Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

khảo sát thực trạng chất lượng 8 vị thuốc bổ thường dùng tại các cơ sở khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÉ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
***
ĐINH QUANG HUY
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG
8 VỊ THUỐC BỔ THƯỜNG DÙNG TẠI 3
BỆNH VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN Ở HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ Y KHOA
Khóa 2005 - 2011

HÀ NỘI- 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÉ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
***
ĐINH QUANG HUY
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG
8 VỊ THUỐC BỔ THƯỜNG DÙNG TẠI MỘT 3
BỆNH VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN Ở HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ Y KHOA
Khóa 2005 - 2011
Chuyên ngành: Y học cổ truyền
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
THS.BS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG

HÀ NỘI- 2011
lời cảm ơn
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân
thành tới:
Ban giám hiệu, phòng đào tạo đại học, khoa Y học cổ truyền Trường


Đại học Y Hà Nội, đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học
tập nghiên cứu để em hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
ThS.BS. Nguyễn Thị Kim Dung, người thầy đã tận tình giúp đỡ, trực
tiếp hướng dẫn em em thực hiện đề tài này.
PGS.TS. Hoàng Minh Chung, người đã luôn dìu dắt, động viên, giúp
đỡ và đóng góp những ý kiến hết sức quý báu cho em trong suốt quá trình
thực hiện đề tài.
PGS.TS. Đỗ Thị Phương, trưởng khoa Y học cổ truyền, TS. Nguyễn
Thị Thu Hà, giáo vụ đại học, cùng toàn thể các thầy, cô trong khoa Y học cổ
truyền trường Đại học Y Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, tạo điều kiện thuận
lợi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại khoa.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô, các nhân viên tại Trường Đại
học Dược Hà Nội và Viện kiểm nghiệm đã cung cấp cho em những số liệu
quý giá để em thực hiện đề tài.
Em còng xin bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô
trong hội đồng chấm khóa luận đã góp ý nhiều ý kiến quý báu để em hoàn
thành khóa luận này.
Cuối cùng em xin được bày tỏ lòng biết ơn vô cùng tới bố mẹ, anh chị
trong gia đình và bạn bè đã động viên tinh thần và giúp đỡ em rất nhiều trong
quá trình học tập, và nghiên cứu để em hoàn thành tốt luận văn này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2011
Sinh viên: Đinh Quang Huy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong khóa luận là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2011
Người cam đoan

Đinh Quang Huy
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSKCB : Cơ sở khám chữa bệnh
CSSK : Chăm sóc sức khỏe
DĐVN : Dược điển Việt Nam
DHCT : Dược học cổ truyền
MNC : Mẫu nghiên cứu
PƯHH : Phản ứng hóa học
SKLM : Sắc ký lớp mỏng
TCT : Thuốc cổ truyền
YDHCT : Y dược học cổ truyền
YHCT : Y học cổ truyền
YHHĐ : Y học hiện đại
MỤC LỤC
l i c m nờ ả ơ 2
V i lòng kính tr ng v bi t n sâu s c, em xin b y t lòng c m n chânớ ọ à ế ơ ắ à ỏ ả ơ
th nh t i:à ớ 2
Ban giám hi u, phòng o t o i h c, khoa Y h c c truy n Tr ng iệ đà ạ đạ ọ ọ ổ ề ườ Đạ
h c Y H N i, ã t o i u ki n thu n l i cho em trong su t quá trìnhọ à ộ đ ạ đề ệ ậ ợ ố
h c t p nghiên c u em ho n th nh lu n v n n y.ọ ậ ứ để à à ậ ă à 3
c bi t em xin b y t lòng bi t n sâu s c t i:Đặ ệ à ỏ ế ơ ắ ớ 3
ThS.BS. Nguy n Th Kim Dung, ng i th y ã t n tình giúp , tr cễ ị ườ ầ đ ậ đỡ ự
ti p h ng d n em em th c hi n t i n y.ế ướ ẫ ự ệ đề à à 3
PGS.TS. Ho ng Minh Chung, ng i ã luôn dìu d t, ng viên, giúp à ườ đ ắ độ đỡ
v óng góp nh ng ý ki n h t s c quý báu cho em trong su t quá trìnhàđ ữ ế ế ứ ố
th c hi n t i.ự ệ đề à 3
PGS.TS. Th Ph ng, tr ng khoa Y h c c truy n, TS. Nguy n ThĐỗ ị ươ ưở ọ ổ ề ễ ị
Thu H , giáo v i h c, cùng to n th các th y, cô trong khoa Y h c cà ụđạ ọ à ể ầ ọ ổ
truy n tr ng i h c Y H N i ã nhi t tình gi ng d y, t o i u ki nề ườ Đạ ọ à ộ đ ệ ả ạ ạ đề ệ
thu n l i trong su t quá trình h c t p v nghiên c u t i khoa.ậ ợ ố ọ ậ à ứ ạ 3

Em xin chân th nh c m n các th y, cô, các nhân viên t i Tr ng i h cà ả ơ ầ ạ ườ Đạ ọ
D c H N i v Vi n ki m nghi m ã cung c p cho em nh ng s li uượ à ộ à ệ ể ệ đ ấ ữ ố ệ
quý giá em th c hi n t i.để ự ệ đề à 3
Em còng xin b y t lòng kính tr ng v c m n sâu s c t i các th y côà ỏ ọ à ả ơ ắ ớ ầ
trong h i ng ch m khóa lu n ã góp ý nhi u ý ki n quý báu emộ đồ ấ ậ đ ề ế để
ho n th nh khóa lu n n y.à à ậ à 3
Cu i cùng em xin c b y t lòng bi t n vô cùng t i b m , anh chố đượ à ỏ ế ơ ớ ố ẹ ị
trong gia ình v b n bè ã ng viên tinh th n v giúp em r t nhi uđ à ạ đ độ ầ à đỡ ấ ề
trong quá trình h c t p, v nghiên c u em ho n th nh t t lu n v nọ ậ à ứ để à à ố ậ ă
n y.à 3
H N i, ng y 25 tháng 5 n m 2011à ộ à ă 3
Sinh viên: inh Quang HuyĐ 3
H N i, ng y 25 tháng 5 n m 2011à ộ à ă 4
Ng i cam oanườ đ 4
inh Quang HuyĐ 4
C C CH VI T T TÁ Ữ Ế Ắ 5
t v n Đặ ấ đề 1
T NG QUANổ 3
i t ng v ph ng pháp nghiên c uĐố ượ à ươ ứ 19
K t qu nghiên c uế ả ứ 27
B n lu nà ậ 46
K t lu nế ậ 55
Ki n nghế ị 56
DANH MỤC BẢNG
B ng 2.1: Danh m c d c li u nghiên c uả ụ ượ ệ ứ 20
B ng 3.1: c i m v thu c B ch th c:ả Đặ để ị ố ạ ượ 27
B ng 3.2: c i m v thu c Cam th o:ả Đặ để ị ố ả 28
B ng 3.3: c i m v thu c Câu k t :ả Đặ để ị ố ỷ ử 29
B ng 3.4: c i m v thu c ng sâm:ả Đặ để ị ố Đả 30
B ng 3.5: c i m v thu c ng quy:ả Đặ để ị ố Đươ 31

