Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Đề tài: Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng và cao trào cách mạng 1939 - 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 29 trang )

TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 1


ĐỀ TÀI
Sự Chuyển Hướng Chỉ Đạo Của Đảng Và Cao Trào Cách Mạng Đến
Đỉnh Cao Cách Mạng Tháng Tám Vĩ Đại (1939-1945).



Lý do chọn đề tài:
Thông qua quá trình từ chuẩn bị và tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám ta có thể thấy
được quá trình phát triền dần lớn mạnh của Đảng, Nhà Nước cũng như phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Cũng như qua đó ta có thể thấy được sự
tài tình của Bác Hồ của Đảng ta trong quá trình nắm bắt thời cơ một cách hợp lý trong
quá trình chuyển hướng chỉ đạo qua từng thời kì của cuộc kháng chiến để tiến tới giải
phóng cho toàn dân tộc và xây dựng một chế độ Xã Hôi Chủ Nghĩa ở nước ta.

TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 2



LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1945, một sự kiện lịch sử vô cùng trọng đại có ý nghĩa quyết định đối với cả vận
mệnh của dân tộc ta: cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945 tại Quảng
Trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân và chính
phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước toàn thể quốc dân
và thế giới: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. Cuối cùng một dân tộc có đức
tính kiên trì, một dân tộc luôn đấu tranh vì chính nghĩa, một dân tộc luôn bị áp bức bóc
lột một cách nặng nề nhưng không bao giờ bỏ cuộc, không tiếc hi sinh sương máu của
chính mình để đánh đổi lại một nền độc lập. Cuối cùng thì biết bao nhiêu sương máu
của chính nhân dân ta, của chính đồng đội ta cũng được trả lại một cái giá xứng đáng



I. Đôi nét về hoàn cảnh lịch sử:
1. Tình hình thế giới:
 Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít đã bành
trướng ở nhiều quốc gia. Chúng câu kết với nhau, tiến hành chạy đua vũ trang,
chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Ngày 25 – 11 – 1936, Đức và Nhật Bản kí kết “Hiệp
ước chống Quốc tế Cộng Sản”. Một năm sau ngày 6 – 11 – 1937, Italia tuyên bố tham
gia Hiệp ước này. Trục Beclin – Rome – Tokyo hình thành. Liên minh phát xít đã mở
rộng từ Châu Âu sang Châu Á.
 Ở nước Pháp, chính phủ Daladie lợi dụng tình hình chiến tranh thi hành các biện
pháp đàn áp Đảng cộng sản và lực lượng tiến bộ trong nước cũng như các nước thuộc
địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 3

 Ở đông Dương, toàn quyền Catơru bắt tay vào chiến dịch khủng bố. Ngày 8 –
9 – 1939, Catơru cấm mọi hoạt động chính trị, trước hết nhằm đánh vào Đảng Cộng
sản Đông Dương và các tổ chức quần chúng của Đảng. Cấm hết thảy mọi hoạt động có
tính chất trực tiếp hay gián tiếp tuyên truyền các khẩu hiệu của Quốc Tế Cổng Sản hay
những tổ chức do Quốc Tế Cổng Sản kiểm soát. Giải tán hết thảy các hội hữu ái hay cá
nhân nào có liên hệ với Đảng Cộng Sản mà hoạt động theo khẩu hiệu của Đệ tam Quốc
tế cũng bị giải tán Cấm hết thảy những đồ in, phát hành, tặng bán hay trưng
bày, những đồ in hay tranh vẽ, nói chung là cấm hết thảy những tài liệu tuyên truyền
của Đệ tam Quốc tế.
 Ngày 1-9-1939, phát xít Đức nổ sung tấn công Ba Lan. Hai ngày sau Anh, Pháp
tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới bùng nổ. Phát xít Đức lần lượt chiếm các
nước châu Âu. Đế quốc Pháp đã lao vào vòng chiến. Chính phủ pháp đã thi hành biện
pháp đàn áp các lược lượng dân chủ ở trong nước cũng như các phong trào cách mạng
ở các nước thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng Cộng Sản Pháp bị đặt
ngoài vòng pháp luật. Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng
phát xít Đức. ngày 22-6-1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ đây cuộc chiến tranh

đế quốc chuyển thành chiến tranh chống pháp xít do Liên Xô làm trụ cột.
 Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai không chỉ là làm thay đổi cục diện chính trị trên thế giới
mà còn tác dụng trực tiếp đến các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam.
2. Tình hình nước ta:
 Chính quyền thực dân Pháp thực hiện chính sách “Kinh tế chỉ huy”,
tăng cường vơ vét tài nguyên, nhân lực của Đông Dương phục vụ cho chiến
tranh ở nước Pháp.Trong diễn văn khai mạc đại hội đồng kinh tế và tài chính Đông
Dương, tháng 11 – 1939, toàn quyền Catơru nói “Dù có tham gia trực tiếp hay không
vào cuộc chiến Đông Dương cũng không được tự do có khuynh hướng riêng của nên
kinh tế và tài chính của mình mà phải quy tụ nó vào những mục đích do mẫu quốc chỉ
định. Đông Dương phải xác nhập hệ thống mậu dịch của mình vào hệ thống mẫu quốc,
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 4

phát triển sản xuất của mình vì lợi ích của mẫu quốc, cung cấp những sản phẩm của đất
đai và trong lòng đất mà nước Pháp đòi hỏi. Đồng thời Đông Dương phải để cho
nước Pháp sử dụng nguồn nhân lực của mình, hoặc làm trong các công,
binh xưởng, hoặc cung cấp những quân số quan trọng được tổ chức và biên chế để điều
đến các chiến trường ở phương Tây.
 Trong thực tế đó ở nước ta và Đông Dương thực dân pháp thi hành các chính
sách rất trắng trợn. Chúng phát xít hóa bộ máy thông trị, thẳng tay đàn áp các phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân. Một số quyền tự do dân chủ giành được ở giai
đoạn 1936 – 1939 đã bị chúng thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viên, thực hiến
chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ
cho chiến tranh đế quốc.
 Ngày 22-9-1940 lợi dụng Pháp thua Đức, phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và
đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật từ
đó dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu
thuẫn giữa dân tộc ta và chủ nghĩa để quốc và phát xít Nhật được đẩy thành cao trào và
gay gắt hơn bao giờ hết.
II. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9 – 1939 tới tháng 3 – 1945.

