Tải bản đầy đủ (.doc) (200 trang)

giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản việt nam vào thị trường trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.03 KB, 200 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI
NGUYỄN THỊ ĐƯỜNG
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ


HÀ NỘI - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG
1
VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI
NGUYỄN THỊ ĐƯỜNG
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
Chuyên ngành: Thương mại
Mã số: 62.34.10.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Văn Lịch
2. GS.TS Đỗ Đức Bình

HÀ NỘI - 2012
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Là một quốc gia Đông Nam Á, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
với dân số hơn 86 triệu người, trong đó hơn 70% là nông dân nên sản xuất nông
nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước.
Việt Nam có diện tích 330.363 km², trong đó diện tích đất nông nghiệp


khoảng 10,5 triệu ha, chiếm 1/3 diện tích cả nước, bao gồm nhiều loại thổ nhưỡng
có giá trị cao như đất đỏ Bazan, đất phù sa rất thích hợp để phát triển các loại cây
công nghiệp, cây rau mầu và cây lương thực. Với tài nguyên đất đai, khí hậu và
địa hình đa dạng là các lợi thế về điều kiện tự nhiên cho sản xuất và xuất khẩu
nông sản.
Thực tiễn hoạt động kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây cho thấy
xuất khẩu nông sản có một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, chiếm 14
-15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu nông sản tạo ra nguồn
vốn quan trọng để tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực và lợi
thế quốc gia, tạo công ăn việc làm, giữ ổn định nền kinh tế đất nước, mở rộng các
quan hệ kinh tế đối ngoại và tăng cường địa vị kinh tế của Việt Nam trên thị
trường thế giới.
Trong các thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam, Trung Quốc có vai trò
rất quan trọng. Đây là thị trường lớn với hơn 1,3 tỷ người tiêu dùng, có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và đang trong quá trình chuyển đổi mạnh về cơ cấu kinh tế
nên có nhu cầu ngày càng lớn về các loại nông sản để phục vụ nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng. Xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu đáng
khích lệ và Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn và quan trọng của
nông sản Việt Nam. Năm 2010, xuất khẩu các loại nông sản như: cao su, gạo, chè,
cà phê, hạt điều, rau quả, sắn và các sản phẩm từ sắn vào Trung Quốc đạt giá trị
2,31 tỷ USD, chiếm 22,48% tổng kim ngạch xuất khẩu các loại nông sản trên của
cả nước và chiếm 31,55% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào
3
Trung Quốc. Một yếu tố cần lưu ý là thị phần cho các mặt hàng nông sản chủ lực
của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của Trung Quốc vẫn nhỏ
nên không gian cho xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc còn
rất lớn.
Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc thời gian qua còn nhiều
tồn tại, hiệu quả xuất khẩu thấp do cơ cấu hàng xuất khẩu chậm được khắc phục,

chủ yếu xuất khẩu nông sản dưới dạng thô, không thương hiệu nên giá trị gia tăng
thấp, thậm chí ngay cả xuất thô cũng làm chưa tốt nên hiệu quả xuất khẩu không
cao. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu còn nhiều tồn tại, vấn đề về giống và kỹ
thuật canh tác mới còn thấp so với yêu cầu và thấp hơn nhiều quốc gia trên thế
giới. Công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch rất lạc hậu, việc thực hiện vệ
sinh an toàn thực phẩm chưa được giải quyết cơ bản. Hình thức xuất khẩu chưa
hợp lý, chủ yếu theo đường biên mậu nên tiềm ẩn đầy rủi ro và luôn bị động đối
phó với những thay đổi trong chính sách biên mậu của Trung Quốc. Các nhà xuất
khẩu Việt Nam chủ yếu chạy theo lợi ích ngắn hạn, năng lực tiếp cận thị trường
rất yếu, thiếu thông tin và không cập nhật được các thay đổi trong chính sách sau
khi Trung Quốc gia nhập WTO nên không tận dụng được những ưu đãi thuế quan
và khả năng mở rộng thương mại rất khó khăn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên thì có nhiều, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó
nguyên nhân khách quan chủ yếu là Trung Quốc và Việt Nam đã gia nhập WTO
và việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đã đưa quan hệ
thương mại giữa hai nước bước sang một giai đoạn mới, chứa đựng nhiều cơ hội
cũng như đặt ra nhiều thách thức.
Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào Trung Quốc trong những
năm tới cần tận dụng tốt cơ hội từ sự phát triển của thị trường này với phương
châm chia sẻ lợi ích theo nguyên tắc thị trường và các cam kết thương mại quốc
tế, kinh doanh thương mại bình đẳng theo đúng khuôn khổ của WTO. Chuyển
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu chủ yếu dựa vào gia
tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị. Khai thác có hiệu quả lợi thế về vị trí
địa lý gần kề để giảm chi phí vận chuyển, nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản
4
tại thị trường Trung Quốc.
Từ những phân tích trên đây, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Giải
pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung
Quốc ” cho Luận án tiến sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ngoài nước: Quan hệ thương mại Việt - Trung là một chủ đề thu hút sự
quan tâm của nhiều tổ chức và chuyên gia quốc tế, chủ yếu tập trung vào:
- Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO tới nền kinh tế thế giới và
các nước trong khu vực.
- Tác động của việc hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung
Quốc.
- Tác động của việc Việt Nam và Trung Quốc tham gia vào các hiệp định
thương mại khu vực, song phương và đa phương đối với lợi ích thương mại của
hai nước.
Một số công trình tiêu biểu sau:
- Nhóm chuyên gia về Hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc (2001)
nghiên cứu về Tác động của việc hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN -
Trung Quốc đến lợi ích thương mại toàn cầu.
- Elena Ianchovichina, Suthiwart - Narueput và Min Zhao (2002) nghiên
cứu Đánh giá về tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với giá trị xuất
khẩu của các ngành hàng ở các nước châu Á, trong đó có Việt Nam trong giai
đoạn 2001 - 2010.
- Toh Mun Heng and Vasudevan Gayathri (2004) nghiên cứu về Tác động
của tự do hóa thương mại khu vực đối với các nền kinh tế mới nổi: trường hợp
Việt Nam đăng tải trên Tạp chí ASEAN Economic Bulletin.
Trong nước: Trung Quốc là thị trường trọng điểm, có tính chiến lược của
Việt Nam. Quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước đang ở
vào giai đoạn phát triển mạnh. Chính vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở
các cấp, các ngành về quan hệ thương mại Việt - Trung, điển hình là những
nghiên cứu:
5
- PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch với một số nghiên cứu như: Phát triển thương
mại trên hành lang kinh tế trong điều kiện hình thành khu vực thương mại tự do
ASEAN - Trung Quốc (2004); Phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (2005) và một số công trình nghiên cứu về

