1
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) những làn sóng đầu tư lớn đang đổ vào Việt Nam tạo nên sức cạnh tranh
lớn đối với các doanh nghiệp trong nước từ đó nảy sinh nhu cầu của nhiều doanh
nghiệp muốn mở rộng quy mô, gia tăng thị phần. Trong bối cảnh đó không ít doanh
nghiệp đã rơi vào tình trạng khó khăn hay phải đối mặt với nguy cơ phá sản và mua
bán sáp nhập doanh nghiệp trở thành một giải pháp hiệu quả đưa doanh nghiệp thoát
khỏi tình trạng này.
Cũng như hầu hết các công cụ, giải pháp của thị trường, hoạt động mua bán sáp
nhập doanh nghiệp cũng tồn tại những lợi ích quan trọng lẫn những tác động tiêu cực
đối với các bên tham gia và đối với nền kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của thị trường
mua bán doanh nghiệp có phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hay
không là tùy thuộc nhiều vào sự định hướng, quản lý của nhà nước để hoạt động này
phát triển đúng hướng và mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
Mục đích đề tài này tìm hiểu về các luật mua bán sáp nhập trên thế giới cũng
như tại Việt Nam. Tuy rằng hiện nay doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông tin,
hiểu biết về các điều kiện, thủ tục sáp nhập, mua lại doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý
cho hoạt động này tại Việt Nam chưa được quy định cụ thể, chưa có Luật chống độc
quyền như các nước trên thế giới, thông tin về các vụ mua bán sáp nhập công ty chưa
được cập nhật đầy đủ, thiếu tính minh bạch... nhưng thông qua luật đầu tư, luật cạnh
tranh, luật chứng khoán, luật doanh nghiệp và các thông tư nghị định, nhà nước cũng
đã thể hiện sự bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trước sự thôn tính của các doanh
nghiệp nước ngoài. Đề tài đã nghiên cứu sự bảo vệ doanh nghiệp trong nước thông
qua hệ thống khung pháp lý và qua đó đề ra một số định hướng phát triển, hoàn thiện
khung pháp lý để đáp ứng phù hợp với xu thế phát triển của hoạt động mua bán sáp
nhập trong tương lai.
2
CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG MUA BÁN SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP (M&A)
VÀ KHUNG PHÁP LÝ TRÊN THẾ GIỚI
1.1 THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG M&A TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1 Thực trạng
Hoạt động M&A trên thế giới được hình thành rất sớm và phổ biến ở các nước
có nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty với nhau.
Năm 2006 đã là một năm được mùa của những vụ sáp nhập, với tổng giá trị các
thương vụ kiểu này đã vượt quá kỷ lục của thời hoàng kim 2000 là 3330 tỷ USD.
Theo thống kê của hãng Dealogic, trong năm 2006, có gần 30.000 vụ M&A, tức là 77
vụ/ngày với giá trị 10 tỷ USD/ngày.
Tuy nhiên, về số lượng những vụ sáp nhập, con số năm 2006 (tổng cộng 28.312
thương vụ) lại giảm so với năm 2000 (31.019 thương vụ).
Năm 2006, nước Mỹ vẫn là trung tâm của những vụ sáp nhập, chiếm tới 36%
tổng giá trị của những vụ sáp nhập trên toàn cầu, với giá trị tuyệt đối đạt 1.220 tỷ
USD, giảm so với mức 46%, tương đương 1.530 tỷ USD của năm 2000.
Trong những năm vừa qua, hoạt động M&A cũng đã diễn ra khá sôi động ở
nhiều nước trên thế giới, cụ thể là ở các quốc gia châu Á. Hãng kiểm toán toàn cầu
Price Waterhouse Coopers (PwC) cũng đã công bố một bảng số liệu tổng quan về hoạt
động M&A của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong năm 2006, trong đó đề cập
và đưa ra nhiều thông tin về giá cả, số lượng các vụ M&A ở 14 nước trong khu vực.
3
Biểu đồ 1.1
Tuy làn sóng sáp nhập đã có từ nhiều năm qua, nhưng năm 2007 mới thực sự
diễn ra nhiều thương vụ lớn, mà giá trị của chúng vượt xa dự đoán của nhiều người.
Hoạt động M&A thế giới trong năm này đã chứng kiến những kỷ lục mới. Tổng trị giá
của các vụ mua bán sáp nhập đạt 4.400 tỷ, tăng 21% so với mức 3.600 tỷ USD vào
năm 2006. Mặc dù cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ đã khiến cỗ máy M&A quay
chậm lại trong nửa cuối của năm, tuy nhiên, nhìn trên tổng thể năm 2007, hoạt động
M&A đã gặt hái được nhiều thành công.
- Đáng kể nhất là vụ một nhóm ba ngân hàng do Ngân hàng Hoàng gia
Scotland dẫn đầu mua lại Ngân hàng ABN Amro của Hà Lan với giá 99 tỷ USD, đánh
dấu thỏa thuận mua lại lớn nhất đã hoàn thành trong năm.
- Trong khi đó, “đại gia” khai thác mỏ BHP Billiton cũng đưa ra đề nghị mua
lại đối thủ Rio Tinto với mức giá chưa từng có: 193 tỷ USD. Một khi hoàn tất, đây sẽ
là thỏa thuận mua lại lớn nhất từ trước đến nay.
4
- Khủng hoảng tín dụng ở Mỹ cũng khiến nhiều tập đoàn ngân hàng lớn ở nước
này phải bán cổ phần cho các nhà đầu tư đến từ nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.
Điển hình là Citigroup bán cổ phần trị giá 7,5 tỷ USD cho cơ quan đầu tư Abu Dhabi
(ADIA) của Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Merrill Lynch bán cổ phần
6,2 tỷ USD cho tập đoàn Temasek của Singapore và một công ty khác của Mỹ, còn
Morgan Stanley bán cổ phần trị giá 5 tỷ USD cho công ty đầu tư vốn của Nhà nước
Trung Quốc.
- Các công ty đầu tư vốn tư nhân và các quỹ lợi ích quốc gia là hai lực lượng
mới nổi trên thị trường M&A trong năm qua. Với nguồn tiền dồi dào từ bán dầu mỏ,
các nhà đầu tư vùng Vịnh cũng tiến hành các vụ mua lại khắp thế giới. Tính ra, hiện
các nước giàu có tài nguyên năng lượng này đã đầu tư tới 4.000 tỷ USD trên toàn cầu.
- Năm 2007 cũng chứng kiến vụ "ly hôn” của “gia đình” ôtô DaimlerChrysler.
Ngày 4/10, DaimlerChrysler đã quyết định đổi tên thành Daimler, trút bỏ những tàn
tích cuối cùng của vụ mua lại hãng Chrysler vào năm 1998 với giá 40 tỷ USD.
Bảng số liệu tổng quan về hoạt động M&A của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương trong nửa đầu năm 2007:
5
Các vụ sáp nhập và mua lại lớn trên thế giới trong giai đoạn 2000-2007
(Xếp theo giá trị của các vụ mua lại và sáp nhập)
Nguồn:
Quý 1/2008, số lượng những thương vụ sáp nhập và mua lại (M&A) thấp nhất
trong 4 năm. Giá trị của những thương vụ sáp nhập và mua lại này trong quý 1 cũng
chỉ là 652 tỷ USD, giảm 40% so với cùng kỳ năm 2007. Đây là quý có hoạt động sáp
nhập và mua lại kém nhất từ năm 2004 theo tính toán của Dealogic - công ty phân tích
dữ liệu tài chính toàn cầu.