1. Sự chuyển hướng và chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng:
a. Hội nghị trung ưng Đảng lần VI (11-1939)
Tổ chức vào tháng 11 – 1939 tại Bà Điểm (Hooc Môn) do đồng chí Nguyễn Văn
Cừ chủ trì.
Hoàn cảnh:
o Thế giới: sau khi thế chiến thứ hai bùng nổ 9 - 1939. Ở Châu Âu Pháp bị phát
xít Đức tấn công và nhanh chóng đầu hàng. Trong khí đó ở châu Á phát xít Nhật mở
rộng chiến tranh xâm lược Trung Quốc tiến sát tới biên giới Việt - Trung nhăm nhe
xâm lược nước ta.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 5

o Trong nước: Tháng 9/1940, Nhật nhảy vào Đông Dương, bọn thực dân Pháp
đang đứng trước hai nguy cơ:
 Một là: phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương đang dâng cao có thể
thiêu sống chúng.
 Hai là: sự lăm le đe dọa của phát xít Nhật, chúng sẽ hất cẳng Pháp. Để đối phó
lại, bọn thực dân Pháp thực hiện chính sách hai mặt: Một mặt chúng thẳng tay đàn áp
các phong trào cách mạng của nhân dân ta, mặt khác chúng thỏa hiệp bắt tay câu kết
với phát xít Nhật để cùng bóc lột nhân dân Đông Dương. Còn bọn phát xít Nhật một
mặt ép thực dân Pháp đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, mặt khác lại lôi kéo
một số phần tử trong địa chủ và tư sản bất mãn với Pháp lập chính quyền tay sai để
phục vụ cho mưu đồ xâm lược của chúng.
 Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước khi chiến tranh
thế giới thứ hai nổ ra. Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương đã triệu
tập hội nghị lần thứ VI (11/1939) để chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Nội dung hội nghị:
 Nhận định kẻ thù: Kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đế quốc phát xít Pháp Nhật.
 Xác định nhiệm vụ: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách
của cách mạng Đông Dương lúc này.
 Khẩu hiệu đấu tranh: Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”,thay bằng

khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc,Việt gian chia cho dân cày.
 Mặt trận: Chủ trương thành lập Mặt trân dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp giai cấp, các dân tộc Đông Dương chỉ mũi
nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xit.
 Hình thức và phương pháp đấu tranh: Dùng bạo lực cách mạng tức là đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang.
Ý nghĩa lịch sử của hội nghị trung ương Đảng lần VI(11-1939):
Hội nghị TW Đảng lần VI (11/1939) đã đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược của Đảng. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 6

Đảng ta đã dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết được rộng rãi mọi tầng
lớp giai cấp, dân tộc Đông Dương trong một mặt trận dân tộc thống nhất để đấu tranh
chống kẻ thù chung.
Sự chuyển hướng này đã mở ra một thời kỳ đấu tranh mới, thời kỳ trực tiếp mở
đường tiến tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám sau này.
b. Hội nghị trung ương Đảng lần VII (11-1940):
Hội nghị trung ương họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), có các đồng chí
Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng
Ninh, tham dự.
hoàn cảnh:
Trong bối cảnh phát xít Nhật đổ bộ chiếm đóng Đông Dương, thực dân Pháp từng
bước nhượng bộ và đầu hàng Nhật, nhân dân Việt Nam chịu cảnh "một cổ hai tròng"
thống trị của Pháp - Nhật. Khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra (ngày 27-9-1940), Xứ uỷ Nam Kỳ
sau nhiều lần thảo luận đã chủ trương phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa.
Nội dung:
 Khẳng định chủ trương của hội nghị lần VI là hoàn toàn đúng đắn.
 Quyết định duy trì củng cố lực lượng du kích Bắc Sơn đồng thời đình chỉ cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ.
 Hội nghị nhấn mạnh vấn đề khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền và coi

đây là nội dung trung tâm từ đó đề ra nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
 Hội nghị xác định kẻ thù của nhân dân Đông Dương đó là phát xít Nhật.
 Ngày 13-1-1941 cuộc binh biến Đô Lương do đội Cung dẫn đầu nổ ra.
Ý nghĩa lịch sử của hội nghị trung ương Đảng lần VII (11-1940)
 Hội nghị đã chuẩn bị điều kiện để chuyển hình thức đấu tranh và đã có chủ
trương đúng đắn.
 Giữ gìn lực lượng cách mạng chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ
đến.
c. Hội nghị trung ương Đảng lần VIII (5-1941):
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 7

Diễn ra từ ngày 10 tới 19-5-1941 tại Pắc Pó - Hà Quang - Cao Bằng do đồng
chí Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Quốc Tế Cộng Sản chủ trì.
Nội dung:
 Phân tích diễn biến tình hình trong nước và thế giới từ đó đặt ra mâu thuẫn cấp
bách cần giải quyết đó là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc - phát xít Pháp - Nhật.
 Hội nghị tán thành chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng trong 2 lần
hội nghị trung ương VI và trung ương VII.
 Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là hàng đầu. Quyền lợi của bộ
phận giai cấp đặt dưới sự sinh tử tồn vong của dân tộc. Trong lúc này nếu không đòi tự
do cho toàn thể thì quốc gia dân tộc mãi chịu kiếp trâu ngựa mà quyền lợi giai cấp đến
ngàn vạn năm cũng không đạt được.
 Thực hiện chủ trương tịch thu ruộng đất của Việt gian chia cho dân nghèo, thực
hiện giảm tô, giảm tức chia lại ruộng công tiến đến dân cày phải có ruộng.
 Hội nghị trung ương VIII chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương
trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, từ đó thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh gọi tắt là Việt Minh. Hội bao gồm hội cứu quốc, các tổ chức trong mặt trận Việt
Minh đều có tên là Cứu Quốc.
 Chủ trương khởi nghĩa vũ trang và đồng thời khẳng định cách mạng ở Đông
Dương kết thức bằng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

 Hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
 Hội nghị chủ trương xây dựng Đảng gấp rút đào tạo cán bộ chuyên môn.
Ý nghĩa:
Phản ánh sự nhạy bén trước sự thay đổi của tình hình của Đảng.
Kế thừa phát huy cương lĩnh của Hồ Chí Minh.
Phát triển chủ trương hàng đầu là giải phóng dân tộc của hội nghị trung ương VI và
VII.
Chuyển hướng mới và tự giải quyết vấn đề dân tộc
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 8

Từ hội nghị VI tới hội nghị thứ VIII đã dần hoàn thiện chiến lược nhằm mục tiêu
giành độc lập.
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và tập hợp quần chúng, phương pháp cách mạng từ
khởi nghĩ vũ trang và đề ra được quyền dân tộc tự quyết.
Sự chuyển hướng của Đảng ta là đúng đắn trong giai đoạn cách mạng sắp tới tiến
đến thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945.
2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới:
a. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940)
 Nhận thấy sự tan rã của chính quyền thực dân sau khi phát xít Nhật nhảy vào
Đông Dương, quân Pháp thất bại và đầu hàng, Đảng bộ Bắc Sơn đã phát động quần
chúng nổi dậy cướp chính quyền, tấn công các đồn bốt và các đơn vị lính Pháp đang rút
chạy, cướp vũ khí, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
 20 giờ ngày 27-9-1940, hơn 600 quân khởi nghĩa, gồm đủ các dân tộc Tày, Dao,
Nùng, Kinh đã tấn công đồn Mỏ Nhài (Châu Lỵ-Bắc Sơn). Trước tình hình đó, Pháp và
Nhật đã thỏa hiệp với nhau để tập trung đàn áp cuộc khởi nghĩa. Thực dân Pháp đưa
quân lên chiếm lại các đồn và đàn áp dữ dội.
 Cuộc khởi khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại nhưng đã để lại những bài học quý báu
về khởi nghĩa vũ trang, xây dựng chính quyền, hơn nữa nó đặt được nền móng cho việc
xây dựng căn cứ địa cách mạng với những lực lượng vũ trang đầu tiên mà sau này phát
triển thành Việt Nam Cứu quốc quân.