những điều kiện phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với khu vực Tây
Nam Trung Quốc.
- TS. Trịnh Minh Anh (2003), “Tác động của việc hình thành khu vực
thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc đến kinh tế thương mại Việt Nam” đã
nghiên cứu về tác động của ACFTA đối với kinh tế Việt Nam và quan hệ hợp tác
hai nước trên các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở
hữu trí tuệ.
- Ths. Đỗ Kim Chi (2004), “Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO
đối với cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam” đã nghiên cứu
những tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với sức cạnh tranh của
một số nhóm hàng xuất khẩu Việt Nam như nông sản, dệt may
- Vụ châu Á Thái Bình Dương - Bộ Thương Mại (2004), “Định hướng và
giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn
2006 - 2010” đã phân tích thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 2000 - 2005 và dự báo các mặt hàng xuất khẩu giai đoạn 2006 -
2010, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu.
- Dự án VIE/61/94: “Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu
tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do ITC và Cục xúc tiến thương mại thực
hiện đã đề xuất định hướng xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia, đánh giá
tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2001): Với đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ “Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông lâm sản” đã phân
tích những yếu kém về phương diện sản xuất khiến hàng nông, lâm sản Việt Nam
cạnh tranh kém trên thương trường.
- Ths. Trịnh Thị Thanh Thủy với đề tài “Các giải pháp để Việt Nam khai
thác tối đa những lợi ích thương mại từ Chương trình thu hoạch sớm trong Khu
6
vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung quốc”
- TS. Trần Công Sách (2005) (đề tài mã số KC.06.01 NN), “Nghiên cứu,
điều tra và dự báo thị trường xuất khẩu cho một số chủng loại hàng nông lâm

thủy sản”
Như vậy, cho đến nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu về thị trường Trung
Quốc, tuy nhiên chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu riêng về xuất khẩu nông sản
Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh mới khi Việt Nam gia nhập
WTO, khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có hiệu lực và Trung Quốc
đang từng bước nâng cao yêu cầu về chất lượng hàng nông sản nhập khẩu, đặc
biệt là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm theo các chuẩn mực của WTO, đã có tác
động bất lợi đến xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường này. Do vậy cần có
nghiên cứu chi tiết về xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc để từ đó đề ra quan
điểm, định hướng và các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào
thị trường Trung Quốc trong bối cảnh mới. Chính vì vậy đề tài nghiên cứu của
luận án là hết sức cần thiết.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Hệ thống hoá và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về đẩy mạnh xuất khẩu
hàng nông sản vào một quốc gia và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng
nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.
- Phân tích thực trạng đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị
trường Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010, rút ra những đánh giá về ưu, nhược
điểm, hiệu quả kinh tế và phân tích nguyên nhân của những hạn chế để làm căn cứ
cho việc đề xuất quan điểm, giải pháp và các kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận và thực tiễn việc xuất khẩu
hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là:
7
- Nghiên cứu tập trung vào một số loại nông sản chủ lực là gạo, cao su, hạt
điều, cà phê, chè, hồ tiêu, rau quả. Là nhóm hàng nông sản mà Việt Nam có năng

lực lớn trong sản xuất và xuất khẩu. Các nông sản này chiếm phần lớn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam vào Trung Quốc trong những năm qua.
Đây là các loại nông sản mà Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu lớn và xuất khẩu
của Việt Nam vào thị trường này hiện vẫn chiếm một thị phần rất nhỏ nên còn
nhiều khả năng để mở rộng xuất khẩu trong những năm tới. Từ việc nghiên cứu
nhóm hàng nông sản trên có thể khái quát thành mô thức chung ứng dụng cho các
mặt hàng nông sản khác.
- Trọng tâm tập trung nghiên cứu việc xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc
giai đoạn 2001 - 2010, trong bối cảnh Trung Quốc đang từng bước điều chỉnh
chính sách thương mại theo các chuẩn mực quốc tế sau khi gia nhập WTO và việc
hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đã có nhiều tác động
đến xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào Trung Quốc. Từ đó đề xuất một số
giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản vào Trung Quốc giai
đoạn 2012 - 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án áp dụng các phương pháp cơ bản sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Luận án sử dụng
phương pháp này để phân tích, đánh giá mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng
xuất khẩu với các hệ thống chính sách kinh tế của Chính phủ trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Xuất khẩu hàng hóa nói chung trong đó
có nông sản là một hệ thống gắn kết hữu cơ và sự kết hợp hài hòa các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế liên
ngành, chịu sự tác động của nhiều yếu tố thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác
nhau vì vậy cách tiếp cận nghiên cứu là gắn kết các mối quan hệ bên trong và bên
ngoài, các ngành, các lĩnh vực khác nhau liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nông sản xuất khẩu gồm nhiều mặt
8
hàng khác nhau, ở đây luận án chỉ tập trung nghiên cứu trên một số loại nông sản