1.1.2. Xu hướng M&A trong thời gian tới
Đầu năm 2008 thị trường mua bán sáp nhập doanh nghiệp rất ảm đạm khi thị
trường thế giới biến động và chính sách tín dụng thắt chặt.
STT Năm Bên mua Bên bị mua Giá trị giao dịch
(triệu USD)
1 2000 Fusion: America Online
Inc. (AOL)
Time Warner 164,747
2 2007 Schwebend: Barclays
Plc
ABN-AMRO Holding
NV
90,839
3 2000 Glaxo Wellcome Plc. SmithKline Beecham
Plc.
75,961
4 2004 Royal Dutch Petroleum
Co.
Shell Transport &
Trading Co
74,559
5 2006 AT&T Inc. BellSouth Corporation 72,671
6 2001 Comcast Corporation AT&T Broadband &
Internet Svcs
72,041
7 2004 Sanofi-Synthelabo SA Aventis SA 60,243
8 2002 Pfizer Inc. Pharmacia Corporation 59,515
9 2007 JP Morgan Chase & Co Bank One Corp 58,761
6
Con số trên cho thấy ảnh hưởng của sự bùng nổ tín dụng và sự hỗn loạn trong
thị trường chứng khoán đã khiến những công ty ngần ngại ra sao khi bỏ tiền vào
những thương vụ sáp nhập và mua lại (M&A). Đồng thời điều này cũng đồng nghĩa
với việc nhân viên các ngân hàng đầu tư sẽ mất việc hàng loạt nếu hoạt động sáp nhập
và mua lại không có những cải thiện nhất định trong thời gian tới.
Sự sụt giảm trong số lượng thương vụ M&A gần đây đi kèm với sự đi xuống
của thị trường chứng khoán. Giá trị trái phiếu phát hành giảm một nửa trong quý 1.
Tuy môi trường kinh doanh toàn cầu hiện rất ảm đạm, song cũng cho rằng hoạt
động kinh doanh tại các thị trường mới nổi vẫn hết sức sôi động và giá hàng hóa tại
các thị trường này cũng đang tăng cao.
Một nguyên nhân nữa giúp các vụ sáp nhập trên thế giới không tuột dốc là do
xu hướng cổ phần hoá, tư nhân hoá đang trở nên phổ biến hơn ở nhiều nước, đặc biệt
là tại các nền kinh tế đang phát triển, tạo nguồn hàng dồi dào hơn cho các nhà đầu tư
đang có tiền nhàn rỗi.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương thường được lựa chọn để thực hiện các
thương vụ mua bán sáp nhập xuyên quốc gia nhiều nhất. Tiếp đó là các khu vực Tây
Âu, Đông Âu và Mỹ Latinh.
Nếu xét về quy mô trên mỗi vụ M&A người Mỹ vẫn tiếp tục thống trị, nhưng
năm 2007 là năm hoạt động M&A nở rộ ở Châu Âu. Theo những thống kê chưa đầy
đủ, các vụ sáp nhập ở châu lục chiếm tới 1/3 tổng giá trị các vụ mua bán, đổi chác trên
toàn cầu.
Trong năm 2007, thành công lớn nhất của các doanh nghiệp M&A quốc tế là
hoạt động thôn tính trên địa bàn Đông Âu. Khi phương Tây "Đông tiến" về chính trị
thì cũng là lúc các hoạt động kinh doanh M&A nở rộ về Đông. Hơn thế nữa với các
nước Đông Âu, mà trực tiếp là các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, những ngày
tháng của năm 2007 cũng là lúc hoạt động kinh doanh chín mùi sau quãng thời gian
chuyển đổi đau đớn. Cũng trên khía cạnh địa lý, giới quan sát quốc tế, dự đoán trong
năm 2008, xu hướng M&A vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhưng nó sẽ nhanh chóng
lan đến Châu Á mà Trung Quốc và Ấn Độ là những cơ hội đầu tư tuyệt vời mà các
7
nhà đầu tư đều muốn nhòm ngó. Khác với Đông Âu, tốc độ kinh tế ở khu vực diễn
biến nhanh hơn, và các hoạt động M&A cũng đang diễn ra mạnh mẽ, theo sau các
chương trình cổ phần hóa từ Trung Quốc tới Việt Nam. Năm 2006 và đặc biệt là năm
2007 được coi là năm cổ phần hóa của các nền kinh tế này, tuy nhiên sang năm 2008
và những năm tiếp theo sẽ là những năm của hoạt động sáp nhập. Bởi lúc đó doanh
nghiệp sau cổ phần hóa không chỉ bị sức ép của hội nhập quốc tế, mà ngay nội tại
doanh nghiệp áp lực phá khung, phá bỏ cơ cấu làm cũ cũng ngày một dữ dội.
Theo đánh giá của giới quan sát quốc tế, hoạt động mua bán sáp nhập doanh
nghiêp ở Châu Âu, đặc biệt là khu vực Đông Âu đang ngày một khắt khe hơn. Bởi sau
những vụ mua bán chộp giật, kiếm lời, các hoạt động M&A để phát triển - cốt lõi của
sáp nhập và mua bán - giờ mới tới thời. Tuy nhiên, việc tranh mua - tranh bán đã diễn
ra gay gắt, bởi thế người ta tin rằng nhanh chân tới Châu Á, đặc biệt là các nền kinh tế
mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam là những quyết định đón đầu. Tới trước sẽ
không chỉ có được sự lựa chọn lớn hơn mà còn được trọng vọng. Kinh nghiệm các vụ
mua bán ở Đông Âu cho thấy, việc đi sau không chỉ tốn kém, mà hơn thế công cuộc
tái cơ cấu hoạt động hậu M&A cũng diễn ra hết sức phức tạp. Theo thống kê của tạp
chí Doanh Nhân (the Entrepreneur) có tới 50% doanh nghiệp M&A thừa nhận họ đã
sai lầm khi đánh giá thấp yếu tố thời gian trong quá trình đàm phát mua bán. 4/10
doanh nghiệp tuy có may mắn tới đích, nhưng tất cả số này đều dự đoán hụt thời
lượng có thể kết thúc thắng lợi đàm phán. Và đương nhiên cùng với kéo dài thời gian,
là tổn thất cả về giá cả, lẫn lỡ bước các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới.
Trong tổng số các hoạt động M&A 2007, chỉ có 20% trong số đó giành được những
doanh nghiệp mà cơ cấu tổ chức, cũng như bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh
"ổn". Điều này một lần nữa khẳng định tính chất căng thẳng của loại hình kinh doanh
tri thức cao này. Tuy nhiên, cũng theo tờ Entrepreneur, tất cả các doanh nghiệp Châu
Âu vẫn tin tưởng vào hoạt động cổ phần sẽ tạo ra những cơ hội lớn để trẻ hóa hoạt
động của họ trên thương trường quốc tế. Cạnh tranh dữ dội đẩy hoạt động M&A mở
rộng về địa lý, nhưng cũng chính sự mở rộng địa lý này đã mở ra nhiều cơ hội hơn so
với những hoạt động M&A phình to về quy mô truyền thống.Có lẽ hơn cả người Châu
Á, các doanh nghiệp M&A từ Châu Âu và cả Bắc Mỹ hiểu hơn câu nói "đi một ngày
đàng học một sàng khôn" của chính người phương Đông. Bởi mỗi cuộc phiêu lưu mạo
8
hiểm trong kinh doanh lại lóe lên nhiều ý tưởng mới cho các nhà quản lý doanh
nghiệp.