B ng 3.6: c i m v thu c H th ô :ả Đặ để ị ố à ủ đỏ 32
B ng 3.7: c i m v thu c Ho i s n:ả Đặ để ị ố à ơ 32
B ng 3.8: c i m v thu c Ho ng k :ả Đặ để ị ố à ỳ 33
B ng 3.9: K t qu nh tính b ng ph n ng hóa h c:ả ế ảđị ằ ả ứ ọ 34
B ng 3.10: K t qu nh tính b ng s c ký l p m ng:ả ế ảđị ằ ắ ớ ỏ 35
B ng 3.11: K t qu o h m Èm:ả ế ảđ à 36
B ng 3.12: K t qu nh l ng tro to n ph n:ả ế ảđị ượ à ầ 37
B ng 3.13: K t qu h m l ng t p ch t:ả ế ả à ượ ạ ấ 37
B ng 3.14: K t qu h m l ng ch t chi t c trong d c li u:ả ế ả à ượ ấ ế đượ ượ ệ 38
B ng 3.15: H m l ng kim lo i n ng trong các m u B ch th c:ả à ượ ạ ặ ẫ ạ ượ 38
B ng 3.16: K t qu nh l ng h m l ng c n ch a Acid glycyrrhizicả ế ả đị ượ à ượ ắ ứ
trong Cam th o:ả 39
B ng 3.17: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c B ch th c:ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố ạ ượ 40
B ng 3.18: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c Cam th o:ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố ả 40
B ng 3.19: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c Câu k t :ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố ỷ ử 41
B ng 3.20: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c ng sâm:ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố Đả 41
B ng 3.21: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c ng quy:ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố Đươ 42
B ng 3.22: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c H th ô :ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố à ủ đỏ 42
B ng 3.23: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c Ho i s n:ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố à ơ 43
B ng 3.24: T ng h p k t qu ki m nghi m c a v thu c Ho ng k :ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ị ố à ỳ 43
B ng 3.25: T ng h p k t qu ki m nghi m c a c s :ả ổ ợ ế ả ể ệ ủ ơ ở 44
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 3.1: Hình nh v thu c B ch th c t i các c s nghiên c u.ả ị ố ạ ượ ạ ơ ở ứ 27
Hình 3.2: Hình nh v thu c Cam th o t i các c s nghiên c u.ả ị ố ả ạ ơ ở ứ 28
Hình 3.3: Hình nh Câu k t t i các c s nghiên c u.ả ỷ ử ạ ơ ở ứ 29
Hình 3.4: Hình nh ng sâm t i các c s nghiên c u.ả Đả ạ ơ ở ứ 30
Hình 3.5: Hình nh ng quy t i các c s nghiên c u.ả Đươ ạ ơ ở ứ 31
Hình 3.6: Hình nh H th ô t i các c s nghiên c u.ả à ủ đỏ ạ ơ ở ứ 32
Hình 3.7: Hình nh Ho i s n t i các c s nghiên c u.ả à ơ ạ ơ ở ứ 33
Hình 3.8: Hình nh Ho ng k t i các c s nghiên c u.ả à ỳ ạ ơ ở ứ 34

52
52
Hình 4.1: Hình nh v thu c Ho ng k l y m u t i Trung Qu cả ị ố à ỳ ấ ẫ ạ ố 52
Hình 4.2: Hình nh v thu c ng sâm l y m u t i Trung Qu cả ị ố Đả ấ ẫ ạ ố 52
Hình 4.3: Hình nh v thu c ng quy l y m u t i Trung Qu cả ị ố Đươ ấ ẫ ạ ố 52
Hình 4.4: Hình nh v thu c H th ô l y m u t i Trung Qu cả ị ố à ủ ấ ẫ ạ ố 52
1
Đặt vấn đề
Nền Y học cổ truyền (YHCT) của nước ta có một lịch sử phát triển lâu dài
và phong phú. Từ xưa, ông cha ta đã biết sử dụng nguồn dược liệu quý giá
của đất nước để phòng bệnh và chữa bệnh. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, từ
những kinh nghiệm do nhu cầu thực tiễn, số lượng các cây con được đưa vào
làm thuốc ngày càng gia tăng.
Hiện nay, thuốc cổ truyền (TCT) ngày càng được sử dụng rộng rãi không
những ở những nước phương Đông mà còn ở nhiều nước có nền công nghiệp
phát triển nh Mỹ, Anh, Đức, Canada… Hàng năm, thuốc thảo dược chiếm 30
- 50% tổng số thuốc được sử dụng ở Trung Quốc, 60% trẻ em bị sốt cao do
virus sử dụng TCT đầu tiên ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 158 triệu
người trưởng thành ở Mỹ đã sử dụng TCT… Người ta ưa chuộng TCT vì
không những TCT có tác dụng chữa bệnh tốt mà còn có tác dụng điều hòa,
cân bằng sự hoạt động của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể để duy trì sức
khỏe, bảo vệ, kéo dài cuộc sống [37].
Ở Việt Nam, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế chuyển sang
nền kinh tế thị trường thì nguồn gốc thuốc ngày càng phong phú kể cả thuốc
tân dược và đông dược. Thuốc tân dược với ưu thế tác dụng nhanh, mạnh, dễ
dàng khi sử dụng thì ngày càng bị lạm dụng. Thuốc cổ truyền có nguồn gốc từ
thiên nhiên tuy tác dụng chậm nhưng với những ưu điểm nổi trội là Ýt độc
hại, có thể điều trị một số bệnh mạn tính hoặc hỗ trợ điều trị trong một số
bệnh khó mà Y học hiện đại (YHHĐ) còn bị hạn chế. Theo nghiên cứu của
Trần Thị Thu Trang tại một số cơ sở khám chữa bệnh bằng YHCT tại Hà Nội

