Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

đặc điểm lâm sàng, yếu tố liên quan và hiệu quả điều trị của bài thuốc tỳ bà thanh phế ẩm đối với bệnh trứng cá thể thông thường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 95 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trứng cá (Acne) là một bệnh da thông thường, gây nên do tuyến bã
tăng tiết một cách quá mức kèm theo viêm nhiễm nang lông, tuyến bã. Bệnh
xuất hiện sớm trong giai đoạn dậy thì 12-13 tuổi, phổ biến ở người trưởng
thành (80%), diễn biến mạn tính, vị trí tổn thương hay gặp là vùng mặt, khi
khỏi có thể để lại sẹo, vết thâm, gây ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ và chất
lượng cuộc sống [1],[2],[3]. Số lượt bệnh nhân trứng cá đến khám chiếm
13,6% tổng số bệnh da tại Bệnh viện Da liễu Trung ương trong thời gian 3
năm từ 2007 tới 2009 [4]. Với một tỷ lệ như thế thì gánh nặng về kinh tế do
mụn trứng cá gây ra đối với người bệnh và xã hội không nhỏ.
Cho đến nay, căn nguyên cơ bản chưa được biết chính xác, yếu tố sinh
bệnh học tương đối rõ, điều trị đã nhiều tiến bộ nhưng việc lựa chọn phương
pháp thích hợp là cần thiết. Retinoid, kháng sinh dùng tại chỗ và toàn thân là
thuốc tây chính lựa chọn cho điều trị trứng cá, nhưng tác dụng phụ thường
gặp và chiếm tỷ lệ cao, gây lo ngại nhiều cho những bệnh nhân trứng cá ở lứa
tuổi sinh đẻ [5],[6],[7] [8]. Vì vậy xu hướng lựa chọn một phương pháp điều
trị hiệu quả, an toàn, ít tác dụng không mong muốn, phù hợp với lứa tuổi đang
được nhiều người quan tâm. Qua nhiều năm nghiên cứu và điều trị bệnh trứng
cá, chúng tôi phát hiện ra rằng thuốc y học cổ truyền không những có tác
dụng điều tri mụn trứng cá, khôi phục da tổn hại mà hiệu quả ổn định, lâu dài,
ít tác dụng không mong muốn[9],[10]. Do đó phương pháp y học cổ truyền
điều trị mụn trứng cá càng được nhiều người quan tâm.
YHCT gọi trứng cá là Phấn thích, Tòa sang nguyên nhân do nhiệt, thấp,
đàm ứ đọng ở bì phu gây nên. Bệnh chia làm ba thể: Phế kinh phong nhiệt Thấp
nhiệt uẩn kết, Huyết ứ đàm ngưng [11],[12]. Thông qua quan sát trên lâm sàng,
nguyên nhân gây bệnh, cơ chế bệnh sinh với sự chỉ đạo của Tiến sĩ Dương Minh
Sơn chúng tôi chọn dùng bài thuốc cổ phương “Tỳ bà thanh phế ẩm” để trị bệnh
2
trứng cá nhận được hiệu quả tốt. Song chưa có đề tài nào nghiên cứu đánh giá
một cách có hệ thống hiệu quả của bài thuốc “Tỳ bà thanh phế ẩm” đối với


bệnh trứng cá thể thông thường. Nên chúng tôi tiến hành đề tài:
Nghiên cứu “Đặc điểm lâm sàng, yếu tố liên quan và hiệu quả điều trị của
bài thuốc Tỳ bà thanh phế ẩm đối với bệnh trứng cá thể thông thường”.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng, yếu tố liên quan bệnh trứng cá thể
thông thường tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương và Bệnh
viện Da liễu Trung ương từ tháng 3/2013-11/2013.
2. Đánh giá hiệu quả điều trị và độ an toàn của bài thuốc “Tỳ bà thanh phế
ẩm” đối với bệnh trứng cá thể thông thường mức độ vừa và nặng.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh trứng cá theo YHHĐ
1.1.1. Đại cương về bệnh trứng cá
* Bệnh trứng cá (Acne) là bệnh của nang lông tuyến bã. Tổn thương
của bệnh trứng cá rất đa dạng, song xuất phát điểm bao giờ cũng là một tổn
thương ở tuyến bã và cuối cùng dẫn đến hiện tượng viêm nang lông có mủ.
Dựa theo đặc điểm tiến triển của bệnh và các hình thái tổn thương người ta
chia thành các thể lâm sàng khác nhau: [1],[3],[13],[14],[15].
- Trứng cá thông thường(Acne vulgaris or Acne juvenile)
- Trứng cá mạch lươn (Acne Conglobata).
- Trứng cá kê hoại tử (Acne miliaris necrotica).
- Trứng cá tối cấp (Acne fulminans)
- Trứng cá sẹo lồi (Acne keloidalis).
- Trứng cá nghề nghiệp (Occupational Acne).
- Trứng cá do thuốc (Acne Iatrogenic)
- Trứng cá trước tuổi thiếu niên (Preadolescent acne):
o Trứng cá sơ sinh (Neonatal acne)
o Trứng cá tuổi ấu thơ (Infantile acne).
o Trứng cá tuổi thiếu niên (Childhood acne)

- Các loại trứng cá khác:
o Trứng cá trước kỳ kinh nguyệt.
o Trứng cá do mỹ phẩm (Acne Comestic ).
o Trứng cá do yếu tố cơ học (Acne Mechanica):
o Trứng cá nhân loạn sừng gia đình.
o Trứng cá vùng nhiệt đới (Tropical Acne).
4
1.1.2. Bệnh trứng cá thông thường
Bệnh phổ biến ở cả hai giới đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Các tổn
thương khu trú ở vùng da dầu như mặt, ngực, lưng, vai. Biểu hiện lâm sàng
rất đa dạng như là nhân trứng cá, sẩn đỏ, sẩn mụn mủ, mụn mủ, cục, nang, tùy
thuộc vào tác động của các yếu tố như tăng tiết bã nhờn, dày sừng cổ tuyến
bã, phản ứng viêm, rối loạn thành phần chất bã và hoạt động của vi khuẩn.
Các loại tổn thương này không phải thường xuyên kết hợp với nhau và có
đầy đủ trên một số bệnh nhân.Tiến triển bệnh trứng cá thông thường có
khuynh hướng biến mất một cách tự nhiên sau tuổi 20 đến 30 mà không
cần điều trị. Những yếu tố như khí hậu, stress, thức khuya, thuốc bôi tại
chỗ, khí hậu nóng ẩm … làm khởi phát bệnh hoặc làm bệnh nặng hơn [1],
[3],[14],[13],[15],[16].
1.1.2.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh trứng cá thông thường
Trên lâm sàng người ta chia tổn thương cơ bản của bệnh trứng cá thông
thường làm hai loại [1],[3],[14],[16]:
 Tổn thương không viêm
- Vi nhân trứng cá (microcomedo): là các nhân trứng cá rất nhỏ, bắt
đầu mới hình thành, rất khó phát hiện trên lâm sàng, chủ yếu là nhờ sinh thiết.
- Nhân kín hay nhân đầu trắng (close comedo or white comedo): Loại tổn
thương này có kích thước 0,5-2 mm đường kính, thường màu trắng hoặc
hồng nhạt, hơi gờ cao và không có lỗ mở trên bề mặt da. Tổn thương này
có thể biến mất hoặc chuyển thành nhân đầu đen, thường gây viêm tấy ở
nhiều mức độ khác nhau.