1.2 PHÁP CHẾ CHỐNG ĐỘC QUYỀN TRÊN THẾ GIỚI
Trên thế giới, sáp nhập, mua lại được xem xét, điều tiết chủ yếu từ góc độ của
pháp luật về cạnh tranh theo cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế. Kiểm soát tập trung
kinh tế được thực hiện theo thủ tục hành chính, thủ tục xét xử tại toà án hoặc áp dụng
đồng thời cả hai thủ tục. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy có nhiều cách
thức điều chỉnh bằng pháp luật khác nhau đối với cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế:
bằng những luật chống độc quyền riêng biệt (như ở Áo, Tây Ban Nha, Canada, Đức,
Thuỵ Sỹ), bằng những luật chống độc quyền và những quy phạm chung trong Luật
Dân sự (như ở Italia, Pháp), bằng những luật chống độc quyền và bằng án lệ (như ở
Anh, Mỹ).
Nhìn chung, trên thế giới tồn tại hai mô hình chính của cơ chế kiểm soát tập
trung kinh tế là mô hình Mỹ và mô hình châu Âu.
- Mô hình Mỹ cấm tập trung kinh tế và độc quyền về mặt hình thức, được áp
dụng ở Mỹ, Canada, Arghentina và nhiều nước khác.
- Mô hình Châu Âu được xây dựng dựa trên nguyên tắc kiểm soát tập trung
kinh tế và hạn chế những tác động tiêu cực của nó. Mô hình châu Âu kiểm soát tập
trung kinh tế cho phép đăng ký những dự án tập trung kinh tế không hạn chế đáng kể
cạnh tranh. Nhìn chung các điều khoản về sáp nhập, mua lại trong Luật Cạnh tranh ở
các nước theo mô hình Châu Âu không có tính bắt buộc. Cụ thể là không cần thiết
phải rà soát một cách hệ thống và thông qua tất cả các vụ sáp nhập, mua lại. Yêu cầu
thông báo về mọi vụ sáp nhập, mua lại sẽ tạo ra gánh nặng không đáng có cho cơ quan
quản lý, làm phát sinh các khoản chi phí không hợp lý và làm chậm quá trình sáp
nhập, mua lại. Mô hình châu Âu được áp dụng ở các nước Tây Âu, ở Úc, ở New
Zeland, Nam Phi.
1.2.1 Tóm tắt pháp chế chống độc quyền của Mỹ
Nước Mỹ được coi là một trong những quốc gia có môi trường kinh doanh, môi
trường cạnh tranh thông thoáng, trật tư, ổn định và khá bình đẳng. Nhờ môi trường
9
kinh doanh - cạnh tranh quốc gia này, một số doanh nghiệp của Mỹ đã đạt tới tầm cỡ
thống trị, thao túng, khống chế, kiểm soát một số ngành sản xuất - kinh doanh xuất
khẩu trên thị trường thế giới. Để có được môi trường kinh doanh - cạnh tranh như vậy
là do hệ thống luật pháp, chính sách của Mỹ trong lĩnh vực này nhằm vào 4 mục tiêu
kinh tế quan trọng nhất như sau:
- Trước hết, bảo vệ và duy trì cạnh tranh là mục tiêu trọng tâm bằng cách
không cho phép độc quyền, cấm cạnh tranh không lành mạnh và loại bỏ hành động
phân biệt và câu kết về giá.
- Thứ hai là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bằng cách cấm những hình
thức kinh doanh, cạnh tranh thiếu công bằng, mang tính lừa dối.
- Thứ ba là bảo vệ những hãng kinh doanh với quy mô nhỏ và hoạt động độc
lập, tránh khỏi sức ép kinh tế do sự cạnh tranh của các hãng lớn gây ra.
- Thứ tư là nhằm vào điều chỉnh nhiều hơn tới các yếu tố chính trị và xã hội có
liên quan so với vấn đề kinh doanh và kinh tế.
Môi trường kinh doanh - cạnh tranh trong nước ở Mỹ được coi là trật tự, khá ổn
định ở chỗ đã áp dụng hình sự hoá các chế tài trong luật chống độc quyền và mặc dù
hầu hết các bang đều ban hành luật chống độc quyền, song các đạo luật như Sherman
năm 1890, Clayton năm 1914 (bổ sung làm rõ đạo luật Sherman); đạo luật của Uỷ ban
thương mại liên bang năm 1914; đạo luật cải tiến lĩnh vực chống độc quyền năm 1976
của toàn liên bang vẫn được coi là cơ sở quyết định đối với tất cả các quy định cạnh
tranh - chống độc quyền tại nước Mỹ. Điều đáng lưu ý là đạo luật cải tiến lĩnh vực
chống độc quyền là một đạo luật tách biệt nhằm tăng cường quyền lực của chính phủ
Mỹ trong việc thi hành ba luật nêu trên. Tuy nhiên, ở Mỹ không phải tất cả mọi tổ
chức đều phải tuân thủ theo 4 đạo luật về chống độc quyền trên đây. Nghị Viện Mỹ đã
miễn trừ việc áp dụng một số quy định về chống độc quyền đối với những công đoàn
nỗ lực độc quyền trong việc cung cấp lao động; những hợp tác xã nông nghiệp đôi khi
tham gia vào những hành vi phản cạnh tranh; các công ty bảo hiểm chịu sự điều chỉnh
theo luật cạnh tranh của bang chứ không phải theo luật của liên bang...; một số vụ giao
dịch kinh doanh nhỏ liên quan đến vấn đề quốc phòng, an ninh và những hoạt động
nghiên cứu phát triển của các hợp tác xã.
10
Luật chống độc quyền của Mỹ được coi là thông thoáng ở chỗ quan điểm của
các toà án trong thực tiễn xét xử không coi việc tăng cường quy mô công ty bằng cách
sáp nhập, tập trung quyền lực kinh tế thống trị một ngành hay một thị trường một cách
chính đáng là vi phạm luật cạnh tranh, chống độc quyền. Đối với các công ty Mỹ, một
trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh trong
xuất khẩu, thống trị kinh tế ngành và thị trường quốc tế là việc sáp nhập theo chiều
dọc và sáp nhập các tập đoàn. Việc này gần như trở thành xu thế chính với tốc độ cao
và số lượng lớn. Ví dụ, chỉ một thời gian ngắn từ 1981 - 1982 đã có tới 8 vụ sáp nhập
doanh nghiệp lớn với giá trị giao dịch từ 1 tỷ USD đến 7,8 tỷ USD. Tính riêng năm
1981, đã có tới 2.800 trường hợp sáp nhập công ty lớn, nhỏ với tổng số tiền 82,6 tỷ
USD được chi tiêu vào các hoạt động sáp nhập.
Tuy nhiên, giải pháp này phát huy tác dụng trong điều kiện một nền kinh tế
phát triển và tạo lợi thế về quy mô trong cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Nhưng với một nền kinh tế đang phát triển và việc sáp nhập công ty để đối phó với
cạnh tranh trên thị trường nội địa là chính (tiến tới độc quyền) thì không thể nâng cao
được năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các công ty. Vì không có sự cạnh tranh
trên thị trường nội địa một cách gay gắt để tồn tại thì doanh nghiệp làm sao nâng cao
được năng lực cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
1.2.1.1 Luật Sherman
Luật Sherman (02/07/1890) là hành động đầu tiên của chính phủ Hoa Kỳ nhằm
hạn chế cartels và độc quyền. Đây là luật chống tờ rớt lâu đời nhất của Liên bang Mỹ.