xuất khẩu chủ lực là gạo, cao su, hạt điều, cà phê, chè, hồ tiêu, rau quả. Từ việc
nghiên cứu nhóm hàng nông sản này có thể khái quát hóa thành mô thức chung
ứng dụng cho các hàng nông sản khác.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin, các
công trình nghiên cứu trước đây, chủ chương chính sách của Đảng và Chính phủ,
kinh nghiệm của các nước, các số liệu thống kê.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu để cân nhắc, đánh giá
các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và các yếu tố kìm hãm thị trường.
- Phương pháp chuyên gia để đánh giá kết quả nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án chọn lĩnh vực nghiên cứu là thương mại hàng nông sản là lĩnh vực
rất nhậy cảm trong thương mại quốc tế. Đây là một ngành hàng luôn chịu nhiều
rủi ro vì bất trắc của thiên nhiên, của những biến động khó lường về giá cả trên thị
trường do cung cầu chi phối và tác động của những yếu tố địa chính trị và kinh tế
núp dưới bóng trợ cấp, bán phá giá, tự vệ làm bóp méo cạnh tranh lành mạnh.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, mỗi nước nhập khẩu đều cố gắng đưa
ra những rào cản ngày càng tinh vi, phức tạp gây trở ngại đối với hàng nông sản
nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Với mục đích, phạm vi và nhiệm vụ
đã đặt ra, nội dung của luận án có những điểm mới như sau:
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống các mặt tích cực, những
tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong xuất khẩu nông sản Việt Nam vào
thị trường Trung Quốc những năm gần đây dưới tác động của các nhân tố mới
xuất hiện trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc gia nhập tổ chức Thương mại
thế giới WTO, việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA) và Chương trình hợp tác Hai hành lang, Một vành đai kinh tế. Từ những
phân tích này, luận án đưa ra dự báo các thuận lợi và khó khăn trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc những năm tới, từ đó đề xuất quan
điểm, định hướng, các giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản
vào thị trường Trung Quốc cho đến năm 2020.
9

Đóng góp mới về khoa học của luận án là: (1) Luận án đã phân tích về mối
quan hệ gắn bó hữu cơ giữa ba lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu và cơ chế chính sách
của Chính phủ để giải quyết vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc
trong bối cảnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. (2) Đề xuất xây
dựng mối liên kết chặt chẽ, bền vững xuyên suốt từ khâu sản xuất, chế biến,
thương mại (cả xuất khẩu) trên cơ sở tổ chức tốt các chuỗi giá trị ngành hàng, đảm
bảo quyền lợi các tác nhân tham gia chuỗi giá trị bằng cách tăng cường môi
trường cạnh tranh lành mạnh để khắc phục căn bệnh cố hữu trong sản xuất nông
nghiệp hiện nay đó là tình trạng manh mún và tự phát.
Luận án được thực hiện ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, do vậy
những vấn đề đặt ra và giải quyết của luận án gắn bó mật thiết với thực tiễn sinh
động trong việc điều chỉnh các chính sách kinh tế và thương mại của hai nước cho
phù hợp với chuẩn mực của WTO.
7. Bố cục của luận án
Ngoài các trang bìa, mục lục, danh mục bảng, hình vẽ và biểu đồ, danh mục
chữ viết tắt, mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan
đến luận án, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận án được bố cục với kết cấu
03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng
nông sản vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010.
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam
vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020.
10
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu nông sản

1.1.1. Khái niệm và các hình thức xuất khẩu nông sản
1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Theo Adam Smith, phân công lao động xã hội dẫn đến chuyên môn hóa sản
xuất, quá trình chuyên môn hóa sản xuất sẽ tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn
không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn có thể xuất khẩu ra nước ngoài.
Còn theo học thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo thì khi một quốc gia sản
xuất và đem trao đổi những mặt hàng có lợi thế tương đối của mình với một quốc
gia khác thì cả hai quốc gia đều thu được lợi nhuận. Như vậy, xuất khẩu hàng hóa
là một hoạt động tất yếu xảy ra khi phân công lao động xã hội đạt được một trình
độ nhất định. Ta có nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu hàng hóa như:
Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động đưa hàng hóa ra khỏi một nước (từ quốc
gia này sang quốc gia khác) để bán trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh
toán hoặc trao đổi lấy một hàng hóa khác có giá trị tương đương. Nói một cách
khái quát, xuất khẩu hàng hóa là việc đưa hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá
trị sử dụng và giá trị của hàng hóa.
Theo luật pháp Việt Nam: Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là hoạt động bán
hàng của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua
bán hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hóa.
Tóm lại, xuất khẩu hàng hóa nói một cách đơn giản nhất là việc bán một sản
phẩm ra thị trường nước ngoài. Xuất khẩu thuần túy là một chức năng của hoạt
động thương mại.
1.1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa diễn ra vô cùng phong phú và đa dạng,
những hình thức xuất khẩu hàng hóa chủ yếu là:
• Xuất khẩu trực tiếp
11
Là hình thức xuất khẩu, trong đó người bán (người sản xuất, người cung
cấp) và người mua quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện
tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
• Xuất khẩu qua trung gian

Là hình thức mua bán quốc tế được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian
thứ ba và người thứ ba này sẽ được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung
gian phổ biến trong các giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới.
• Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức xuất khẩu ngay tại đất nước mình. Đó là việc bán hàng và thực
hiện các dịch vụ cho người nước ngoài. Hàng xuất khẩu tại chỗ có thể dùng ngay
tại chỗ hoặc được người mua đem ra nước ngoài.
• Hình thức tái xuất khẩu
Là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước mua khác những
hàng hóa đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục
đích của thực hiện giao dịch tái xuất khẩu là mua hàng hóa ở nước này rồi bán
hàng hóa với giá cao hơn ở nước khác và thu về số vốn lớn hơn số vốn bỏ ra ban
đầu.
Hoạt động tái xuất khẩu có thể chia làm hai hình thức: hình thức tạm nhập -
tái xuất và hình thức chuyển khẩu, trong đó:
Hình thức tạm nhập - tái xuất được hiểu là việc mua hàng của một nước để
bán cho nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, làm thủ tục nhập
khẩu hàng hóa vào, rồi sau đó làm thủ tục xuất khẩu mà không qua gia công chế
biến.
Hàng hóa chuyển khẩu được chia thành hai loại. Một là, hàng hóa sau khi
nhập cảnh được cơ quan hải quan cho vận chuyển đến một địa điểm hải quan khác
để làm thủ tục hải quan nhập khẩu. Hai là, hàng hóa ở nơi vận chuyển ban đầu đã
làm thủ tục hải quan xuất nhập khẩu vận chuyển đến một nơi xuất cảnh, do hải
quan nơi xuất cảnh giám sát quản lý cho qua.
• Gia công xuất khẩu
12
Là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó người đặt hàng gia công
ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm
theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia công trong nước tổ chức quá
trình sản xuất sản phẩm theo nhu cầu của khách. Toàn bộ sản phẩm làm ra người

nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công.
1.1.2. Một số lý thuyết liên quan đến trao đổi thương mại
1.1.2.1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối
Adam Smith (1723 - 1790) là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ
thống về nguồn gốc của thương mại quốc tế. Từ việc xây dựng mô hình thương
mại đơn giản dựa trên ý tưởng về lợi thế tuyệt đối, ông đã giải thích lợi ích thu
được từ thương mại quốc tế đối với các quốc gia. Ông cho rằng, lợi ích của
thương mại quốc tế thu được do thực hiện nguyên tắc phân công lao động.
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa, tập trung sản xuất
những hàng hóa mà quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối, thông qua đó cho phép quốc
gia đó sản xuất sản phẩm với chi phí thấp hơn các quốc gia khác, sau đó tiến hành
trao đổi với các quốc gia khác thì cả hai bên đều có lợi. Trong điều kiện đó, đòi
hỏi quốc gia phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình. Các nguồn lực là
đội ngũ lao động có tay nghề, được đào tạo thích hợp; là nguồn vốn; là tiến bộ
khoa học công nghệ; là sự ưu đãi của thiên nhiên về địa lý, khí hậu, đất đai…
Trong thương mại quốc tế, các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng
một cách có hiệu quả nhất và do đó tổng sản phẩm của thế giới sẽ tăng lên.
Như vậy, lợi thế tuyệt đối đã mô tả được hướng chuyên môn hóa và trao đổi
giữa các quốc gia và giải thích được một phần lý do của thương mại quốc tế đối
với một số mặt hàng và giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển.
Tuy nhiên, với mô hình này không thể giải thích được vấn đề tại sao thương
mại quốc tế lại diễn ra đối với tất cả các mặt hàng và giữa các nước phát triển.
Chẳng hạn, một quốc gia nếu có sự bất lợi trong việc sản xuất tất cả các loại sản
phẩm, hoặc giữa các nước đó có điều kiện tương tự nhau về chi phí sản xuất các
loại hàng hóa thì liệu có thương mại quốc tế không ? Để giải thích vấn đề này, lý
thuyết lợi thế so sánh của David Ricacdo (1772 - 1823) đã ra đời.
13
1.1.2.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh
Nếu như lý thuyết về lợi thế tuyệt đối xây dựng trên cơ sở sự khác biệt
lượng lao động thực tế được sử dụng ở các quốc gia khác nhau (nói cách khác là

khác biệt về hiệu quả sản xuất tuyệt đối) thì lý thuyết lợi thế so sánh lại xuất phát
từ hiệu quả sản xuất tương đối. Theo David Ricacdo, nếu một quốc gia có hiệu
quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong hầu hết các loại sản phẩm thì quốc
gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho quốc gia
mình, bằng cách chuyên môn hóa tập trung sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa
có lợi thế tương đối và nhập khẩu những hàng hóa mà việc sản xuất chúng gặp
nhiều bất lợi nhất. Như vậy thương mại quốc tế vẫn có thể diễn ra cho mọi quốc
gia trên thế giới, cho phép các quốc gia sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực
của mình đồng thời mang lại lợi ích cho cả đôi bên, cũng như làm cho của cải thế
giới tăng lên.
Lý thuyết về lợi thế so sánh cho rằng, nếu một quốc gia biết tập trung vào
sản xuất, trao đổi những hàng hóa mà việc sản xuất chúng thể hiện mối tương
quan thuận lợi giữa các mức chi phí cá biệt của quốc gia đó so với mức trung bình
của thế giới, đồng thời biết lựa chọn và kết hợp hợp lý giữa ưu thế của quốc gia
mình với ưu thế của quốc gia khác thì sẽ đạt được hiệu quả tối đa mặc dù nguồn
lực có bị hạn chế. Vì một quốc gia mà việc sản xuất các loại hàng hóa và dịch vụ
không có hiệu quả bằng các quốc gia khác nhưng trong nhiều trường hợp họ vẫn
thu được lợi ích, thậm chí lợi ích cao hơn những quốc gia khác nếu quốc gia đó
chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa đòi hỏi nguồn lực tương
đối rẻ và sẵn có trong nội địa, nhập khẩu những hàng hóa mà việc sản xuất ra
chúng cần nhiều yếu tố đắt và khan hiếm trong nước.
Mặc dù lý thuyết lợi thế so sánh vẫn còn gặp một số bế tắc khi giải quyết
các vấn đề phức tạp của thương mại quốc tế hiện đại, nhưng lý thuyết này đã đóng
vai trò quan trọng trong việc chi phối sự phát triển của thương mại quốc tế, là cơ
sở khoa học để mỗi quốc gia lựa chọn và xác định các sản phẩm xuất khẩu phù
hợp dựa trên cơ sở phân tích các lợi thế so sánh về nguồn lực sản xuất, từ đó tham
gia tích cực vào phân công và hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
14
tế của mỗi quốc gia và của thế giới.
Ngoài các học thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh còn có nhiều học