- Nhân mở hay nhân đầu đen (Open comedo or black comedo): Tổn
thương là những kén bã (chất lipid) kết hợp với những lá sừng của thành nang
lông bị quá sản tạo nên, vít chặt vào nang lông nổi cao hơn mặt da, làm cho
nang lông bị giãn rộng. Do hiện tượng oxy hóa chất keratin nên đầu nhân
5
trứng cá bị đen lại tạo thành những nốt đen hơi nổi cao. Loại nhân trứng cá
này có thể thoát ra tự nhiên, ít gây tổn thương trầm trọng, tuy nhiên cũng có
thể bị viêm và thành mụn mủ trong vài tuần.
 Tổn thương viêm
Tùy vào tình trạng viêm nhiễm mà trên lâm sàng biểu hiện nhiều hình thái
tổn thương khác nhau. Đặc điểm chung của loại tổn thương này là viêm nhiễm ở
trung bì với các biểu hiện là sẩn viêm, mụn mủ, cục, nang
Tổn thương viêm nông:
- Sẩn viêm đỏ (papules): Các nang lông bị giãn rộng và vít chặt lại,
vùng kế cận tuyến bã xuất hiện phản ứng viêm nhẹ. Bệnh xuất hiện những
đợt sẩn đỏ hình nón, gồ lên mặt da, sờ thấy được, mềm hơi đau, kích thước
< 5mm đường kính.
- Mụn mủ (pustules): Sau khi tạo sẩn, một sẩn có mụn mủ ở trên tạo
thành trứng cá sẩn mụn mủ, mụn mủ sẽ khô đét lại hoặc vỡ ra, đồng thời sẩn
cũng xẹp xuống và biến mất. Đó là trứng cá mụn mủ nông.
Tổn thương viêm sâu:
- Cục (Nodules): Hiện tượng viêm nhiễm có thể xuống sâu hơn, tới trung bì
sâu tạo thành các cục khu trú dưới trung bì có đường kính > 5mm và <1cm, gây
đau, sưng, đỏ, hơi tím, có mủ.
- Nang (Cysts): Tập hợp 2-3 cục, quá trình viêm hóa mủ hình thành khối
chứa chất sền sệt màu vàng lẫn máu, kích thước > 1cm.
- Dát và sẹo: quá trình tiến triển bệnh các thương tổn thuyên giảm để lại
các dát đỏ, dát thâm, tổn thương có viêm nhiễm nhiều, sâu và hóa mủ có thể
để lại sẹo. Sẹo có thể là sẹo teo tạo vết lõm sâu, cũng có thể là sẹo lồi hoặc
sẹo quá phát.

Ngoài các tổn thương trên, ở những bệnh nhân trứng cá thông thường,
người ta còn thấy tình trạng da dầu với các biểu hiện da mặt nhờn, bóng mỡ,
các lỗ chân lông giãn rộng, rụng tóc da dầu.
6
1.1.2.2 Các yếu tố liên quan đến bệnh trứng cá thông thường.
* Tuổi: Đa số bệnh bắt đầu và phát triển ở độ tuổi 13-25, sau đó giảm
dần, ở nữ giới có thể tồn tại đến 30-40 tuổi hoặc muộn hơn.Bệnh trứng cá
xuất hiện nhiều ở độ tuổi trưởng thành (13-25 tuổi) [1],[14],[17],[19].
* Giới: Đa số các tác giả đều nhận thấy nữ bị trứng cá nhiều hơn nam,
nhưng hình thái lâm sàng ở bệnh nhân nam nặng hơn so với bệnh nhân nữ.
Ngoài ra, nữ còn gặp trứng cá ở thời kỳ mãn kinh) [1],[14],[17],[19].
* Yếu tố di truyền: Người ta xác định số lượng và kích thước các tuyến
bã và các tác động hệ quả của chúng là do di truyền. Nếu gia đình có bố hoặc
mẹ hoặc cả hai bị trứng cá thì 45% con trai của họ ở độ tuổi đi học bị trứng
cá. Có 47,17 bệnh nhân TCTT có bố hoặc mẹ hoặc anh chị, em trong gia đình
bị trứng cá [12]. Bệnh trứng cá nặng thường xảy ra ở những bệnh nhân có
genotip XYY) [1],[14],[17],[19],[20],[21].
* Yếu tố thời tiết: Khí hậu nóng ẩm, hay hanh khô cũng liên quan đến
bệnh trứng cá. Ở khí hậu nóng ẩm, chính yếu tố nhiệt độ làm tăng sản xuất
chất bã dẫn đến bệnh trứng cá. Cunliffe đã chứng minh chỉ số tiết bã tỷ lệ
thuận với nhiệt độ của da: Khi nhiệt độ của da tăng lên 1
0
C thì sự bài tiết
chất bã tăng lên 10%. Trong điều kiện khí hậu hanh khô, lớp thượng bì
thường khô cứng, nứt nẻ,đây là yếu tố gây cản trở sự đào thải của chất bã,
đồng thời da bị tổn thương nứt nẻ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho vi
khuẩn phát triển [22].
* Yếu tố chủng tộc: Người da trắng bị bệnh trứng cá nhiều hơn người
da đen [1],[3],[19].
* Yếu tố nghề nghiệp: Tiếp xúc với dầu mỡ, tiếp xúc với ánh nắng

nhiều…cũng làm tăng khả năng bị bệnh [3],[19].
7
* Yếu tố stress: Những căng thẳng thần kinh, lo lắng trong cuộc sống
cũng có thể gây bệnh hoặc làm nặng bệnh. Ngoài ra thì chính bệnh trứng cá mà
bệnh nhân mắc cũng tạo nên yếu tố tâm lý căng thẳng, lo âu [3],[4], [18],[19].
* Chế độ ăn: Một số thực phẩm có thể làm tăng bệnh như sô-cô-la,
đường, bơ, chất béo nhiều, cà phê, rượu, bia [3],[18],[19].
* Thói quen sinh hoạt: ăn ngủ không điều độ, thức khuya [18],[19]
* Các bệnh nội tiết: một số bệnh nội tiết có thể có trứng cá như: Bệnh
Cushing, bệnh cường giáp trạng, bệnh buồng trứng đa nang. Những bệnh
nhân này thường có mụn trứng cá nặng và không đáp ứng với các phương
pháp điều trị thông thường [3],[18],[19].
* Thuốc: Một số loại thuốc có thể làm nặng bệnh: corticoid, isoniazid,
thuốc có chứa nhóm halogen (iod, brom), androgen (testosterone), B1, B6,
B12…, lithium, hydantoin[19].
* Một số nguyên nhân tại chỗ: Vệ sinh da mặt, chà xát, thói quen nặn
bóp, nặn bóp không đúng phương pháp, lạm dụng mỹ phẩm làm ảnh hưởng
đến bệnh trứng cá[17],[19].
1.1.2.3 Căn sinh bệnh học bệnh trứng cá thông thường
Căn nguyên cơ bản chưa được biết chính xác, tuy nhiên yếu bệnh sinh
của trứng cá đã được xác định[1]:
 Tăng tiết chất bã và vai trò của chất bã.
Người ta đã nghiên cứu tính chỉ số chất bã và xác định: Trung bình
người thường tiết ra 1,00mg chất bã/10cm
2
/3h, vùng bị trứng cá nặng
3,28mg/10cm
2
/3h, trứng cá vừa 3,00mg/10cm
2

