Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

khảo sát tình hình nhiễm nấm malassezia spp ở bệnh lang ben, viêm da dầu và viêm da cơ địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.36 KB, 83 trang )

B Y T
BNH VIN DA LIU TRUNG NG
===========
CNG

Khảo sát tình hình nhiễm vi nấm
Malassezia.spp
ở một số bệnh da thờng gặp tại bệnh viện Da liễu
TW từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2012
Nhúm nghiờn cu:
PGS.TS. Trn Hu Khang
BSCKII. Nguyn Th Xuõn
Th.S.Trn Mn Chu
Th.S. Trn Cm Võn
Th.S. Nguyn Minh Thu
C vn chuyờn mụn: PGS.TS Trn Lan Anh
H NI - 2012
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm nấm là một trong những bệnh khá phổ biến trên thế giới. Nấm
tồn tại ở khắp mọi nơi: môi trường đất, nước, không khí, ở thực vật, động
vật và trên cả cơ thể người. Khi gặp điều kiện thuận lợi như nóng ẩm, sang
chấn, sức đề kháng suy giảm…nấm sẽ phát triển và gây bệnh. Bệnh do nấm
gây ra gặp nhiều ở các nước nhiệt đới và ôn đới. Bệnh có thể gặp ở cả
người lớn và trẻ em [1],[2].
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ và độ ẩm cao
là điều kiện thuận lợi cho vi nấm phát triển và dễ dàng gây nhiễm nấm ở
người. Những năm gần đây, tỷ lệ nhiễm nấm thông thường do ý thức kém và
điều kiện vệ sinh thiếu thốn đã giảm nhiều. Tuy nhiên, do sự xuất hiện đại
dịch HIV/AIDS cùng với việc ứng dụng những thành tựu mới của y học hiện
đại như: Ghép tạng, dùng thuốc ức chế miễn dịch, hoá trị, xạ trị điều trị ung


thư, sử dụng kháng sinh hoạt phổ rộng, corticoid kéo dài, các bệnh rối loạn
chuyển hoá Thực tế nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm nấm da trong các bệnh
ngoài da trong cộng đồng chiếm tỷ lệ khá cao. Ở Đông Nam Á bệnh da do
nấm chiếm 40-60% tổng số bệnh da [3]. Ở Việt Nam, bệnh nấm da đứng hàng
thứ 2 trong các bệnh da sau chàm [4]. Trong đó, nhóm nấm men gây bệnh ở
da chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt trong thời gian gần đây người ta đề cập nhiều
đến chủng nấm men Malassezia ssp. Nghiên cứu năm 2003 tại Iran, tỷ lệ
nhiễm nấm Malassezia ssp chiếm 6% trong số các bệnh da nói chung và 30%
bệnh da do nấm da nói riêng [5].
Tại bệnh viện Da liễu TW số bệnh nhân đến khám và làm xét nghiệm
tìm nấm rất đông và đa dạng. Trong đó, vi nấm Malassezia ssp gây bệnh
ngoài da chiếm tỷ lệ khá cao. Malassezia có rất nhiều loài, mỗi loài có độc
tính khác nhau nên khả năng gây bệnh khác nhau vì vậy lâm sàng cũng rất đa
2
dạng. Bệnh biểu hiện các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu như: Ngứa, đỏ
da, bong vẩy,…Thương tổn có thể gặp bất kỳ vùng nào trên cơ thể nhưng
thông thường khu trú vùng tiết nhiều bã nhờn như: da đầu, lưng, ngực, mặt.
Ngoài ra, có thể gặp ở nếp kẽ, nang lông, vùng móng…thậm chí vi nấm xâm
nhập các cơ quan, bộ phận gây nhiễm nấm nội tạng, nhiễm nấm huyết…
Nhiều khi Malassezia.ssp là căn nguyên gây bệnh, nhưng đôi khi chỉ phối hợp
làm nặng thêm tình trạng bệnh. Do đó, những trường hợp điển hình thường
thuận lợi cho chẩn đoán. Còn những trường hợp không điển hình, nếu thiếu
điều kiện xét nghiệm dễ dẫn đến chẩn đoán nhầm hoặc bỏ qua. Bệnh da do
nhiễm Malassezia.spp không tử vong, nhưng gây nhiều phiền toái ảnh hưởng
đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, đặc biệt nếu không điều trị đúng và
kịp thời sẽ diễn biến dai dẳng, tiến triển nặng nề. Ở Việt Nam còn rất ít
nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về đặc tính vi nấm, đặc điểm lâm sàng các
bệnh biểu hiện ngoài da do nấm Malassezia.spp gây nên. Chính vì lý do trên
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu:
1. Tình hình nhiễm nấm Malassezia spp ở bệnh lang ben, viêm da dầu

và viêm da cơ địa.
2. Bước đầu đánh giá mức độ nhiễm Malassezia spp ở một số bệnh da
bằng kỹ thuật KOH kết hợp Parker ink.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số đặc điểm nấm gây bệnh ở người
1.1.1 Đặc điểm chung
- Nấm (Fungi, Mycetes), là những sinh vật dị dưỡng, thuộc Giới nấm,
có cấu tạo đơn bào hoặc đa bào. Nấm không có diệp lục tố nên không tự tổng
hợp được chất dinh dưỡng từ ánh sáng mặt trời. Nấm sống hoại sinh trên
những cá thể đã chết hoặc ký sinh trên những phần cá thể sống khác. Một số
loài có thể sống theo cả hai cách trên. [3,6].
- Đặc điểm sinh thái
+ Nấm phát triển cần hai điều kiên không thể thiếu là nhiệt độ và độ ẩm
thích hợp. Với nhiệt độ tối ưu để nấm phát triển là 28 - 37ºC và độ ẩm môi
trường cao, khoảng >70%.
+ Nấm có thể phát triển môi trường nghèo dinh dưỡng, vì vậy việc
phòng tránh nấm gặp nhiều khóa khăn
+ Nấm sinh sản nhanh, nhiều và dễ dàng nên việc điều trị nấm phải tận gốc
+ pH: nấm phát triển dải pH rộng (3-10), nhưng thường ưa môi trường
kiềm hơn. Tốt nhất là môi trường có pH= 6-6,5. Ở môi trường trung tính hoặc
kiềm nhẹ, vi khuẩn phát triển mạnh hơn nấm.
Đăc điểm dinh dưỡng
+ Nấm đòi hỏi chất hữu cơ sẵn có từ môi trường, chúng tiết các men đặc biệt
giúp phân giải các chất hữu cơ đó thành những hợp chất đơn giản để hấp thu.
4
+ Phần lớn phát triển môi trường đơn giản không cần vitamin, nhưng
một số cần thiamine, biotin… để phát triển.
Nấm có khả năng gây bệnh cho người và động vật. Đặc biệt ở người nấm