thuyết khác giải thích nguyên nhân của thương mại quốc tế như học thuyết về
nhân tố của Neckschen - Ohlin, học thuyết về kinh tế theo quy mô về chu kỳ sống
của sản phẩm…nhưng có lẽ học thuyết về lợi thế so sánh của David Ricacdo giải
thích rõ ràng hơn nguyên nhân của Thương mại quốc tế. Theo học thuyết về lợi
thế so sánh của David Ricacdo các hàng nông sản Việt Nam vẫn còn sức cạnh
tranh cao trên thị trường thế giới trong đó có thị trường Trung Quốc. Việt Nam
vẫn là một quốc gia nông nghiệp không có nguồn vốn tài chính dồi dào, thế mạnh
của Việt Nam trong cạnh tranh quốc tế là nguồn lực lao động sẵn có và rẻ tiền.
1.1.2.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh
Lý thuyết về lợi thế so sánh được áp dụng rộng rãi trong thương mại quốc
tế. Tuy nhiên, hiện nay để nghiên cứu quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước,
các nhà nghiên cứu thường đề cập đến một số tiêu chí dùng để so sánh trình độ
phát triển kinh tế giữa các nước với nhau như môi trường kinh doanh, chất lượng
nguồn nhân lực, vai trò của thể chế, hệ thống tài chính, độ mở của nền kinh tế…
Tổng hợp các yếu tố trên người ta thường dùng khái niệm lợi thế cạnh tranh hay
tính cạnh tranh của quốc gia. Đó là năng lực của nền kinh tế quốc dân để đạt và
duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế và đặc trưng
kinh tế khác. Theo M.Porter thì lợi thế cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào
các yếu tố như: (1) Điều kiện hay tình trạng về nhân tố sản xuất thể hiện vị thế
quốc gia về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kết cấu hạ tầng, tiềm
năng khoa học kỹ thuật…(2) Tình trạng về nhu cầu trong nước phản ánh bản chất
của nhu cầu thị trường tại quốc gia đó đối với sản phẩm và dịch vụ một ngành; (3)
Chiến lược, cơ cấu công ty và đối thủ cạnh tranh thể hiện cách thức, môi trường
mà trong đó công ty được thành lập, tổ chức và quản lý cũng như trạng thái, bản
chất của các đối thủ cạnh tranh trong nước; (4) Thực trạng các ngành công nghiệp
hỗ trợ và liên quan có khả năng cạnh tranh quốc tế; (5) Các yếu tố bất thường như:
phát minh khoa học, công nghệ sinh học, đột biến chi phí đầu vào như cú sốc tiền
tệ, thị trường tài chính tiền tệ, tăng cầu đột biến, các sự việc bất khả kháng như
15
đảo chính, chiến tranh…và (6) Vai trò của Chính phủ trong việc tác động lên các

nhân tố xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Để đánh giá khả năng cạnh tranh thường căn cứ vào Chỉ số khả năng cạnh
tranh. Theo Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số khả năng cạnh tranh bao gồm
2 chỉ số quan trọng là Chỉ số khả năng cạnh tranh tăng trưởng (Growth
Competitiveness Index) và Chỉ số khả năng cạnh tranh hiện tại (Current
Competitiveness Index). Thông qua việc xếp hạng này, có thể đánh giá được năng
lực cạnh tranh của quốc gia này so với các quốc gia khác. Theo WEF, năm 2008
Việt Nam được xếp thứ 70 trên tổng số 134 nước được xem xét.
Nghiên cứu quan hệ hợp tác kinh tế thương mại về thực chất là nghiên cứu
quan hệ cạnh tranh. Do đó khi nghiên cứu về mối quan hệ thương mại hàng nông
sản giữa Việt Nam và Trung Quốc, luận án sẽ tập trung làm rõ khả năng cạnh
tranh của nông sản Việt Nam với các đối tác thương mại khác tại thị trường Trung
Quốc. Kết quả nghiên cứu đánh giá khả năng cạnh tranh sẽ làm sáng tỏ tương
quan lực lượng giữa Việt Nam và các đối tác thương mại khác tại thị trường
Trung Quốc, từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tận dụng cơ hội và
hạn chế những khó khăn, thách thức.
1.1.2.4. Lý thuyết về địa kinh tế, địa chính trị
Trong thời gian gần đây, khi phân tích quan hệ kinh tế thương mại giữa các
nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các nhà nghiên cứu
thường nói nhiều đến các yếu tố địa kinh tế và địa chính trị của các quốc gia.
Địa kinh tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến
trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực rộng
lớn bao gồm nhiều quốc gia khác nhau.
Địa chính trị là khoa học nghiên cứu các yếu tố địa lý chi phối xu thế và
thái độ chính trị của quốc gia hoặc khu vực. Học thuyết này được Chính phủ các
nước vận dụng để phân tích bối cảnh chính trị thế giới, từ đó đưa ra các quyết sách
định hướng các quan hệ quốc tế phục vụ cho lợi ích kinh tế và chính trị của mình.
Tuy nhiên, trong một thế giới đầy biến động những quan niệm mới về địa
chính trị và địa kinh tế cũng luôn thay đổi, vì vậy, đòi hỏi các quốc gia phải phản
16

ứng năng động, phù hợp với đặc điểm cơ bản của địa chính trị, địa kinh tế của
mình. Một số đặc điểm nổi bật của địa chính trị, địa kinh tế hiện nay là:
Thứ nhất, đặc điểm địa chính trị, địa kinh tế của mỗi quốc gia thay đổi theo
trình độ phát triển và bối cảnh chung của khu vực và thế giới. Việt Nam có vị trí
liền kề với Trung Quốc nhưng nếu Trung Quốc không tích cực đổi mới như hiện
nay mà vẫn trong tình trạng trì trệ của những năm 60 -70 thì đặc điểm địa chính trị
của Việt Nam sẽ được nhìn nhận khác đi trong một bối cảnh khác. Sự xuất hiện
của những con rồng Châu Á như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore
làm thay đổi đặc điểm và tính chất của thị trường khu vực, làm đặc điểm địa kinh
tế của khu vực thay đổi, vì vậy, nhận định về địa kinh tế của Việt Nam cũng phải
thay đổi cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ hai, bán kính vùng ảnh hưởng của địa chính trị, địa kinh tế có xu
hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Ngày nay các
diễn biến chính trị, kinh tế - xã hội quan trọng nhanh chóng lan tỏa trên mọi miền
của thế giới nhờ những tiến bộ khoa học, kỹ thuật của thời đại. Ngày nay, với
APEC, với diễn đàn Á - Âu nhiều quốc gia xa xôi đã trở nên gần gũi với Việt
Nam cả về chính trị cũng như kinh tế - xã hội.
Thứ ba, lợi ích quốc gia ngày càng bị đan xen với lợi ích quốc tế khiến cho
việc xử lý các vấn đề địa chính trị và kinh tế phải đặc biệt cẩn trọng và linh hoạt
hơn. Nói đến địa chính trị và địa kinh tế là nói đến lợi ích quốc gia. Trong quá
khứ, do sự xâm nhập của lực lượng quốc tế vào một quốc gia ở mức độ rất hạn
chế nên lợi ích quốc gia thường tách biệt, thậm chí đối lập với lợi ích quốc tế.
Ngày nay, với sự lên ngôi của các lực lượng đa quốc gia, các lợi ích quốc gia
thường đan xen nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi.
Nghiên cứu lý thuyết địa kinh tế và địa chính trị sẽ cho phép đánh giá xác
thực các ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của Việt Nam, góp phần xây dựng
một chiến lược phát triển kinh tế khả thi, linh hoạt trước một thế giới năng động,
phức tạp và nhiều rủi ro. Chiến lược đó là kết hợp việc phát huy các nguồn lực
bên trong, khai thác các ưu thế địa kinh tế, địa chính trị để tranh thủ tối đa sự hợp
tác của đất nước nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xác lập địa