/3h, trứng cá nhẹ 2,20mg/10cm
2
/3h
[15]. Bệnh nhân bị trứng cá sản xuất nhiều chất bã hơn người không bị trứng
cá mặc dù chất lượng chất bã thì tương tự nhau [3],[19].
8
Sự bài tiết của chất bã chịu tác động của các hormone, đặc biệt là
hormone sinh dục nam androgen trong đó Testosteron có hiệu lực chủ yếu ở da
và tuyến bã. Ở bệnh nhân trứng cá người ta thấy rằng SHBG giảm, điều đó
chứng tỏ lượng Testosteron tự do đi vào tuyến bã nhiều. Ở tuyến bã Testosteron
chuyển thành DihydroTestosteron (DHT) nhờ men 5α-Reductase. DHT kích
thích tế bào tuyến bã hoạt động mạnh và phát triển thể tích tuyến bã, kể cả các
tuyến bã không hoạt động, dẫn tới sự bài tiết chất bã tăng lên rất nhiều so với
bình thường.Nồng độ Androgen tăng cao hơn ở bệnh nhân trứng cá so với người
không bị bệnh nhưng vẫn trong giới hạn bình thường [3],[19],[20],[21].
Ngoài ra hoạt động của tuyến bã còn chịu sự tác động của một số
Hormon khác: Corticoid thượng thận làm tăng tiết chất bã.Estrogen đối kháng
trực tiếp với tác động của Testosteron, ức chế sinh dục sản Androgen bằng
con đường phản hồi âm tính giải phóng Gonadotrophin từ tuyến yên và điều
hòa gen ức chế sự phát triển tuyến bã và sản xuất lipid [19].
 Sừng hóa cổ nang lông tuyến bã:
Quá trình sừng hóa cổ nang lông tuyến bã chịu tác dụng của một số yếu
tố: hormon androgen (testosteron), thiếu hụt acid linoleic, tăng acid béo tư do
ở tuyến bã, tăng hoạt động IL-1α, vấn đề vi khuẩn, yếu tố liên quan tính chất
di truyền [3],[15],[19],[20],[21].
Trên cơ sở hoạt động của các yếu tố kích thích, quá trình sừng hóa cổ
nang lông tuyến bã với nhịp độ luân chuyển tế bào tăng, tạo ra khối sừng ở cổ
nang lông, làm hẹp đường thoát chất bã lên mặt da, thậm chí gây bít tắc hoàn
toàn. Chất bã bị ứ đọng không được bài tiết lên mặt da dễ dàng và nếu có
được đào thải cũng không hết. Kết quả tuyến bã bị giãn rộng, chứa đầy chất

bã, dẫn tới hình thành nhân trứng cá [19].
9
 Vai trò của vi khuẩn trong nang lông:
Propionibacterium acnes (P.acnes) còn gọi là Corynebacterium acnes,
một loại trực khuẩn gram (+), kị khí Thành tế bào của P.acnes chứa kháng nguyên
carbohydrate mà kháng nguyên này kích thích sự hình thành kháng thể, các kháng
thể kháng propionibacterium làm gia tăng đáp ứng viêm do tác động của bố
thể. P.acnes cũng dễ dàng gây viêm do trì hoãn đáp ứng tăng nhạy cảm và do
sản xuất các men lipase, protease, hyaluronidase, các yếu tố hóa ứng động
P.acnes cũng kích thích điều chỉnh quá mức các cytokine do kết hợp với Toll-
like receptor 2 trên các tế bào đơn nhân và các tế bào đa nhân ở quanh nang
lông tuyến bã, sau khi gắn kết với Toll-like receptor 2, sẽ gây phóng thích các
cytokine tiền viêm như IL-1, IL-8, IL-12 và TNF-α [19],[23].
 Viêm và phản ứng của hệ miễn dịch
Các sẩn, mụn mủ và cục là các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của trứng
cá viêm. Quá trình viêm gồm 3 giai đoạn. Ở giai đoạn 1, giai đoạn kích ứng,
các nhân tố gây viêm khác nhau được hoạt hóa. Ở giai đoạn 2, phản ứng viêm
và phản ứng miễn dịch tự nhiên và thu được của vật chủ, dẫn đến sự phát triển
của trứng cá viêm biểu hiện trên lâm sàng. Giai đoạn cuối diễn ra quá trình
phục hồi mô bị tổn thương gây ra bởi quá trình viêm.
Trong giai đoạn kích ứng, các nhân tố gây viêm trực tiếp hoặc gián tiếp
bao gồm: P.acnes, androgen, các hoormon khác, stress, chuỗi axit amin thần
kinh, bã nhờn sản sinh nhiều, và cytokine.
Trong giai đoạn tiếp theo, tương ứng với quá trình diễn ra phản ứng
viêm, phản ứng miễn dịch tự nhiên hay thu được của vật chủ đóng một vai trò
thiết yếu. Các kháng nguyên được nhận ra bởi các tế bào trình diện kháng
nguyên (APC), và APC sẽ chuyển giao kháng nguyên đến các tế bào điều chỉnh
hệ thống miễn dịch, kéo theo việc sinh ra phản ứng cấp tế bào và phản ứng dịch
thể. Loại đầu tiên của tế bào điều hòa miễn dịch xuất hiện quanh nang lông
10

tuyến bã trong những giai đoạn đầu của bệnh chủ yếu là tế bào bạch cầu TCD4+.
Phản ứng dịch thể có vai trò như kháng sinh kháng P.acnes có thể hay biến đổi
và không liên quan tới tình trạng nặng nhẹ của trứng cá [19],[23].
1.1.2.4. Phân loại mức độ bệnh trứng cá thông thường
Có nhiều phương pháp khác nhau phân mức độ trầm trọng của trứng cá
thông thường đã được đưa ra: khám lâm sàng và đếm tổn thương hoặc sử dụng
công nghệ phức tạp như quang học huỳnh quang, quang học phân cực ánh sáng,
kính hiển vi quang học video và định lượng mức độ sản xuất tuyến bã.
Những phương pháp phổ biến nhất hiện đang được sử dụng là:
 Hệ thống cho điểm phân độ toàn cầu (GAGS): được đưa ra bởi Doshi
và cá c cộng sự vào 1997 [19].
Nó là một trong những hệ thống được sử dụng phổ biến nhất trong
thực hành lâm sàng. Phương pháp xem xét 6 khu vực (5 khu trên mặt, một ở
phần trên của lưng/ngực). Mỗi khu vực này gắn với một thừa số nhân từ 1 đến
3: 1 điểm cho mũi, cằm; 2 điểm cho vùng trán, má trái, má phải; 3 điểm cho
vùng ngực và lưng trên.
Tổn thương trầm trọng nhất ở mỗi vùng sẽ được phân mức theo thang
điểm này: 1 nếu nhiều hơn 1 mụn trứng cá, 2 nếu nhiều hơn 1 sẩn, 3 nếu
nhiều hơn 1 mủ, 4 nếu nhiều hơn 1 cục. Nếu vùng nào không có mụn thì số
điểm là 0. Điểm này sẽ được nhân với thừa số nhân của vùng đó. Tổng điểm
của cả 6 vùng sẽ cho ta điểm GS.
Mụn được xếp loại tổng hợp trong bảng.
Nhẹ 1≤GS≤18
Trung bình 19 ≤ GS ≤ 30
Nặng 31≤ GS ≤38
Rất nặng GS ≥ 38
 Phân loại theo Karen McCoy 2008 [24]
1. Mức độ.Nhẹ <20 tổn thương không viêm, hoặc < 15 tổn thương viêm,
hoặc tổng số lượng tổn thương <30.
11