b. Cuộc khởi nghĩa Nam kì (23-11-1940):
 Cùng với việc quân Nhật kéo vào Bắc Bộ, thừa cơ quân Pháp bối rối, tháng 11
năm 1940, bọn quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật tiến đánh Campuchia. Thực
dân Pháp bắt lính người Nam bộ và người Khơme ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng.
Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng súng của khởi nghĩa Bắc Sơn, nhân
dân Nam bộ sục sôi tranh đấu. Mặc dù trong quá trình nổi dậy gặp không ít khó khăn
như một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị bắt, bọn mật thám kéo đến bắt cán
bộ, khó khăn từ việc không có vũ khí nhưng vẫn diễn ra rất lớn mạnh.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 9

 Trước tình hình quần chúng sôi sục và chiến tranh Pháp - Thái sắp nổ ra, tháng
7-1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng đã thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa do
thường vụ Xứ ủy khởi thảo Đồng chí Phan Đăng Lưu, đại diện Trung ương Đảng, sau
khi dự hội nghị này được cử ra Bắc họp Hội nghị Trung ương lần thứ VII để báo cáo
và xin chỉ thị. Sau khi nghe đồng chí Phan Đăng Lưu báo cáo cặn kẽ việc chuẩn bị khởi
nghĩa, Hội nghị Trung ương nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả
nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa
Ngày 22 tháng 10 năm 1940, vừa về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu đã bị bắt.
Lệnh khởi nghĩa lúc đó đã phát đi khắp nơi không thể thu hồi lại.
 Mặc dầu vậy, đêm 22 rạng sáng 23 tháng 11 năm 1940 cuộc khởi nghĩa Nam kỳ
vẫn bùng nổ với khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có Cờ đỏ sao vàng và cờ đỏ
búa liềm được kéo lên trước nhà làm việc của chính quyền cách mạng. nhưng cũng như
Xô Viết Nghệ Tĩnh ngót 10 năm trước Thực dân Pháp điên cuồng đàn áp, và quan
trọng nhất là tiêu diệt chính quyền cách mạng. Máy bay dội bom xuống làng mạc, thôn
xóm. Cùng với quần chúng, quân du kích Nam Kỳ đã chiến đấu vô cùng anh dũng.
Giặc Pháp khủng bố rất khốc liệt, dã man. Chỉ trong 40 ngày, riêng bốn tỉnh Gia định,
Mỹ Tho, Long Xuyên và Cần Thơ có tới 5.640 người bị giặc lấy dây thép xâu tay rồi
phơi nắng cho đến chết khô, hoặc chất lên sà lan đưa ra biển nhận chìm
 Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt. Bọn đế quốc vẫn chưa hết hoảng sợ. Một
bãi bắn được dựng lên vội vã ngay tại thị trấn Hóc Môn (Gia Định). Ngày 28-8-1941,

lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng ViệtNam có một cuộc tàn sát quy mô lớn. Các
đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của dân tộc, của Đảng, trong đó có Nguyễn
Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai đã bị giặc Pháp giết.
Tấm gương hy sinh dũng cảm của các đồng chí mãi mãi sáng ngời chủ nghĩa anh hùng
cách mạng Việt Nam.
 Khởi nghĩa Nam kỳ là trang sử oanh liệt của đất Đồng Nai, của miền Nam "đi
trước về sau" trên suốt chặng đường cách mạng của đất nước. Khởi nghĩa Nam Kỳ là
một tấm gương sáng chói về tinh thần kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 10

Qua trận thử lửa này, quần chúng càng gắn bó với Đảng, càng tôi luyện chí khí cách
mạng, củng cố nhận thức: Con đường sống duy nhất của dân tộc là phải dùng bạo lực
cách mạng đập tan bạo lực phản cách mạng của bọn đế quốc và phong kiến, giành lại
độc lập tự do.
c. Binh biến Đô Lương (13-1-1941):
 Cuộc binh biến của lính khố xanh ở Chợ Rạng (Đô Lương, Nghệ An), do
Nguyễn Văn Cung (Đội Cung) lãnh đạo. Ngày 8-1-1941, Đội Cung từ Vinh lên chỉ huy
đồn Chợ Rạng thay viên chỉ huy người Pháp. Đêm 13-1-1941, Đội Cung cùng 11 lính
đồn Chợ Rạng tiến chiếm Đô Lương, giết đồn trưởng rồi cùng 25 lính ở đây, tiến đánh
Vinh ngay trong đêm. Không chiếm được trại giám binh vì bị lộ, nghĩa quân bị đàn áp,
binh biến chấm dứt.
 Cuộc Binh Biến Đô Lương là dấu hiệu về tinh thần quật khởi, ý thức dân tộc của
nhiều binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở Đông Dương, quyết vùng dậy chống
ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai trong hoàn cảnh mới.
 Như vậy từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến khởi nghĩa Nam Kỳ và binh biến Đô
Lương, quần chúng yêu nước trước thời cơ chiến tranh từ Bắc đến Nam dù trong
hoàn cảnh và điều kiện nào, cũng có một nhận thức và hành động thiết thực là
phải đứng lên chống bọn áp bức dân tộc. Những cuộc khởi nghĩa đầu tiên này
tuy sớm bị đàn áp và thất bại nhưng sức quật khởi của khối quân thù của toàn
dân tộc thì không có gì có thể dập tắt được, nó sẽ được hướng vào chẩn bị cho

cuộc tổng nổi dậy của toàn dân tộc dưới ngọn cờ chung của những người cộng
sản.
3. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng:
o Tháng 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp cùng những người Cộng
sản Đông Dương tổ chức phong trào, lãnh đạo đấu tranh.
o 8-2-1941 người đặt cơ quan tại Pắc Pó (Cao Bằng)
o Sau một thời gian hoạt động thì từ ngày 10 tới ngày 19-5-194, sau khi thí điểm
xây dựng Mặt Trận Việt Minh ở Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 11

