Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.06 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT
LUẬT TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG – CHỨNG KHOÁN

CHỦ ĐỀ:
THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC
PHÁP LUẬT
GVHD: Ths.Huỳnh Thị Nam Hải
Nhóm sinh viên thực hiện:
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Nguyễn Thị Thảo My K125042075
2 Quách Thị Như K125042091
3 Nguyễn Thị Kim Thanh K125042105
4 Nguyễn Thị Thùy K125042116
5 Trần Phương Trinh K125042128
6 Nguyễn Thị Thu Uyên (NT) K125042135
7 Nguyễn Thị Thành Vinh K125042137
Mục lục
Trang 2 / 25
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, Bộ luật tố tụng dân sự với những
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng như: trình tự, thủ tục khởi kiện, xét xử, sự
tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể được quy định đều nhằm mục đích giải quyết
các vụ việc dân sự được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Tuy nhiên trong thực
tiễn , hoạt động xét xử có thể không tránh khỏi những sai sót khiến cho những phán quyết
của Tòa án không đúng với sự thật khách quan hoặc trái pháp luật.Những sai sót này có
thể xuất phát từ yếu tố chủ quan hoặc yếu tố khách quan nên dẫn đến việc có những bản
án, quyết định của Tòa án đã trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí qua
nhiều vòng xét xử lặp đi lặp lại mà vẫn không đúng pháp luật. Do đó để khắc phục và sửa
chữa những sai lầm, thiếu sót nhằm đảm bảo tính pháp chế XHCN trong công tác xét xử
của tòa án cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì cần có một


thủ tục để xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án đã có hiệc lực
pháp luật.
Giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục đặc biệt trong tố tụng dân sự. Theo nguyên tắc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện sau khi
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải là thủ tục nối tiếp của cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm. Đây không phải là cấp xét xử thứ ba mà chỉ là thủ tục xét lại các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị của
người có thẩm quyền.
Trang 3 / 25
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
I. THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
1. Khái niệm và ý nghĩa của giám đốc thẩm dân sự
1.1. Khái niệm
Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc
giải quyết vụ án.
Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt được tiến hành trên cơ sở kháng nghị của
người có thẩm quyền khi phát hiện có sự sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự. Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo thủ tục giám đốc thẩm do Tòa án có thẩm quyền thực hiện.
+ Nội dung: Tòa án kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật kháng nghị
+Tính chất: Điều 282 BLTTDS quy định: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.
- Theo quy định tại điều 17 BLTTDS hiện hành, Tòa án thực hiện chế độ 2 cấp xét
xử: xét xử ở cấp sơ thẩm và xét xử ở cấp phúc thẩm. Vì vậy giám đốc thẩm không phải là
1 cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng đặc biệt có nhiệm vụ xét lại nhằm kiểm tra tính
hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
do phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm đảm bảo