Luật được tổng thống Benjamin Harrison ký vào năm 1980 và được đặt theo
tên của tác giả - Thượng Nghị Sĩ John Sherman.
Sherman Act gồm có 7 điều luật. Mục tiêu của đạo luật: phản đối sự liên kết
của những thực thể mà có thể gây thiệt hại cho sự cạnh tranh, ví dụ như độc quyền hay
cartels. Tính tham khảo của đạo luật này đối với những tờ rớt của ngày nay đã lỗi thời.
Vào thời điểm thông qua đạo luật, tờ rớt đồng nghĩa với hành động độc quyền, vì tờ
rớt là một cách phổ biến để những nhà độc quyền nắm giữ công ty của họ, và là một
cách cho những thành viên của cartels tạo ra những hiệp định có thể thi hành được.
11
Luật Sherman vốn bị giảm hiệu lực qua vụ Standard Oil Co. of New Jersey
(1911).
1.2.1.2 Luật Clayton
Đạo luật Clayton (1914) được ban hành ở Mỹ nhằm bổ sung cho luật chống tờ
rớt của Mỹ bằng cách ngăn chặn những hành động phi cạnh tranh trong giai đoạn phôi
thai của nó.
Đạo Luật Clayton ra đời nhằm cứu vãn luật Sherman, theo đó luật đưa những
vụ sáp nhập bằng cổ phiếu vào đối tượng bị cấm. Mặc dù vậy, các công ty Mỹ lại dễ
dàng lách luật bằng cách thực hiện sáp nhập mua lại tài sản (vụ Thatcher
Manufacturing Co. v. FTC - 1926).
1.2.1.3 Đạo luật Ủy ban thương mại liên bang
Quốc hội (bao gồm Thượng nghị viện và hạ nghị viện ) ban hành đạo luật Ủy
Ban thương mại Liên bang năm 1914.
Nó thiết lập một cơ quan điều chỉnh độc lập - Ủy ban thương mại liên bang và
tạo cho tổ chức này quyền lực để làm cho luật Clayton và luật Robinson Patman có
hiệu lực (trừ luật Sherman) và không thừa nhận “hành vi cạnh tranh không công bằng
ngay cả khi hành vi này xâm phạm đến nội dung hay tinh thần của luật chống tờ rớt”.
Được sửa đổi vào năm 1937 bởi Wheeler-Lea Amendments, đạo luật FTC hiện
nay cũng ngăn cấm những đạo luật hay thủ đoạn cạnh tranh không công bằng hay dối
trá.
Đạo luật FTC là centerpiece của chế độ bảo vệ người tiêu dùng Liên bang.
Thêm vào đó, Ủy ban thương mại Liên bang còn bắt buộc thi hành những đạo luật bảo
vệ người tiêu dùng khác, bao gồm đạo luật Truth- in- Lending, đạo luật Fair Credit
Reporting, đạo luật Fair Packaging and Labeling. Nói chung quyền lực của FTC nhằm
phân tích những giới hạn về luật bằng cách đặt ngoài vòng pháp luật những cách thức
cạnh tranh không công bằng mặc dù không vi phạm luật Sherman hay Clayton về khía
cạnh technical, tuy nhiên có vẻ như vi phạm những chính sách của những đạo luật đó.
12
1.2.1.4 Celler Kefauver
Đạo luật Celler Kefaufer là một đạo luật của liên bang được thông qua vào năm
1950 nhằm sửa đổi và củng cố cho đạo luật Clayton ( ra đời năm 1914, bổ sung cho
Sherman Act năm 1890). Celler Kefauver Act được thông qua nhằm chấm dứt thủ
thuật tránh thuế khi tiến hành mua lại công ty bằng tài sản và các vụ mua lại những
công ty không phải là đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Trong khi Clayton Act ngăn chặn
việc sáp nhập bằng mua bán chứng khoán có thể làm giảm tính cạnh tranh, đạo luật
Celler Kefeuver có thể ngăn chặn việc mua lại công ty bằng tài sản nếu việc này làm
giảm tính cạnh tranh.
Celler Kefauver Act giúp cho chính phủ có khả năng chống lại sự sáp nhập
theo chiều dọc và sáp nhập hỗn hợp.
Điều 7- Đạo luật Clayton:
Section 7 of the Clayton Act là đạo luật điều chỉnh Được ban hành lần đầu vào
năm 1914, và được củng cố lại vào các năm 1914, 1950, 1980, vì thế hiện nay đạo luật
này ngăn cấm bất cứ vụ mua bán sáp nhập nào mà làm giảm tính cạnh tranh và tạo ra
xu hướng độc quyền.
Đạo luật được phân tích để đưa ra không chỉ là những tác động thực tế, có thể
nhận ra được của hành động phi cạnh tranh mà còn là hậu quả của mua bán sáp nhập.
Không có sự khác biệt khi mà sáp nhập là mua lại chứng khoán, mua lại tài sản,
hay sáp nhập thẳng theo luật. Không có sự khác biệt khi mà những thực thể có liên
quan là công ty kỹ thuật, công ty liên danh, công ty liên doanh, hoặc các loại công ty
khác.
Không ai có thể cam kết trong thương mại hoặc trong bất cứ hoạt động nào ảnh
hưởng đến thương mại bằng cách mua trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần
cổ phiếu hoặc vốn cổ phần khác và theo pháp quyền của Ủy Ban Thương mại liên
bang không ai có thể mua một phần hay toàn bộ tài sản của những bên cam kết khác
trong thương mại hoặc trong bất cứ hoạt động nào ảnh hưởng đến thương mại, trong
bất cứ ngành nào và bất cứ khu vực lãnh thổ nào của quốc gia. Tác động mà việc mua
lại công ty có thể đem lại là giảm tính cạnh tranh và tạo ra xu hướng độc quyền.
13
Điều luật này không chỉ áp dụng với những người chỉ đầu tư một cách duy nhất
bằng cổ phiếu và không sử dụng đến quyền bầu phiếu hoặc cách khác để làm giảm
tính cạnh tranh hoặc cố gắng thử để làm giảm tính cạnh tranh.
1.2.1.5 Đạo luật Robinson-Patman
Luật Thương mại Liên bang nhằm ngăn chặn những hành vi phi cạnh tranh bởi
những nhà sản xuất, đặc biệt là sự phân biệt về giá, phát sinh từ việc một chuỗi các
cửa hàng được phép mua hàng hóa với giá thấp hơn các cửa hàng bán lẻ khác. Đạo
luật này sửa đổi, bổ sung cho điều 2 của Đạo luật Clayton. Nhìn chung, Đạo luật
Clayton nhằm chống lại sự phân biệt giá khi bán hàng hóa nhằm tạo ra một tình trạng
cân bằng giữa những nhà sản xuất khi mà tác động của những vụ mua bán trên làm
giảm tính cạnh tranh.
1.2.1.6 Đạo luật Scott-Hart-Rodino (1980)
Củng cố những luật trước đó nhằm cover các loại hình doanh nghiệp khác
nhau: công ty, doanh nghiệp cá thể, DBAs,…
Luật này được lập ra nhằm giới hạn cạnh tranh độc quyền, mua bán và sáp
nhập doanh nghiệp.