có 85,3% bệnh nhân sử dụng TCT tin tưởng vào TCT, 100% bệnh nhân cho
rằng TCT tác dụng tốt, bổ dưỡng, Ýt độc, 69,6% người sử dụng TCT kết hợp
2
với tân dược [28]. Vì vậy, xu thế chung của thời đại trong đó có người dân Hà
Nội tìm đến dùng TCT ngày càng nhiều.
Chất lượng TCT là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định
hiệu quả điều trị. Hiện nay tiêu chuẩn hóa chất lượng dược liệu chủ yếu theo
dược điển Việt Nam IV nên tại các cơ sở khám chữa bệnh YHCT phương
pháp đánh giá chất lượng dược liệu chủ yếu dựa vào cảm quan [10]. Những
thông báo gần đây về chất lượng dược liệu trên thị trường cho thấy năm 2000
đến 2005 khoảng 35% mẫu dược liệu và chế phẩm TCT lấy kiểm tra không
đạt một số tiêu chuẩn chất lượng [18]. Qua kết quả kiểm tra chất lượng thuốc
của Viện Kiểm nghiệm thuốc TW, viện kiểm nghiệm thuốc TP. Hồ Chí Minh
và các trung tâm kiểm nghiệm trên cả nước trong 5 năm từ 2004 - 2008 cho
thấy số mẫu thuốc Đông dược không đạt chất lượng đã đăng ký mỗi năm
chiếm khoảng 10% trên tổng số mẫu kiểm tra, cao hơn nhiều so với thuốc Tân
dược (khoảng 2%) [24]. Chính vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng chất lượng và
tình hình sử dụng TCT là rất cần thiết. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có các
nghiên cứu đánh giá về chất lượng và tình hình sử dụng thuốc tại các bệnh
viện YHCT tại Hà Nội. Nhằm giúp các nhân viên y tế, các nhà quản lý ngành
y tế có thêm thông tin về chất lượng và tình hình sử dụng TCT ở các CSKCB
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát thực trạng chất lượng 8 vị
thuốc bổ thường dùng tại các cơ sở khám chữa bệnh bằng YHCT tại Hà Nội”
với 3 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm của 8 vị thuốc bổ thường dùng.
2. Đánh giá định tính một số chỉ tiêu chất lượng 8 vị thuốc bổ thường dùng.
3. Đánh giá định lượng một số chỉ tiêu chất lượng 8 vị thuốc bổ thường dùng.
3
Ch¬ng 1
TổNG QUAN

1.1. Tình hình sử dụng thuốc cổ truyền
1.1.1. Tình hình sử dụng thuốc cổ truyền trên thế giới
TCT là những vị thuốc, chế phẩm thuốc có nguồn gốc thực vật, động vật,
khoáng vật, được phối ngũ theo phương pháp cổ truyền sử dụng theo kinh
nghiệm dân gian lâu đời trong đó các loại thảo dược vẫn là loại thuốc được
dùng chữa bệnh lâu đời nhất.
Trong những năm qua, mối quan tâm đối với TCT ngày càng tăng ở các quốc
gia phát triển. Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới - WHO (1995), khoảng 60
- 80% dân số thế giới sử dụng thảo dược trong chăm sóc sức khỏe [30].
Ở Trung Quốc, trước khi giành được độc lập, YHHĐ đã thâm nhập và trở
thành nền y học chính thống. YHCT đã từng không được chấp nhận bởi hệ
thống các dịch vụ YHHĐ, việc hành nghề YHCT thậm chí bị ngăn cấm và
trong nhiều năm nó chỉ tồn tại nh một phần trong cộng đồng và các hoạt động
cá nhân nằm ngoài hệ thống y tế chính thống. Năm 1949, nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa được thành lập và nền YHCT phát triển rất mạnh mẽ, nó
góp phần không nhỏ cho sự tiến bộ của nền y học thế giới. Chính phủ Trung
Quốc đã đưa ra một số luật lệ để phát triển một khung điều chỉnh đúng đắn,
đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và nghiên cứu, điều khoản về dịch vụ y tế công
cộng, thúc đẩy sự phát triển công nghệ. Năm 1949, chính sách về YHCT được
ban hành. Năm 1954, chương trình quốc gia về thuốc cũng được công bố.
Việc sử dụng YHCT trong Chăm sóc sức khỏe (CSSK) cho nhân dân cũng
được thể chế hóa bằng văn bản pháp luật Nhà nước trong đó coi trọng việc sử
dụng tập trung YDHCT cho vấn đề CSSK tại cộng đồng. Đội ngũ cán bộ tư
vấn, mạng lưới y tế trải khắp nơi và đóng góp nhiÒu trong sự nghiệp CSSK
[32], [39], [33].
4
Ở Ấn Độ, ngay từ năm 1940 đã có chính sách quốc gia về YHCT, luật và
điều lệ cũng được ban hành ngay từ những năm đó và được cập nhật dần
trong những năm 1964, 1970, 1982[34]. Hiện nay, người ta chia YHCT Ên
Độ ra nhiều trường phái trên cơ sở các khác biệt về quan niệm, lý luận và

phương pháp thực hành: Ayurveda, Yoga, Unani, Sidha [27].
Nhật Bản cũng là nước có nền YHCT lâu đời và đã được sử dụng rộng rãi
từ trước chiến tranh thế giới thứ nhất và được xem là 1 trong những nước
dùng TCT cao nhất thế giới hiện nay. Chính phủ Nhật cũng đã ban hành luật
về TCT từ năm 1950. Ước tính trên 95% Kampo (Thuốc dân gian Nhật Bản
kết hợp với TCT Trung Quốc) là những dạng bào chế tiện lợi và được coi như
thuốc phải kê đơn. Hiện tại có 147 thuốc Kampo, đã được đưa vào danh mục
thuốc kê đơn của nước này [39], [36], [31].
Ở các nước khu vực Đông Nam Á như Indonexia, Malaysia, đặc biệt là
Thái Lan cũng là nước có truyền thống sử dụng thuốc YHCT. Chính sách và
chương trình Quốc gia về TCT đã được ban hành từ năm 1993 khi Viện
YHCT Thái Lan được thành lập [34].
Ở châu Âu, Bắc Mỹ và các nước công nghiệp khác, trên 50% dân số đã sử
dụng YHCT Ýt nhất một lần. ở Mỹ, ước tính 158 triệu người thường xuyên sử
dụng TCT và 17 tỷ Đôla đã được sử dụng cho YHCT năm 2000. ở Vương
quốc Anh có 230 triệu Đôla được sử dụng cho YHCT hằng năm. Còn ở Đức
có 80% dân số sử dụng thuốc thảo dược. Theo báo cáo của WHO tổng số tiền
chi phí cho YHCT trên thế giới đạt trên 6 tỷ Đôla/năm và con số này ngày
càng gia tăng [30],[39].
Một số nước ở châu Phi, châu Á, châu Mỹ La tinh bước đầu đã sử dụng
TCT để chữa bệnh trong CSSK ban đầu. ở châu Phi có tới 80% dân số sử
dụng TCT cho CSSK ban đầu [38].
Theo báo cáo của WHO tính đến 1995, trong tổng số 50% số người trên
hành tinh được chăm sóc sức khỏe thì có 80% được chăm sóc bằng YHCT
[31]. Điều này nói lên sự tin cậy của người dân đối với YHCT trong CSSK.
YHCT không chỉ có tác dụng trong CSSK ban đầu mà còn là sự lựa chọn
an toàn, hiệu quả, rẻ tiền cho bệnh nhân HIV/AIDS. Người ta ước tính ở San
5
Francisco, London và Nam Phi có tới 75% bệnh nhân HIV/AIDS dùng TCT
như một phương thuốc bổ, tăng cường năng lượng, giúp tiêu hóa tốt [38].