2. Mức độ Vừa: 20-100 tổn thương không viêm, hoặc 15-50 tổn thương
viêm, hoặc 30-125 tổng số lượng tổn thương.
3. Mức độ Nặng >5 nốt/cục hoặc > 100 tổn thương không viêm, hoặc
>50 tổn thương viêm, hoặc >125 tổng số lượng tổn thương
1.1.3. Điều trị bệnh trứng cá
Trong những năm gần đây, đã có nhiều tiến bộ trong điều trị, chủ yếu
là sử dụng các loại kháng sinh và retinoid dùng tại chỗ và dùng toàn thân,
đồng thời phát triển các kỹ thuật mới, các định hướng phối hợp trị liệu làm rút
ngắn chu trình điều trị và giúp cải thiện về mặt thẩm mỹ, hạn chế các tác dụng
phụ và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Để điều trị trứng cá cần phải đồng thời tấn công vào 4 mục tiêu:
giảm tiết chất bã, giảm ứ đọng chất bã, giảm sừng hóa, chống viêm và diệt
khuẩn [1].
1.1.3.1. Điều trị Tại chỗ.
Điều trị tại chỗ thường được khuyến cáo cho các trường hợp mụn từ
nhẹ đến trung bình. Các chế phẩm thường được sử dụng nhất là: kháng sinh,
retinoid, và các chất khác như benzoyl peroxide, azelaic acid, salicylic acid và
dapsone. Liệu pháp kết hợp được khuyến cáo áp dụng sớm nhất có thể để kiểm
soát đồng thời từ 2 đến 3 tác nhân sinh bệnh học [1],[3],[4],[5],[6],[19]
1.1.3.2. Điều trị Toàn thân
Điều trị toàn thân được chỉ định cho bệnh nhân bị trứng cá từ trung bình
đến nặng, điều trị tại chỗ không đem lại hiệu quả, và trong những trường hợp
trứng cá có khả năng để lại sẹo. Lựa chọn phương pháp điều trị cần dựa vào
tình trạng của bệnh, không phụ thuộc vào tuổi tác người bệnh. Những nhân tố
khác cũng nên được xem xét khi lựa chọn phương pháp điều trị toàn thân.
Thường thì phương pháp này không được khuyến cáo cho các bệnh nhân
trong thời kỳ mang thai. Nói chung, điều trị trứng cá toàn thân bao gồm việc
12
sử dụng isotretinoin, các thuốc kháng sinh và hormon hoặc sử dụng dapsone,
kẽm, hoặc metformin. Sử dụng viên kẽm đường uống là một lựa chọn an toàn

cho các bệnh nhân mang thai và với những bệnh nhân da nhạy cảm với ánh
sáng khi các phương pháp điều trị truyền thống không còn tác dụng [1],[3],
[4],[5],[6],[19].
Isotretinoin là sinh tổng hợp của retinoid (13-cis retinoic acid). Nó có tác
dụng ức chế bã nhờn hiệu quả nhất, nó vừa làm giảm kích cỡ tuyến dẫn đến
giảm mức sản xuất bã nhờn và thay đổi thành phần trong bã nhờn, ức chế sự
tăng khuẩn vi khuẩn P.acnes trong nang lông và các nhân tố gây viêm, biến
đổi cấu trúc của chất sừng trong nang lông.
Isotretinoin toàn thân nên được chỉ định điều trị cho bệnh nhân bị trứng
cá nặng, trứng cá cố thủ, trứng cá không đáp ứng điều trị thông thường, trứng
cá gây sẹo, trứng cá gây bệnh nhân quá lo lắng hoặc trứng cá ở bệnh nhân quá
tăng dầu, trứng cá nang cục/mạch lươn nghiêm trọng.
Liều lượng dùng hàng ngày được tính toán dựa trên cân nặng của bênh
nhân trong phạm vi 0.5 tới 1 mg/kg/ngày, nhưng tổng liều lượng bệnh nhân
uống trong suốt quá trình điều trị có thể là yếu tố quyết định tới kết quả lâu
dài. Để phòng ngừa tái phát, tổng liều dùng được khuyến cáo là vào khoảng
giữa 100 và 150mg/kg [19],[25].
Với những bệnh nhân bị suy thận thì ban đầu nên sử dụng liều thấp hơn,
khoảng 10mg/ngày. Uống chung với steroid khi mới bắt đầu điều trị có thể có
hiệu quả với tình trạng mụn nặng và ngăn ngừa tình trạng mụn nặng thêm [19].
Ở các bệnh nhân nữ cần phải sử dụng biện pháp tránh thai bởi vì tác
dụng gây quái thai của isotretinoin. Cần tránh thai trước điều trị 1 tháng, trong
quá trình điều trị, và 1 tháng sau khi ngừng điều trị. Ít nhất là phải sử dụng
một biện pháp, hoặc là dùng hai biện pháp tránh thai bổ trợ cho nhau. Bắt
buộc phải thử thai trước, trong quá trình điều trị (4 tuần một lần) và sau 5 tuần
sau khi kết thúc điều trị. Kê đơn isotretinoin dùng trong 30 ngày cho phụ nữ
13
trong độ tuổi sinh đẻ. Nếu tiếp tục điều trị thì phải kê một đơn mới. Mặc dù
việc điều trị sử dụng isotretinoin có thể tốn kém ban đầu, nhưng nó lại có hiệu
quả kinh tế hơn so với việc sử dụng kháng sinh trong điều trị [3],[19],[25].

Tác dụng phụ của isotretinoin là rất nhiều, thường xuất hiện và phụ
thuộc vào liều lượng sử dụng. Khoảng 90% bệnh nhân điều trị với isotretinoin
thường có các triệu chứng rối loạn chất nhờn trong cơ thể. Khô miệng, mũi,
và mắt là vấn đề thường thấy, khá hiếm các trường hợp bị khô cơ quan sinh
dục. Hơn 80% bệnh nhân bị khô môi, bong tróc da. Màng nhày và dịch nhày
của mũi ít bị ảnh hưởng hơn [8],[19],[25],[26],[27].
Cũng có thể xảy ra tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid gây ra tình trạng
tăng cholesterol huyết thanh và triglyceride. Trong quá trình điều trị có thể
xảy ra tình trạng tăng mức phosphokinase creatinine và đường glucose trong
máu, cũng như tăng nhạy cảm với ánh nắng, giả u não, dư thừa mô kết, bùng
phát mụn giả, phù gan với chức năng gan rối loạn, thay đổi cấu trúc xương,
đau nhức khớp, căng cơ, và đau đầu. Lipid trong enzyme gan và huyết thanh
cần phải được kiểm soát thường xuyên, đặc biệt trong quá trình điều trị
khoảng 4 đến 8 tuần kiểm tra một lần [8],[19],[25],[26],[27].
Không điều trị isotretinoin cho các trường hợp bị lipid máu tăng cao,
tiểu đường mellitus, và bị loãng xương nặng. Trẻ em< 12 tuổi.
Isotretinoin được cho là có liên quan tới tình trạng rối loạn tâm lý, u uất,
và các tác dụng phụ tâm lý khác, mặc dù các bằng chứng về điều này đến nay
còn đang gây tranh cãi bởi vì chỉ bản thân tình trạng bị trứng cá nặng cũng đã là
nguyên nhân gây khủng hoảng tâm lý. Các bệnh nhân nên được tư vấn, thăm
khám về tâm lý trước và trong quá trình điều trị [8],[19],[25],[26],[27].
1.1.3.3. Điều trị khác
 Điều trị ngoại khoa: Lấy bỏ nhân, chích rạch các ổ nhỏ hay mới
đây là nghiên cứu của tác giả Đặng Văn Em về hiệu quả doxycycline kết hợp
14
giải phóng mụn mủ bằng đốt điện cao tần đối với trứng cá thông thường thể
nặng và vừa [28].
 Điều trị bằng ánh sáng, laser
− Ánh sáng hữu hình quang phổ hẹp:Ánh sáng xanh bước sóng 400-
450nm, ánh sáng đỏ: bước sóng 632-660nm làm giảm P.acnes [19]