gây nhiều bệnh rất nguy hiểm và khó điều trị. Nấm có thể gây bệnh bất kỳ vị trí
nào trên cơ thể từ da, lông tóc, móng, thậm chí xâm nhập vào các cơ quan, các
mô trong cơ thể [7],[8],[9],[10],[11]
1.1.2 Đặc điểm cấu trúc và sinh sản nấm
1.1.2.1 Bộ phận sinh dưỡng
- Nấm men: cấu tạo đơn bào, sinh sản hình thức nảy chồi, hình tròn
hoặc bầu dục, kích thước 3-15mn
- Nấm sợi: cấu tạo đa bào, có vách ngăn hoặc không. Chúng chia nhánh
và xen kẽ với nhau thành từng khúm nấm. Đối với nấm Malassezia spp khi ký
sinh cũng có thể tạo sợi nấm thô ngắn.
1.1.2.2 Bộ phận sinh sản
- Lớp Actinomycetes không có bộ phận sinh sản. Các lớp nấm khác có
bộ phân sinh sản vô tính hoặc hữu tính.
+ Phương thức sinh sản vô tính: phân chia không có sự phối hợp nhân, đó
là loại bào tử vô tính, thường do sợi nấm sinh ra, có nhiệm vụ phát triển hoặc/và
dự trữ.
+ Phương thức sinh sản hữu tính: phân chia có sự phối hợp nhân, đó là
bào tử nang, bào tử tiếp hợp, bào tử noãn, bào tử đảm.
- Nấm men sinh sản theo phương thức nảy chồi. Từ một cực của tế bào
nấm mọc một chồi nhỏ, phát triển lớn dần và tách khỏi tế bào mẹ. Một số loài
nấm men có thể hình thành sợi giả. Nấm Malassezia spp là một chi nấm men và
sinh sản theo phương thức vô tính.
5
1.1.1.3 Phân loại nấm và bệnh do nấm gây ra
1.1.1.3.1 Phân loại nấm
Nấm có khoảng trên một triệu loài, trong đó vi nấm gây bệnh ở người
có khoảng trên ba trăm loài. Thông thường vi nấm gây bệnh ở các bệnh phẩm
lâm sàng được chia làm ba loài là nấm mốc, nấm men và nấm lưỡng hình
[10], [11], [12], [13].


Hình 1.1. Phân loại vi nấm
6
1.1.1.3.2 Phân loại bệnh do nấm gây ra
- Nấm có thể gây ra 4 loại bệnh
+ Dị ứng với nấm (Hypersensitivity): là phản ứng quá mẫn đối với nấm
mốc và bào tử nấm.
+ Nhiễm độc nấm (Mycotoxicoses): người hoặc động vật ăn phải thức
ăn nhiễm nấm sinh ra các độc tố gây nhiễm độc.
+ Ngộ độc nấm (Mycetismus): ăn phải nấm độc gây ngộ độc cấp, có thể
dẫn tới tử vong.
+ Nhiễm nấm (Infection fungus): Hầu hết các loại nấm gây ra nhiễm
nấm không sinh ra các độc tố nhưng chúng có khả năng gây ra các rối loạn
sinh lý như làm tăng chuyển hóa biến đổi cấu trúc màng.
- Trong thực tế việc phân lập nấm còn nhiều tranh cãi, nhưng có một số
phương pháp thường được áp dụng trong thực tiễn lâm sàng [12]
+ Bệnh nấm nông (superficial mycose) gây bệnh ngoài da
+ Bệnh nấm dưới da (subcuntaneous mycoses) gây các bệnh khu trú
vùng dưới da thường chỉ liên quan đến chi dưới, rất ít lan rông…
- Ngoài ra dựa và vị trí gây bệnh chia làm hai loại [11]
+ Nhiễm nấm nông: gồm các loại nấm da và dưới da 1-2 mm
+ Nhiễm nấm sâu: nấm xâm nhập vào các mô của cơ thể như các loại
nấm nội tạng, nấm não, nhiễm nấm máu
- Nhiễm nấm phân chia theo căn nguyên
+ Căn nguyên nội sinh: Một số chủng nấm thường sống ký sinh trên da,
đường tiêu hóa và âm đạo, khi sức đề kháng giảm sút hoặc điều kiện sống tại
chỗ thay đổi như: mất cân bằng vi hệ, thay đổi pH da…thì chúng gây bệnh cơ
hội ở vùng này.
7
+ Căn nguyên ngoại sinh: khi hít phải các bào tử nấm trong không khí
hoặc ăn phải các thức ăn có nhiễm nấm, gây ra các bệnh nấm đường hô hấp,

tiêu hóa…
8
1.2 Lịch sử vi nấm Malassezia
Bệnh nấm da nói chung mô tả rất sớm trong lịch sử loài người. Năm 1800,
Gruby đã nuôi cấy nấm gây bệnh thực nghiệm trên vùng da ẩm ướt. Năm
1910, Sabouraud là người đầu tiên đưa ra bảng định danh các loài nấm,
đặc điểm lâm sàng và phương pháp điều trị bệnh nấm. Với công sức này
ông được coi là cha đẻ ngành nấm y học hiện đại [14]. Nấm gây bênh trên
bề mặt da rất phổ biến vì chúng cs mặt ở khắp nơi và rất dễ lây nhiễm đặc
biệt ở các nước khí hậu nóng ẩm nhiệt đới như nước ta. Bệnh có thể gây ra
bởi các chủng Dermatophyte, Candida, Malassezia, Trichosporon Trong
đó, bệnh do nấm Malassezia nói riêng cũng đã được mô tả từ lâu trong y
văn thế giới. Từ những năm 40 – 50 của thế ký 19, các tác giả đã ghi nhận
vai trò nấm gây bệnh của nấm với tên gọi Pityrosporum và tác giả nhận
thấy sự hiện diện của vi nấm trên một số bệnh như: Lang ben, viêm da
dầu, Viêm nang lông, viêm da cơ địa. Cũng trong thời gian đó, Raymond
Sabouraud đã xác định vi sinh vật gây hiện tương gầu da đầu cũng có tên
gọi là: Pityrosporum. Nhưng mãi đến giữa thế kỷ 20 một số nhà khoa học
tìm được 3 loài nấm là: P. oval, P.orbiculair, P.pachydermatis. Trong đó,
có hai loài nấm men ưa lipid gây bệnh ở người là P.oval & P.orbiculair.
Ngoại trừ một loài không ưa Lipid thường gây bệnh cho động vật đó là
P.pachydermatis [15]. Còn Louis - Charler lại mô tả vi nấm này dưới tên
gọi Malassezia. Ban đầu một số nhà khoa học cho rằng hình thái
Malassezia là tồn tại dưới dạng sợi nấm, còn Pityrosporum là hình thái
nấm men. Nhưng sau đó không lâu Sabouraud khẳng định rằng thực chất
đó chỉ là sự phân chia biến đổi trong vòng đời của nấm men. Năm 1995-
1996, thành tựu khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng đã ứng
dụng thành công trong việc giải mã trình tự bộ gen của vi nấm này và
tìm được 7 loài Malassezia.spp [16]. Năm 2004 các nhà khoa học Nhật
9