Nhìn chung, nhiều nước trên thế giới rất quan tâm phát triển và sử dụng
YHCT trong việc CSSK cho nhân dân và coi đó là một trong những yếu tố
then chốt trong CSSK ban đầu.
1.1.2. YHCT trong chăm sóc sức khỏe nhân dân Việt Nam
Đông y, Đông dược là vốn cổ rất quý của dân tộc ta, có lịch sử lâu đời, bắt
nguồn từ khi có loài người trên đất nước Việt Nam. Khởi đầu, qua kinh
nghiệm trong khi tìm kiếm thức ăn, người xưa đã phát hiện dần những vị
thuốc từ cỏ cây đến động vật, khoáng vật. Những kinh nghiệm đó dần được
sưu tầm, đúc kết, ghi chép thành hệ thống lý luận truyền từ đời này qua đời
khác [15].
Việt Nam, giáp cạnh với Trung Quốc - núi liền núi, sông liền sông. Vì vậy,
trong quá trình lịch sử lâu dài xây dựng và phát triển của mỗi nước đều có
giao lưu và ảnh hưởng lẫn nhau về nhiều mặt: Văn hóa, xã hội, phong tục
trong đó có Y học cổ truyền đóng góp cho sự phát triển của Y học cổ truyền
nói chung và nói riêng trong lĩnh vực Đông dược ở nước ta cũng đã có sự
đóng góp rất nhiều của các danh y của nhiều triều đại. Nhưng trong số đó nổi
bật lên là sự nghiệp của danh y Tuệ Tĩnh ở cuối đời Trần vào thế kỷ XIV.
Ông được suy tôn là "Vị thánh thuốc nam" trong Y học cổ truyền nước ta với
hai tác phẩm y học nổi tiếng là "Hồng nghĩa giác tư y thư". Đây là bộ sách
gồm 2 quyển: thượng và hạ, quyển thượng gồm bài phú thuốc nam bằng chữ
nôm, bài phú về dược tính vị thuốc bằng chữ hán, các mục về y lý chung,
cũng như chủ trị của các thuốc, thuốc bổ, tả, ôn, lương của 12 kinh, ba đơn
thuốc thường dùng "Như ý đơn", "Hồi sinh đơn", "Bổ âm đơn" và 37 phương
kinh nghiệm. Quyển hạ gồm 13 phương gia giảm, 37 phương trị thương hàn
và đề cương phép trị các bệnh Quyển thứ hai là "Nam dược thần hiệu", đây
là bộ sách có 11 quyển, quyển đầu nói về dược tính 499 vị thuốc nam, 10
quyển sau, mỗi quyển nói về một khoa trị bệnh, đây là bộ sách ảnh hưởng rất
6
sâu rộng trong các y gia Việt Nam, bởi nó đã chỉ dẫn cách dùng thuốc nam để
trị bệnh cho đại đa số người nghèo, nên được phổ cập đến quần chúng qua các

phương thuốc điều trị đơn giản, dễ kiếm với những vị thuốc sẵn có ở Việt
Nam. Ông đã mở đường cho sự nghiệp nghiên cứu thuốc Nam, xây dựng nền
móng cho ngành Đông dược Việt Nam. Kế thừa Tuệ Tĩnh đến thế kỷ XVIII ở
thời kỳ hậu Lê lại xuất hiện danh y Lê Hữu Trác với danh hiệu là Hải Thượng
Lãn Ông (1720 - 1791), ông đã dầy công biên soạn pho sách “Hải thượng Y
tông tâm lĩnh”, một bộ sách đồ sộ với 28 tập gồm 66 quyển. Trong đó có
nhiều quyển đề cập đến Đông dược, nhưng nổi trội có tập "Dược phẩm vậng
yếu", trong tập này ông đã chọn 150 vị thuốc thiết yếu trong các sách Đông
dược kinh điển, căn cứ vào khí vị và công năng mà phân loại theo ngũ hành
thành 5 bé, quy nạp tất cả tính vị ưa nhau vào cùng một loại, cơ sở để biên
soạn quyển sách này như ông đã viết " lấy phần dược tính trong Phùng thị
cẩm nang làm cốt yếu, tham hợp thêm các sách Cảnh nhạc toàn thư, Y học
nhập môn, Lôi công bào chế, Bản thảo cương mục các vị thuốc đã nêu rõ:
chủ dụng, hợp dụng, kỵ dụng và phụ thêm cách bào chế" để tạo thành quyển
sách được trình bày gọn gàng, cách tra tìm dễ dàng nhanh chóng. "Lĩnh nam
bản thảo" cũng là một trong 28 tập của Hải Thượng Lãn Ông (Lĩnh nam bản
thảo - bản thảo của đất Lĩnh nam - bao gồm Việt Nam và phía nam Trung
Quốc) là một quyển sách đề cập tới khí vị, chủ trị của các vị thuốc Nam, một
số vị có phụ thêm cách bào chế. Ông đã phân chia thành 2 quyển là quyển
thượng, đây là quyển thừa kế biên tập theo Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh;
Quyển hạ do Hải Thượng Lãn Ông sưu tầm nghiên cứu, tập hợp bổ xung
thêm một số vị thuốc, ông đã sắp xếp phân chia các vị thuốc đông dược thành
22 loại, trong đó loại cỏ hoang gồm 60 vị, loại dây leo gồm 17 vị, loại rau
gồm 46 vị và bổ sung 117 vị [16].
Vào cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX, cùng với sự du nhập
của văn hóa và kỹ thuật công nghệ phương tây dưới thể chế thực dân do
người Pháp đem đến nước ta, nền Y học phương tây đã dần hình thành nhưng
7
trong khuôn khổ còn hạn chế ở các thành phố lớn. Đa số người dân vẫn quen
dùng thuốc cổ truyền trong nền y học truyền thống, nhưng vẫn trong vòng