−. Ánh sáng hữu hình quang phổ rộng: IPL bước sóng 515-1200nm,
quang đông trị liệu[19]
− Laser: Laser KPT (potassium-tianyl-phosphate): có bước sóng 532nm,
PDL (pulse dye laser): laser màu xung có bước sóng 585nm hoặc 595nm,
Laser Diode có bước sóng 1450nm[19]
1.2. Bệnh trứng cá theo YHCT và các phương pháp điều trị
1.2.1. Một số nhận thức và nghiên cứu về mụn trứng cá.
Đông y đối với bệnh “ Phấn thích” được miêu tả rất nhiều, thời kỳ Tần
Hán gọi là “Tòa sang”, thời kỳ Tùy Đường gọi là “Diện bao”; “Tự diện”, thời
kỳ Minh Thanh gọi là “Phế phong phấn thích”, “Tửu thích”
Rất nhiều y văn Đông y cổ đã trình bày và miêu tả một cách rõ ràng
bệnh mụn trứng cá, sớm nhất trong Nội kinh đã nhắc tới như: “Tố Vấn. Sinh
khí thông thiên luận” nói: “Lao hãn đương phong, hàn bạc vi trà uất nãi tòa”
có nghĩa là: Khi làm việc mệt mỏi tấu lý sơ hở, mồ hôi thoát ra ngoài mà gặp
phải phong hàn tà bên ngoài xâm nhập vào, uất kết lại ở bì phu mà thành bệnh
trứng cá. Vương Băng nói: “Phấn thích trưởng ư bì trung, hình như mễ, hoặc
như kim, cửu giả thượng hắc, trường nhất phân, dư sắc bạch hoàng, nhi
trưởng ư huyền phủ trung, tục dụ phấn thích” nghĩa là: Phấn thích xuất hiện ở
dưới da hình như hạt gạo hoặc như cái kim, để lâu ngày phía trên có màu đen,
dài 1 phân, màu trắng vàng, vị trí bệnh ở tấu lý. Thời Tấn, “Trửu hậu bị cập
phương” nói rõ bệnh này phát ở mặt gọi là “Diện bao”. Thời kỳ Nam Bắc
15
triều “Lưu Quyên Tử Quỷ Di Phương” là quyển sách ngoại khoa đầu tiên, chế
cao Mộc Lan điều trị trứng cá. Thời Tùy “Chư bệnh nguyên hầu luận” miêu
tả: “Diện bao giả, vị diện thượng hữu phong nhiệt khí sinh bao, đầu như mễ
lập đại, diệc như cốc đại, bạch sắc giả thị” nghĩa là : Trên mặt có phong nhiệt
khí mà sinh ra bệnh, đầu mụn to như hạt kê hoặc to như hạt gạo. Thời Đường
có hai quyển sách mô tả về bệnh trứng cá “Thiên kim phương”,“Ngoại đài
mật yếu”. Thời Tống “Thái bình thánh huệ phương” ghi lại nhiều phương
thuốc công hiệu, tích lũy cho hậu thế rất nhiều kinh nghiệm phong phú. Thời

Minh “Ngoại khoa chính tông” cho rằng: “Phế phong, Phấn thích, Tửu tra tỵ
tam danh đồng chủng. Phấn thích thuộc phế, Tửu tra tỵ thuộc tỳ, cả đều do
huyết nhiệt uất trệ bất tán”. Và trong đó ghi lại phương thuốc Tỳ bà diệp
hoàn, Hoàng cầm thanh phế ẩm. Thời Thanh “Y tông kim giám” đề xuất:
“Thử chứng do phế kinh huyết nhiệt nhi thành, phát ư diện tỵ, khởi phát
thoái , hình như thái tiêu, xích chủng thống, phá xuất bạch phấn chấp, nhật
cửu giai thành bạch tiêu, hình như thái mễ bạch tiêu. Nội phục Tỳ bà thanh
phế ẩm, ngoại dùng Điên đảo tán ” nghĩa là: Bệnh do phế kinh huyết nhiệt mà
thành, phát ở mặt mũi, mụn màu đỏ, sưng đau, khi vỡ có dịch màu trắng chảy ra,
lành có thể thành sẹo…, bên trong uống bài “Tỳ bà thanh phế ẩm”, bên ngoài
dùng “Điên đảo tán”có thể phát huy tác dụng. Thời Thanh “Thang y đại toàn”.
Chỉ ra “Thư sinh kiều nữ các đa thử bệnh” có nghĩa là: Bệnh gặp nhiều ở nam nữ
thanh niên. Tất cả những lý luận và miêu tả trên cung cấp cho chúng ta căn cứ để
biện chứng luận trị. Đặc biệt thời Thanh “Y tông kim giám” ghi rõ uống “Tỳ bà
thanh phế ẩm” và bôi ngoài “Điên đảo tán” cho đến nay vẫn dùng rất nhiều cho
hiệu quả lâm sàng tốt [29],[30].
1.2.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh.
Theo y văn Đông y cổ: “Tố Vấn. Sinh khí thông thiên luận” nói: “Lao
hãn đương phong, hàn bạc vi tra, uất nãi tòa”. “Khủy hậu bị cập phương” viết:
16
“Niên thiếu khi khí xung, diện sinh bao sang” nghĩa là: Thanh niên dương khí
thịnh dễ sinh bệnh phấn thích. “Chư bệnh nguyên hầu luận”: “Tự diện giả,
vân diện bì thượng hữu tra như mễ lập giả. Thử do phu tấu thụ ư phong tà bác
ư tân dịch, tân dịch chi khí. Nhân hư tác chi giả” nghĩa là: Bệnh này trên mặt
mọc những hạt giống hạt gạo, do tấu lý bị phong tà, phong tà kết hợp với tân
dịch mà thành bệnh. Kèm theo cơ thể chính khí không đủ. Thời Tống “Thánh
tế tổng lục” có ghi các bệnh cơ là: “Tà nhập cơ hư”. “Nhân hư dĩ tác” nghĩa
là: Khi chính khí không đủ tà khí thừa cơ xâm nhập. Thời Minh “Ngoại khoa
khởi huyền” cho rằng nguyên nhân gây bệnh là: “Cảm thụ thấp nhiệt”. “Ngoại
khoa chính tông” cho rằng: “Tổng giai xuất huyết nhiệt uất chế bất tán”. “Y