Bản tiếp tục tìm ra thêm 4 loài mới nữa. Hiện nay số loài Malassezia có
khoảng hơn 11 loài: M. globosa, M. restricta, M. sympodialis, M. furfur,
M. obtusa, M. slooffiae, M. pachydermatis, M. japonica, M. nana, M.
dermatis and M. yamatoensis [17]. Các nhà khoa học tiết lộ đã xác định
được thêm 3 loài mới và đang tiếp tục tìm kiếm một số loài gây bệnh da
nữa, sẽ công bố trong thời gian gần đây [20]. Từ đó các nhà khoa học
đã thống nhất dưới tên gọi vi nấm là Malassezia.spp [18],[19].
Gần đây trên thưc tế tại bệnh viện Da liễu TW số bệnh nhân đến khám
cung như làm xét nghiệm tìm nấm rất đông và đa dạng. Trong đó, vi nấm
Malassezia.spp bội nhiễm trên một số bệnh da thông thường chiếm tỷ lệ khá
cao. Theo ICD những bệnh da thông thường gồm rất nhiều bệnh nhưng trong
khuân khổ nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập những bệnh da thường gặp
liên quan đến Malassezia.spp như: Lang ben, viêm da dầu, viêm da cơ địa.
1.3 Đặc điểm Malassezia.spp
Trước đây, Malassezia được biết đến như một vi nấm men thuộc hệ vi sinh
vật bình thường trên da người và cả ở động vật. Và lâu nay người ta vẫn
cho rằng Malassezia không phải tác nhân gây bệnh cho dù là căn nguyên
tiên phát hay bội nhiễm thứ phá bởi con người đã cố chứng minh rằng họ
vẫn thích nghi và kiểm soát được loài vi nấm ký sinh này. Nhưng vài thập
kỷ gần đây rất nhiều nghiên cứu khác nhau ở nhiều nơi trên thế giới đã cho
biết vi nấm này được chú ý rất nhiều trong cơ chế bệnh sinh của một số
bệnh da thường gặp như: Viêm da cơ địa, viêm da dầu, gầu da đầu [19],
[20], [22], [23]
Malassezia là nấm men ưa lipid, đa phần các loài gây bệnh cho người như:
M.globosa, M. furfur, M. dermatits, M.sympothealis Chúng thường biểu
hiện ở mọi lúa tuổi và trong rất nhiều bệnh lý với nhiều vị trí khác nhau
10
nhưng chủ yếu là độ tuổi thanh niên có liên quan vùng da mỡ. Ngoài ra,
một số loài khác gây bệnh móng và gây bệnh cơ quan, hệ thống. Bên cạnh
đó, có một số loài gây bệnh chủ yếu ở động vật như: M.pachydermatis.

Nhưng đôi khi cũng gây bệnh cho người trong một số trường hơp suy
giảm miễn dịch , có thể biểu hiện tình trạng bệnh cảnh lâm sàng nặng nề,
nguy kịch.
Malassezia spp có cấu tạo đơn bào và sinh sản hình thức nảy chồi. Tuy
nhiên, một số loài có cấu tạo đa bào như: M.globosa, loài này có phương thức
sinh sản hữu tính tức là chúng có khả năng giao phối kết hợp giữa giao tử đực
và giao tử cái do đó chúng thích nghi, sinh sản và phát triển hàng loạt. Đồng
thời di truyền những đặc tính của loài qua nhiều thế hệ. Vì vậy, thế hệ sau
luôn mang các đặc tính về khả năng thích nghi và đề kháng với những yếu tố
có tính chất đào thải nấm trong chính mỗi cá thể hoặc từ môi trường tự nhiên.
Do đó, loài M.globosa mang tính chọn lọc tự nhiên rất cao hơn nữa loài nấm
này tồn tại ở vi hệ rất nhiều và là căn nguyên gây bệnh chủ yếu [18],[21],[22].
Nấm Malassezia.spp thuộc vi hệ trên da của người và động vật máu nóng.
Nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng 70-90% vi nấm Malassezia.spp có mặt
trên da người khỏe mạnh [17],[22]. Tuy nhiên, những vi nấm tồn tại ở vi hệ
này không bền vững đôi khi cũng thay đổi. Ngay từ khi mới sinh, vi nấm
đã xuất hiện và có mặt ở nhiều vị trí trên cơ thể. Nhưng đa phần chúng phát
triển nhiều ở tuổi vị thành niên, bởi lứa tuổi này tuyến bã hoạt động mạnh
nên chế tiết nhiều chất bã… Bên cạnh đó, vi nấm cũng có thể đồng nhiễm
với một số vi khuẩn và vi nấm khác cũng thuộc vi hệ gây bệnh cơ hội. Do
đó, chúng có thể là căn nguyên gây bệnh hoặc bội nhiễm thứ phát làm nặng
thêm tình trạng bệnh. Ngoài ra, chúng còn gây bệnh cơ hội khi có điều kiện
thuận lợi [18], [19],[23].
1.4 Cơ chế gây bệnh
11
Hầu hết các loại nấm thường sống hoại sinh, chúng phát triển ở thực vật
hoặc trong đất, ít khi thích ứng trên cơ thể người. Do đó, người khỏe mạnh ít
khi bị mắc bệnh nấm. [24], [25],[15].
Sự xâm nhập diễn ra khi một bào tử nấm nhiễm vào cơ thể ở trạng thái
nghỉ không hoạt động, sau đó chuyển hóa trong cơ thể vật chủ, nẩy mầm và

sinh sản rồi xâm nhập vào mô. Mỗi hình thái nấm như: Sợi nấm, bào tử nấm
hoặc tế bào nấm men có tính kháng nguyên đặc trưng khác nhau. Do đó, khi
xâm nhập vào cơ thể nấm gây ra sự đáp ứng miễn dịch với cơ thể vật chủ và
sẽ có hai cơ chế bảo vệ: Miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế
bào [26].
Trong quá trình trao đổi chất vì lý do nào đó è thiếu hụt gen mã hóa
Enzym tổng hợp axit béoè vi nấm không tự tổng hợp axit béo è sử dụng
nguồn axit béo từ bên ngoài.
- Xu hướng tìm vùng giàu chất bã nhờn: da đầu, mặt, lưng, ngực…
Malassezia.spp tiết 8 loại Lipase và 3 loại Photpholipase
è
Thủy phân
axit béo trung tính
è
axit béo tự do
è
phản ứng trung gian tế bào
è
kích
hoạt con đường gây viêm [18]
- Khả năng né tránh và chống lại quá trình thực bào do:
+ Lớp lipid dày bao quanh tế bào nấm
+ Tính đa kháng nguyên và thay đổi thành phần tế bào.
1.5 Một số yếu tố thuận lợi
Bệnh do nấm Malassezia thường có nguồn gốc nội sinh do các loài
Malassezia phát triển quá mức gây bệnh, đặc biệt khi có điều kiện thuận lợi
[27],[28],[29],[15]
Các yếu tố thuận lợi hay gặp là:
12
* Yếu tố bên trong:

- Sinh lý: phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh
- Bệnh lý toàn thân: Nhiễm trùng cấp và mạn tính, bệnh chuyển hóa, béo
phì…Các bệnh lý như bỏng, ung thư, Hodking, nhiễm HIV/AIDS…
- Bệnh lý tại chỗ làm thay đổi tính chất da: VDCD, Rụng tóc, Bạch biến…
- Sử dụng hóa chất: Dùng kháng sinh phổ rộng, kéo dài làm thay đổi sự
cân bằng vi hệ…
* Yếu tố bên ngoài:
- Người già sức đề kháng suy giảm
- Loét do bỏng
- Điều kiện vệ sinh kém, không ý thức bệnh tật hoặc thiếu kiến thức
- Môi trường vi khí hậu thay đổi…
- Ngoài ra thói quen dùng dầu dưỡng tóc, kem chống nắng, môi trường
nóng ẩm… là những yếu tố rất thuận lợi cho vi nấm Malassezia ssp phát triển
và gây bệnh.
1.6 Tình hình nhiễm vi nấm Malassezia ssp
1.6.1 Trên thế giới
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng: các loài Malassezia đóng vai
trò rất quan trọng trong căn nguyên sinh bệnh của: lang ben, viêm da tiết
bã, viêm da cơ địa, viêm nang lông… [20],[30].[31]
Trong các báo cáo ở vùng Mexico, Trung và Nam Mỹ gặp tỷ lệ bệnh
lang ben do Malassezia là 50%. Ở Thái Lan tỷ lệ bệnh lang ben chiếm 4%
trong tổng số bệnh nhân khám Da liễu tại bệnh viện Ramathibodi. Ở Ý chiếm
45% trong số các bệnh nấm nông.
Nhiễm vi nấm Malassezia có thể gặp ở mọi lứa tuổi ở các vùng địa lý và
khí hậu khác nhau. Một nghiên cứu ở bệnh viện nhi khoa Sal-PaoLo (Brasil)
13
cho biết tỷ lệ trẻ nhiễm Malassezia.spp chiếm 23% (độ tuổi 0-18 tháng tuổi),
28% ( 11-15 tuổi). Tại Tây Ban Nha, Martinez - Roig và cộng sự nghiên cứu
trên 1000 bệnh nhi ở độ tuổi từ 2 tháng đến 7 tuổi thấy tỷ lệ nhiễm
Malassezia chiếm khoảng 34,5% trong số bệnh da. Một nghiên cứu khác ở

Thụy Sỹ cho biết tỷ lệ nhiễm Malassezia chiếm 87% ở nhóm trẻ em độ tuổi 2
tháng đến 15 tuổi. Nhưng cũng có một nghiên cứu ở Israell lại kết luận là
không tìm thấy vi nấm Malassezia ở nhóm trẻ em độ tuổi 2 tháng đến 15
tuổi [32]
Trên thế giới, tuỳ theo số liệu nghiên cứu của từng tác giả cho thấy viêm
da dầu chiếm khoảng 1-5% dân số [33], [22]. Tajima và cộng sự (2008)
nghiên cứu trên 31 bệnh nhân VDD cho thấy ở 93,5% vùng da bị tổn thương
có Malassezia và cao gấp 3 lần so với ở vùng da lành 61,3%. Ở người
nhiễm HIV/AIDS, tỷ lệ mắc bệnh viêm da dầu rất cao. Theo Betty Anne
Johnson tỷ lệ này là 85% [35]. Cũng theo nghiên cứu này cho biết ở những
bệnh nhân suy giảm miễn dịch bệnh thường nặng, dai dẳng và kém đáp ứng
với các phương pháp điều trị thong thường. Gần đây các nhà khoa học phát
hiện ra rằng M. globosa là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp của
gàu. Nhiều nghiên cứu chứng minh gầu da đầu không chỉ ảnh hưởng tới
người bệnh ở góc độ bệnh lý như bong vẩy gầu nhiều, ngứa ngáy, khó chịu
mà còn ảnh hưởng tâm lý, không tự tin trong giao tiếp sinh hoạt, ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng cuộc sống. [20]
Viêm da cơ địa là bệnh mạn tính có liên quan yếu tố di truyền. Thông
thường điều trị bằng corticoid, điều biến miễn dịch và dưỡng ẩm nhiều khi
không đáp ứng. Đặc biệt khi tình trạng da khô và chức năng da suy yếu là
điều kiện thuận lợi kích hoạt quá trình dị ứng bởi các vi sinh vật, bọ ve, bụi
nhà…Trong đó, phải kể đến vai trò vi sinh vật gây bệnh là một yếu tố quan
trọng làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh.
14
Một nghiên cứu khác chỉ ra có hơn 90% VDCĐ vùng đầu và cổ có hàm
là lượng kháng thể IgE trong huyết thanh kháng lại kháng nguyên của
Malassezia. Trong đó có khoảng 83% VDCĐ ở người lớn liên quan đến
Malassezia [22]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chính việc lạm dụng thuốc điều
trị taị chỗ Corticoit cũng như các chất dưỡng ẩm và kết hợp một số yếu tố
liên quan khác đã vô hình chung tạo môi trường thuận lợi cho sự gia tăng số