việc xử lý vụ án được chính xác.
- Khác với phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, chỉ khi bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật mới được xem xét
trong khi phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có
kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát thì dù việc xét xử sơ thẩm có vi
phạm pháp luật hay không vi phạm pháp luật, bản án sơ thẩm đúng hay sai, vụ án vẫn
được xét xử lại. Do đó không phải trường hợp nào đương sự khiếu nại bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cũng được kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám
đốc thẩm.
1.2. Ý nghĩa
Việc xét lại bản án hay quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
giám đốc thẩm có ý nghĩa to lớn. Trước hết, nó làm cho kỷ cương pháp luật được tôn
trọng, sau đó nó giúp cho Tòa án cấp trên thấy được những sai lầm, thiếu sót của Tòa án
cấp dưới đối với những vụ án cụ thể và sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm đó, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Mặt khác, thông qua hoạt động giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên có thể tổng kết, rút
kinh nghiệm công tác xét xử. Trên cơ sở đó, họ hướng dẫn Tòa án cấp dưới hiểu và áp
dụng đúng pháp luật. Vì vậy, kết quả của hoạt động giám đốc thẩm được coi như là
những kinh nghiệm; đồng thời là những định hướng hướng dẫn hoạt động xét xử của Tòa
án cấp dưới.
2. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
2.1. Khái niệm
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hoạt động tố tụng của người có thẩm
quyền của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc phản đối bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật và yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đó khi phát hiện
được sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
2.2. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Để tiến hành kháng nghị, người có thẩm quyền kháng nghị phải dựa trên những căn
cứ nhất định do pháp luật quy định. Theo điều 283 BLTTDS, bản án quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong
các căn cứ sau đây:
- Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan
của vụ án.
Các tình tiết khách quan của vụ án là những tình tiết tồn tại ngoài ý muốn của con người.
Tùy thuộc mỗi vụ án cụ thể, các tình tiết có thể nhiều ít khác nhau và tồn tại ở những
dạng khác nhau. Trên thực tế, những nguyên nhân khiến cho kết luận của Tòa án không
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án cũng khá nhiều. Thông thường những
nguyên nhân này có thể thể hiện dưới dạng Tòa án chưa thu thập đầy đủ các chững cứ, tài
liệu để giải quyết vụ án nhưng Tòa án vẫn giải quyết nên dẫn đến quyết định của Tòa án
thiếu cơ sở ; Hoặc là Tòa án có thể đánh giá sai chứng cứ, tài liệu của vụ án nên quyết
định giải quyết vụ án sai.
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Thủ tục tố tụng là những quy định của pháp luật về những hoạt động của cơ quan, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng là những vi phạm trong quá trình điều tra hoặc xét xử vụ án mà
chúng có thể tước bỏ hoặc hạn chế quyền của những người tham gia tố tụng hoặc làm cho
Tòa án xét xử không khách quan, không đúng pháp luật hoặc thiếu căn cứ.Trong thực tế
việc vi phạm nghiêm trong thủ tục được tiến hành trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án
thường thể hiện dưới dạng như : Tòa án giải quyết vụ án sai thẩm quyền, thành phần Hội
đồng xét xử không đúng quy định của pháp luật, Tòa án xác định sai tư cách tố tụng của
đương sự….
- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Các sai lầm trong việc áp dụng pháp luật thường thể hiện dưới dạng Tòa án đã áp dụng
văn bản pháp luật không đúng, không còn hiệu lực hoặc áp dụng không đúng điều luật,
không đúng nội dung quy định của điều luật. Trong đó, phổ biến nhất là việc Tòa án áp
dụng sai điều luật hoặc không đúng nội dung quy định của điều luật vào việc giải quyết
vụ án dân sự.

2.3. Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị
Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại
Điều 285 BLTTDS.
Theo quy định này thì chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh
mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. (Việc kháng nghị có sự phân cấp
rõ ràng).
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của tòa án nhân dân các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân cấp huyện.
Lưu ý: chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền yêu
cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc
phục được. Thời hạn: không quá 3 tháng (Theo điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008).
2.4. Hình thức kháng nghị
Hình thức kháng nghị là phương diện để các chủ thể có thẩm quyền thể hiện quyền
kháng nghị của mình.
2.4.1. Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm
 Đơn đề nghị
Theo khoản 1 điều 284: “Trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định
đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với những người có quyền kháng nghị
quy định tại Điều 285 BLTTDS để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”.
 Nội dung: điều 284a BLTTDSHH; khoản 1 điều 1 của Thông tư liên tịch
03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC; tham khảo mẫu số 1.
 Gửi đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (điều 2; khoản 1 điều 9 của
Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC)