tông kim giám” cho rằng: “Thử chứng do phế kinh huyết nhiệt nhi thành”
[29],[30],[31],[32],[33].
Mặc dù cổ nhân đã ghi rõ nguyên nhân và cơ chế bệnh một cách đầy đủ
nhưng do bị hạn chế của xã hội nên mỗi nhà y một quan điểm dẫn đến thiếu
tính hệ thống duy nhất. Theo sự phát triển của xã hội thì con người càng để ý
nhiều hơn đến mụn trứng cá. Cho nên, y học đông y hiện đại miêu tả nguyên
nhân, cơ chế bệnh, chẩn đoán, điều trị ngày một hoàn thiện. Ngày nay căn
sinh bênh học Phế phong phấn thích được xác định liên quan đến yếu tố chinh
bao gồm: Đàm, Thấp, Nhiệt và liên quan nhiều đến phủ tạng: Phế -Đại
trường, Tỳ- Vị [34].
Phế kinh huyết nhiệt là nguyên nhân chủ yếu gây ra mụn trứng cá vì
phế chủ bì mao có công năng tuyên phát bài xuất độc tà ra ngoài bằng đường
phế vệ. Khi phong nhiệt kết tụ ở phế được đưa đến bì phu mà không được bài
xuất ra ngoài, lưu trú lâu ngày hình thành những mụn nhân là chứng phong
nhiệt, nếu có viêm nhiễm nóng đỏ là có nhiệt, có mủ là thấp nhiệt, tổn thương
lâu ngày thành nang cục là có đàm ngưng huyết ứ.
Vậy nhiệt uất kết ở phế kinh ở đau mà thành?
Do phong nhiệt uất ở phế kinh mà gây nên.
17
Do người bệnh thuộc tuổi thanh xuân, dương khí thịnh, tăng thải nhiệt,
tổn hao tân dịch, bì phu khô táo không nhu nhuận, hình thành mụn trứng cá.
Do ăn uống nhiều dầu mỡ, cay nóng quá nhiều sinh thấp nhiệt, nhiệt theo
bốc lên tới mặt, lưng, ngực, cơ da mà thành bênh. Hoặc tỳ mất kiện vận thủy thấp
đình lại, lâu thì hóa đàm thấp uất hóa nhiệt, thấp nhiệt hiệp đàm ứ lại ở da.
Ngoài ra phế và Đại trường biểu lý với nhau, phế nhiệt làm cho đại trường
cũng nhiệt theo. Táo bón lại làm cho tà không có đường thoát ra ngoài, nhiệt tà
uất tích bên trong lại làm tăng phế nhiệt, bệnh do đó mà dai dẳng khó dứt.
Bệnh lâu nhiệt tà thiêu đốt huyết dịch, huyết bị tắc nghẽn hình thành
huyết ứ. Thấp tà u uất lâu hóa nhiệt, hóa đàm. Đàm với huyết ứ kết lại với
nhau làm tổn thương da mặt ngày càng nhiều, càng nặng [12],[34].

1.2.3. Các thể lâm sàng và phương pháp dùng thuốc uống trong
Chẩn đoán thể bệnh trứng cá theo YHCT dựa trên tứ chẩn, bát cương,
trong đó chú trọng vọng chẩn, dựa vào đặc điểm tổn thương tại chỗ để chẩn
đoán là chính [11].
Theo giáo trình của Bệnh học ngoài da Trung Y, bệnh trứng cá được
phân làm ba thể: Thể phế kinh phong nhiệt, Thể thấp nhiệt uẩn kết, Huyết ứ
đàm ngưng[12].
 Thể phế kinh phong nhiệt:
- Chủ chứng: Đa số mụn nhân không viêm, đôi khi có sẩn đỏ chưa có
mủ có thể kèm theo ngứa, đau; lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng, mạch phù sác
- Điều trị:Thanh nhiệt tả hỏa, giải độc táo thấp.
- Phương dược: "Tỳ bà thanh phế ẩm "
 Thấp nhiệt uân kết.
18
- Chủ chứng: Chủ yếu là tổn thương viêm sưng nề, đau (Sẩn đỏ, mụn
mủ), miệng hôi, đại tiện táo, tiểu vàng; lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt, mạch hoạt sác,
bì phu trơn nhày.
- Pháp: Thanh nhiệt, hoá thấp, thông phủ;
- Phương: “Tam hoàng hoàn” hợp “Nhân trần cao thang ”gia giảm [32].
 Thể huyết ứ đàm ngưng:
- Chủ chứng: Tổn thương chủ yếu dưới dạng cục, nang, kèm theo
có thể có mụn sẩn, mụn mủ, sẹo ; lưỡi đỏ sẫm có điểm ứ huyết
(tím), rêu vàng mỏng, mạch hoạt.
- Pháp: Hoạt huyết hoá ứ, hoá đàm tán kết.
- Phương: “Tứ vật đào hồng thang” hợp “Nhị trần thang” gia giảm [32].
1.2.4. Điều trị bệnh trứng cá thông thường băng phương pháp khác
 Phương pháp xông thuốc YHCT: Cùng với các phương pháp chữa
bệnh khác của YHCT, phương pháp xông đã chứng minh được hiệu
quả chữa bệnh qua lịch sử lâu dài của nền Y học cổ truyền. Phương
pháp kết hợp được tác dụng chữa bệnh của dược liệu cùng với sức

nóng của nhiệt mà tạo nên hiệu quả chữa bệnh [9].
 Thuốc đắp mặt nạ “Bách hợp bảo kiện diện màng” [35]
 Thuốc bôi “ Điên đảo tán” [29]
 Châm cứu, thủy châm, nhĩ châm [36],[37],[38].
1.2.5. Chế độ vệ sinh, điều dưỡng
- Giữ mặt sạch, tránh thói quen bót nặn mụn [19].
- Tránh ánh nắng, sinh hoạt điều độ, hạn chế đường, mỡ, các chất cay
nóng, các chất kích thích, tránh bi quan lo lắng thái quá về bệnh.
- Chú ý chống táo bón, uống nhiều nước, ăn nhiều rau xanh, hoa quả.
1.3. Tình hình nghiên cứu bệnh trứng cá thông thường bằng Y học cổ truyền
19
1.3.1. Thế giới
Trong những năm trở lại đây, trên lâm sàng có rất nhiều y bác sĩ sử dụng
phương pháp cổ truyền để điều trị mụn trứng cá và có hiệu quả như ý muốn.
Dưới đây là một số nghiên cứu mụn trứng cá có trong một số năm gần đây:
- Tôn Pháp Nguyên, “Vận dụng lâm sàng bài thuốc Tỳ bà thanh phế ẩm
trong điều trị mụn trứng cá thông thường” gia giảm: Vùng mũi nhiều mụn: Lô
căn, Chi Tử, Thiên hoa phấn. Mặt nhiều mụn: Kim ngân hoa, Liên Kiều. Nếu
đầu nhiều: Hoàng cầm, Trư linh, Phục linh, Trạch tả, Đương Quy Tạp chí Da
liễu Y học cổ truyền Trung Quốc 2010, tr 32. Hiệu quả 100% [39].
- “Thanh giải tiêu tòa sang” để điều trị 80 người bệnh: Thổ phục linh, Dã
cúc hoa, Hổ trượng, Tang bạch bì, Hoàng liên, Hoàng cầm, Xích thược, Đơn
bì, Sinh cam thảo, Bạch hoa xà.
+ Nếu mụn cứng, đỏ, thêm Tạo giác thích
+ Nếu ngứa: thêm Khổ sâm, Tử thảo căn, Phù bình
+ Nếu táo bón: thêm Hổ trượng hoặc Sinh đại hoàng
+ Nếu miệng hôi: thêm Thạch cao
+ Nếu tiểu tiện đỏ vàng: Bạch mao căn, xa tiền thảo
Hiệu quả 90% [40]
- Có tác giả dùng “Bối giáp thang” trị 88 bệnh nhân gồm có: Triết bối