kim tỏa khó phát triển. Chỉ sau ngày giải phóng miền Bắc năm 1954 và đặc
biệt sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, ngành YHCT nói chung và
chuyên ngành DHCT nói riêng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và đã
có bước chuyển mình và phát triển mạnh mẽ với hàng loạt Viện nghiên cứu
và Bệnh viện chuyên ngành ra đời, cùng với hệ thống đào tạo các bậc từ trung
cấp, đại học và sau đại học,… Về chuyên ngành YHCT, vấn đề đào tạo và
nghiên cứu dược cổ truyền được quan tâm - đặc biệt với các phương tiện
nghiên cứu của khoa học và Y dược học hiện đại đã tạo nhiều chế phẩm cao
cấp từ TCT, đóng góp tích cực trong hệ thống chăm sóc và nâng cao sức khỏe
cho nhân dân. Thực hiện phương châm kết hợp YHCT với YHHĐ, hiện đại
hóa YHCT nhưng vẫn giữ được bản sắc của YHCT [16].
Nghị định của Chính phủ số 37/CP ngày 20/6/1996 về định hướng chiến
lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong 1996 - 2000 và
chính sách quốc gia về thuốc Việt Nam: “Phát huy, phát triển TCT, khai thác
có chọn lọc các bài thuốc gia truyền cũng như kinh nghiệm chữa bệnh cổ
truyền của nhân dân đã được thử thách, công nhận qua thời gian, khuyến
khích khen thưởng thỏa đáng về tinh thần và vật chất đối với những đơn vị đã
cống hiến những bài thuốc, vị thuốc quý. Tăng cường đầu tư, nghiên cứu
khoa học trong lĩnh vực TCT, tiêu chuẩn hóa kỹ thuật bào chế, chế biến và sử
dụng TCT. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng các lương y, những người sản
xuất và bào chế TCT nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ về YDHCT có chất
lượng, có trình độ cao” [11].
Chính sách quốc gia về thuốc và chiến lược phát triển ngành dược giai
đoạn đến năm 2010 đã đặt vấn đề phát triển dược liệu, trong đó xác định kế
hoạch hóa nhiệm vụ phát triển nguồn dược liệu, xác định vùng nuôi trồng cây
con làm thuốc, chọn lọc, bảo tồn phát triển nguồn giống và gen cây thuốc, xây
8
dựng vườn quốc gia về cây thuốc, xây dựng bộ tiêu chuẩn nhà nước về các
dược liệu [13].
Đến năm 2005, chóng ta đã khảo sát có 3948 loài thực vật, 408 loài động

vật, 75 loại khoáng vật, 52 loài tảo có ở Việt Nam được sử dụng làm thuốc
[21]. Năm 1999 Bé Y tế đã ban hành Danh mục thuốc chủ yếu với 88 chế
phẩm thuốc YHCT, 60 cây thuốc tại tuyến y tế xã và 186 vị thuốc thiết yếu.
Năm 2005, Danh mục thuốc chủ yếu YHCT được ban hành với 94 chế phẩm
thuốc YHCT, 34 cây thuốc Nam phân theo nhóm bệnh và 215 vị thuốc. Đến
tháng 2/2008, Bé Y tế ban hành “Danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng
tại các cơ sở khám chữa bệnh” với 98 loại chế phẩm và 237 vị thuốc [4].
Tháng 4/2010, Bé Y tế ban hành Thông tư số 12/2010/TT-BYT, quy định
“Danh mục thuốc y học cổ truyền chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám chữa
bệnh” với 127 loại chế phẩm và 300 vị thuốc [5]. Tuy nhiên, qua thực tế sử
dụng thuốc ở các cơ sở điều trị cho thấy vẫn còn một số thuốc chưa hợp lý
nên cần phải khảo sát thực trạng sử dụng thuốc tại các cơ sở để có sự điều
chỉnh cho phù hợp.
1.2. Vấn đề chất lượng TCT hiện nay
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hồng Kông là một thị trường sử dụng nhiều dược liệu có nguồn gốc từ
Trung Quốc, họ rất quan tâm đến chất lượng dược liệu nhập khẩu. Các dược
liệu được nhập phải có tiêu chuẩn và quan điểm “dược liệu đúng” là quan
trọng. Tuy nhập có kiểm nhưng Hồng Kông vẫn thu thập & nghiên cứu thấy
có 86 dược liệu dễ bị nhầm lẫn được sử dụng ở Hồng Kông. Được sự đồng
thuận của Tổ chức y tế thế giới, năm 2003 Hội đồng hướng dẫn Dược liệu dễ
nhầm lẫn ở Hồng Kông công bố phương pháp nhận dạng 86 dược liệu dễ
nhầm lẫn, in 4000 bản và được chuyển đến các cơ sở sử dụng dược liệu. Đến
năm 2005 họ có bổ sung 4 dược liệu dễ nhầm lẫn nâng tổng số dược liệu dễ
nhầm lẫn ở Hồng Kông lên 90 loại và in thêm 6000 bản [35].
9
Tại Mỹ : Từ năm 2000 Cục An toàn thuốc và thực phẩm (FDA) đã khuyến
cáo tình hình người dân dùng thực phẩm chức năng có nguồn gốc dược liệu
mà có chứa acid Aistolochic (từ loài dược liệu thuốc chi Aistolochia gây tổn
thương thận và ung thư thận. Người ta đã xác định trong 38 sản phẩm từ dược

liệu mà trên nhãn có ghi có dược liệu thuộc chi Aistolochia được lưu hành ở
Mỹ có tới 18 sản phẩm có chứa acid Aistolochic và FDA đã yêu cầu nhà sản
xuất và phân phối có liên quan thu hồi [40].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Do nhu cầu sử dụng thuốc từ dược liệu và nhờ chính sách xã hội hóa trong
việc phát triển dược liệu và mở rộng hệ thống phục vụ y tế bằng Y - Dược
học cổ truyền của Nhà nước nên trong những năm gần đây, việc sản xuất
dược liệu và thuốc Đông dược không ngừng tăng lên. Tính đến 31/12/2008 cả
nước đã có 9727 số đăng ký thuốc sản xuất trong nước còn hiệu lực trong đó
thuốc Đông dược có 1804 số đăng ký chiếm 18,54%. Bên cạnh những tích
cực, những ảnh hưởng không có lợi tới sức khỏe do việc sử dụng thuốc từ
dược liệu có xu hướng tăng lên. Chất lượng thuốc sản xuất từ dược liệu còn
nhiều vấn đề cấp bách cần được giải quyết [24]. Thị trường dược liệu ở trong
tình trạng thả nổi, thiếu sự quản lý của các cơ quan y tế (về chủng loại dược
liệu, chất lượng và tính chính xác, quy trình chế biến cách bảo quản ) và các
cơ quan quản lý thị trường. Việc đánh giá chất lượng dược liệu gặp nhiều khó
khăn, hệ thống các tiêu chuẩn kiểm nghiệm dược liệu về cơ bản chưa đáp ứng
được các yêu cầu thực tiễn [21]. Phương pháp đánh giá chất lượng dược liệu
tại các cơ sở khám chữa bệnh YHCT chủ yếu dựa vào cảm quan [10].
Viện dược liệu nghiên cứu về thực trạng chất lượng an toàn dược liệu lưu
hành trên thị trường trong năm 2005. Với một số dược liệu thu hái trong nước
kiểm tra kết hợp với 4 tiêu chuẩn: tính đúng, độ Èm, hàm lượng chất hoạt chất
và tro toàn phần thì có tới 80% số mẫu dược liệu không đạt tiêu chuẩn. Dược
liệu nhập từ Trung Quốc với chỉ tiêu: Độ Èm, hàm lượng hoạt chất có 55% số
mẫu kiểm nghiệm không đạt tiêu chuẩn. Nhiều nghiên cứu xác định dư lượng
10
lưu huỳnh, kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật trong dược liệu cũng được
thực hiện [17].
Viện kiểm nghiệm cũng có nhiều nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn kiểm
nghiệm dược liệu trên cơ sở máy móc phương tiện hiện đại. Những thông báo