1.2.1.7 Đạo luật cải tiến ủy ban Thương mại liên bang (FTC) năm 1975
Quy định “ngăn cấm mọi hành vi không lành mạnh đe dọa tính cạnh tranh của
thị trường” và trao cho cơ quan hành pháp này chức năng độc lập thực thi các luật
chống độc quyền của liên bang. Tiếp theo, năm 1976 Luật chống độc quyền Hart-
Scott-Rodino (HSR) bắt buộc các bên liên quan phải thông báo và nộp hồ sơ thẩm tra
lên FTC và Bộ Tư pháp trước khi hoàn tất vụ sáp nhập. Quy định này được áp dụng
đối với tất cả những vụ sáp nhập mà một trong hai bên có doanh thu trên 100 triệu
USD và bên còn lại trên 10 triệu USD, với giá trị chuyển nhượng vượt quá 15 triệu
USD. Nếu các công ty thuộc đối tượng như trên thực hiện sáp nhập mà không qua
thẩm tra của FTC và Bộ Tư pháp sẽ bị hủy thỏa thuận chuyển nhượng và có thể bị
phạt lên đến 10000 USD/ngày.
Cũng theo Luật HSR, thời hạn thẩm tra là 15 ngày đối với một vụ sáp nhập qua
chào thầu bằng tiền mặt, và 30 ngày đối với các vụ khác. Cơ quan quản lý nhà nước
14
có thể yêu cầu các bên bổ sung thông tin một lần thứ 2 và gia hạn thêm tối đa là 10
ngày đối với sáp nhập chào thầu và 20 ngày đối với các vụ sáp nhập theo hình thức
khác. Qua thời hạn trên, các bên mới có thể kết thúc thủ tục cho vụ chuyển nhượng và
đi vào hoạt động chung. Sau thời hạn này, cơ quan liên bang không có cơ hội để có
thể kiện ra tòa đòi hủy bỏ vụ sáp nhập. Mặc dù vậy, các bên liên quan vẫn có thể bị
kiện bởi chính quyền bang và một cá nhân khác.
Từ những năm đầu thập niên 80, dưới chính quyền Reagan, chính quyền liên
bang đã thực hiện điều chỉnh nhiều chính sách theo hướng cho phép các vụ sáp nhập
rộng rãi hơn. Bản hướng dẫn M&A đã được Bộ Tư pháp và FTC thiết kế năm 1992
nhằm cung cấp thêm công cụ để tất cả các bên có cơ sở trong việc phân tích các vụ
sáp nhập được đề xuất. Bản hướng dẫn đưa ra 5 câu hỏi phổ quát:
(i) Vụ sáp nhập có tạo ra thay đổi nào lớn theo hướng tập trung hóa thị trường
không?
(ii) Vụ sáp nhập có khả năng gây ra những hệ quả xấu cho tính cạnh tranh?
(iii) Liệu khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể mới có thể kịp làm thay
đổi lại tình trạng thiếu cạnh tranh của thị trường?
(iv) Vụ sáp nhập có làm tăng hiệu suất và hiệu quả mà các bên trong đó không
thể làm được bằng một cách khác?
(v) Nếu vụ sáp nhập không xảy ra, tài sản của một trong các bên có bị thanh lý
khỏi thị trường không?
1.3 PHÁP CHẾ CHỐNG ĐỘC QUYỀN CỦA CHÂU ÂU
1.3.1 Luật cạnh tranh của EU
Hoạt động cạnh tranh tự do và không bị làm sai lệch hiện đang được phát huy
và trở thành một trong số các mục tiêu mà Liên minh châu Âu hướng tới. Uỷ ban châu
Âu được giao thẩm quyền kiểm soát các dự án tập trung kinh tế quan trọng trong Liên
minh châu Âu. Ngày 21/12/1989 Quy chế số 4064/89 về kiểm soát hoạt động tập
trung kinh tế được thông qua (mô phỏng theo mô hình Đức và thuộc loại hệ thống
pháp luật cạnh tranh tập hợp những hệ thống pháp luật cạnh tranh mà trong đó cơ chế
kiểm soát tập trung kinh tế được xây dựng dựa trên suy đoán rằng tập trung kinh tế có
15
hệ quả hạn chế cạnh tranh khi chúng tạo ra hoặc tăng cường vị trí thống lĩnh, hoặc gây
thêm rào cản gia nhập thị trường). Uỷ ban châu Âu cũng đã ban hành Nghị định
hướng dẫn thi hành Quy chế nói trên và một số nội dung của Quy chế đã được sửa đổi
bổ sung bởi Quy chế số 1310/97 ngày 30/6/1997. Do nhu cầu cải cách cơ chế kiểm
soát tập trung kinh tế và đúc kết những kinh nghiệm thu được, Quy chế số 139/2004
được ban hành ngày 20/1/2004 thay thế Quy chế 4064/89. Ngày 7/4/1004, Uỷ ban
châu Âu ban hành Nghị định số 802/2004 hướng dẫn thi hành Quy chế số 139/2004.
Điều 2 của Quy chế 139/2004 theo hướng xích gần hơn với tiêu chí của Mỹ,
theo đó thủ tục kiểm soát không chỉ áp dụng đối với những dự án tập trung kinh tế tạo
ra hoặc tăng cường vị trí thống lĩnh mà còn đối với các dự án gây cản trở đáng kể đến
cạnh tranh.
Điều 3 Quy chế 139/2004 định nghĩa hoạt động tập trung kinh tế thuộc phạm vi
điều chỉnh của Quy chế là hoạt động sáp nhập, hợp nhất và các hình thức khác mà qua
đó một hoặc nhiều doanh nghiệp làm thay đổi lâu dài cơ cấu quyền kiểm toàn toàn bộ
hoặc một phần của một hay nhiều doanh nghiệp khác. Một số hoạt động mua cổ phần
do các tổ chức tín dụng, ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm không thuộc phạm vi áp
dụng Quy chế 139/2004. Việc mua lại tạm thời một số cổ phần được niêm yết trên thị
trường chứng khoán (phải bán lại trong thời hạn một năm kể từ ngày mua) không bị
coi là hoạt động tập trung kinh tế với điều kiện đây là một trong những hoạt động
thường xuyên của tổ chức tài chính và tổ chức tài chính không thực hiện quyền bỏ
phiếu phát sinh từ số cổ phần mà họ nắm giữ để xác định chiến lược cạnh tranh của
doanh nghiệp liên quan.
Điều 4 Quy chế 139/2004 quy định mọi dự án tập trung kinh tế thuộc phạm vi
áp dụng thủ tục kiểm soát của Liên minh châu Âu đều phải được thông báo trước. Hồ
sơ thông báo phải được lập theo mẫu và nộp cho Uỷ ban châu Âu ngay sau khi các
bên giao kết với nhau về việc tập trung kinh tế - ngay sau khi ký thoả thuận liên kết,
thoả thuận mua quyền kiểm soát. Hành vi không thực hiện nghĩa vụ thông báo tập
trung kinh tế, cung cấp thông tin không chính xác có thể bị xử lý phạt tiền lên đến 1%
tổng doanh số của doanh nghiệp có liên quan.