mẫu 20g, Liên kiều 20g, Đan sâm 20g, Hạ khô thảo 20g, Xuyên sơn giáp 10g,
Thổ phục linh 30g, Ý dĩ 30g, Bạch hoa xà 30g, Cúc hoa 30g, Sinh mẫu lệ
30g.
+ Nếu táo bón thêm Đại hoàng
+ Nếu huyết nhiệt thêm Mẫu đơn bì, Hòe hoa
Hiệu quả 90,91%[41]
- Có tác giả dùng tự chế “Tòa sang tiêu xung tễ”: Đan sâm 15g, Dã cúc
hoa 15g, Tử thảo 10g, Đan bì 10g, Xích thược 10g, Khổ sâm 10g, Liên kiều
10g, Hạ khô thảo 10g, Tỳ bà diệp 10g, phù bình 10g. Trị 200 bệnh nhân mà
hiệu quả đến 97% [42].
Thuốc dùng ngoài:
- Thuốc rửa:
+ Có tác giả dùng “Mỹ dung thang”: Kim ngân hoa, Cát cánh, Hoàng
cầm, Mẫu đơn bì, hiệu quả 95% [43].
20
+ Có tác giả dùng: thuốc rửa có thành phần: Đại hoàng, Mang tiêu, Xích
thược, Hồng hoa. Nếu có viêm nhiễm thêm Bồ công anh, Tử địa đinh. Nếu có thấp
nhiệt thêm Khổ sâm, Thương truật, Thổ phục linh, Hoàng bá. Hiệu quả 98% [39].
- Thuốc đắp mặt nạ:
+ Có tác giả dùng “bách hợp bảo kiện diện mạc”: Bách hợp, Khổ sâm,
Hòe hoa, Phòng phong, Thảo hà xa. Hiệu quả 99,82% [35].
+ Có tác giả dùng trung dược diện mạc: Đại hoàng, Lưu hoàng, Hoàng bá,
Từ thảo, Thủy điệt, Bạch chỉ, Đởm nam tinh. Hiệu quả 91,6% [44].
- Thuốc xông mặt:
+ Có tác giả dùng “Tạo kết chiên tễ” gồm: Tạo giác thích, Kim ngân hoa,
Liên kiều, Bạch chỉ, Hạ khô thảo, Sinh địa, Đại hoàng, Đương quy, xuyên
khung, Hồng hoa, Tam năng. Hiệu quả 100% [44]
- Phương pháp châm cứu [36],[37],[38]:
+ Có tác giả dùng vây châm, châm những huyệt như Hạ quan, Đại
nghinh, Giáp xa, Nội đình, hiệu quả 87,5%.

- Hỏa châm: Dùng Đại chùy, Phế du, Cách du, Vị du, Đại trường du. Dùng
Kim tam lăng đốt trên lửa cồn sau đó châm thật nhanh vào huyệt hiệu quả 98%.
- Nhĩ châm:
+ Dùng huyệt Phế, Thận, Giao cảm, Nội tiết nhể tiêm, châm, chích ra
máu. Rồi dùng hạt vương bất lưu hành dán ở Phế, Tâm, Vị, Nội tiết, Mặt, hai
tay thay đổi.
+ Có tác giả dùng huyệt Phế, Nội tiết, Thần môn, Giao cảm, hiệu quả 98.3%.
- Kết hợp trị liệu: Trung dược uống kết hợp với ngoại trị.
+ Có tác giả dùng “Tỳ bà thanh phế ẩm”: Tỳ bà diệp 10g, Tang bạch bì
10g, Hoàng cầm 10g, Sơn chi 10g, Trạch tả 10g, Xuyên khung 10g, Bồ công
anh 30g, Bán chi liên 5g, Hoàng liên 5g, Sinh cam thảo 5g. Ngoài dùng: xoa
bóp, rồi dùng Thạch cao đắp mặt, hiệu quả 91.9%[45].
- Châm cứu kết hợp với Trung dược [45],[46],[47],[48],[49],[50],[51],[52]:
21
+ Có tác giả chích huyệt giác hơi sau đó dùng thuốc để uống: Khổ sâm
30g, Tử thảo 30g, Thổ phục linh 30g, Ý dĩ 30g, Kén tằm 10g, Xác ve sầu 10g,
Thương truật chế 10g, Xuyên ngưu tất 10g, Cam thảo 6g. Hiệu quả 96.3%.
+ Có tác giả dùng huyệt Thần đình, Địa thương, Giáp xa, Nghinh hương,
Thừa tương, Tứ bạch, Cự liêu, Đại nghinh. Kết hợp trung dược đắp mặt: Hoàng
liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Phục linh, Mẫu lệ nung. Hiệu quả 100%.
+ Có tác giả lại dùng: Ngư tinh thảo tinh chất tiêm vào hai huyệt Khúc trì,
bên trong thì uống Tam nhân thang: Hạnh nhân 10g, Hậu phác 10g, Trúc diệp
10g, Bội lan 10g, Bồ công anh 10g, Hoàng cầm 10g, Bạch đậu nhân 8g, Ý dĩ 8g,
Hoạt thạch 15g, Nhân trần 15g, Bán hạ 12g, Cam thảo 8g, hiệu quả 87.5%.
- Mặt nạ Trung dược kết hợp với các phương pháp trị liệu khác:
+ Có tác giả dùng Trung dược đắp mặt: Bối mẫu 10g, Bạch chỉ 10g, Lưu
hoàng 10g, Kim ngân hoa 30g, Đan sâm 30g, Ý dĩ 50g rồi dùng thuốc uống:
Hoàng cầm, Huyền sâm, Đan sâm, Sơn tra, Tử hoa địa đinh, Liên kiều, Bạch
hoa xà, Hạ khô thảo, Đào nhân, Xích thược. Hiệu quả 100%.
+ Có tác giả dùng huyệt ở tai và gián thuốc Trung dược lên huyệt ở tai:

Phế, Vị, Thần môn, Nội tiết, Mặt. Trung dược: Hoàng cầm 100g, Cúc hoa
100g, Trạch tả 100g, Hoàng bá 100g, Bạch cập 100g, Thiên hoa phấn 100g,
Đại hoàng 100g, Bạch chỉ 50g, Băng phiến 3g, Bạc hà 30g. Hiệu quả 97%.
1.3.2. Việt Nam
Tại Việt Nam, tìm hiểu các khía cạnh khác nhau về bệnh trứng cá cũng
như được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.Cụ thể:
Nguyễn Thị Minh Hồng -2008 nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và đánh
giá hiệu quả điều trị bệnh trứng cá thông thường bằng vitamin A acid tại viên
Da liễu Quốc gia[8]. Đặng văn Em-2010 “Kết quả điều trị bệnh trứng cá mức
độ vừa và nặng bằng Acnotin’’, tài liệu chuyên đề khoa học Hà Nội [53].
22
Phạm Văn Hiển-2002 “Nhận thức về trứng cá thông thường”, Hội thảo khoa
học chuyên đề trứng cá tại thành phố Hồ Chí Minh [54]. Nguyễn Thị Thanh
Nhàn-1999 “Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến sự phát sinh bệnh
trứng cá thông thường” [18]. Nguyễn Hữu Sáu-2010 “Cập nhật điều trị bệnh
trứng cá”, tạp chí thông tin y dược,số 7[4]. Trần Hậu Khang-2011 “Phác đồ điều
trị bệnh trứng cá”, tạp chí Da liễu học Việt Nam số 4, 6/2011[5]. Nguyễn Tất
Thắng-2012 “Tổng quan về điều trị mụn trứng cá”, tạp chí Da liễu học Việt
Nam, số 8 (11/2012) [6].
Đặc biệt, nghiên cứu ứng dụng YHCT điều trị bệnh trứng cá thông
thường chưa nhiều nhưng cũng đã có Trần Thái Hà- 2001 đánh giá tác dụng
điều trị bệnh trứng cá thông thường của Kem con ong, cho kết quả tốt 6,67%,
khá 53,5; riêng với tổn thương nhân cho kết quả tốt 11,54% [10]. Nghiên cứu
của Nguyễn Văn Thường và Nguyễn Minh Long-2010 về hiệu quả điều trị
bệnh trứng cá thông thường bằng kem bôi kem Lô hội AL-04 cho kết quả tốt
và khá chiếm 41,4%.[50]. Đào Thị Minh Châu-2011 “Đánh giá tính kích ứng
da trên thực nghiệm và hiệu quả điều trị của thuốc xông TC1 trên bệnh nhân
trứng cá thông thường” có tỷ lệ đạt kết quả tốt là 20%, khá là 43,3%[9]. Hiện
có thêm chế phẩm Viêm ngừa mụn Hoa Linh, sản phẩm hỗ trợ điều trị trứng
cá của công ty Dược phẩm Nata - Hoa Linh. Trên thực tế lâm sàng YHCT có