 Nhận đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (điều 3; khoản 2,3 điều 9
Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC)
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
 Xem xét, xử lý đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (Điều 4, 5, 6, 7, 8,
10 của Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC)
Lưu ý: Xử lý đối với đơn đề nghị trong trường hợp đã có văn bản thông báo về việc
không kháng nghị của Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền (điều 12 của Thông tư liên
tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC).
 Văn bản thông báo
Theo khoản 2 điều 284 BLTTDSHH: “Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá
nhân, cơ quan tổ chức khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền
kháng nghị quy định tại Điều 285 BLTTDS”.
 Nội dung văn bản thông báo: khoản 2 điều 1 của Thông tư liên tịch
03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC;
 Xử lý văn bản thông báo: điều 13 của Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC
Lưu ý: Hình thức, nội dung văn bản thông báo về việc không kháng nghị, quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm (điều 11 của Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC).
2.4.2. Quyết định kháng nghị
Theo quy định tại điều 287 BLTTDS thì quyết định kháng nghị phải có các nội dung
như: ngày tháng năm, tên, chức vụ của người ra quyết định kháng nghị, số hiệu bản án,
quyết định bị kháng nghị,…
Trong trường hợp để tránh việc giải quyết yêu cầu kháng nghị một cách không cần
thiết, pháp luật quy định việc thay đổi, bổ sung, rút lại kháng nghị. Thì điều 289 BLTTDS
quy định là người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định
kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị. Và họ cũng có quyền rút một phần hoặc
toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm.
2.4.3. Gửi quyết định kháng nghị (điều 290)

Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải được gửi ngay cho Tòa án ra bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân
sự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung
kháng nghị.
Theo Điểm e, khoản 1, điều 2 TTLT 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC thì trong
trường hợp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh
kháng nghị thì quyết định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp ngay sau khi Chánh án tòa án tối cao ra quyết định kháng nghị. Viện
kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ
án; hết thời hạn đó, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền
giám đốc thẩm.”
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Trong trường hợp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh kháng nghị thì quyết định kháng nghị phải được gửi
ngay cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm.
2.5. Thời hạn kháng nghị
Theo khoản 1 điều 288 BLTTDS thì:
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quyền kháng nghị
trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy, có nhiều trường hợp gần hết thời hạn
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án, Viện kiểm sát mới nhận được đơn khiếu
nại của đương sự nên không có đủ thời gian để xem xét; có trường hợp đương sự gửi đơn
trong thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng không được người có thẩm
quyền xem xét hoặc không kịp thời phát hiện các sai sót, do đó, khi phát hiện thì đã hết
thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
chính đáng của đương sự.
Chính vì vậy, khoản 2 điều 288 Bộ luật tố tụng dân sự

quy định trường hợp đã hết
thời hạn kháng nghị ba năm nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được

kéo dài thêm hai năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:
- Thứ nhất, đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 của
BLTTDS là trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật và sau khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 điều này đương sự vẫn tiếp
tục có đơn đề nghị.
- Thứ hai, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp
luật theo quy định tại điều 283 của BLTTDS, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước
và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật đó.
Lưu ý: chi tiết xem tại điều 1 nghị quyết 02/2012/NQ-HĐTP.
3. Xét xử giám đốc thẩm
Quá trình xét xử giám đốc thẩm gồm những nội dung sau:
3.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm
Thẩm quyền giám đốc thẩm được xác định bởi tính chất giám đốc thẩm và căn cứ
vào cơ cấu hệ thống tổ chức của tòa án. Theo quy định tại Điều 291 BLTTDS, Tòa án
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền giám đốc thẩm các bản
án, quyết định giải quyết vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, cụ thể:
1. Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
2. Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị
kháng nghị.
3. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động
của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc
thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau thì Toà án có cấp trên có thẩm quyền giám đốc
thẩm toàn bộ vụ án.