16
Trong một số lĩnh vực, sự phát triển của tập trung kinh tế trong một thời điểm
nhất định có thể gây nguy cơ đặc biệt. Vì vậy ở từng nước trong Liên minh châu Âu
có những quy định riêng về thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế.
Ví dụ ở Pháp có những quy định riêng về kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh
vực báo chí, thông tin nghe nhìn, điện ảnh, ngân hàng.
Các dự án tập trung kinh tế trong lĩnh vực báo chí phải được đánh giá không
phải dưới góc độ quyền sở hữu mà phải được đánh giá dưới góc độ quyền kiểm
soát hoặc sự tập hợp các phương tiện thiết yếu đối với báo chí như việc thu
gom hợp đồng quảng cáo hoặc việc in ấn.
Cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực thông tin nghe nhìn theo quy
định của Luật “Leotard” ngày 30/9/1986 (đã được sửa đổi bổ sung bởi các luật
ngày 27/11/1986, ngày 17/1/1989, ngày 1/1/1994, ngày 1/8/2000) là một cơ
chế phức tạp, nhà lập pháp đã đưa ra những quy định hết sức cụ thể như giới
hạn vốn hoặc quyền bỏ phiếu mà một người có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp
nắm giữ một công ty được phép khai thác dịch vụ nghe nhìn, hạn chế khả năng
góp vốn cũng lúc vào nhiều công ty khai thác cùng một phương tiện truyền
thông…
Theo Luật an toàn về tài chính số 2003-706 ngày 1/8/2003, trong trường hợp
giải quyết vụ tập trung kinh tế có liên quan đến một tổ chức tín dụng, một công
ty đầu tư vốn hoặc một công ty bảo hiểm thì Bộ trưởng kinh tế bắt buộc phải
tham khảo ý kiến Hội đồng cạnh tranh.
1.3.2 Đạo luật cạnh tranh của Vương quốc Anh
Cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế và chống độc quyền của Vương quốc Anh là
điển hình cho mô hình châu Âu. Hoạt động cạnh tranh ở Vương quốc Anh được điều
chỉnh bởi các quy phạm pháp luật lần đầu tiên thông qua Luật về độc quyền và hoạt
động hạn chế năm 1948. Từ đó đến nay hệ thống pháp luật về cạnh tranh ở Vương
quốc Anh đã được sửa đổi, bổ sung qua các văn bản quy phạm sau Luật Thương mại
công bằng năm 1973, Luật về Toà án hành vi thương mại hạn chế năm 1976, Luật về
giá bán lại năm 1976, Luật Hành vi thương mại hạn chế năm 1976, Luật Hành vi
17
thương mại hạn chế năm 1977. Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động cạnh tranh ở Vương quốc Anh bao gồm Luật Thương mại công bằng năm 1973,
Luật Cạnh tranh năm 1980, Luật Cạnh tranh năm 1998.
Luật cạnh tranh 1998 là một nguồn quan trọng của chính sách cạnh tranh của
Vương quốc Anh cùng với Luật Doanh nghiệp 2002.
Một trong những mục đích chính của đạo luật này là nhằm hòa hợp chính sách
cạnh tranh của Anh với Ủy ban châu Âu.
Trong hệ thống luật Anh có 3 cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực cạnh tranh
gồm: Ban Thương mại công bằng, Uỷ ban tư vấn bảo vệ người tiêu dùng, Uỷ ban cạnh
tranh.
Ban Thương mại công bằng: xác định trường hợp có liên quan hành vi độc
quyền và phi cạnh tranh ở Anh.
Uỷ ban tư vấn bảo vệ người tiêu dùng: chỉ giải quyết các vụ việc liên quan đến
hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Uỷ ban cạnh tranh lúc đầu có tên là Uỷ ban hành vi hạn chế và độc quyền (Luật
hành vi hạn chế và độc quyền năm 1948), sau được đổi là Uỷ ban độc quyền
(Luật hành vi thương mại hạn chế năm 1976), Uỷ ban sáp nhập và độc quyền
(Luật cạnh tranh 1980) đến Luật cạnh tranh 1998 được lấy tên là Uỷ ban cạnh
tranh. Uỷ ban cạnh tranh điều tra và báo cáo về các vấn đề mà luật quy định
phải trình lên Uỷ ban gồm: về việc tồn tại hay khả năng tồn tại tình trạng độc
quyền, về việc chuyển nhượng cơ quan báo chí, về việc tạo ra hay khả năng tạo
ra tình trạng sáp nhập.
1.3.3 Luật cạnh tranh của Đức
Pháp luật của Đức về kiểm soát tập trung kinh tế được xếp vào giữa hai mô
hình Mỹ và mô hình châu Âu vì bên cạnh những quy định chung cấm tập trung kinh tế
và độc quyền có một loạt những trường hợp ngoại lệ, giảm nhẹ.
Trước chiến tranh thế giới II, nước Đức là nước của các tập đoàn và cartel (Các
Ten). Sau chiến tranh, những cartel bị giải tán. Những tư tưởng của pháp luật chống
18
độc quyền của Mỹ đã có tác động mạnh đến việc xây dựng chính sách cạnh tranh ở
Đức. Luật Chống hạn chế cạnh tranh ra đời năm 1957 và đã được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần. Nội dung cơ bản của Luật Chống hạn chế cạnh tranh Đức bao gồm cấm
cartel, kiểm soát sáp nhập và giám sát việc lạm dụng vị trí thống lĩnh .
Đối tượng áp dụng của Luật Chống hạn chế cạnh tranh Đức là các doanh
nghiệp. Khái niệm "doanh nghiệp" được hiểu theo nghĩa rộng, tức là bất kỳ hoạt động
nào trong lĩnh vực sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ. Doanh nghiệp không nhất
thiết phải có hình thức pháp lý cụ thể, hay phải hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Luật
áp dụng cho cả các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội hay các Viện. Các doanh nghiệp
thuộc sở hữu công cộng cũng chịu sự điều chỉnh của Luật này trừ khi doanh nghiệp đó
thuộc sự điều chỉnh của luật công cộng.
Các Luật về cạnh tranh của Đức nằm trong một hệ thống tổng thể gồm nhiều
đạo luật khác nhau. Trong một số đạo luật khác cũng có các qui định liên quan đến
cạnh tranh nhưng cạnh tranh được bảo hộ chủ yếu bằng luật chống hạn chế cạnh tranh
và Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Chống hạn chế cạnh tranh được hỗ trợ bởi Hiệp ước thiết lập Cộng đồng
Châu Âu về Than đá và Thép (Hiệp ước ECSC) và Hiệp ước thiết lập Cộng đồng Kinh
tế Châu Âu (Hiệp ước EC). Các qui định về chống cạnh tranh không lành mạnh được
qui định trong Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh và một loạt các đạo luật liên
quan như Pháp lệnh Giá, Luật Nhãn hiệu thương mại, Luật Chiết khấu và hạ giá.