nhiều bài thuốc hay, nhiều phương pháp điều trị có hiệu quả bệnh trứng cá
thông thường nhưng chưa được nghiên cứu, thống kê đầy đủ. Bởi vậy, các
nghiên cứu ứng dụng YHCT điều trị, điều trị hỗ trợ bệnh trứng cá cần được
quan tâm, thực hiện nhiều hơn.
1.4. Tổng quan về bài thuốc “Tỳ bà thanh phế ẩm”
Nguồn gốc, xuất sứ.
23
Bài thuốc “Tỳ bà thanh phế ẩm” là bài thuốc cổ phương có nguồn gốc từ “Y
tông kim giám. Ngoại khoa tâm pháp yếu khuyết [29] đã được ứng dụng điều trị
bệnh trứng cá qua nhiều thế hệ cổ xưa cũng như ứng dụng điều trị trứng cá tại
Khoa da liễu Bệnh viện YHCT TW thu được hiệu quả cao và an toàn.
1.4.1.Thành phần dược liệu bài thuốc
Thành phần-Liều lượng dược liệu cho mỗi thang thuốc sắc [29]
Tỳ bà diệp 12g Hoàng liên 08g
Tang bạch bì 12g Hoàng bá 12g
Nhân sâm 12 g Cam thảo 06g
1.4.1.1. Tỳ bà diệp (Folium eriobotryac) [55],[56].
- Còn có tên gọi là cây nhót tây, nhót nhật, phì phà (Cao Bằng)
- Bộ phận dùng: Lá
- Thành phần hóa học: Saponin, Vitamin B, acid ursolic C
20
H
48
O
3
, acid
oleanic và caryophylin.
- Tính vị quy kinh: vị đắng, tính bình, vào hai kinh phế và vị.
- Công dụng theo YHCT: Thanh phế, hòa vị, giáng phế hóa đờm.
- Liều dùng: Ngày uống 6-12g dạng thuốc sắc, có thể dùng tới 15-20g.

1.4.1.2. Tang bạch bì (Cortex Mori radicis [55],[56].
- Tên khoa học:
- Bộ phận dùng: Vỏ rễ cây dâu.
- Tác dụng dược lý: Trong vỏ rễ dâu có những hợp chất flavon bao gồm
mulberrin (độ chảy 153-6
0
C), mullberrochromen (độ chảy 232-5
0
C),
xyclomulberrin (độ chảy 231-2
0
C) và xyclomulberrochromen (độ chảy 233-4
0
C).Vỏ rễ cây dâu có axit hữu cơ, tanin, pectin và beta amyrin, rất ít tinh dầu.
- Tính vị quy kinh: Vị ngọt, tính hàn, vào kinh phế.
- Công dụng: Tả phế hành thủy, chỉ thấu bình xuyễn, dùng chữa phế
nhiệt sinh ho, ho ra máu, thủy thũng, bụng trướng. Những người phế hư
nhưng không hỏa và ho hàn thì không dùng được.
24
- Liều dùng: 6-18 g dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
1.4.1.3 Hoàng liên (Rhizoma Coptidis. [55],[56].
- Bộ phận dùng: Rễ
- Thành phần hóa học: Hoàng liên có chừng 7% ancaloid toàn phần trong đó
chủ yếu là chất Becberin C
20
H
19
NO
5
. Ngoài ra còn có thành phần chất

panmatin C
21
H
23
NO
5
, owrenin C
21
H
15
NO
4
, columbamin C
20
H
20
NO
4
(OH).
- Tác dụng dược lý:
Tác dụng chống vi trùng: D.V. Lebedev đã thí nghiệm và chứng minh
Hoàng liên có tác dụng đối với trùng Staphyloccus aureus với vi
Staphylocccus hemolytique, trực trùng ho gà, thương hàn, phó thương hàn, lỵ,
lao, vv…Áp dụng trên lâm sàng, tác dụng của hoàng liên so với Streptomyxin
và cloromyxetin thì mạnh hơn nhưng dùng lâu có thể dẫn đến hiện tượng
quen thuốc, nhưng kháng Hoàng liên thì không kháng Streptomyxin và
cloromyxetin hoặc ngược lại.
Đối với tiêu hóa: Chất Becberin tăng tạm thời trương lực (tonus) và sự
co bóp của ruột. Hoàng liên có tác dụng giúp sự tiêu hóa, chữa viêm dạ dày và
ruột, chữa lỵ.

Độ độc: Becberin ít độc: 0.1g cho 1kg cơ thể.Bài tiết rất mau, một phần
qua nước tiểu, một phần phá hủy trong cơ thể.
Đối với hô hấp: Liều nhỏ kích thích sự hô hấp, liều cao làm cho hô hấp
kém có thể dẫn tới ngạt do làm tê liệt trung tâm hô hấp, tim vẫn tiếp tục đập.
Đối với tim và tuần hoàn: Tác dụng giảm huyết áp và xỉu đối với hệ
tim mạch.
-Tính vị quy kinh: Vị đắng tính hàn vào 5 kinh tâm, can, đởm, vị và đại trường.
-Công dụng và liều dùng: Tác dụng tả hỏa, táo thấp, giải độc.
25
-Chữa sốt, tả lỵ, tâm phiền, nôn ra máu, tiêu khát, đau mắt đỏ, loét miệng,
ngộ độc do ba đậu, khinh phấn. Bệnh nhân huyết ít, khí hư, tỳ vị hư nhược, trẻ con
lên đậu, đi tả cấm dùng.
-Tán bột chế thành thuốc viên 0.5g
1.4.1.4. Hoàng bá (Phellodendron amurense Rupr) [55],[56]
- Bộ phận dùng: Vỏ thân cạo sạch vỏ ngoài.
- Thành phần hóa học: Trong hoàng bá có chừng 1.6% becberin
C
20
H
19
O
5
N, một ít panmatin C
21
H
23
O
5
N.
Ngoài ra Hoàng bá còn những chất có tinh thể, không chứa nitơ như

okakunon C
26
H
30
O
7
và okakunon C
26
H
30
O
8
, chất béo, hợp chất sterolic.
-Tác dụng dược lý: Nhiều thí nghiệm chứng minh tác dụng kháng sinh
của Hoàng bá, dịch chiết bằng cồn ức chế các vi trùng Staphyllococ, lỵ, thổ
tả, Salmonella.
- Tính vị quy kinh: vị đắng tính lạnh, không độc.
- Tác dụng: Tả tướng hỏa, thanh thấp nhiệt hạ tiêu.
-Dùng làm thuốc kiện vị, ngoại khoa chữa mắt và bệnh ngoài da, còn
dùng chữa hoàng đản, trĩ, hậu môn, phụ nữ bị xích bạch đới.
Còn dùng rửa mặt, thay Hoàng liên chế becberin, chữa mụn nhọt, vết thương.
-Liều dùng: 5-10g dưới dạng thuốc sắc hoặc bột.
Chú ý: trong dân gian thường dùng vỏ cây núc nác với tên Hoàng bá hay
nam Hoàng bá.
1.4.1.5 Nhân Sâm ( Panax Ginseng) [55],[56].
- Bộ phận dùng: Rễ, củ
- Thành phần hóa học: Có sponin, chất đường, chất béo.

×