
2.3.2.2.4. Khoảng cách từ bờ dưới của mạch máu:
Vị trí tham chiếu lựa chọn hình ảnh cắt ngang là răng hàm lớn thứ nhất
hàm trên. Khoảng cách từ bờ dưới của mạch máu tới đáy xoang và đỉnh
xương ổ răng được đo trên hình ảnh cắt ngang. Khoảng cách mạch máu tới
đỉnh xương ổ răng được phân loại thành 2 nhóm: ít hơn 15mm từ đỉnh và lớn
hơn 15mm từ đỉnh.
25

×