Chấp Hành Trung Ương lần thứ VIII tại Pắc-Pó (Cao Bằng), Với những dự đoán sáng
suốt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về diễn biến của chiến tranh đế quốc và triển vọng
của phong trào dân tộc, Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hội nghị lịch sử này đã tiếp
tục đề ra nhiều chủ trương và chính sách cụ thể có ý nghĩa hoàn chỉnh đường lối và
phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc trong giai đoạn mới.
o Trong hội nghị lần VIII này cùng với việc công bố Tuyên ngôn, Điều lệ Việt
Minh xác định cụ thể chương trình cứu nước. Chương trình cứu nước của Việt Minh
“cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào mong muốn”:
 Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
 Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do.
o Trong suốt quá trình vận động các mạng từ Hội nghị lần VIII của Ban chấp hành
Trung ương Đảng đến ngày cách mạng tháng Tám thành công chủ trương của Đảng
cũng như Nguyễn Ái Quốc đều nhắm đến xây dựng một mặt trận Việt Minh đều được
nhất quán trong văn kiện của Mặt trận Việt Minh.
o Trong hội nghị do Nguyễn Ái Quốc tổ chức đều thống nhất là khi đánh đuổi
được đế quốc, phát xít Pháp, Nhật sẽ thành lập một “chính phủ nhân dân của Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa”.
o Sau hội nghị này thì nhân dân Việt Nam bước vào một thời kì đấu tranh mới:
“thời kì chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang”.
4. Chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa:

Hưởng ướng lời kêu gọi của Trung ương Đảng tại Hội nghị lần thứ VII (11-1940)
và lần VIII (5-1941) về việc xây dựng lực lượng vũ trang và đẩy mạnh các hoạt
động hưởng ứng, ủng hộ hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940) và Bắc Kỳ (11-1940),
khắp nơi tập trung thảo luận các vấn đề, củng cố phát triển các tổ chức chính trị, xây
dựng lực lượng vũ trang, xắm sửa vũ khí sẵn sàng đón thời cơ để khởi nghĩa vũ trang.
a. Xây dựng lực lượng cho khởi nghĩa vũ trang:
 Xây dựng lực lượng vũ trang:
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 12

 Tại Bắc Sơn – Võ Nhai, mặc dù bị địch khủng bố đàn áp nhưng lá cờ khởi nghĩa
nơi đây vẫn không hề bị dập tắt cũng như quân du kích Bắc Sơn vẫn tồn tại và sau Hội
nghị lần VII thì lực lượng vũ trang Bắc Sơn ngày càng được củng cố và mở rộng.
 Tháng 1-1941 Trung ương Đảng còn quyết định cử người của Ban chỉ đạo giúp
xây dựng thêm khu căn cứ và bổ sung đội du kích đồng thời chuẩn bị lực lượng cho các
cơ sở trên khắp Bắc Kì. Và ngày 14-2-1941 đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung
ưng Đảng đã thành lập đội du kích Bắc Sơn ( tiền thân của Quân Đội Nhân Dân Việt
Nam) tại khu rừng Khuổi Nọi thuộc xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn (Lạng Sơn) ở đây đội du
kích Bắc Sơn đã được trao nhiệm vụ cứu nước và cờ đỏ sao vàng, ban đầu đội chỉ có
32 người nhưng đây là một lực lượng ưu tú, kiên quyết, chất lượng cao. Đây là một
bước tiến trong việc chuẩn bị lực lướng tiến tới tổng khởi nghĩa vũ trang của Đảng,
Nhà Nước cũng như quân và dân ta.
 Sau Hội nghị lần VIII Trung ương Đảng quyết định tăng cường các tổ chức vũ
trang nửa vũ trang (độ du kích, đội tự vệ vũ trang), Trung ương Đảng còn cho chỉ đạo
xây dựng cũng như củng cố căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Ngay sau đó đội du kích Bắc
Sơn đã được đổi tên thành Cứu Quốc Quân Bắc Sơn.
 Cuối tháng 6-1941 do sự càn quét cũng như đàn áp của thực dân Pháp vào các
căn cứ của chúng ta, các cơ sở bí mật của Trung ương Đảng cũng như Cứu Quốc Quân
bị uy hiếp, trước tình thế đó ban chỉ huy quyết định đưa các đồng chí Ủy viên Trung
ương Đảng về xuôi an toàn. Vào tháng 8-1941 thực dân pháp xiết chặt vòng vây Cứu
Quốc Quân phải chia làm hai nhóm rút về Cao Bằng và Lạng Sơn nhưng không may

khi cánh rút về Cao Bằng đã bị địch phục kích và chỉ còn 4 đồng chí vượt thoát vòng
vây.
 15-9-1941 trung đội Cứu Quốc Quân 2 được thành lập, sau khi thành lập đã hoạt
động và có khá nhiều chiến công.
 25-2-1944 trung đội Cứu Quốc Quân 3 được thành lập ở Khuổi Kịch, châu Sơn
Dương (Tuyên Quang).
 Xây dựng căn cứ và một số hoạt động chính trị:
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 13

 22-6-1941 phát xít Đức quay sang xâm lược Liên Xô, ở Châu Á 8-12-1941 phát
xít Nhật tấn công Anh, Mĩ gây ra chiến tranh ở Thái Bình Dương tính chất của cuộc
chiến thay đổi. Trước tình hình đó nhiệm vụ khẩn cấp và cấp bách của cách mạng Việt
Nam là phải gấp rút chuẩn bị sửa soạn khởi nghĩa vũ trang. Căn cứ địa Bắc Sơn – Võ
Nhai và căn cứ Cao Bằng đã được xây dựng thành trung tâm của cuộc khởi nghĩa vũ
trang tại Việt Bắc và sang tới năm 1942 ở Cao Bằng đã có nhiều xã “hoàn toàn”, tổng
“hoàn toàn” cũng như châu “hoàn toàn” Việt Minh. Đây là một hiện tượng mới trong
lịch sử cách mạng nước ta, phong trào lan sang cả Lạng Sơn và Bắc Cạn và tiếp tục
phát triển mạnh mẽ.
 Cuối 1943 phong trào cách mạng ngày càng mạnh mẽ ở Cao-Bắc-Lạng như một
thùng thuốc súng sắp bùng nổ, thực dân Pháp quyết định thẳng tay đàn áp và trước tình
hình hoạt đổng khủng bố khốc liệt kéo dài của địch tại Cao-Bắc-Lạng thì ở Tuyên
Quang và Thái Nguyên Cứu Quốc Quân vẫn không ngừng hoạt động nhằm củng cố và
phát triển cơ sở chính trị, giữ vững và mở rộng địa bàn hoạt động và đây được coi như
là một hành động thiết thực để giúp đỡ cho Cao-Bắc-Lạng.
 Ở phân khu B, thông suốt đường lối của Đảng, phân khu ủy do đồng chí Song
Hào làm bí thư đã và đang củng cố, mở rộng tổ chức quần chúng và phát triển lực
lượng vũ trang ở các nơi có cơ sở. Phong trào lan mạnh ra một vùng rộng lớn từ bờ
sông Đáy (châu Sơn Dương) tới Tân Trào (Kim Long), từ Thanh La lên tới Ao Búc,
Khuổi Phát (Kim Quan Thượng) quá Đèo Khế (Văn Lãng) sang địa phận Định Hóa tới
Chợ Chu…