17
vị của Việt Nam trong hệ thống kinh tế chính trị toàn cầu.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, về cơ bản Việt Nam vẫn là một nền
kinh tế tạo ra rất ít giá trị gia tăng, là một quốc gia không có nhiều truyền thống
kinh doanh, lịch sử Việt Nam thiếu vắng những nhà công thương lớn. Trong thời
kỳ đổi mới, chúng ta đạt được những thành tựu đáng kể trong nông nghiệp trên
tổng thể, nhưng nông nghiệp cũng còn tồn tại những điểm yếu cơ bản, hơn 70%
lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, ngành kinh tế tạo
được rất ít giá trị gia tăng.
Việt Nam ở bên cạnh Trung Quốc nhưng thực chất là gần với khu vực lạc
hậu của Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam hay Việt Nam
hỗ trợ Trung Quốc phát triển ? Đại dương mênh mông mở ra cơ hội lớn trong giai
đoạn phát triển hiện nay và trong tương lai. Phát triển theo trục Đông - Tây, với
việc mở mang kinh tế biển và vận tải biển không những giảm bớt sự phụ thuộc
của Việt Nam vào Trung Quốc, mà còn tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam xâm
nhập sâu vào thị trường Trung Quốc rộng lớn nhờ vận tải đường biển với chi phí
thấp và năng lực truyền tải lớn. Chỉ khi công cuộc cải cách biến Trung Quốc thành
một quốc gia phát triển thực sự, tất cả các vùng kinh tế của nước này đạt đến trình
độ phát triển cao thì trục Bắc - Nam mới tác động tích cực đến sự phát triển của
Việt Nam. Hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc là điều kiện tối cần thiết để
chúng ta có điều kiện tập trung những cố gắng vào phát triển kinh tế. Trong chiến
lược hợp tác cạnh tranh với Trung Quốc, Việt Nam phát triển kinh tế càng khác
với Trung Quốc bao nhiêu càng tốt. Trên thế giới hiếm có một nước nào có thể
cạnh tranh với Trung Quốc nếu sản xuất những hàng hóa có đặc tính giống hàng
hóa Trung Quốc. Nước Thụy Sỹ nhỏ bé nhưng sống tốt bên cạnh Châu Âu hùng
mạnh nhờ dịch vụ ngân hàng và sản xuất máy móc tinh xảo. Kinh nghiệm của
người Thụy Sỹ chỉ ra cho chúng ta nên sản xuất những gì khác biệt với hàng hóa
Trung Quốc, những gì mà đặc tính số đông không là ưu thế. Chỉ có như vậy, Việt
Nam mới phát triển ổn định và ít rủi ro bên cạnh nền kinh tế lớn như Trung Quốc.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu nông sản đối với phát triển kinh tế Việt Nam

Xuất khẩu là một khâu quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của một
18
quốc gia, thực hiện một phần tổng sản phẩm trong nước nhờ bán ra nước ngoài
những sản phẩm có lợi thế, có chất lượng cao. Kết quả xuất khẩu được sử dụng
cho nhu cầu nhập khẩu, góp phần cân đối, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong
nước, tranh thủ những tiến bộ của khoa học và công nghệ mới, hòa nhập với sự
phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới.
Đối với nhiều nước trên thế giới, thực tiễn phát triển những năm gần đây đã
chứng minh rằng, nhờ thực thi chính sách hướng về xuất khẩu mà nhanh chóng
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, trở thành các quốc gia công nghiệp mới,
có nền kinh tế giàu mạnh, hiện đại, có khả năng tiến kịp các nước kinh tế phát
triển trong thập kỷ tới. Do vậy đối với nhiều nước, xuất khẩu đã trở thành mũi
nhọn của nền kinh tế, là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Xuất khẩu nông sản là một bộ phận không nhỏ của xuất khẩu hàng hóa của
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do sự khác nhau về lợi thế (vốn, lao
động, công nghệ, điều kiện tự nhiên, chính sách của chính phủ) mà tỷ trọng xuất
khẩu nông sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia khác nhau. Đối
với Việt Nam, xuất khẩu nông sản là nguồn thu rất quan trọng, xuất khẩu nông sản
có vai trò cụ thể như sau:
Một là, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng tạo
nguồn vốn tích lũy quan trọng để nhập khẩu và tích lũy phát triển sản xuất, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng đói nghèo và chậm phát triển. Để công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn
để nhập khẩu máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể lấy từ nhiều nguồn thu như: Đầu tư của
nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất
khẩu lao động, xuất khẩu hàng hóa. Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ,
viện trợ tuy quan trọng nhưng cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời

kỳ sau này. Như vậy, nguồn vốn thu từ hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan
trọng nhất để nhập khẩu và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
19
Từ thực tiễn hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt nam trong những năm
qua cho thấy, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng thực
sự mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia và là nhân tố quan trọng thu hút
được một số lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài. So với các mặt hàng công nghiệp
xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí…thì trong cùng một lượng kim
ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của
hàng nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu
sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ
(phân bón, thuốc trừ sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 -
20% giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra
từ 80 - 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với nhân điều
xuất khẩu là khoảng 27% và 73%. Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo để
có nguồn vốn tích lũy cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặt khác, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng
còn tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh cho phép chúng ta gia tăng dự trữ quốc gia và
chủ động trong việc điều hòa cung cầu tiền tệ.
Hai là, xuất khẩu và xuất khẩu nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực
và lợi thế của quốc gia.
Do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại,
cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa để phù
hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là con đường tất yếu đối với
Việt Nam.
Để phục vụ cho xuất khẩu, việc tổ chức sản xuất ở mỗi quốc gia đều phải
xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới. Điều này tác động tích cực đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển; bao gồm:

- Xuất khẩu nông sản sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát
triển thuận lợi: Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sẽ cho phép mở rộng quy mô sản
xuất, tạo điều kiện để nhiều ngành nghề mới ra đời, gây phản ứng dây chuyền thúc
20
đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là làm tăng tổng sản phẩm xã
hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Ví dụ, xuất khẩu gạo sẽ kéo theo sự phát triển
các ngành sản xuất và dịch vụ khác như sản xuất bao bì, chăn nuôi, trồng trọt, vận
chuyển…
- Xuất khẩu nông sản tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn để nhập khẩu thiết bị và
công nghệ tiên tiến góp phần hiện đại hóa kinh tế đất nước, tạo ra năng lực sản
xuất mới mạnh mẽ hơn. Đồng thời thông qua xuất khẩu nông sản chúng ta chứng
minh được khả năng của Việt Nam về các sản phẩm nhiệt đới, về khả năng hợp
tác, liên doanh, liên kết với các đối tác trong sản xuất, kinh doanh. Từ đó tăng
thêm niềm tin và sự chủ động trong phát triển kinh tế đất nước.
- Thông qua xuất khẩu nông sản, các nhà sản xuất trong nước buộc phải
cạnh tranh quyết liệt trên thị trường thế giới. Để chiến thắng trong cạnh tranh đòi
hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất tốt hơn, quản lý và kinh doanh hiệu quả hơn
để tăng năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp
ứng tốt hơn các đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
- Xuất khẩu nông sản còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn
nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Ba là, xuất khẩu nông sản có tác động tích cực và có hiệu quả đến việc
nâng cao đời sống của nhân dân trên cơ sở tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động.
Sản xuất hàng hóa xuất khẩu có khả năng thu hút hàng triệu lao động vào
làm việc với thu nhập cao. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào với khoảng 40
triệu người, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay là khoảng 25 %.
Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sẽ làm tăng số lượng công ăn việc làm, do đó thu
hút được thêm nhiều lao động, đặc biệt là lao động ở các vùng nông thôn vào các

khu công nghiệp, khu chế xuất và các vùng chuyên canh cây trồng để sản xuất
hàng xuất khẩu. Ngành nông sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình
sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay vì hàng năm Việt
Nam phải giải quyết thêm việc làm cho hơn 1,4 triệu người bước vào tuổi lao
21
động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm cần sử
dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác
trong khu vực như Thailand từ 2 - 3 lần. Lợi thế này sẽ không tồn tại lâu dài và
dần mất đi cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Để nắm vững và làm chủ được công nghệ trong quá trình sản xuất, người
lao động buộc phải nâng cao trình độ cả lý thuyết và thực hành. Như vậy, đẩy
mạnh xuất khẩu sẽ có tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động cả về tính
chất ngành nghề và cả về chất lượng lao động. Đồng thời, với việc đẩy mạnh xuất
khẩu nông sản sẽ góp phần tăng thu nhập của người lao động, tạo điều kiện để họ
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần. Ngoài ra, một phần kim ngạch
xuất khẩu có thể dùng để nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng phong phú, đa dạng của đời sống con người. Xuất khẩu nông sản
đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập
cho người nông dân vốn phần lớn đang sống trong nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu.
Bốn là, xuất khẩu nông sản góp phần giữ ổn định nền kinh tế của đất nước.
Cùng với các ngành hàng xuất khẩu quan trọng khác như may mặc và giày
da, nông sản là ngành hàng sử dụng nhiều nguồn lực lao động tại chỗ hơn là
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nông sản xuất khẩu còn có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế Việt Nam vì liên quan đến hơn 70% dân số, là một thị trường lớn cho
các ngành hàng sản xuất khác. Khi xuất khẩu nông sản được giữ ổn định và tăng
trưởng, cả nền kinh tế có nhiều cơ hội hơn để phát triển. Vai trò của ngành nông
nghiệp trong việc ổn định kinh tế Việt Nam đã được chứng minh trong quá khứ.
Năm 1989, công nghiệp tăng trưởng âm nhưng sản xuất nông nghiệp phát triển
mạnh nên cứu được khủng hoảng. Đến năm 1999, một lần nữa, công nghiệp - dịch
vụ đều chựng lại, chỉ có nông nghiệp tăng trưởng tốt nên đã cứu được nền kinh tế

đang bên bờ vực khủng hoảng.
Năm là, xuất khẩu nông sản góp phần mở rộng và thúc đẩy các quan hệ
kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên thị trường thế giới.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc
vào nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể nói, xuất khẩu nói
22
chung và xuất khẩu nông sản nói riêng có vai trò thúc đẩy các hoạt động kinh tế
đối ngoại khác. Bởi vì khi xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản
nói riêng phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các hoạt động dịch vụ quốc tế
trong các lĩnh vực khác như: đầu tư tài chính - tín dụng, bảo hiểm, thanh toán
quốc tế, phát triển vận tải quốc tế, chuyển giao công nghệ. Ngược lại, các hoạt
động kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng xuất khẩu.
Ví dụ, hoạt động đầu tư quốc tế sẽ mang đến nguồn vốn và công nghệ tiên tiến để
mở rộng sản xuất hàng nông sản xuất khẩu như việc đầu tư xây dựng các nhà máy
chế biến nông sản, chuyển giao giống và kỹ thuật thâm canh cây trồng có năng
suất và chất lượng cao tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Việc ký kết
các hiệp định thương mại song phương, đa phương và gia nhập các tổ chức kinh tế
quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu thâm nhập
và mở rộng thị trường.
Việc các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng ra nước ngoài sẽ làm tăng
thêm vị thế và uy tín không chỉ của hàng hóa Việt Nam mà còn cả uy tín của Việt
Nam trên thị trường thế giới, đồng thời còn góp phần mở rộng các mối quan hệ
với bên ngoài.
Sáu là, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng thúc
đẩy quá trình phân công và chuyên môn hóa quốc tế, là thước đo đánh giá kết
quả của quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia vào nền kinh tế khu vực và
thế giới
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu
của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát
triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia.