gần đây về chất lượng dược liệu trên thị trường cho thấy năm 2000 đến 2005
khoảng 35% mẫu dược liệu và chế phẩm TCT lấy kiểm tra không đạt một số
tiêu chuẩn chất lượng [18]. Qua kết quả kiểm tra chất lượng thuốc của Viện
Kiểm nghiệm thuốc TW, viện kiểm nghiệm thuốc TP. Hồ Chí Minh và các
trung tâm kiểm nghiệm trên cả nước trong 5 năm từ 2004 - 2008 cho thấy số
mẫu thuốc Đông dược không đạt chất lượng đã đăng ký mỗi năm chiếm
khoảng 10% trên tổng số mẫu kiểm tra, cao hơn nhiều so với thuốc Tân dược
(khoảng 2%). Các chỉ tiêu không đạt như: độ nhiễm khuẩn, độ Èm, định tính,
hàm lượng hoạt chất, các chỉ tiêu về kỹ thuật bào chế như: độ rã, độ đồng đều
khối lượng; trong đó số mẫu hàng năm không đạt tiêu chuẩn về giới hạn
nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ cao trong số các chỉ tiêu không đạt. Đây là vấn đề
thách thức lớn đối với các cơ sở sản xuất thuốc Đông dược, đặc biệt là các cơ
sở tư nhân nhỏ, lẻ, điều kiện sản xuất thủ công không thực hiện tốt trong quy
trình sản xuất và chế biến [24].
Theo báo cáo của Đoàn thanh tra Sở y tế Hà Nôi (2007) kết quả kiểm tra
hành nghề kinh doanh dược liệu, đông dược chỉ riêng tại Ninh Hiệp (Gia
Lâm, Hà Nội) thì chỉ có 19/200 hé kinh doanh dược liệu có giấy phép [25].
Theo thống kê, hàng năm Hà Nội thực hành thanh, kiểm tra 4600 lượt các
cơ sở hành nghề y tế tư nhân nói chung, song hiệu lực của công tác thanh,
kiểm tra ở các quận, huyện chưa cao nên một số tồn tại vẫn chưa khắc phục
được [19]. Bên cạnh đó, việc kiểm soát chất lượng dược liệu nhập vào và các
dược liệu có mặt trên thị trường đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ban ngành cùng
tham gia từ Trung ương đến địa phương. Việc kiểm tra chất lượng dược liệu
11
khi cần xác định các hoạt chất trong dược liệu thường tốn kém, mất nhiều thời
gian đòi hỏi phải tiến hành trong labo, người làm công tác này phải có chuyên
môn về Dược cho nên thường không tiện lợi cho công tác kiểm tra thông
thường. Thường chỉ có những dược liệu có nghi vấn về chất lượng thì cơ quan
chức năng mới tiến hành lấy mẫu gửi đến Trung tâm kiểm nghiệm Dược - Mỹ
phẩm Hà Nội [21].

Hội nghị toàn quốc đánh giá tình hình sử dụng thuốc YHCT trong cở sở
khám chữa bệnh 3 năm (2004-2007) cho thấy: Việc kiểm tra chất lượng trước
khi nhập thuốc vào khoa YHCT hay bệnh viện YHCT đều bằng cảm quan,
chưa phân tích được hoạt chất trong dược liệu. Các chế phẩm được sản xuất
hay mua ở các cơ sở sản xuất thuốc YHCT tuy được kiểm nghiệm nhưng các
mẫu kiểm nghiệm chủ yếu là về vi sinh, hóa lý và các chỉ tiêu khác nên chưa
thực sự đánh giá được các hoạt chất có trong chế phẩm [8]. Chỉ tính năm
2004, các cơ sở thuộc Tổng công ty dược đã nhập khẩu khoảng 18000 tấn
dược liệu với khoảng 165 chủng loại dược liệu, trong đó 85 loại dược liệu
được nhập khẩu có số lượng trên 100 tấn [3]. Việc nhập khẩu không được
kiểm soát chặt chẽ cũng như việc hành nghề trái phép của các tư thương trong
lĩnh vực buôn bán dược liệu đã và đang gây rối thị trường chất lượng thuốc
YHCT làm cho tình hình quản lý về chất lượng dược liệu ngày càng khó
khăn. Tính trung bình lượng dược liệu sử dụng hàng năm trên cả nước ước
60.000 tấn, trong đó khoảng: 12.000 tấn (chiếm 12%) từ khai thác tự nhiên;
16.000 tấn (chiếm 26,5%) từ trồng trọt còn lại khoảng 32.000 tấn (chiếm
53,5%) từ nhập khẩu mà chủ yếu theo con đường tiểu ngạch nên việc kiểm
soát chất lượng thuốc còn có nhiều bất cập mặc dù hệ thống kiểm tra chất
lượng thuốc đã phủ khắp các sở y tế [8].
Trên thị trường còn tồn tại thuốc từ dược liệu giả với thành phần trộn hoạt
chất hóa học tân dược, không công bố hoặc ghi nhãn là thuốc từ dược liệu
12
nhưng thực chất là thuốc tân dược thì được coi là thuốc giả. Trong những năm
gần đây, cùng với sự phối hợp của các cơ quan công an, thanh tra dược, hệ
thống kiểm nghiệm từ Trung ương đến địa phương đã phát hiện nhiều loại
thuốc này. Trong số đó bao gồm cả thuốc có hoặc không có nguồn gốc, thuốc
sản xuất trong nước hay thuốc nhập từ nước ngoài nhưng nhiều nhất là thuốc
chưa được cấp số đăng ký [24].
Có 11 nguyên nhân dẫn đến dược liệu không đảm bảo tiêu chuẩn là dễ bị
nhầm lẫn giữa các dược liệu; do thu hoạch không đúng thời vụ khiến hàm