 Trong thời gian này trên mặt trận văn hóa tư tưởng cũng xuất hiện nhiều tư
tưởng dẫn dắt con người theo cách mạng và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Những sách, báo đặc biệt là các tờ Việt Nam độc lập, Cờ giải phóng, Cứu Quốc đã có
tác dụng quan trọng. Năm 1943 để vũ trang cho Đảng và để chống lại các lý luận của
bọn phát xít-thực dân, Đảng đã đưa ra “đề cương về cách mạng văn hóa Việt Nam” do
tổng bí thư Trường Chinh soạn thảo. Bên cạnh đó thì Đảng chủ trương thanh lập hội
văn hóa và xuất bản tạp chí Tiền Phong để tập hợp các lực lượng văn nghệ sĩ yêu nước
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 14

và cách mạng, chính cách làm đó đã thúc đẩy phong trào văn học yêu nước như là các
nhà văn Nam Cao, Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai… ngoài thơ thì các khảo luận hay khổng
giáo phát triển rất mạnh mẽ. Đặc biệt là các bài hát yêu nước mang âm hưởng dân tộc
dần dần ra đời đã cổ vũ cho và động viên ý chí chi nhân dân trong cuộc chiến đấu sống
còn để giành độc lập cho dân tộc.
 Tuy nhiên song song với sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào tư tưởng,
thơ, ca của nước ta thì bọn phản động của Phát xít Nhật-Pháp cũng reo rắc vào đầu óc
những người dân những tư tưởng sai lệch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc
ta.
b. Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền:
 Từ sau năm 1943 sau khi Liên Xô chuyển sang thế phản công với chiến thắng
lịch sử Xtalingorat và trận đập tan cuộc phản công của Hitle ở vòng cung Cuocxco Thế
Chiến thứ hai bước sang một giai đoạn mới. Trước tình hình đó Hội Nghị Ban thường
vụ Trung ương Đảng đã họp từ ngày 25 tới ngày 28-2-1943 ở Võng La (Đông Anh) đã
nhận định: “năm 1943 sẽ là năm mà phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết
liệt hơn và để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng” chính vì thế cách
mạng nước ta có thể có những bước nhảy vọt . Toàn bộ công tác Đảng phải nhằm vào
chỗ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang gianh chính quyền khi cơ hội đến. Những chủ trương
đúng đắn đó đã tạo điều kiện đưa cách mạng trong cả nước không ngừng phát triển
mạnh mẽ
 5-1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “ sửa soạn khởi nghĩa”

 8-1944 Đảng kêu gọi toàn dân “sắm sửa vũ khí, đuổi thù chung”.
 22-5-1944 chúng đã xử bắn đồng chí Hoàng Văn Thụ một cán bộ lãnh đạo xuất
sắc của Đảng nhưng chúng đã sai lầm vì càng làm cho phong trào giải phóng dân tộc
phát triển mạnh mẽ hơn.
 9-1944 liên ủy Cao-Bắc-Lạng nhận định điều kiện khởi nghĩa đang chín muồi
và dự định ngày phát động chiến tranh du kích đúng lúc ấy thì Bác Hồ của chúng ta đã
được thả tự do và đang trên đường từ Trung Quốc trở về trước đó thì 8-1942 tới 9-
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 15

1943 trên đường đi công tác ở Trung Quốc để liên hệ với cách mạng quốc tế nhằm
tranh thủ có thêm sự ủng hộ thì bị Tưởng Giới Thạch bắt tù mà không có lý do.
 22-12-1944 lễ thành lập Đội được diễn ra và nêu rõ tư tưởng trong việc tác
chiến từ chỉ thị trong thành lập Đội.
 10-1944 trong thư gửi đồng bào Bác Hồ đã nói: “ phe xâm lược gần đến ngày bị
tiêu diệt. Các Đồng Minh Quốc sắp tranh được thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân
tộc Việt Nam ta giải phóng chỉ trong một hoặc một năm rưỡi nữa thời gian rất gấp
phải làm nhanh. Tôi mong rằng các đảng phái và các đoàn thể đều ra sức chuẩn bị
cũng nhau thảo luận để khai cuộc toàn quốc đại biểu đại hội trong năm nay”. Từ dự
đoán khoa học chính xác của Hồ Chí Minh về triển vọng kết thúc chiến tranh thới giới
thứ 2, cách mạng Việt Nam lúc này chạy đua với thời gian để giành lấy thời cơ đưa
cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
III. Cao trào kháng Nhật cứu nước:
1. Những chuyển biến quan trọng của thế giới:
 Cuối năm 1944 đầu năm 1945 chiến tranh thế giới thứ hai dần bước vào giai
đoạn kết thúc. Quân đội Liên Xô mở cuộc tổng tiến công về phía Beclin hang ổ của
Phát xít Đức, lần lượt giải phóng cho các nước Trung, Đông Âu. Tháng 8-1944 thủ đô
Pari của Pháp được giải phóng và tướng Đờ Gôn lên nắm quyền lại.
 Đêm 8-5-1945 phát xít Đức đầu hàng Đồng Minh không điều kiện.
 Ở Châu Á và Thái Bình Dương phát xít Nhật đang đứng trước nguy cơ thất bại
trên mọi mặt trận và ở mặt trận Đông Dương quân đội Pháp nhìn thấy triển vọng chiến

thắng của quân đội Đồng Minh tới gần chính vì vậy lực lượng Pháp đang ráo riết chuẩn
bị những kế hoạch để chiếm lại Đông Dương ngay sau khi quân Đồng Minh tiến vào
Đông Dương để tiến công Nhật.
 Trước tinh hình đó thì âm mưu của Pháp không thể qua mắt được Nhật. Vào 8
giờ 20 phút tối ngày 9-3-1945 quân đội Nhật đồng loại nổ sung lật đổ chính quyền
Pháp ở Đông Dương. Quân Pháp kháng cự yếu ớt ở một vài nơi rồi nhanh chóng đầu
hàng.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 16

 Trước tình hình Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương thì ngày 12-3-1945 Ban
Thường vụ ban chấp hành trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc
Ninh) đã ra chỉ thị “ Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ”. Hội nghị nhận
định là cuộc đảo chính đã tạo nên một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho
những điều kiện của cuộc tổng khởi nghĩa sẽ nhanh chóng chín muồi. Đối tượng của
cách mạng có chỗ thay đổi.
 Về tình thế cách mạng ban chỉ thị nhận định: những điều kiện khởi nghĩa chưa
thực sự chin muồi vì Pháp tan rã nhưng Nhật chưa hoang mạng, do dự đến mức cực
điểm. Các tầng lớp trung gian chưa nghiêng hẳn về phía cách mạng, còn đội tiên phong
vẫn còn đang ở giai đoạn chuẩn bị chưa sẵn sàng cho chiến đấu. Từ những nhận định
trên ban chỉ thị quyết định: “phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để
làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
2. Cao trào kháng Nhật cứu nước của quân và dân ta:
 Những quyết định sang suốt của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng thể
hiện trong bản chỉ thị phản ánh kịp thời và sang suốt trong nghệ thuật lãnh đạo của
Đảng trước các diễn biến nhanh chóng trong thời cuộc. Những quyết định đó đã soi
sáng cho toàn Đảng, toàn dân tiến hành khởi nghĩa từng phần chuẩn bị mọi mặt trận
cho tổng khởi nghĩa. Chính vì vậy trước các chuyển biến có lợi cho phía ta dù chưa
nhận được lệnh nhưng nhiều địa phương đã kiên quyết phát động lệnh quần chúng tiến
hành khởi nghĩa.
 Từ ngày 12-3-1935 trở đi, ở các tỉnh Việt Bắc, Cứu Quốc Quân phối hợp với lực

