Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Mác-LêNin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.64 KB, 19 trang )

1
I. PHẦN GIỚI THIỆU
1.1. Vị trí: chương VII, phần thứ 3 của môn học, trang 233.
1.2. Nội dung chính: Hình thái kinh tế - xã hội CSCN
1.3. Ý nghĩa bài học: Các bạn nhận thức được khái niệm hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa, chủ nghĩa cộng sản, sứ mệnh lịch sử của GCCN, cách mạng
XHCN là tất yếu khách quan, xây dựng niềm tin cho sinh viên vào sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, đội tiên phong của GCCN.
1.4. Mục đích
Trang bị cho các bạn những kiến thức:
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa
+ Xu thế tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
1.5. Yêu cầu
+ Tính tất yếu khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân –
tầng lớp trí thức
+ Xu thế tất yếu sự xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội CSCN
+ Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
II. CHUẨN BỊ
2.1 Nhóm 3
Đề cương bài thuyết trình, giáo trình môn học, slide,…
- Chuẩn bị phương tiện, đồ dùng thuyết trình.
- Dự kiến hình thức, phương pháp đánh giá kiến thức, kỹ năng trả lời câu hỏi của
các bạn.
2.2. Các nhóm khác
- Những kiến thức và kinh nghiệm liên quan bài học, tài liệu.
- Các yêu cầu đã chuẩn bị trước.
III. NỘI DUNG BÀI
3.1. Kiểm tra bài cũ
Câu 1: Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa ?
Cách mạng xã hội là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi
thời bằng chế độ xã hội chủ ngĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là giai


2
cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
3.2. Nội dung bài thuyết trình
3.2.1. Mở bài
Trên cơ sở vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, lý luận về đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen tập trung nghiên cứu hình thái kinh
tế xã hội tư bản chủ nghĩa từ đó đưa ra dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội
Cộng sản chủ nghĩa.
3.2.2. Khái niệm
Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính
là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời
sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hửu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và Cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa cộng sản: Chỉ một chế độ xã hội mà ở đó con người được giải phóng
triệt để khỏi ách áp bức bất công, con người được phát triển toàn diện, của cải làm ra
dồi dào, con người lao động một cách tự nguyện, tự giác, làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu . Là xã hội mà ở đó không còn giai cấp và nhà nước .
3.2.3 Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trong tác phẩm của mình đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, Chống Đuy-Rinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư
bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại, ông viết: “ Giai cấp tư sản, trong
quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của các thế hệ trước kia gộp lại “. Nhưng
mặt khác C.Mác và Ph.Ănggen cũng chỉ ra rằng: Trong xã hội đối kháng giai cấp đó

con người càng chinh phục, cải tạo thiên nhiên thì tình trạng người áp bức, bốc lột
người càng được mở rộng. Sự phát triển về kinh tế - xã hội dưới chủ nghĩa tư bản càng
3
gia tăng thì sự suy đồi về đạo đức, về lối sống con người , sự nghèo khổ của giai cấp
công nhân, nguy cơ mất việc làm của giai cấp công nhân càng lớn.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất
dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dẫn tới sự kìm hãm lực
lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải thay thế
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu
hiện trên lĩnh vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động
với giai cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên
chính vô sản và sự xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và
Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ
những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào những điều kiện thực tế cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ phát triển trung bình và những dân tộc
thuộc địa. Tuy nhiên, theo chủ nghĩa Mác - Lênin để hình thái kinh tế - xã hội Cộng
sản chủ nghĩa xuất hiện ở các nước tiền tư bản, phải có những điều kiện nhất định là :
Thứ nhất, do chính sách xâm lược của chủ nghĩa tư bản đối với các nước thuộc
địa trên thế giới, ở các quốc gia này phải xuất hiện những mâu thuẫn mới: mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc xâm
lược với các quốc gia dân tộc bị xâm lược; mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc tư
bản với nhau; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, tư sản và nông dân các nước thuộc
địa…và đặc biệt là mâu thuẫn chủ yếu giữa một bên chủ nghĩa đế quốc xâm lược cùng
bọn phong kiến tay sai, tư sản phản động một bên là cả dân tộc gồm: công nhân nông
dân, trí thức và những lực lượng yêu nước khác.
Thứ hai, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,