lượng hoạt chất thấp hoặc không có hoạt chất; do bảo quản không tốt; do bón
nhiều phân đạm; do đất, nước tưới dược liệu bị ô nhiễm; lượng thuốc trừ sâu
cao; do xông sinh quá liều; do nhiễm phóng xạ ở giai đoạn tiệt trùng hoặc
trồng gần trạm rada; do giống cây thuốc đưa vào trồng đã bị nhiễm bệnh; có
dược liệu không rõ nguồn gốc xuất xứ; dược liệu không có nơi bảo quản [15].
Chính những nguyên nhân này khiến chất lượng dược liệu không đảm bảo, có
thể tồn dư những chất độc hại, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng thuốc và ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng.
Theo Đỗ Thị Phương, trong tổng số dược liệu được khảo sát về tần suất sử
dụng ở các cơ sở hành nghề YHCT tư nhân ở Hà Nội có: 22 dược liệu có tần
suất sử dụng 91-100%, 54 loại có tần suất sử dụng 71-90%, 45 loại có tần suất
sử dụng 51-70%. 82 loại có tần suất sử dụng 10 -50% chiếm tỷ lệ cao nhất, 48
loại tỷ lệ < 10% có và về cảm quan các dược liệu này cũng có vấn đề nên việc
đánh giá được chất lượng dược liệu trên địa bàn Hà Nội là cần thiết [23].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Do Cam, trong tổng số dược liệu được khảo
sát về tần suất sử dụng ở các cơ sở khám chữa bệnh bằng YHCT công lập tại
Hà Nội có: 43 dược liệu có tần suất sử dụng 91-100%, 54 loại có tần suất sử
dụng 71-90%, 22 loại có tần suất sử dụng 51-70%, 153 loại có tần suất sử
dụng 10 -50% chiếm tỷ lệ cao nhất, 22 loại có tỷ lệ < 10%. [12].
13
Chúng tôi chọn 8 vị thuốc bổ có tần suất sử dụng cao (8/8 vị thuốc có tần
suất sử dụng 91-100% theo nghiên cứu của Đỗ Thị Phương [23]; 7/8 vị thuốc
có tần suất sử dụng 91-100%, 1/8 vị thuốc có tần suất sử dụng 71-90% theo
nghiên cứu của Nguyễn Thị Do Cam) [12], để đánh giá chất lượng tại 3 bệnh
viện YHCT ở Hà Nội.
Hiện nay, Dược điển Việt Nam IV là tài liệu pháp lý về tiêu chuẩn của
từng dược liệu qua các chuyên luận tương ứng. Mức độ của từng chuyên luận
có khác nhau nên chúng tôi cũng chia mức độ đánh giá của các dược liệu
không hoàn toàn như nhau. Chỉ tiêu về mô tả, độ Èm: đánh giá 100% mẫu thu
thập được. Các chỉ tiêu khác như: định tính, định lượng, sẽ phân loại và đánh

giá theo từng chuyên luận tương ứng.
1.3. Tổng quan về một số vị thuốc bổ thường dùng
1.3.1. Bạch thược (Radix Paeoniae Alba)
Bạch thược là rễ cạo bỏ vỏ ngoài của cây Thược dược (Paconia lactiflora
Pall.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae) [16].
Tính vị quy kinh: Vị ngọt, đắng, chua, tính lạnh. Quy vào kinh can, tỳ, phế.
Tác dông: Bổ huyết, liễm âm cầm mồ hôi, chỉ thống.
Ứng dụng lâm sàng:
- Bổ huyết: chữa người xanh xao kết hợp với thục địa, đương quy, hà thủ
ô đỏ, xuyên khung. Điều kinh, chữa chứng kinh nguyệt không đều, thống
kinh.
- Cầm máu: chữa chứng chảy máu, ho ra máu, đại tiện ra máu, tiểu tiện
ra máu, rong kinh, trĩ ra máu.
- Thư cân, chỉ thống: chữa các chứng đau do can khí uất kết gây ra nh:
đau dạ dày, đau vùng mạng sườn; chứng đau bụng ỉa chảy do thần kinh,
chân tay co quắp kết hợp với cam thảo.
- Chữa ra mồ hôi vào ban đêm do âm hư kết hợp với ngũ vị tử, mẫu lệ,
sơn thù. Biểu hư bị phong hàn có mồ hôi thì kết hợp với quế chi.
14
- Bổ can âm: Chữa chứng đau đầu, mất ngủ, hoa mắt chóng mặt do can
âm hư, can dương vượng. Dùng kết hợp với cúc hoa, ngưu tất, sinh địa,
thạch quyết minh, từ thạch.
Liều lượng: 5 - 10g có thể tới 30g/ ngày.
1.3.2. Cam thảo (Radix Glycyrrhizae)
Cam thảo là rễ cây Cam thảo (Glycyrrhiza uralensis Fish.; Glycyrrhiza
glabra L.; Glycyrrhiza inflata Bat.), họ Đậu (Fabaceae) [16].
Tính vị quy kinh: Vị ngọt, tính bình. Quy vào 12 kinh.
Tác dông: Bổ trung khí, dưỡng huyết nhuận phế chỉ ho, thanh nhiệt giải
độc, hòa hoãn giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng:

- Ých khí, dưỡng huyết, dùng trong bệnh tâm khí hư nhược đánh trống
ngực, buồn bực; phối hợp với đảng sâm, a giao, mạch môn, quế chi.
- Chữa tỳ hư, dùng với đảng sâm, bạch linh, bạch truật.
- Nhuận phế chỉ ho: Dùng trong bệnh đau hầu họng, viêm họng cấp, mạn
tính, viêm amidan, ho có nhiều đờm. Nếu do phong nhiệt kết hợp tang
bạch bì, cát cánh, cúc hoa. Nếu ho do phế nhiệt hợp với thạch cao, ma
hoàng, cam thảo.
- Tả hỏa, giải độc: Dùng trong bệnh mụn nhọt đinh độc sưng đau.
- Hoãn cấp, chỉ thống: Trị đau dạ dày, loét đường tiêu hóa, đau bụng, gân
mạch co rút kết hợp với bạch thược.
- Điều vị, giảm tác dụng phụ và dẫn thuốc khi dùng phối hợp.
Liều lượng: 4 - 10g/ ngày.
Cấm kỵ: không dùng cho những người phù nề, thận trọng với người có
chứng huyết áp cao. Không dùng với đại kích, cao toại, nguyên hoa, hải tảo.
1.3.3. Câu kỷ tử (Khởi tử) (Fructus Lycii)
Câu kỷ tử là quả chín phơi khô của cây Rau khởi, Câu kỷ (Lycium
barbarum L.), họ Cà (Solanaceae) [16].
Tính vị, quy kinh: vị ngọt, tính bình. Quy vào kinh phế, can, thận.
15
Tác dông: bổ can thận, minh mục.
Ứng dụng lâm sàng:
- Bổ can thận, cố tinh dưỡng huyết: do can thận âm hư, huyết hư gây liệt dương,
di tinh, đau lưng, gối mỏi. ù tai, chóng mặt, quáng gà, thị lực giảm dùng phối hợp
với cúc hoa, sinh địa, hoài sơn,… (bài “Kỷ cúc địa hoàng hoàn”).
- Sinh tân chỉ khát: dùng trị bệnh tiêu khát (đái tháo đường) do nhiệt.
- Bổ phế âm, dùng trong bệnh lao, ho khan.
- Ých khí huyết dùng cho người già, khí hư, huyết kém. Phèi hợp với
long nhãn, ngũ vị tử.
Liều lượng: 6 - 12g/ngày.
1.3.4. Đảng sâm (Phòng đẳng sâm) (Radix Condonopsis)