lượng cũng như sự sinh sản và phát triển của vi nấm Malassezia.
Một báo cáo năm 2008 tại Trung Quốc cho thấy có khoảng 1,5% các
bệnh nhân Da liễu đã được chẩn đoán viêm nang lông do vi nấm Malassezia.
Trong số đó, hầu hết họ đều là nam giới khỏe mạnh và đang ở độ tuổi trung
niên [36]. Một nghiên cứu khác ở Philippines cho biết có khoảng 16% bệnh
nhân viêm nang lông do Malassezia trong tổng số bệnh lý nang lông [37].
Từ tháng 7 năm 1996 đến tháng 12 năm 1999, một nghiên cứu trên 588
bệnh nhân có thương tổn móng tay với chẩn đoán nấm móng tại các Phòng
khám Da liễu và vi khuẩn học EPM \ UNIFESP, Brazil. Cùng thời gian đó ở
Chile, V.Silva cũng có báo cáo về các trường hợp nhiễm nấm móng do
Malassezia spp. Bên cạnh đó, bằng các xét nghiệm soi tươi, nuôi cấy định loại
và sinh học phân tử, một số nghiên cứu đã khẳng định M.furfur là căn nguyên
gây nấm móng [26],[38],[39].
Ngoài ra vi nấm Malassezia còn gây viêm tai giữa, nấm móng, đôi khi
phối hợp với các viêm nhiễm do virus ở dạng u nhú. Có nhiều báo cáo về tình
trạng nhiễm Malassezia spp ở máu ngoại vi và nội tạng; năm 1996 tại Iran
báo cáo trường hợp nhiễm Malassezia spp trong máu trẻ sơ sinh khi đang
truyền máu [40]. Năm 1987, Gueaho E và cộng sự đã báo cáo trường hợp
nhiễm nấm hệ thống do một loài vi nấm rất đặc biệt thường gây bệnh cho
động vật có tên là Malassezia pachydermatis gây nên. [20]
15
1.6.2 Việt Nam
Việt Nam là nước có nguy cơ mắc các bệnh do nấm rất cao. Bởi nơi đây
có những đặc điểm tự nhiên, địa lý nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên có
nhiệt độ và độ ẩm cao. Đồng thời, cùng với sự phát triển của nền văn minh
lúa nước chủ yếu làm nông nghiệp nên đa phần ý thức còn kém trong việc
thực hiện đúng nguyên tắc vệ sinh và phòng bệnh. Bên cạnh đó, việc sử
dụng thuốc một cách bừa bãi và thiếu kiểm soát, kèm theo một số bệnh lý
gây suy giảm miễn dịch như: nhiễm HIV/AIDS, ung thư, nhóm bệnh
chuyển hóa… [24], [27].

Một số nghiên cứu liên quan đến biểu hiện bệnh da do Malassezia tại
Việt Nam; theo số liệu Trần Lan Anh điều tra ở một xã thuộc ngoại thành Hà
Nội thì Lang ben chiếm 3,1% trong số 513 người được khám [41]. Nghiên
cứu của Lê Anh Tuấn năm 2006 cho thấy viêm da dầu chiếm 1,5% số bệnh
nhân đến khám tại Bệnh viện Da liễu TW [42]. Nghiên cứu của Hoàng Thị
Phượng năm 2009 khoảng 2,13% [33]. Tại một phòng khám ở Việt Nam ghi
nhận có khoảng 16% bệnh nhân nhiễm vi nấm Malassezia ở nang lông. Ngoài
ra, sự tham gia của vi nấm Malassezia ssp vào quá trình gây bệnh trứng cá đã
được Lê Kinh Duệ đề cập đến. Nhưng theo tác giả này nhận định vai trò của
vi nấm là rất nhỏ so với vi khuẩn Propioni bacterium acnes trong sinh bệnh
học của trứng cá [9].
1.7 Một số biểu hiện bênh lý do nhiễm nấm Malassezia.ssp
1.7.1 Lang ben
Lang ben ( Pityriasis Versicolor - PV) là một bệnh mạn tính của lớp
sừng, gây ra bởi một nhóm nấm men trước đây có tên là Pityrosporium, nay
thống nhất dưới tên gọi là Malassezia.spp.
16
Bệnh gặp bất kỳ tuổi nào nhưng thông thường từ 20 - 45 còn trẻ em và
người già ít bị. Có một số quan điểm khác nhau về bệnh lang ben có lây hay
không? Theo Eduado Silva bình thường bệnh không lây vì nó thuộc vi hệ.
Nhưng dưới ảnh hưởng một số yếu tố thuận lợi: khí hậu nóng ẩm, tính chất da
thay đổi, sức đề kháng suy giảm…tạo điều kiện vi nấm tăng sinh và gây bệnh
[43]. Nhưng Jose Latoni thì cho rằng bệnh có thể lây do dùng chung ga
giường, quần áo.
* Triệu chứng lâm sàng
Bệnh biểu hiên thể điển hình với các triệu chứng rất dễ nhận biết. Đó là
đám màu hồng nâu, hình tròn, ranh giới rõ, đôi khi là những đám thuơng tổn
mất sắc tố. Thường khu trú vùng cổ, ngực, lưng, vai, cánh tay. Hiếm khi ở
cẳng tay, chân cũng như lòng bàn tay và bàn chân [44].
● Chẩn đoán của lang ben nói chung là đơn giản

- Triệu chứng lâm sàng điển hình
- Xét nghiệm: Kết quả soi trực tiếp cho kết quả dương tính 80 - 90%,
trong đó đa phần (89%) cho hình ảnh điển hình là “mì ống và thịt viên”. Theo
dữ liệu của một số nghiên cứu gần đây về nuôi cấy, định loại và kỹ thuật
ADN đã khẳng định M. globosa là loài gây bệnh phổ biến nhất trong bệnh
lang ben; một nghiên cứu năm 2000 do F.Sanchez F thực hiện đã chỉ ra rằng
căn nguyên gây lang ben là M.globosa [45]. Trong đó, M.globosa chiếm
khoảng 53,3%, tiếp theo M. furfur 25,3%, M. sympodialis 9,3%, còn M.
obtusa 8,1% và M. slooffiae 4,0%. Bên cạnh đó, Gupta et al cũng tìm thấy M.
sympodialis là tác nhân chủ yếu trong lang ben đối với vùng khí hậu ôn đới,
còn M. globosa là tác nhân chính ở các vùng nhiệt đới [22].
1.7.2.Viêm da dầu
17
Viêm da dầu (Seborrheic Dermatitis - SD) là bệnh da mạn tính thường
gặp. Bệnh chủ yếu ở trẻ sơ sinh, tuổi dậy thì và độ tuổi ngoài 50, nam gặp
nhiều hơn nữ [42].
Tác nhân gây bệnh viêm da dầu còn đang tiếp tục được làm rõ, tuy nhiên
nhiều nghiên cứu cho thấy viêm da dầu thường xảy ra trên cơ địa những
người tăng tiết chất nhờn kết hợp nhiễm nấm Malassezia ssp [23], [46].
Các nghiên cứu về Malassezia ở bệnh nhân VDD đều cho thấy vai trò
đặc biệt của nấm men trong cơ chế bệnh sinh của VDD. Giả thuyết này càng
mạnh mẽ khi thấy hiệu quả của các thuốc chống nấm trong điều trị bệnh, sự
giảm số lượng Malassezia sau khi điều trị và trong mỗi đợt bệnh tái phát có
sự tái nhiễm của Malassezia. Các nghiên cứu trên thế giới thấy rằng, điều trị
VDD bằng thuốc chống nấm làm giảm số lượng Malassezia do đó làm cải
thiện các triệu chứng lâm sàng của bệnh [30], [42].
Zaidi Z và Cs (2002) cho thấy ở người bình thường Malassezia chiếm
40%, trong khi tỷ lệ này ở bệnh nhân viêm da dầu là 82%. Đặc biệt nghiên cứu
của Zaidi Z cho thấy ở những người bình thường mật độ Malassezia có chỉ số
1+, trong khi bệnh nhân viêm da dầu ở mức 2+, 3+ hoặc 4+ và các mức độ này