lượng tự vệ và nhân dân địa phương đã chuyển ngay sang tiến công quân địch, giải
phóng nhiều vùng rộng lớn như là dùng mưu để chiến đồn Bần Yên Nhân (Hưng Yên),
Ở Ba Tơ (Quảng Ngãi) tù chính trị phối hợp với lính gác nổi dậy chiếm đồn Ba Tơ…
 Nhằm thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ trung ương Đảng cao trào kháng
Nhật diễn ra sôi nổi và đã gây ra được rất nhiều tiếng vang và khá nhiều thành quả:
 Thành lập ủy ban cách mạng lâm thời châu Tự Do: ngày 10-3-1945 tại khu
rừng Khuôn Kẹn (xã Tân Trào), Phân khu ủy Nguyễn Huệ chỉ đạo Cứu Quốc Quân 3
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 17

và tự vệ địa phương tước vũ khí của lĩnh dõng, bắt bọn tổng lý giao tiền… Tiếp đó
nhanh chóng mở rộng cuộc khởi nghĩa ra các xã lân cận, hạ đồn Đăng Châu đã thành
lập ủy ban cách mạng lâm thời châu Tự Do (Sơn Dương).
 Khởi nghĩa Ba Tơ và Thành lập đội du kích Ba Tơ (Quảng Ngãi): Tại Quảng
Ngãi mặc dù phong trào cách mạng liên tục bị đàn áp, nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt
bỏ tù nhưng ngọn lửa đấu tranh bất khuất của các phong trào yêu nước – cách mạng
vẫn không bị dập tắt. Ngay sau khi nghe tin Nhật đảo chính Pháp thì đêm ngày 10-3-
1945 tại nhà tù Ba Tơ thì ủy ban vận động cách mạng đã họp bất thường và đã thông
qua vấn đề đứng lên khởi nghĩa và sau đó đã nhanh chóng giành chiến thắng và thành
lập đội du kích Ba Tơ. Sau này đội du kích Ba Tơ phát triển rất nhanh chóng cả về số
lượng và chất lượng và trở thành lực lượng nòng cốt trong cao trào kháng chiến
chống Nhật.
 Một số hoạt động tiêu biểu ở Việt Bắc:
 Từ ngày 2 tới này 10-4-1945 Cứu Quốc Quân đã bao vây và giải phóng được châu
Vũ Nhai. Thừa thắng Cứu Quốc Quân chia làm hai cánh tiến lên Lạng Sơn và
xuống Bắc Giang.
o Ở Bắc Giang: tước khí giới của bọn lính ở phủ Yên Thế và đồ Bố Hạ và tổ chức
các cuộc mít tin ở Nhã Nam.
o Ở Lạng Sơn: liên tục có những chiến tích từ ngày 16 tới ngày 20-4-1945 như là
phá kho thóc đồn Nam Nhi, giải phóng Mỏ Nhai cũng như giải phóng châu Bằng
Mạc vào ngày 1-5-1945.

 Đến cuối tháng 4-1945 một khu vực rộng lớn gồn hầu hết các xã, châu, huyện ở
Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái đã được giải phóng và thành lập chính quyền cách
mạng. Lực lượng Cứu Quốc Quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã
phát triển rất mạnh mẽ.
 Hội nghị quân sự Bắc Kỳ (tại Bắc Giang): vào ngày 15 tới 20-4-1945 ban
thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đây là
cuộc hội nghị quân sự đầu tiên của ta. Hội nghị quyết định: “tình thế đã đặt nhiện vụ
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 18

quân sự lên trên tất cả nhiện vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải
tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị
cho cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ”. Đồng thời hội nghị còn thống nhất hợp
nhất Cứu Quốc Quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải
phóng quân.
 Đội du kích Âu Cơ được thành lập: Chiến khu Vần-Hiền Lương được thành lập
và tháng 4-1945 và ngay vào tháng 5-1945 đội du kích của chiến khu được thành lập
và lấy tên là Âu Cơ. Đội du kích không ngừng phát triển và được củng cố, tới tháng
7-1945 đã tăng lên tới 500 chiến sĩ (ban đầu chỉ có 35 chiến sĩ). Đội du kích Âu Cơ
nhanh chóng trở thành lực lượng nòng cốt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trên
địa bàn.
 Đập tan cuộc tổng tiến công hơn 2000 quân của phát xít Nhật: Tháng 5-1945,
quân đội Nhật mở cuộc tiến công với quy mô lên tới 2000 quân chia làm ba mũi tiến
sâu vào các vùng căn cứ của ta. Đi tới đâu chúng cũng khủng bố chém giết nhân dân
ta, đốt phá làng bản, không từ một thủ đoạn dã man nào nhằm chia cắt vùng giải
phóng thành nhiều mảnh. Trước tình hình đó quân giải phóng cùng với nhân dân phát
động chiến tranh du kích, kiên quyết chống trả cuộc tiến công của Nhật. Ngày 27-5-
1945 cánh quân chủ yếu của Nhật tiến sâu vào khu Chợ Chu, Quảng Nạp cùng với
cánh quân thứ hai tiến sau vào Thanh La. Lực lượng quân giải phóng của ta kiên
quyết giữ vững tinh thần chiến đấu hết sức dũng cảm. Nhiều lần bị đánh bất ngờ Nhật
vội vã rút quân về thị xã Thái Nguyên và Tuyên Quang. Đến đầu 6-1945 thì bị quân

giải phóng đánh bật ra khỏi vùng giải phóng, cuộc càn quyét của quân đội Nhật đã bị
quân và dân ta đập tan. Thắng lợi này chứng tỏ nghị lực phi thường của quân và dân
đồng thời khẳng định chiến tranh du kích đã phát triển rất nhanh.
 Phong trào cách mạng ở Nam Bộ trước ngày tổng khởi nghĩa: Nhằm thực hiện
nghị quyết của Đại hội Trung ương Đảng lần VIII, Đảng bộ Nam Kì gấp rút tuyên
truyền, vận động quần chúng vào các hội cứu quốc của mặt trận Việt Minh. Nhiều nơi
các chiến sỹ Nam Kỳ cùng nhân dân tước đoạt vũ khí bọn Nhật – Pháp và tìm kiếm
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 19