Ví dụ : Sau khi xét xử sơ thẩm vụ án, phần bản án sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh H về chia
tài sản bị kháng cáo và đã được Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội xét xử. Sau khi phát
hiện bản án phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC và bản án sơ thẩm (phần không bị
kháng cáo) của Tòa án cấp tỉnh H đều có vi phạm pháp luật nghiêm trọng nên Chánh án
TANDTC đã kháng nghị đối với cả hai bản án này. Trong trường hợp này, Hội đồng thẩm
phán TANDTC sẽ xét xử giám đốc thẩm đối với toàn bộ vụ án.
3.2. Hội đồng giám đốc thẩm
Khi xem xét lại bản án, quyết đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm,
vì đây là thủ tục đặc biệt, được giao cho các Tòa án khác nhau giải quyết nên thành phần
Hội đồng giám đốc thẩm là những thẩm phán xét xử chuyên nghiệp, được quy định phù
hợp với Tòa án có thẩm quyền và phù hợp với Luật tổ chức Tòa án nhân dân (gồm các
Thẩm phán, không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân tham gia). Thành phần hội
đồng giám đốc thẩm được quy định tại điều 54 BLTTDS như sau:
- Hội đồng giám đốc thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh là Uỷ ban thẩm phán Toà án
nhân dân cấp tỉnh. Khi Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám
đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần
ba tổng số thành viên tham gia.
Xem thêm: Các thành viên của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Điều
29 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002)
- Hội đồng giám đốc thẩm Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao gồm có ba
Thẩm phán.
- Hội đồng giám đốc thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao. Khi Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành giám
đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần
ba tổng số thành viên tham gia.
Xem thêm: thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Điều 21
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002)
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
3.3. Những người tham gia phiên tòa GĐT (điều 292)
Để đảm bảo thủ tục giám đốc thẩm tiến hành đúng pháp luật, thì Viện trưởng VKS

nhân dân cùng cấp phải tham gia tất cả các phiên tòa giám đốc thẩm để thực hiện nhiệm
vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Nếu đại diện VKS vắng mặt thì phải hoãn phiên Tòa.
Ngoài ra, việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm được tiến hành dự vào hồ sơ vụ án nên những người tham gia tố tụng cũng
không buộc phải tham gia phiên tòa. Tòa án chỉ triệu tập những người tham gia tố tụng và
những người khác liên quan khi cần thiết cho việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật. Nếu người được triệu tập vắng mặt, thì Tòa án vẫn có thể tiến hành xét xử.
Tùy từng trường hợp cụ thể, tòa án xác định những người cần triệu tập đến tham gia
phiên tòa. Trong trường hợp triệu tập ai đến tham gia phiên tòa thì tòa án phải gửi giấy
triệu tập cho họ và trong giấy triệu tập phải ghi rõ ngày, giờ, địa điểm mở phiên tòa.
3.4. PHIÊN TÒA GIÁM ĐỐC THẨM
3.4.1. Thời hạn mở phiên tòa và chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm
Để sớm sửa chữa những sai lầm trong các bản án quyết định bị kháng nghị, tòa án
mở phiên tòa giám đốc thẩm càng sớm càng tốt. Điều 293 BLTTDS quy định phiên tòa
giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được
kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án. Trong thời hạn này, tòa án tiến hành tất cả các công
việc cần thiết cho việc mở phiên toà giám đốc thẩm.
Việc chuẩn bị phiên tòa được tiến hành như sau:
Sau khi nhận được kháng nghị, tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm yêu cầu tòa án
đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án mình nghiên cứu
chuẩn bị xét xử. Chánh án tòa án hoặc chánh án tòa chuyên trách của TANDTC phân
công một thẩm phán là thành viên của hội đồng xét xử chịu trách nhiệm chính trong việc
chuẩn bị xét xử. Thành viên này có nhiệm vụ nghiên cứu lại trước hồ sơ vụ án, bản án,
quyết định bị kháng nghị, bản kháng nghị, kết luận viết của VKS (nếu có) và làm bản
thuyết trình về vụ án. Các thành viên khác của hội đồng xét xử cũng tham gia nghiên cứu
hồ sơ vụ án, nắm vững nội dung vụ án để tham gia xét xử.
Nội dung bản thuyết trình phải tóm tắt được nội dung vụ án và các bản án, quyết
định của các cấp tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước
cho thành viên hội đồng giám đốc thẩm chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên tòa