Đảng sâm là rễ củ của cây Đảng sâm. Có một số loài mang tên đảng sâm
được dùng làm thuốc nh: (Codonopsis pilosula Nannf.; C. Tangshen Oliv.) và
(Condonopsis javanica (BL.) Hook .f. có ở Việt Nam) đều thuộc họ Hoa
chuông (Campanulaceae) [16].
Tính vị, quy kinh: Vị ngọt, tính bình. Quy vào kinh tỳ, phế.
Tác dông: Kiện tỳ khí, dưỡng huyết, sinh tân, bổ trung Ých khí.
Ứng dụng lâm sàng:
- Phế khí hư nhược gây ho, hen kéo dài do thận hư không tàng khí, hơi
thở ngắn. Kết hợp với Hoàng kỳ, Ngũ vị tử, Tắc kè.
- Chữa tỳ vị hư, kém ăn, đại tiện lỏng, mệt mỏi, khát nước, ốm lâu ngày
cơ thể suy nhược. Kết hợp với bạch truật, hoài sơn, xuyên khung, bạch
linh, trần bì, liên nhục.
- Bổ trung Ých khí chữa sa trực tràng, sa tử cung. Kết hợp với bạch truật,
sài hồ, hoàng kỳ, thăng ma, trần bì.
- Do tổn thương phần khí và âm do nhiệt gây ra mồ hôi, mệt mỏi, phiền
khát. Kết hợp với mạch môn, ngũ vị tử, xích thược.
- Xanh xao do huyết hư hoặc cả khí và huyết hư. Kết hợp với đương quy,
thục địa.
16
- Còn dùng làm thuốc bổ dưỡng cơ thể, lợi tiểu tiện, chữa ho, tiêu đờm.
Dùng khi tỳ khí, phế khí hư. Huyết hư do thiếu tân dịch.
Liều dùng: 10 - 15g/ ngày. Đảng sâm Việt Nam dùng 15 - 30g/ ngày.
1.3.5. Đương quy (Radix Angenicae sinensis)
Đương quy là rễ phơi khô của cây Đương quy (Angelica sinensis (Oliv.)
Diel.), họ Hoa tán (Apiacerae) [16].
Tính vị quy kinh: Vị ngọt, cay, tính Êm. Quy vào kinh tâm, can, tú.
Tác dông: Bổ huyết, hành huyết.
Ứng dụng lâm sàng:
- Bổ huyết, bổ ngũ tạng: Dùng trong trường hợp thiếu máu dẫn đến hoa
mắt, chóng mặt, da xanh, người gầy yếu (dùng bài Tứ vật).

- Hoạt huyết, giải uất kết: Điều kinh, chữa phụ nữ huyết hư kinh nguyệt
không đều, thống kinh, bế kinh. Kết hợp với thục địa, hà thủ ô đỏ, bạch
thược.
- Chữa sung huyết, tụ máu do sang chấn. Kết hợp với xuyên khung, đào
nhân, hồng hoa,
- Chữa cơn đau dạ dày, đau các dây thần kinh, các cơ do lạnh. Đau đầu
nhiều dùng đương quy sao tẩm rượu.
- Nhuận tràng thông tiện do huyết hư gây táo bón.
- Giải độc, tiêu viêm: chữa mụn nhọt, vết thương có mủ do vừa có tác
dụng giải độc vừa có khả năng hoạt huyết, tiêu trừ huyết ứ.
Liều lượng: 6 - 12g/ngày. Là 1 trong các thuốc hay dùng cho phụ nữ.
Kiêng kỵ: Người có tỳ vị thấp nhiệt, đại tiện lỏng, khi dùng nên sao để
giảm tính hoạt trường.
1.3.6. Hà thủ ô đỏ (Radix Polygoni multiflori)
Hà thủ ô đỏ là rễ củ phơi khô của cây Hà thủ ô đỏ (Polygonum multiforum
Thunb.), họ Rau răm (Polygonaceae) [16].
Tính vị quy kinh: Vị đắng, chát, tính Êm. Quy vào kinh can, thận.
17
Tác dông: Bổ Ých can thận, bổ huyết, cố tinh.
Ứng dụng lâm sàng:
- Bổ khí huyết: dùng khi khí huyết đều hư, cơ thể mệt nhọc vô lực, đoản
hơi, thiếu máu, da xanh, gầy khô sáp, chóng mặt, nhức đầu, râu tóc bạc
sớm, mồ hôi trộm, tim loạn nhịp, mất ngủ. Dùng với thục địa, long nhãn,
bạch thược, đương quy, sơn thù, xuyên khung.
- Bổ can, thận âm: dùng khi chức năng can thận kém, di tinh do thận hư,
lưng gối mỏi. Phụ nữ bạch đới, kinh nguyệt không đều. Kết hợp với kỷ tử,
thỏ ty tử, phá cố chỉ, đương quy, ngưu tất.
- Chữa chứng tê liệt nửa người do co cứng động mạch gây thiếu máu,
nhũn não hay gặp ở người già (bài Thủ ô diên thọ thang).
- Nhuận tràng chữa chứng táo bón do huyết hư tân dịch giảm gây nên.

Chữa trĩ, đi ngoài ra máu.
- Giải độc chống viêm chữa lao hạch và các vết loét lâu liền miệng,
viêm gan mạn.
- Dây hà thủ ô (dạ giao đằng) có tác dụng an thần giúp ngủ tốt.
Liều lượng: 12 - 20g/ngày.
1.3.7. Hoài sơn (Rhizoma Dioscoreae)
Hoài sơn là rễ cây Củ mài (Dioscorea opposifa Thunb.), họ Củ từ
(Dioscoraceae) [16].
Tính vị, quy kinh: Vị ngọt, tính bình. Quy kinh tỳ, vị, phế, thận.
Tác dông: Bổ tỳ vị, bổ phế âm.
Ứng dụng lâm sàng:
- Kiện tỳ, chỉ tả dùng trong các trường hợp tỳ vị hư nhược, ăn uống kém,
ỉa chảy. Trẻ em vàng da, bụng ỏng. Kết hợp với bạch truật, bạch linh, ý dĩ.
- Bổ phế dùng khi phế khí suy nhược hoặc cả phế khí và thận hư, hơi thở
ngắn, người mệt mỏi. Ngoài ra còn kết hợp với ngũ vị tử, đảng sâm chữa
ho, hen phế quản.
- Cố tinh, Ých thận: Chữa di tinh, tiểu tiện không cầm được, phụ nữ bạch đới.
- Sinh tân, chỉ khát do âm hư, trị đái tháo đường.

×