hệ tư tưởng Mác - Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân
tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước, giành độc
lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa khi ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình và các nước chưa
4
qua chủ nghĩa tư bản không phải là ngẫu nhiên mà dựa vào những điều kiện lịch sử
nhất định.
Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên
lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với
giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt. Qua thực tiễn cuộc đấu tranh đã khiến cho
giai cấp công nhân hiểu rằng, muốn giành thắng lợi phải tiếp thu chủ nghĩa xã hội
khoa học hình thành chính đảng của giai cấp mình. Khi đảng cộng sản ra đời, toàn bộ
hoạt động của đảng đều hướng vào lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà
nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước này là sự
mở đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, một mặt chủ nghĩa Mác-Lênin xem sự ra đời chủ nghĩa Cộng sản là kết
quả tất yếu của sự vận động và phát triển của xã hội loài người, là quá trình “lịch sử tự
nhiên”, mặt khác cũng khẳng định hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời
là kết quả hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, bằng hành động đấu tranh cách
mạng của giai cấp này bởi vì chế độ tư bản chủ nghĩa không tự nó sụp đổ.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản có tính xã hội hóa cao đã mang tính chất toàn
cầu ngày càng mâu thuẩn với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Nhưng sở
hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, thực chất chỉ là giai cấp tư sản lợi dụng nhà
nước, nhân dân nhà nước để nắm tư liệu sản xuất. Do vậy mâu thuẩn đối kháng trong
kinh tế và trong lĩnh vực xã hội không hề suy giảm. Mâu thuẩn đó chỉ có thể giải quyết
bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội chủ
nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
“Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng
hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó”

nhưng cũng khẳng định hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là kết quả
hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, bằng hành động đấu tranh cách mạng của
giai cấp này, bởi vì thế chế độ tư bản chủ nghĩa không tự nó sụp đổ. Ngày nay chủ
nghĩa tư bản đã lỗi thời, nhưng giai cấp tư sản vẫn kiên quyết bảo vệ chế độ tư hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện chúng có trong tay.
5
Trong khi nhấn mạnh vai trò tích cực của nhân tố chủ quan trong tiến trình cách
mạng xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ mới xã hội chủ nghĩa, các nhà
sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng cương quyết đấu tranh chống lại khuynh
hướng cách mạng phiêu lưu, không tính đến trình độ phát triển của hiện thực cách
mạng, không xem xét tới trình độ giác ngộ của nhân dân, thiếu sự chuẩn bị chu đáo.
3.2.4. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN
Dựa trên quan điểm khoa học, cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và
Ph.Ăngghen không chỉ phân chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành các hình
thái kinh tế - xã hội mà còn chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành
các giai đoạn khác nhau. Theo các ông, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
phát triển từ thấp đến cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa lên xã hội CSCN.
Giai đoạn cao của chủ nghĩa Cộng sản là giai đoạn xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Ở
giai đoạn này con người không còn lệ thuộc một cách phiến diện và cứng nhắc vào
phân công lao động xã hội, đồng thời lao động của thời lao động trong giai đoạn này
không chỉ là phương tiện kiếm sống mà nó trở thành nhu cầu số một của con người
như những nhu cầu thiết yếu khác. Khi đó con người thực hiện nguyên tắc phân phối
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”, trên cơ sở diễn đạt tư
tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
thành ba thời kỳ: “Những cơn đau đẻ kéo dài” (thời kỳ quá độ); Giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội); Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ
nghĩa (chủ nghĩa cộng sản).
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa có thể chia thành ba thời kỳ:

a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên lên chủ nghĩa xã hội
Để chuyển từ thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà chủ
nghĩa xã hội phát triển trên cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó, cần trải qua một thời kỳ
quá độ nhất định, là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời
sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã
6
hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa trên chế
độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên áp bức, bóc lột và bất
công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có thời kỳ lịch
sử nhất định.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình độ cao.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất kỷ thuật nhất định
cho chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải
có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ
nghĩa tư bản, cần phải có thời gian xây dựng và cải tạo quan hệ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn
phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian để giai cấp công nhân có thể làm quen với những
việc đó.
VD: Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát
triển của các nước không phải từ nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa sẵn có mà từ nền
sản xuất lạc hậu, quy mô nhỏ là chủ yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà nhà

nước xã hội chủ nghĩa cùng với giai cấp công nhân và nhân dân lao động đảm đương
nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng làm cơ sở hiện
thực cho chủ nghĩa xã hội.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chỉ có nghĩa
là trong lịch sử nước ta sẽ không có một giai đoạn nào trong đó giai cấp tư sản nắm
chính quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế
quốc dân. Nhưng để tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nhà nước
cách mạng phải giải quyết những vấn đề phức tạp, trong đó có nhiều vấn đề mà giai
7
cấp tư sản đã từng làm ở những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản, như chuyển nền
kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa, tích lũy vốn, hợp tác lao động, cách mạng kỹ
thuật và công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, ứng dụng công nghệ mới, hoàn thiện
quản lý kinh tế - xã hội...tham gia vào quá trình trên có nhiều thành phần kinh tế, kể cả
kinh tế tư bản tư nhân, được phát triển ở mọi lĩnh vực mà nhà nước không cấm.
Do đó, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là chọn con đường phát
triển "rút ngắn" lên CNXH. Về mặt chính trị, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua
việc xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng TBCN. Về kinh
tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN,
nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đặc điểm, nội dung tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ đan
xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế,
văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế: là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ thống
kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế
có nhiều thành phần (VD: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước), được xác lập trên cơ sở khách quan

của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu (VD: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu
chung, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu
của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp), về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn
hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau (VD: phân phối theo lao
động, phân phối theo vốn và tài sản, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các
quỹ phúc lợi khác).
VD: Đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×