giám đốc thẩm. (Điều 294 BLTTDS).
3.4.2. Thủ tục tiến hành phiên toà giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm xét lại bản án, quyết đã có hiệu
lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước nên phải được xem xét
theo một trình tự chặt chẽ và có nhiều điểm khác biệt với phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm vì
nó được tiến hành trên cơ sở xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là chủ yếu.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Bên cạnh đó, do giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử nên phiên tòa giám
đốc thẩm không phải là một phiên tòa công khai mà giống như một phiên họp và được
tiến hành trong phòng họp của Tòa án dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên Tòa.
Cụ thể, theo điều 295 BLTTDS phiên tòa giám đốc thẩm diễn ra theo thủ tục như
sau:
- Chủ tọa khai mạc phiên toà.
- Một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá
trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của
người kháng nghị.
- Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án triệu
tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về
quyết định kháng nghị.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng
nghị.
- Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của
mình về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
- Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án theo trình tự tán
thành, không tán thành và ý kiến khác.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của

Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành.
Trong trường hợp không được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán
Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết
tán thành thì phải hoãn phiên toà.
Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, Uỷ ban Thẩm
phán, Hội đồng Thẩm phán phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các
thành viên.
3.4.3. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
- Phạm vi giám đốc thẩm (Điều 296)
Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm
nhằm khắc phục, sủa chữa những sai lầm trọng các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp lực. Về nguyên tắc, để khắc phục, sửa chữa những sai lầm trong các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật thì hội đồng giám đốc thẩm phải được xét lại toàn bộ nội
dung bản án, quyết định bị kháng nghị. Tuy vậy, để tránh làm mất tính ổn định của bản
án, quyết định, kéo dài việc giả quyết vụ án thì hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại
phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có
liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị. Ngoài ra, hội đông thẩm phán có quyền
xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng
nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
định đó liên quan đến lợi ích nhà nước, lợi ích của người thử ba không phải là đương sự
trong vụ án.
- Quyền hạn của hội đồng giám đốc thẩm
Để phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, Bộ
luật tố tụng dân sự không quy định cho Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án,
quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm mà chỉ quy định Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền sau đây: (Điều 297
BLTTDS)
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL;
Đây là trường hợp mà Hội đồng giám đốc thẩm sau khi xem xét thấy rằng không

có sự vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự, không sai về thủ tục tố
tụng cũng như việc áp dụng pháp luật. Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật khi những bản
án hay quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm phù hợp với pháp luật, đúng
người và phù hợp với thực tế khách quan của vụ án dân sự và việc kháng nghị là không
có căn cứ.
2. Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL và giữ nguyên bản án, quyết định đúng
pháp luật của Tòa án cấp đưới đã bị hủy hoặc bị sửa;
Theo điều 298 BLTTDS
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp dưới xét xử đúng
pháp luật, nhưng đã bị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị huỷ bỏ
hoặc sửa đổi một phần hay toàn bộ.
Ví dụ: Khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa
kinh tế TANDTC có thể hủy bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và giữ
nguyên bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện đã bị Tòa án nhân dân cấp
tỉnh sửa hoặc bị hủy.
3. Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL đẻ xét xử sơ thẩm
lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
(Điều 299 BLTTDS)
4. Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.
Hội đồng giám đốc thẩm quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Điều 192 của Bộ luật này.
Trường hợp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với vụ trường hợp sự việc
không thuộc thẩm quyền của tòa án thì tòa án cần hướng dẫn đương sự yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền để giải quyết.
3.4.4. Ra quyết định giám đốc thẩm
Khi xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tòa án ra quyết định giám đốc
thẩm. Quyết định giám đốc thẩm phải có các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều

301 BLTTDS. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực thi hành ngày kể từ lức Hội đồng
giám đốc thẩm ra quết định (Điều 302).
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Như vậy, Quyết định GĐT phải được thi hành và phải được mọi công dân , cơ
quan, tổ chức tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên, Quyết định GĐT ( trừ QĐ
GĐT của Hội đồng thẩm phán TANDTC) có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm khi có các căn cứ quy định tại Điều 283 và 305 BLTTDS.
Đối với quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao có thể
bị yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị xem xét lại theo thủ tục đặc biệt trong các trường hợp
quy định tại điều 310a BLTTDS.
Sau khi ra quyết định giám đốc thẩm, theo quy định tại Điều 303 BLTTDS thì
trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, hội đồng giám đốc thẩm phải
gửi quyết đinh giám đốc thẩm cho đương sự và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan theo quyết định giám đốc thẩm; tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị; viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thị hành án dân sự có thẩm
quyền.
(Việc gửi quyết định giám đốc thẩm được thực hiện theo quy định theo thủ tục
cấp, tống đạt, thông báo bằng văn bản tố tụng quy định tại các điều 146 đến156 BLTTDS
mà nhóm 5 đã thuyết trình).
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
II. THỦ TỤC TÁI THẨM
Thực tế, có nhiều trường hợp sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
mới phát hiện những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ án nhưng
lúc ra bản án, quyết định các đương sự và tòa án đã không biết được. Đối với những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật này vẫn cần xem xét lại. Khi phát hiện được
những tình tiết mới, người có thẩm quyền của tòa án cấp trên, viện kiểm soát nhân dân
cấp trên có quyền kháng nghị yêu cầu tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của toàn án. Thủ tục này được gọi là thủ tục tái thẩm.
Thủ tục tái thẩm được quy định tại chương XIX (bao gồm 7 Điều từ Điều 304 đến
Điều 310) của BLTTDS

1. Khái niệm và ý nghĩa tái thẩm dân sự
1.1. Khái niệm tái thẩm dân sự
Theo Điều 304 BLTTDS quy định tính chất của tái thẩm, đồng thời cũng chính là
khái niệm pháp lý về tái thẩm: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay
đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được
khi Toà án ra bản án, quyết định đó.”
Từ khái niệm trên ta thấy, cũng như Giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm là một thủ tục
đặc biệt của tố tụng dân sự. Tính chất của thủ tục tái thẩm cũng là “xét lại” khác với “xét
xử” trong thủ tục sơ thẩm hay “xét xử lại” trong thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, việc xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực này là dựa trên cơ sở mới phát hiện tình tiết quan
trọng của vụ án chứ không phải là trên cơ sở phát hiện sai lầm của tòa án trong việc giải
quyết vụ án như trong giám đốc thẩm.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng, trong thủ tục tái thẩm Tòa án không có nhiệm vụ xét
xử lại vụ án mà chỉ tiến hành kiểm tra, xem xét, đối chiếu với những quy định của pháp
luật xem bản án hoặc quyết định bị kháng nghị có căn cứ và hợp pháp không. Hay nói
cách khác, Hội đồng tái thẩm có quyền “xét” chứ không “xử”. Vì vậy, thủ tục tái thẩm
không được coi là một cấp xét xử trong hệ thống tư pháp Việt Nam.
1.2. Ý nghĩa tái thẩm dân sự
Trang 14 / 25
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
Tái thẩm dân sự có ý nghĩa quan trọng đối với cả việc giải quyết vụ án dân sự của
tòa án và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc xét xử lại theo thủ tục
tái thẩm giúp:
 Tòa án khắc phục được những thiếu sót trong những bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật không phụ thuộc vào thời gian bản án, quyết đinh có hiệu lực pháp
luật và được thi hành từ bao giờ.
 Đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa của công tác xét xử.
 Bảo đảm cho bản án, quyết đinh cho tòa án có căn cứ và hợp pháp, từ đó có tác
dụng bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.