tương đương với mức độ trầm trọng của bệnh là nhẹ, trung bình và nặng [15].
Đa số các nghiên cứu trên cho thấy mật độ Malassezia có liên quan đến
mức độ nặng, nhẹ của bệnh viêm da dầu và nhiều tác giả đều kết luận
Malassezia có mối quan hệ đặc biệt với tổn thương ở bệnh nhân VDD, nhưng
vai trò cụ thể của loài nấm này trong cơ chế bệnh sinh của VDD như thế nào
thì vẫn chưa được rõ ràng.
Tuy nhiên, ban đầu đã có vài giả thiết dần dần làm sáng tỏ vấn đề trên.
Theo Parry và Sharpe, Malassezia có thể gây phản ứng viêm do sản xuất ra
các chất gây độc trong một số trường hợp đặc biệt [29]. Các chất gây độc này
18
được các nhà nghiên cứu đặt tên là các chất hóa ứng động bạch cầu giống như
lipid (lipid-like leukocyte activator – LILA). Và điều này giải thích vì sao tiến
triển của VDD thường không dự đoán trước được. Ngoài đáp ứng viêm do
LILA, các acid béo kích ứng và acid arachidonic do Malassezia sản xuất ra
cũng góp phần gây phản ứng viêm ở bệnh nhân VDD.
* Triệu chứng lâm sàng
Biểu hiện dát đỏ, ngứa và vảy da bóng mỡ xuất hiện ở vùng da có nhiều
tuyến bã hoạt động. Theo các y văn trên thế giới các vị trí tổn thương thường
gặp trong bệnh VDD là những nơi tiết bã nhiều như da đầu, trán, rãnh mũi
má, mi mắt, cung mày, sau tai, ống tai ngoài, vùng trước xương ức, vùng liên
bả vai. Trong nghiên cứu Nguyễn Thị Phượng (2009) vị trí tổn thương
thường gặp nhất là rãnh mũi má 93%. Các vị trí ít gặp hơn là kẽ nách, nếp lằn
vú, rốn, vùng bẹn sinh dục và kẽ liên mông. Tuy nhiên, khi bệnh nặng tổn
thương có thể lan toả khắp cơ thể. Từ sự phân bố tổn thương trong bệnh VDD
có thể thấy rằng có sự liên quan rất mật thiết giữa vị trí da dầu với bệnh [33]
* Chẩn đoán xác định
- Chủ yếu dựa vào lâm sàng
- Để xác định căn nguyên có nhiễm nấm Malassezia ssp cần thiết phải
xét nghiệm soi tươi tìm nấm. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra
rằng M. furfur là loài gây bệnh chính. Tuy nhiên, gần đây người ta đã khẳng

định vai trò chủ yếu do loài M. restricta, kế đến M.globosa, sau đó mới đến
các loài khác trong đó có M.furfur [45], [42].
1.7.3. Gầu da đầu
19
Các biểu hiện trên da đầu mà thường được gọi là "gàu" gây ra bởi nhiều
yếu tố của cơ thể kết hợp với hệ vi nấm Malassezia ssp. Thật vậy, các nghiên
cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng chính tác dụng của thuốc kháng nấm tương quan
với một tình trạng lâm sàng được cải thiện, khi da khô gặp không khí lạnh
trong suốt mùa đông là nguyên nhân phổ biến nhất của ngứa, bong vẩy gàu ở
đầu. Đó là một trong những nguyên nhân thường gặp nhất của gàu. Theo
Flakes những người da khô thường tiết ít dầu hơn so với những người da bình
thường nên dễ bị kích thích tăng tiết nhiều bã nhờn trên da. Khi da tăng tiết bã là
tức là bệnh ảnh hưởng không chỉ đến da đầu mà còn xuất hiện trên các bộ phận
khác của cơ thể, chẳng hạn như lông mày của bạn, hai bên mũi và lưng, xương
ức, vùng nách, vùng háng đôi khi gặp ở cánh tay và chân. Nếu bạn không gội
đầu thường xuyên thì dầu và các tế bào da từ da đầu của bạn có thể phát triển ở
các vùng da khác của cơ thể [42], [29], [21].
Một loại nấm men Malassezia spp ký sinh trên da đầu của hầu hết người
trưởng thành khỏe mạnh mà không gây ra vấn đề gì. Nhưng đôi khi nó phát
triển vượt ra khỏi tầm kiểm soát và sử dụng các loại dầu tiết ra từ nang tóc là
nguồn thức ăn lý tưởng cho chúng. Điều này có thể gây kích ứng trên da đầu
và gia tăng sự phát triển các tế bào vẩy da nhiều hơn. Các tế bào da chết và
bong đi sau đó kết tụ lại cùng với dầu tiết ra từ nang tóc và da đầu làm cho
chúng tạo thành mảng vẩy màu trắng. Chúng bám dính trên mái tóc hoặc trên
quần áo. Bên cạnh đó, sự phát triển quá mức của Malassezia trong một số
trường hợp: nội tiết tố thay đổi, hệ thống miễn dịch bị ức chế, mắc bệnh lý
như bệnh Parkinson. Ngoài ra, tình trạng căng thẳng, có những rối loạn về
thần kinh, không gội đầu thường xuyên và đặc biệt sự nhạy cảm với vi nấm
Malassezia có thể đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển của gàu da đầu [15].
Trong nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nấm gây hiện tượng gàu trên da đầu bằng