những vũ khí cất giấu từ những ngày khởi nghĩa năm 1940 để bổ sung cho lực lượng
vũ trang cách mạng.
o Ở Bến Tre: lực lượng vũ trang lấy tên là Cứu quốc quân, đến gần ngày khởi
nghĩa thì tổ chức thành Cảm tử quân.
o Ở Sa Đéc: mỗi xa lập ra một Đội xung phong vũ trang.
o Ở Mỹ Tho: tổ chức được ba trung đội du kích bên cạnh mở thêm các lớp huấn
luyện về du kích cho các cán bộ trong cơ sở.
o Tại Sài Gòn: phong trào cách mạng công nhân, thanh niên diễn ra hết sức rầm
rộ, sôi nổi. Tại đây ta tổ chức đại hội thành lập Công Đoàn Nam Bộ. Trong các
phong trào cách mạng ở Nam Bộ, đặc biệt có phong trào “thanh niên Tiền
Phong” thu hút được đông đảo lực lượng thanh niên tham gia. ”Thanh niên
Tiền Phong” có vai trò là một đội quân chính trị hùng hậu của Đảng và có vai
trò to lớn trong cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở thành phố.
IV. Tổng khởi nghĩa tháng tám thắng lợi:
1. Thời cơ lịch sử:
 Mùa Thu năm 1945 Liên Xô thực hiện cam kết ở hội nghị Yanta tuyên chiến với
Nhật, đánh tan đội quân Quan Đông tinh nhuệ của chúng. Cùng lúc đó Mỹ ném hai quả
boom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều
kiện. Trước đó vào ngày 8-5-1945 phát xít Đức đã đầu hàng Đồng Minh, ngày 14-8-
1945 thế chiến thứ hai kết thúc.
 Tình hình thế giới lúc này đã có những ảnh hưởng tích cực tới nước ta. Cách

mạng nước ta tiến nhanh đến ngày quyết định.
2. Tổng khởi nghĩa tháng tám:
 Ngày 13-8-1945 sau khi hay tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, trung ương Đảng và
tổng bộ Việt Minh đã thành lập ngay ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Đúng 23 giờ cùng
ngày, ủy ban khởi nghĩa đã ban bố quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa và được
nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 20

 16-8-1945 tại Tân Trào, đại hội quốc dân do tổng bộ Việt Minh triệu tập gồm
hơn 60 đại biểu thay mặt cho các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc, các dân
tộc, các tôn giáo từ Hà Nội… Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng
thông qua 10 chính sách của mặt trận Việt Minh và chọn lá cờ đỏ sao vàng làm quốc
kỳ, bài Tiến Quân Ca là quốc ca và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức
Chính Phủ lâm cách mạng lâm thời. Cùng Ngày trước đình Tân Trào, ủy ban làm lễ
tuyên thệ, quyết hoàn thành sứ mệnh cao cả cứu nước, cứu dân. Hồ chủ tịch gửi thử
kêu gọi tổng khởi nghĩa.
 Với tinh thần “dù hi sinh tới đâu, dù phải đốn cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập” như Hồ chủ tịch kêu gọi nhân dân ta đã nhanh
chóng chớp lấy thời cơ, toàn dân nổi dậy, triệu người như một. Ý chí quật cường của
dân tộc mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
 Tại Thái Nguyên: đúng 2h chiều ngày 16-8-1945 một đơn vị bộ đội chủ lực của
ta đã tiến xuống đánh thị xã Thái Nguyên. Giải phóng quân từ Tân Trào tiến thằng
về Thài Nguyên. 1h trưa ngày 19-8-1845 giải phóng quân đã ở phía Tây thị xã Thái
Nguyên, mặc dù về mặt số lượng quân của ta không đủ đề tiêu diệt địch nhưng căn
cứ vào tình hình lúc bấy giờ thì bộ chỉ huy quyết định hành động. đúng 5h30 ngày
20-8 ta trao tối hậu thư cho tên tỉnh trưởng. Tỉnh trưởng đầu hàng, lính bảo an giao
nộp khí giới. Cùng lúc đó quân giải phóng tấn công doanh trại Nhật, nhưng chúng
vẫn ngoan cố và sau nhiều lần công kích quân Nhật đã phải rút hết về Hà Nội. Thái
Nguyên được giải phóng
 Tại Tuyên Quang: Trong khi một đơn vị bộ đội chủ lực tiến về Thái Nguyên để

giải phóng thì một bộ phận khác của ta cũng tiến về Tuyên Quang. 8h tối ngày 16-8-
1945 lực lượng vũ trang của ta đã tập trung đầy đủ trên đường Hà Giang-Tuyên
Quang để chuẩn bị tiến hành chiếm một số cứ điểm của địch. 2h sáng 17-8 quân ta
chia làm hai nhánh, một nhánh tiến đánh khu trại bảo an và các công sở và nhanh
chóng thắng lợi. Nhánh còn lại tiến đánh doanh trại của Nhật và trước sức công phá
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 21

và sức tiến công mạnh mẽ của ta thì phát xít Nhật đã phải xin đàm phán nhưng khi
biết tin là có một cánh quân khác của ta đang từ Hà Giang tiến về thì chúng đã trở
mặt và trận chiến diễn ra giữ dội tới sáng 21-8 quân Nhật đã rút về Hà Nội. Tuyên
Quang được giải phóng.
 Tại Hà Nội: Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm Bắc Kì nó có một vị trí chiến lược
quan trọng trong hệ thống phòng thủ cũng như cai trị cho nên trước đây là thực dân
Pháp hay sau này là phát xít Nhật cũng đề rất trú trọng và đầu từ vào hệ thống phòng
thủ cũng như cai trị ở nơi đây. Chính vì vậy Hà Nội cũng là nơi được Đảng ưu tiên
phát triển các cơ cở cũng như các lưc lượng để chờ tới khi có thời cơ thì sẽ tiến hành
tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Vào ngày 17-8 sau khi quân Nhật ở Hà Nội đang
hoang mang vì thông tin Nhật hàng Đông Minh thì ngay chiều hôm đó cuộc mít tinh
của tổng hội công chức bắt đầu tại nhà hát lơn, cuộc mít tinh vừa bắt đầu thì cờ đỏ
sao vàng xuất hiện làm cho bọn địch hết sức hoang mạng. Ngày 18-8 thì không khí
chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra hết sức sôi nổi. Sáng sớm 19-8 Hà Nội
rực màu cờ đỏ sao vàng khắp nơi vang lên khẩu hiệu: “ủng hộ Việt Minh, đả đảo bù
nhìn, Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Tiếp đó các chiến sĩ tự vệ dùng áp lực vũ trang
chiếm kho vũ khí và các vị trí then chốt và tới chiều ngày 19-8 thì Việt Minh lần
lượt giành được chính quyền, làm chủ toàn thành phố. Ngày 25-8 thì chủ tịch Hồ
Chí Minh về tới Hà Nội. Việc nhanh chóng giải phóng được Hà Nội có ý nghĩa rất
to lớn đối với chúng ta.
 Tại Huế: Tối 21-8 ủy ban khởi nghĩa phổ biến kế hoạch, giao nhiệm vụ cho các
huyện, thành phố… đảm nhiệm các vai trò trong cuộc tổng khởi nghĩa. Chiều 22-8
lá cờ đỏ sao vàng tung bay khắp nơi, khi ấy tất cả các công nhân trong các nhà máy