Theo Luật Chống hạn chế cạnh tranh Đức, các giao dịch sau đây được coi là
hợp nhất, sáp nhập: mua phần tài sản cơ bản của doanh nghiệp khác; mua cổ phần và
quyền bỏ phiếu của doanh nghiệp để chiếm 25 tới 50% cổ phần hoặc bảo đảm có
quyền lợi chính; một số hình thức liên doanh nhất định; thoả thuận thành lập tập đoàn;
hoặc tiếp tục hoạt động vì quyền lợi của doanh nghiệp khác; hoặc chuyển lợi nhuận
cho doanh nghiệp khác; hoặc cho thuê hay chuyển thiết bị cho doanh nghiệp khác;
Ban quản trị phối hợp (các doanh nghiệp có ít nhất nửa thành viên Hội đồng quản trị,
Ban Giám đốc là trùng nhau). Việc hợp nhất, sáp nhập bị kiểm soát hay không phụ
thuộc chủ yếu vào mức vốn của công ty. Vượt quá mức vốn nhất định theo qui định
của luật này, hợp nhất, sáp nhập phải được thông báo cho cơ quan có thẩm quyền
19
trước hoặc sau khi hoàn thành việc hợp nhất. Các mức vốn đặc biệt được áp dụng cho
các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, xuất bản. Các dự án hợp nhất, sáp nhập phải được
thông báo trước khi được Văn phòng Chống độc quyền Liên Bang cho phép. Các giao
dịch vi phạm các qui định cấm là vô hiệu và có thể bị xử phạt. Việc hợp nhất, sáp
nhập bị cấm nếu tạo ra hoặc thúc đẩy một ví trí thống trị trên thị trường.
20
CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG MUA BÁN SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP (M&A)
VÀ KHUNG PHÁP LÝ TẠI VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG M&A TẠI VIỆT NAM
2.1.1 Diễn biến mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A) trong thời gian qua
Hoạt động M&A ở nước ta đã được khởi động từ năm 2000, đến năm 2005 cả
nước có 18 vụ M&A với tổng giá trị là 61 triệu đô la.
Năm 2006, số vụ M&A là 32 với tổng giá trị là 245 triệu USD. Một số vụ mua
bán, sáp nhập lớn trong năm 2006 ở Việt Nam theo thống kê của
PricewaterhouseCoopers:
- Công ty Asia Pacific Breweries Ltd (APB) trụ sở ở Singapore, chủ sở hữu của
Công ty Vietnam Brewery Ltd (VBL), đã mở rộng mạng lưới sản xuất và bán hàng
bằng cách mua 80% cổ phần của Công ty Trách nhiệm hữu hạn VBL Quảng Nam -
công ty liên doanh với Công ty Xây dựng điện Quảng Nam. VBL Quảng Nam có tổng
vốn đầu tư là 13,2 triệu USD và công suất 25 triệu lít/năm, hiện đang cung cấp bia
Tiger và Heineken cho thị trường nội địa.
- Tháng 12-2006, Citigroup Inc. ký một biên bản ghi nhớ về việc mua 10% cổ
phần ở Ngân hàng thương mại Đông Á.
- Prudential mua lại cổ phần của Công ty GreenFeed (Vietnam) Co. Ltd. 65%
cổ phần của Công ty Giảng Võ cũng về tay Prudential từ Samsung Corp.
Nửa đầu năm 2007 đã có 46 vụ giao dịch mua bán và sáp nhập doanh nghiệp,
với tổng giá trị lên tới 626 triệu USD, gấp hai lần so với cùng kỳ năm 2006 và 15 lần
so với cùng kỳ năm 2005. Trong số các vụ giao dịch trên, 30 vụ có yếu tố nước ngoài,
các doanh nghiệp thực hiện giao dịch chủ yếu đến từ châu Á với 22 vụ trong đó các
công ty của Singapore chiếm 9 vụ. Tài chính, ngân hàng, thực phẩm, giải khát là
những lĩnh vực thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp khi thực hiện việc mua bán,
sáp nhập.
- Vụ M&A tại Ngân hàng Eximbank được xem là vụ mua bán doanh nghiệp
đình đám nhất trong 46 hợp đồng M&A thực hiện trong nửa đầu năm 2007. Tháng 6,
Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) đã bán 17,8% cổ phần cho 16 đối
21
tác chiến lược, trong đó có ngân hàng Á châu, Công ty cổ phần Kinh Đô, Công ty cổ
phần Chế tạo máy Sinco, PVFC với tổng giá trị 248 triệu USD. Tuần đầu tháng
8/2007, Eximbank cũng đã chọn được đối tác chiến lược là Sumitomo Mitsui Banking
Corporation (SMBC) và bán 15% vốn cổ phần cho đối tác này, đem lại cho Eximbank
số tiền 225 triệu USD.
- Cũng trong tháng 6, Indochina Capital mua 20% cổ phiếu Cty CP Địa ốc
Hoàng Quân (20 triệu USD) và Cty CP Tư vấn, Thương mại và Dịch vụ Địa ốc Hoàng
Quân – Mekong (12 triệu USD). Đầu năm 2007, Indochina Capital cũng đã mua 20%
cổ phần của Vinamit.
- Tháng 6, HSBC là ngân hàng nước ngoài đầu tiên được chấp thuận mua 15%
Cổ phần của Techcombank và đang nộp đơn để mua thêm 5% nữa. Deutsche Bank
cũng đạt được thỏa thuận mua 20% cổ phần của Habubank và nếu được chấp thuận từ
ngân hàng nhà nước, họ sẽ có đại diện trong hội đồng quản trị của Habubank.
Ngoài ra còn một số vụ M&A đáng chú ý khác như:
- Tập đoàn Sojitz (Nhật Bản) mua 20% cổ phần của Interflour Vietnam (80
triệu USD) – công ty bột mỳ lớn thứ 2 của VN (tháng 6).
- Tháng 5, VinaCapital mua 70% cổ phần của khách sạn Omni Saigon (21 triệu
USD).
- Tháng 4, Qantas Airlines (Australia) ký với SCIC mua 30% cổ phần của
Pacific Airlines.
- Tháng 4-2007, Công ty cổ phần ANCO, một tập đoàn thực phẩm và đồ uống
của các nhà đầu tư tư nhân VN, chính thức công bố mua lại nhà máy sữa của Nestlé
tại Ba Vì, Hà Tây. ANCO sẽ thừa hưởng thương hiệu Nestlé cho hai sản phẩm sữa
tươi thanh trùng và sữa chua ăn liền trong vòng một năm. Sau đó, một thương hiệu
mới sẽ ra đời, được sản xuất hoàn toàn trên dây chuyền công nghệ của Nestlé.
- Tháng 3, NatSteel Asia (Singapore – công ty con của Tata Steel) – chào mua
toàn bộ cổ phần của nhà máy cán thép SSE Steel và 70% Vinausteel Ltd (tổng giá trị
41 triệu USD). Tuy nhiên, đến cuối tháng 6, vụ chào mua phải dừng lại vì chào mua
22
cao hơn của Công ty QLQDTCK Prudential Vietnam. Chi tiết giao dịch này chưa
được xác nhận.
- Tháng 2, Daiichi mua lại toàn bộ Bảo Minh CMG (chiếm 3% thị phần bảo
hiểm nhân thọ)
Không chỉ dừng lại ở con số 46, hiện nay đang có rất nhiều vụ M&A khác đang
trong quá trình thương thảo với bên mua là: Petronas, Temasek, Nanjing Automobile,
Calsberg, SK…
Sau đây là biểu đồ thể hiện giá trị và số lượng các vụ M&A từ đầu năm 2005
đến giữa năm 2007:
Biểu đồ 2.1
Năm 2007 là một năm mà thị trường tài chính thế giới nói chung và thị trường
tài chính Việt Nam nói riêng phát triển với một tốc độ rất nhanh trong đó hoạt động
mua bán và sáp nhập là một trong những hoạt động có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất
với nhiều hình thức đa dạng. Thị trường M&A cũng diễn ra sôi động với khá nhiều
23
các thương vụ lớn được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau chứ không chỉ đơn
thuần là việc góp vốn đầu tư vẫn thường thấy trong thời gian trước.