cách sản xuất các enzym được gọi là lipases. Đầu tiên vi nấm sử dụng lipases để
20
phá vỡ các bã nhờn, tạo ra một hợp chất gọi là axit oleic. Sau đó, thâm nhập vào
lớp trên cùng của da và gây ra phát triển rất nhanh hàng loạt các tế bào biểu mô
da ở những người mẫn cảm dẫn đến tăng sinh gàu da đầu [8], [27],[47].
1.7.4 Viêm nang lông
Vi nấm Malassezia ssp viêm nang lông với biểu hiện thương tổn thường
lành tính thường gặp như ngứa, mụn mủ, sẩn đỏ nang lông phân bố chủ yếu ở
thân mình, lứa tuổi hay gặp là người trung niên và trẻ tuổi. Bệnh tuy không
nguy hiểm nhưng gây nên tình trạng rất khó chịu cho người bệnh. Năm 1969
một nghiên cứu đã lần đầu tiên mô tả vi nấm Pityrosporum gây tình trạng
viêm nang lông. Sau đó, vào năm 1973, Potter đã nhận thấy viêm nang lông
có căn nguyên do vi nấm Malssezia spp khi ông tiến hành nhiều phương pháp
riêng biệt cùng lúc như: dấu hiệu lâm sàng, nấm học và mô bệnh học đều cho
kết quả phù hợp.
Bệnh thường xuất hiện tổn thương mãn tính, ban đỏ, sẩn ngứa và mụn
mủ. Những tổn thương thường biểu hiện vị trí ở lưng và ngực đôi khi trên cổ,
vai, cánh tay hiếm khi hiện diện trên khuôn mặt. Thông thường rất ngứa, có
mụn mủ nhỏ ở da kèm theo ban đỏ. Một số vùng có yếu tố khí hậu ảnh hưởng
đến tỷ lệ những người nhiễm vi nấm Malassezia gây viêm nang lông. Những
người sống ở vùng khí hậu ấm và ẩm ướt có tỷ lệ nhiễm cao hơn và ngày càng
gia tăng ở vùng này. Vi nấm này chủ yếu gặp ở tuổi vị thành niên [2], phổ
biến nhất ở những người khoảng 13-45 tuổi với tỷ lệ nữ / nam là 1,5:1
Ngoài ra, những người có thói quen dùng các sản phẩm dưỡng da, chăm
sóc tóc cùng với nhiều loại mỹ phẩm, sữa, kem chống nắng, chất làm mềm,
dầu ôliu. Ngay cả chất liệu của trang phục, quần áo cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho vi nấm Malassezia viêm nang lông, Một số yếu tố liên quan thuận lợi
tạo điều kiện cho vi nấm gây viêm nang lông bao gồm: đái tháo đường, suy
giảm miễn dịch, và nhiễm Candida hệ thống [48]. Khi quan sát vi thể
21

Malassezia trong nang lông qua các phương pháp nhuộm PAS và nhuộm
Grocott-Gomori methenamine, đa phần chỉ quan sát hình thái nấm men,
không có hình thái sợi nấm. Thông thường khi phát hiện có vi nấm thì tiên
lượng và điều trị không khó khăn. Nhưng nếu không điều trị, vi nấm xâm
nhập sâu nang lông có thể là viêm mạn tính và hoại tử nang lông [49]. .
1.7.5. Nấm móng do Malassezia.spp
Mặc dù hầu hết các trường hợp của nấm móng gây ra bởi các chủng nấm
da. Tuy nhiên, gần đây có nhiều báo cáo trong y văn đã phân lập được
Malassezia.sp là căn nguyên gây bệnh nấm móng . Tuy móng không phải là
một nguồn thức ăn lý tưởng của vi nấm nhưng do nấm men thiếu khả năng
sừng hóa (keratolytic) đồng thời xuất hiện những biến đổi không bình thường
trong quá trình sinh trưởng nên chúng xâm chiếm và phá hủy móng, chủ yếu
móng tay. Tuy nhiên, vẫn có những báo cáo trái ngược nhau xoay quanh vấn
đề vi nấm Malassezia là một tác nhân gây bệnh thực sự ở móng hay không
[38].
Chowdhary đã cô lập Malassezia furfur từ vẩy móng tay thu được ở tổn
thương nấm móng tăng sừng trên bàn tay và bàn chân của nam bệnh nhân 13
tuổi [39]. Crespo-Erchiga đã khẳng định rằng họ đã từng gặp phải Malassezia
spp và Candida spp gây bệnh ở móng. Nhưng bởi vì tỉ lệ nhiễm Malassezia
ssp rất thấp trong các mẫu bệnh phẩm, nên họ đã tranh luận và tìm hiểu rất
nhiều. Tuy nhiên, bằng chứng rõ ràng nhất là khi tiến hành điều trị bệnh nhân
nhiễm nấm ở móng đã cho thấy có sự thuyên giảm cả về lâm sàng và xét
nghiệm. Sau đó, họ đã đi đến việc tuyên bố rằng Malassezia.spp là một tác nhân
gây bệnh thực sự trong nấm móng [49], [34].
Sự tồn tại của Malassezia trong các mẫu bệnh móng là rất quan trọng,
nó như là một nguồn lây nhiễm vi nấm bởi nó tồn tại dai dẳng trong móng và
rất khó phát hiện cũng như điều trị kéo dài hơn các thương tổn do các chủng
22
nấm khác gây ra. Do đó, có thể là nguồn lây nhiễm ra môi trường cũng như
chính trong cơ thế người bệnh. Người ta đã phát hiện bệnh nhân nằm điều trị

hồi sức tích cực bị nhiễm Malassezia ssp huyết. Trong khi đi tìm
nguồn lây người ta đã phát hiện ở móng tay của người chăm sóc y
tế bị nhiễm Malassezia ssp và họ cho rằng tất cả bệnh nhân điều trị
ức chế miễn dịch cần được đánh giá cẩn thận để phát hiện ngay từ
ban đầu những viêm nhiễm ở móng tay của bệnh nhân bằng các xét
nghiệm soi tươi và nuôi cấy nấm. [23], [50].
Vai trò bệnh nguyên của Malassezia ssp trong nấm móng là một vấn đề
gây nhiều tranh cãi vì khả năng li giải keratin (keratinolytic) chưa từng được
xác minh một cách thuyết phục. Gần đây, một số minh chứng cận lâm sàng đã
khẳng định bằng các kỹ thuật như: quy trình KOH+Parker Ink, nhuộm
hematoxylin, eosin (H&E) và nhuộm axit Schiff (PAS). Qua đó, phần nào cho
thấy sự thâm nhập của tác nhân nấm các lớp sâu hơn của keratin. Tiếp theo,
người ta đã tiến hành xác định căn nguyên của ba trường hợp nghi nhiễm nấm
móng do Malassezia spp đầu tiên. Họ đã thực hiện liên tiếp nhiều lần định
loại chủng nấm được lấy từ mẫu bệnh phẩm ở móng tay và xác định chủng
nấm gây bệnh là M. furfur. Sau đó, người ta đã tiến hành điều trị bằng
ketoconazole và sau hơn 12 tuần điều trị liên tục thì kết quả xét nghiệm không
thấy nấm và trên lâm sàng móng tay đã trở lại bình thường. Nấm móng chủ
yếu gặp ở tay chiếm khoảng 18-40% trong số các viêm móng và 39% trong số
các bệnh nhiễm nấm bề mặt [38].
1.7.6. Một số biểu hiện khác do nhiễm nấm Malassezia.spp
- Malassezia thuộc vi hệ nên vi nấm này có mặt khắp nơi và gây bệnh
nhiều vị trí với các biểu hiện triệu chứng đa dạng trong rất nhiều bệnh cảnh
lâm sàng. Malassezia có thể gặp trong viêm da cơ địa và thông thường
23
Malassezia làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh. Ngoài ra, trong một số bệnh
lý khác: Trứng cá thông thường, U nhú thể mảng, Gaiden, Bạch biến
- Xâm nhập cơ quan, hệ thống: Người ta đã phát hiện bệnh nhân nằm
điều trị hồi sức tích cực bị nhiễm Malassezia.spp huyết. Ngoài ra, nhiều
nghiên cứu khác đã cùng nhận định Malassezia.spp là tác nhân gây bệnh ở