đồng loai đứng lên cùng khởi nghĩa. Ở tại thành phố Huế thì lực lượng ta đã chuẩn
bị rất kĩ lưỡng về cả vũ khí lẫn biểu ngữ… chiều 21-8 đơn vị tự vệ khu phố đã
chiếm được đồn Mang Cá. Vào lúc 18h ngày 22-8-1945 trên đài phát thanh Huế vua
Bảo Đại đã tuyên bố “ Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước
nô lệ ” và thoái vị. Sáng 23-8 ta tiếp tục chiếm được một số địa điểm quan trọng và
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 22

vào lúc 16h ngày 23-8-1945 tại sân vận động Huế thì đã có cuộc mít tinh rầm rồ
mừng chiến thắng của quân và dân ta.
 Tại Sài Gòn – Chợ Lơn: Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại Sài Gòn đã
nhanh chóng phục hồi lực lượng cũng như cơ sở để kịp tiến tới tổng khởi nghĩa. Tân
An là nơi đầu tiên của Sài Gòn đứng lên khởi nghĩa (21-8). Trong này 22-8 bí thư
tỉnh ủy cũng như một số ủy viên trực tiếp chỉ đạo lực lượng khởi nghĩa và tước khí
giới của lính bảo an và bắt giam tên tỉnh trưởng. Tối 24 tới 0h ngày 25-8 các đội
xung phong và thanh niên đã hoàn tất việc chiếm tất cả các cơ quan trong nội thành
phố và không gặp bất kì trở ngại gì. Sáng ngày 25-8-1945 cờ đỏ sao vàng ngập tràn
đường phố, bay phấp phới hiên ngang trên các công sở, người người hô vang khẩu
hiệu: “Việt Nam hoàn toàn độc lập, Đảng Cộng Sản Việt Nam muôn năm, độc lập
hay là chết”.
 Tại các địa phương tiêu biểu khác: sau khi lệnh tổng khởi nghĩa được phát động
cách mạng tháng tám đã có những bước nhảy vọt, các cuộc khởi nghĩa từng phần
tiến tới tổng khởi nghĩa trên khắp các địa phương trên đất nước. Ngày 14-8-1945 lực
lượng vũ trang Quảng Ngãi giành chính quyền thắng lợi. Từ ngày 14 tới 16-8-1945
khắp các địa phương như Cao Bằng, Bắc Cạn, Yên Bái các tỉnh đồng bằng song
Hồng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… lần lượt nổi dậy giành chính quyền. Ngày
19-8 nhân dân các tỉnh Thái Bình, Khánh Hòa cũng giành được độc lập. Ngày 24-8
tại các tỉnh lị Hà Nam, Đak Lak, Phú Yên, Gò Công cũng giành được thắng lợi…
Chỉ trong vòng 2 tuần cuộc tổng khởi nghĩa của ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, Chế
độ thực dân nửa phong kiến từng ngự tri trên đất nước ta đã xụp đổ hoàn toàn.
Cách mạng thành công một cách rực rỡ, Ngày 2-9-1945 là một nốt son

chói lọi trong lịch sử nước ta, từ sáng sớm hàng chục ngàn người đã
hàng ngũ chỉnh tề đổ về quảng trường Ba Đình. Đúng 14h chiều Chủ
Tịch Hồ Chí Minh bước ra lễ đài với bộ đồ giản dị tại đây người đã đọc
bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa đánh dấu một bước tiến chói lọi cho dân tộc Việt Nam.
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 23

V. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm:
1. Nguyên nhân thắng lợi:
a. Nguyên nhân khách quan:
Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực
tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và Đồng Minh đánh bại, quân đội
Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã.
Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên đã
giành được thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
b. Nguyên nhân chủ quan:
 Cách mạng Tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải phóng dân tộc 1939-
1945. Trong quá trình đó, Đảng đã xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu;
từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm
bọc, có chỗ đứng chân ngày càng vững chắc trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò
nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
 Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng
Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh,
bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng
khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, quyết
định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
 Có khối liên minh công nông vững chắc, tập hợp được mọi lực lượng yêu nước
trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lại biết kết hợp tài tình đấu tranh vũ
trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh du kích với khởi nghĩa từng phần ở nông thôn,

tiến lên phát động tổng khởi nghĩa cả ở nông thôn và thành thị, đánh dổ hoàn toàn bộ
máy cai trị của đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
2. Ý nghĩa lịch sử:
a. Đối với dân tộc ta:
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 24

 Cách mạng Tháng Tám đã đập tan ách thống trị của đế quốc và phong kiến, lập
ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
 Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu một trang sử vẻ vang của dân tộc ta,
đánh dấu sự đổi đời của một dân tộc. Cách mạng Tháng Tám đã đưa nước ta từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập dân chủ, đưa Đảng ta từ
một Đảng không hợp pháp trở thành một Đảng nắm chính quyền, đưa dân tộc ta lên
hàng các dân tộc tiên phong trên thế giới. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ
nguyên mới cho cách mạng nước ta - kỷ nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
 Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Đây là một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi đầu
tiên của chủ nghĩa Mác- Lênin ở một nước thuộc địa.
b. Đối với thế giới:
 Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu
vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ.
 Trực tiếp tạo ra chỗ dựa đáng tin cậy cho cuộc cách mạng của nhân dân Lào và
Campuchia anh em và góp phần làm thay đổi cục diện chính trị ở Đông Nam Á. Nó cổ
vũ và cung cấp kinh nghiệm thành công cho nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh
giành độc lập.
3. Bài học kinh nghiệm:
Bài học hàng đầu quyết định tư duy chính trị của Đảng là: không ngừng phát huy
tinh thần chủ động, sáng tạo, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta để phát triển và tổ chức đường lối cách mạng, mạnh dạn

điều chỉnh chiến lược (kiên quyết đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu), thay
đổi chủ trương phù hợp tình thế, kịp thời nắm bắt được sự biến đổi của thời cuộc để
lãnh đạo quần chúng tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Cách Mạng Tháng Tám
TP.HCM Ngày 24-4-2014 Page 25

thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học quý báu, góp phần
làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa
dân tộc. Những bài học kinh nghiệm chính là:
 Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết với
nhau, nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến
phải phục tùng nhiệm vụ ấy “tất cả mọi vấn đề của cách mạng, vấn đề điền địa cũng
phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”. Nhờ đó mà Đảng đã tổ chức được
lực lượng chính trị to lớn mà nòng cốt là khối liên minh công nông để thực hiện yêu
cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc. Sự
chuyển hướng đúng đắn, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, góp phần
quyết định thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám năm 1945.
 Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công – nông. Cách mạng
Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu
người Việt Nam . Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có
đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và
lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng.
Đảng đã xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi
nghĩa thắng lợi.
 Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.Đảng ta đã lợi dụng được mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ
ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc
phát xít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng

chừng. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám mới giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ
máu.

×