2.1.2 Xu hướng mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A) trong thời gian tới
Hoạt động M&A là một hoạt động cực kỳ tiềm năng đã, đang và sẽ phát triển
nhanh chóng trong thời gian tới cả về mặt số lượng, hình thức, lĩnh vực và qui mô bởi
đây là xu hướng phát triển của nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, là
biện pháp hữu hiệu để các doanh nghiệp tăng vốn một cách nhanh nhất. 5 năm trở lại
đây hình thức này càng trở nên phổ biến. Tùy theo chiến lược kinh doanh, nhà đầu tư
tìm kiếm, săn lùng những doanh nghiệp phù hợp với mục tiêu kinh doanh của họ.
Ngân hàng ANZ mua cổ phần của Sacombank là nhắm đến mạng lưới bán lẻ của ngân
hàng này, đồng thời với việc tích lũy lợi nhuận từ cổ tức, thị giá tăng. Theo đánh giá
của Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) hoạt động mua bán sáp nhập doanh
nghiệp (M&A) sẽ tăng trưởng với tốc độ 30-40%/năm.
- Xu thế M&A trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào việc các công ty đổ
vốn, đầu tư vào nhau (trở thành đối tác chiến lược) và mở rộng các mô hình tập đoàn.
Các lĩnh vực được dự đoán có lượng giao dịch nhiều nhất là tài chính, ngân hàng, thực
phẩm, giải khát là những lĩnh vực thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp khi thực
hiện việc mua bán, sáp nhập. Gần đây, làn sóng mua lại cổ phần của các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam diễn ra khá sôi động. Những nhà đầu tư nước ngoài đổ
tiền vào các ngân hàng thương mại Việt Nam không ai khác chính là các tập đoàn
ngân hàng, tài chính lớn trên thế giới (HSBC, Dragon Capital, Deutsch Bank,
Standard Chartered Bank, ANZ…). Bên cạnh đó phân phối cũng là một lĩnh vực
không kém phần sôi động. Trên thị trường phân phối Việt Nam hiện đã có mặt một số
nhà đầu tư quốc tế như Metro Cash & Carry, Big C, Parkson, Lotte Shopping… và
đây là một xu hướng tất yếu. Là thành viên của WTO, Việt Nam phải thực hiện cam
kết mở cửa thị trường, trong đó có lĩnh vực phân phối.
- Một đặc điểm đáng chú ý của thị trường M&A của Việt Nam đó là hoạt động
M&A có xu hướng diễn ra ngay trong nội bộ ngành tài chính chứng khoán khi hàng
loạt các ngân hàng và các công ty chứng khoán mở ra và nhiều công ty hoạt động với
lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí. Cùng với lộ trình hội nhập và theo những cam kết
24
về mở cửa thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam khi gia nhập WTO, những hoạt
động M&A trong lĩnh vực tài chính là một điều tất yếu.
- Chuyển nhượng dự án cũng là một hình thức đầu tư M&A phổ biến trong thời
gian tới. Các doanh nghiệp cũng sẽ tự nguyện sáp nhập lại với nhau để giảm chi phí
và mở rộng thị trường.
- Hoạt động M&A tại Việt Nam sẽ có những nét rất riêng phù hợp với đặc thù
doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm số đông ở Việt Nam. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có
điểm yếu là vốn nhỏ, chưa tiếng tăm, không nắm được nhiều về các vấn đề pháp lý,
nhưng nhu cầu chuyển nhượng, tìm vốn đầu tư lại khá lớn.
Xu hướng mua bán, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam có chiều hướng gia
tăng vì nhiều lý do. Có thể kể đến một số lý do chính sau đây:
2.1.2.1 Sự phát triển nóng của nền kinh tế
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 7,5%/năm.
Việc thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài cả gián tiếp và trực tiếp cùng với sự
góp mặt của hàng loạt quỹ đầu tư trong và ngoài nước đã làm cho thị trường M&A
nước ta nóng dần lên.
Phát triển nhanh, đồng bộ các loại thị trường..., đều là cơ sở quan trọng để hoạt
động M&A phát triển. Trong những năm qua thị trường tài chính Việt Nam đặc biệt là
thị trường chứng khoán đã có bước tiến mạnh mẽ. Thông qua thị trường này các hoạt
động mua bán, sáp nhập sẽ có môi trường thuận lợi để phát triển nhanh hơn, hiệu quả
hơn và minh bạch hơn và có thể hình thành một thị trường M&A trong những năm tới
ở Việt Nam.
2.1.2.2 Khung pháp lý ngày càng thuận lợi
Việc ra đời các luật và nghị định về kinh doanh như Luật doanh nghiệp 2005,
Luật Đầu tư 2006 và Luật chứng khoán 2007 giúp cho thị trường tài chính nói chung
và thị trường M&A nói riêng trở nên minh bạch hơn thu hút được nhiều nhà đầu tư cả
trong nước lẫn ngoài nước.
25
Trên một sân chơi phổ biến hơn và khung pháp lý đã trở nên thuận lợi hơn, các
doanh nghiệp Việt Nam của tất cả các thành phần kinh tế nhanh chóng làm quen và sử
dụng M&A như một công cụ chiến lược để phát triển hay cơ cấu lại doanh nghiệp của
mình, đối phó với sức nóng cạnh tranh ngày càng lớn trên thị trường. Luật Doanh
nghiệp hiện nay đã tạo điều kiện pháp lý để các chủ thể kinh doanh trong khu vực nhà
nước, tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài cùng hoạt động dưới các hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, và thực hiện những thủ tục
quản trị công ty tương đối đồng nhất.
2.1.2.3 Sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới
Khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới thì số
lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa rơi vào tình trạng phá sản, giải thể sẽ ngày càng
tăng nếu các doanh nghiệp không nâng cao năng lực cạnh tranh. Thế nhưng, tình thế
nguy nan này có thể được giải quyết bằng biện pháp sáp nhập hoặc mua bán doanh
nghiệp, tìm các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.
Các giao dịch M&A cũng sẽ là sự lựa chọn tốt cho những nhà đầu tư nước
ngoài khi Việt Nam đã bắt đầu mở cửa các lĩnh vực dịch vụ như viễn thông, ngân
hàng và tài chính. Việc phát triển nền kinh tế, đặc biệt là sự trỗi dậy của khu vực tư
nhân và sự phát triển của thị trường vốn và tài chính đã tạo động lực cho việc gia tăng
hoạt động M&A tại Việt Nam, bao gồm cả những giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào công ty trong nước cũng như các giao dịch M&A nội địa giữa các doanh
nghiệp tại Việt Nam.
2.1.2.4 Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp là một nhu cầu thực tế, một thị
trường rất phát triển trên thế giới
- Xuất hiện ngày càng nhiều nhu cầu bán và nhu cầu mua doanh nghiệp:
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 8/2007, cả nước hiện có
khoảng 250.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp trong
số đó kinh doanh thua lỗ, lợi thế kinh doanh ngày càng giảm sau một số năm hoạt
động, không thích nghi với môi trường mới… Vì vậy khi cơ hội kinh doanh mới xuất
hiện doanh nghiệp muốn chuyển hướng đầu tư hoặc nhận được lời đề nghị mua hấp