Mỗi quốc gia sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không chỉ cho riêng thị
trường khu vực mà là một thị trường toàn cầu, đây là một sân chơi công bằng với
sự cạnh tranh quyết liệt. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải lựa chọn cho mình một
số hàng hóa mà mình có lợi thế so với các quốc gia khác để đầu tư sản xuất và
cung cấp cho thị trường toàn cầu và nhập khẩu trở lại các sản phẩm mà mình sản
xuất không có hiệu quả bằng các quốc gia khác, từ đó hình thành sự phân công và
23
chuyên môn hóa quốc tế, nền kinh tế của mỗi quốc gia gắn liền với nền kinh tế thế
giới. Sự độc lập phát triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào
thế giới phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó.
Bảy là, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng góp
phần thúc đẩy cải tiến cơ chế quản lý, chính sách kinh tế của nhà nước cho phù
hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đã và đang là xu thế phát triển trên
toàn thế giới, nó tác động sâu sắc và toàn diện đối với mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội của các quốc gia, làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng gắn bó
chặt chẽ với nền kinh tế toàn cầu. Hội nhập trở thành động lực phát triển, vừa là
cơ hội, vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia trên toàn thế giới. Mỗi quốc gia,
mỗi ngành và mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế là đã tham
gia vào một sân chơi khắc nghiệt, bình đẳng và đều phải chấp nhận một luật chơi
chung, trong đó sức ép cạnh tranh rất lớn.
Hiện tại hệ thống quản lý thương mại của Việt Nam nhiều nhưng không bài
bản, xây dựng còn tùy tiện chưa sát với thực tế do thiếu kinh nghiệm vì vậy chúng
ta cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành cho
phù hợp với những cam kết quốc tế, phù hợp với quy định của tổ chức Thương
mại thế giới để tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho thương mại phát triển.
1.2. Các đặc điểm và nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất, xuất khẩu nông sản
1.2.1. Các đặc điểm của sản xuất và xuất khẩu nông sản
1.2.1.1. Sản xuất và xuất khẩu nông sản mang tính thời vụ cao
Sản xuất nông sản mang đặc trưng là tính thời vụ trong sản xuất nông

nghiệp. Do đặc tính tự nhiên, nông sản dễ bị hư hỏng xuống cấp khi bảo quản, vận
chuyển, đòi hỏi phải có đầu tư thích đáng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên
tiến mới có thể bảo quản được lâu dài nhưng cũng chỉ trong thời hạn nhất định. Vì
vậy, nếu không quan tâm đến ứng dụng khoa học công nghệ trong việc bảo quản
sau thu hoạch hoặc đưa vào chế biến kịp thời thì khi vào vụ thu hoạch các nhà sản
xuất vẫn phải bán đổ bán tháo hoặc để nông sản bị hư hỏng, xuống cấp.
24
1.2.1.2. Sản xuất và xuất khẩu nông sản phải đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh
an toàn thực phẩm
Phần lớn các nông sản là những mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết
yếu và có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, do đó yêu cầu về chất
lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu nông sản rất
khác nhau. Mỗi quốc gia nhập khẩu nông sản có những rào cản riêng về tiêu
chuẩn kỹ thuật, quy trình chế biến, tiêu chuẩn vệ sinh, yếu tố môi trường, thậm chí
cả tiêu chuẩn về lao động sử dụng trong sản xuất và chế biến. Các tiêu chuẩn này
ngày càng trở nên chặt chẽ, khắt khe hơn và trở thành vũ khí sắc bén của các quốc
gia để bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp nội địa trong xu hướng toàn cầu hóa hiện
nay. Điều này khiến cho danh mục các mặt hàng cấm nhập khẩu vào các nước
càng dài ra. Những sản phẩm sạch là những sản phẩm đạt tiêu chuẩn về bảo vệ
sức khỏe cho người, động vật, thực vật và môi trường sinh thái, là những sản
phẩm được người tiêu dùng ưa thích vì mục đích bảo vệ sức khỏe.
1.2.1.3. Giá cả hàng nông sản xuất khẩu không ổn định
Giá cả của hàng hóa xuất khẩu là một yếu tố cạnh tranh quan trọng. Muốn
giảm giá cho sản phẩm xuất khẩu để thu hút người tiêu dùng thì phải hạ giá thành
sản xuất, như vậy, ngoài việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất để
giảm giá thành còn phải tiến hành nhiều biện pháp khác nhằm giảm các chi phí
đầu vào trong cấu thành giá của sản phẩm.
Ở Việt Nam, hầu hết các lĩnh vực kinh doanh đều có chi phí rất cao, khiến
cho giá thành sản phẩm thường cao hơn các nước trong khu vực. Các chi phí cơ sở
hạ tầng, bưu chính viễn thông, điện nước, phí vận chuyển đều cao hơn so với các

nước khác: cước phí vận chuyển container của Việt Nam cao gấp 3 lần so với
Singapore, gấp 2,5 lần so với Malayxia, gấp 2 lần so với Indonexia. Trong khi đó,
giá nông sản thường gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Một
đặc điểm chính của thị trường nông sản và cũng là thách thức lớn nhất cho xuất
khẩu của Việt Nam là tính biến động cao của giá cả. Những biến động trong năm
2008 là những minh chứng cụ thể cho đặc điểm này, bắt đầu là mặt hàng gạo, giá
thế giới có khi tăng lên đến 300%, sau đó lại suy giảm.
25

×