phổi, viêm màng bụng, nhiễm khuẩn huyết qua đặt Catheter [51],[29],[48].
Sau đó, các nhà khoa học thuộc đại học Amsterdam đã tiến hành nuôi cấy,
định loại nấm và thực hiện kỹ thuật sinh học phân tử đã xác định có hai loài
gây bệnh hệ thống hay gặp: M.pachydermatis chiếm khoảng 46% và M.furfur
chiếm 63% [40].
- Theo nghiên cứu CDC (1984) nhận thấy vi nấm Malassezia.spp gây bệnh
nhiều nơi. Khi người ta tiến hành lấy các mẫu từ bệnh phẩm: máu, nước tiểu,
đờm, phân đều có thể phân lập được Malassezia.spp với tỷ lệ khá cao [52],[42].
1.8 Chẩn đoán bệnh do nấm Malassezia.spp
1.8.1 Triệu chứng lâm sàng
Thông thường các triệu chứng biểu hiện rất đa dạng và không đặc hiệu.
- Dát đỏ, bong vẩy da
- Da tăng tiết bã nhờn
- Gầu da đầu
- Dát tăng, giảm sắc tố
- Sẩn đỏ kèm ngứa vùng lông, tóc
- Vị trí chủ yếu: Da đầu, vùng mặt (rãnh mũi má, vùng trán, cằm, giữa
hai cung mày), lưng ngực, Một số vị trí khác ít gặp hơn như: móng tay, chân,
các nếp kẽ (kẽ cổ, kẽ bẹn, kẽ nách, kẽ tai,).
- Triệu chứng cơ năng: chủ yếu là ngứa
24
1.8.2 Cận lâm sàng
Có nhiều phương pháp phát hiện nấm Malassezia.spp như: xét nghiệm trực
tiếp bằng kỹ thuật KOH + Parker ink, nuôi cấy và phân loại, PCR…
Tại phòng xét nghiệm vi Nấm Bệnh viện Da liễu TW số lượt bệnh nhân
Tại phòng xét nghiệm vi Nấm Bệnh viện Da liễu TW số lượt bệnh nhân


làm xét nghiệm nấm trong một vài năm gần đây gia tăng một cách đáng kể.
làm xét nghiệm nấm trong một vài năm gần đây gia tăng một cách đáng kể.



Và để làm tốt công tác xét nghiệm Nấm nhằm phục vụ bệnh nhân cũng như
Và để làm tốt công tác xét nghiệm Nấm nhằm phục vụ bệnh nhân cũng như


giúp các bác sỹ lâm sàng chẩn đoán và điều trị hiệu quả hơn. Chúng tôi luôn
giúp các bác sỹ lâm sàng chẩn đoán và điều trị hiệu quả hơn. Chúng tôi luôn


chú trọng nâng cao năng lực chẩn đoán trên kính hiển vi thông qua các xét
chú trọng nâng cao năng lực chẩn đoán trên kính hiển vi thông qua các xét


nghiệm trực tiếp, đặc biệt nhận định chính xác nhóm nấm men gây bệnh. Khi
nghiệm trực tiếp, đặc biệt nhận định chính xác nhóm nấm men gây bệnh. Khi


ta quan sát các mẫu bệnh phẩm trên kính hiển vi có thể gặp hình ảnh điển
ta quan sát các mẫu bệnh phẩm trên kính hiển vi có thể gặp hình ảnh điển


hình của
hình của
Malassezia
Malassezia
như: sợi nấm + tế bào men, hoặc sợi nấm thô ngắn như
như: sợi nấm + tế bào men, hoặc sợi nấm thô ngắn như



sợi miến vụn, đặc biệt nhiều khi chỉ gặp hình thái tế bào nấm men. Các tế bào
sợi miến vụn, đặc biệt nhiều khi chỉ gặp hình thái tế bào nấm men. Các tế bào


nấm men này thường có kích thước nhỏ và ẩn trong chất bã, vẩy da đồng thời
nấm men này thường có kích thước nhỏ và ẩn trong chất bã, vẩy da đồng thời


đa hình thái như hình cầu
đa hình thái như hình cầu
(P.Orbicculair
(P.Orbicculair
) và/ hoặc hình bầu dục (
) và/ hoặc hình bầu dục (
P.Oval
P.Oval
). Vì
). Vì


vậy, khi cạo vẩy da và soi trong KOH 10% hoặc 30% đơn thuần sẽ rất khó
vậy, khi cạo vẩy da và soi trong KOH 10% hoặc 30% đơn thuần sẽ rất khó


nhận định hình thái nên dễ dàng bỏ sót. Do đó, trước hết chúng tôi tìm
nhận định hình thái nên dễ dàng bỏ sót. Do đó, trước hết chúng tôi tìm


thương tổn điển hinh và lựa chon cach lấy bệnh phẩm phù hợp ( có thể cạo
thương tổn điển hinh và lựa chon cach lấy bệnh phẩm phù hợp ( có thể cạo



vẩy ra hoặc dung băng dinh). Sau đó, thay đổi nông độ KOH 20% có kết hợp
vẩy ra hoặc dung băng dinh). Sau đó, thay đổi nông độ KOH 20% có kết hợp


với Parker ink tỷ lệ phù hợp (2: 1). Các xé
với Parker ink tỷ lệ phù hợp (2: 1). Các xét nghiệm soi trực tiếp có tầm quan
trọng trong việc nhận định hình thái và số lượng Malassezia nhưng chỉ mang
tính tương đối. Tuy nhiên phần nào đã chứng tỏ sự hiện diện vi nấm
Malassezia tồn tại vi hệ đã trở thành tác nhân gây bệnh cơ hội trên một số
bệnh da. Theo một số tác giả vấn đề nuôi cấy không cần thiêt đối với các
bệnh phẩm lâm sàng không chỉ bởi thời gian mọc chậm mà vi nấm khó mọc
và đòi hỏi môi trường đăc biệt. Hơn nữa, tỷ lệ lâm sàng, nuôi cấy, soi tươi
(3:2:1). Quan điểm này phù hợp với nghiên cứu V.Silva và cộng sự cho biết
tầm quan trong của xét nghiệm trực tiếp tìm nấm cho kết quả chẩn đoán sơ bộ
25

×