Tóm lại, ngoài việc giúp cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng vai trò chức năng
của mình, thủ tục tái thẩm cũng mở ra một cơ hội mới về công lý, công bằng xã hội; thực
hiện tốt phương châm trong công tác xét xử của Tòa án là xử đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật.
2. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm dân sự
2.1. Khái niệm kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
Trong trường hợp bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mới phát
hiện được các tình tiết quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án thì người có thẩm quyền
của tòa án, viện kiểm soát có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết
định đó. Hoạt động này được gọi là kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Như vậy, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là hoạt động của người có thẩm quyền
của tòa án, viện kiểm sát trong việc yêu cầu tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện được tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án
tái thẩm dân sự.
2.2. Căn cứ kháng nghị tái thẩm
Cũng như thủ tục giám đốc thẩm, căn cứ tái thẩm là những cơ sở để một bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được xét lại theo thủ tục tái thẩm đồng thời
kèm một số điều kiện cơ bản. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong bốn căn cứ được quy định tại Điều 305
BLTTDS như sau:
Trang 15 / 25
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
+ Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết
được trong quá trình giải quyết vụ án;
Khi xác định những tình tiết nào mới được phát hiện là căn cứ để kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm thì phải xét tới các vấn đề sau:
• Tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án giải quyết vụ
án mà Tòa án và đương sự đã không thể biết được. những tình tiết mới phát
sinh sau khi Tòa án giải quyết vụ án thì không phải là căn cứ kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm, căn cứ đó có thể là căn cứ để khởi kiện một vụ án khác.

• Tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết quan trọng, liên quan đến vụ án,
làm thay đổi cả nội dung vụ án, làm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật không hợp pháp, không có căn cứ. Đối với những tình tiết tuy mới được
phát hiện nhưng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
giữa các đương sự, không có mối quan hệ nhân quả đối với quyết định của Tòa
án thì cũng không là căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
• Những tình tiết mới được phát hiện làm căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm phải là những tình tiết Tòa án muốn xác định được phải qua quá trình xét
xử lại. Những tình tiết đã có sẵn trong hồ sơ vụ án, Tòa án không đánh giá sử
dụng hoặc những tình tiết đã có vào lúc Tòa án giải quyết vụ án nhưng do sai
lầm nên Tòa án không phát hiện được, không yêu cầu đương sự cung cấp thì
không được coi là tình tiết mới.
Ví dụ: Trong quá trình giải quyết vụ án chia di sản thừa kế các đương sự không biết
được người để lại di sản thừa kế đã lập di chúc để lại toàn bộ khối di sản cho người
con út, nên vụ án đã được giải quyết theo pháp luật. Mấy năm sau người con út mới
phát hiện ra di chúc. Việc phát hiện ra di chúc là tình tiết mới quan trọng làm thay đổi
bản chất của vụ án. Bản án nếu so với di chúc thì khác nhiều và kết luận của bản án đã
làm thiệt hại đến lợi ích của thừa kế được chỉ định trong di chúc. Đây là tình tiết quan
trọng để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
+ Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch
không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
Bằng chứng, kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch là những
phương tiện quan trọng được Tòa án sử dụng để xác định sự thật của vụ án. Trong
nhiều trường hợp, nó mang tính chất quyết định đối với việc giải quyết vụ việc dân
sự thì khi có cơ sở chứng minh rằng kết luận của người giám định, lời dịch của
người phiên dịch rõ ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng thì phải
kháng nghị xét lại bản án, quyết định theo thủ tục tái thẩm.
+ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc
cố ý kết luận trái pháp luật;
Theo Khoản 3 Điều 305 BLTTDS thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của

Tòa án cũng được xét lại theo thủ tục tái thẩm khi có căn cứ chưng minh rằng
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc
cố ý kết luận trái pháp luật. Cần phân biệt căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám
Trang 16 / 25
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
đốc thẩm “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” với căn cứ
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm “…cố ý kết luận trái pháp luật”. “Sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật” và “cố ý kết luận trái pháp luật” đều là áp
dụng pháp luật không đúng, nhưng căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm là xuất phát từ việc nhận thức của Thẩm phán về việc áp dụng pháp luật.
Thẩm phán cho rằng mình áp dụng pháp luật là đúng nhưng thực tế là không đúng.
Còn căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là Thẩm phán biết rõ việc kết luận
của mình là không đúng pháp luật nhưng vẫn cứ kết luận. Đây là những trường
hợp hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, các tình tiết trong vụ án và pháp luật rõ
ràng, nhưng Thẩm phán lại xử không đúng pháp luật.
+ Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước
mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Khi một sự kiện pháp lý đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật thì khi có trong một vụ việc khác, Tòa án có thể căn cứ vào
đó để giải quyết mà không cần xác minh lại. Tuy vậy, nếu việc ác định sự kiện này
của Tòa án hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước đó có sai lầm nên bản án,
quyết đĩnh của Tòa án đã dựa vào để giải quyết vụ án đã bị hủy thì phải kháng
nghị để xét lại bản án, quyết định của Tòa án vì nó đẽ giải quyết không đúng bản
chất.
2.3. Chủ thể có quyền kháng nghị
Căn cứ tại Điều 307 BLTTDS thì chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm cũng
gần giống như giám đốc thẩm. Tức là, chỉ có Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng
VKSND cấp tỉnh, Chánh án TANDTC, Viện trường VKSNDTC mới có quyền kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm. Cụ thể như sau:

+ Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện
+ Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao.
+ Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết
định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái
thẩm.
2.4. Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện
Nếu như căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là những vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc xử lý vụ án thì căn cứ kháng nghị tái thẩm chủ yếu là những vi phạm
pháp luật (hay còn gọi là sai lầm) mang tính chủ quan của người tiến hành tố tụng. Ngoại
trừ trường hợp căn cứ do có tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án mà Tòa án không
có lỗi trong việc không biết có tình tiết mới này bởi việc xác định sự thật của vụ án hoàn
toàn không đơn giản, đôi khi vượt quá nhận thức của con người vào thời điểm ra bản án
Trang 17 / 25
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
hoặc quyết định. Vì vậy, tại Điều 306 BLTTDS nhà làm luật đã quy định về việc thông
báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện như sau:
+ Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện tình tiết mới
của vụ án và thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy
định tại Điều 307 của Bộ luật này.
+ Trong trường hợp phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Toà án phải
thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều
307 của Bộ luật này.
Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc Viện kiểm sát, Tòa án phát hiện tình
tiết mới thì phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm
biết được những tình tiết mới đó dựa vào những căn cứ tại Điều 305 BLTTDS để được
các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị đảm bảo thời hạn và đúng quy định của pháp luật.

Nếu không có căn cứ theo Điều 305 BLTTDS Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ
quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Ngoài ra, tại Điều 14 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
hướng dẫn chi tiết việc thực hiện đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm quy định tại khoản 1 Điều 306 BLTTDS, văn
bản thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát cho người có quyền kháng nghị quy định tại
khoản 2 Điều 306 BLTTDS; hướng dẫn chuyển vụ việc hồ sơ của Tòa án, Viện kiểm sát
để xem xét kháng nghị tại Khoản 3, 4, 5, 6 Điều 2 Thông tư liên tịch 04/2012/ TTLT –
TANDTC - VKSNDTC
2.5. Thời hạn kháng nghị tái thẩm
Thời hạn kháng nghị tái thẩm được quy định tại Điều 308 BLTTDS là một năm, kể
từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm quy định tại Điều 305 của Bộ luật này.
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không lấy mốc là ngày bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà tính từ ngày phát hiện được tình tiết mới là căn cứ để
kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Vậy, ngày phát hiện tình tiết mới là ngày nào?
Cần lưu ý rằng, thời điểm bắt đầu tính thời hạn tức là tình tiết mới được phát hiện chỉ có
ý nghĩa khi VKS hoặc TA nhận được nguồn tin đó và bắt đầu tính thời hạn, chứ không
phải ngày đương sự hay một cơ quan, tổ chức nào khác phát hiện được những tình tiết
mới đó. Khi nhận được nguồn tin về tình tiết mới, TA hoặc VKS còn phải tiến hành
nghiên cứu, xác minh làm rõ đó có phải là tình tiết mới hay không? Từ đó có quyết định
kháng nghị hay không? Và BLTTDS quy định khoảng thời gian từ khi nhận được nguồn
tin đến ngày ra quyết định kháng nghị tái thẩm là một năm. Quy định này đảm bảo được
việc phát hiện, khắc phục hậu quả một cách kịp thời, nhanh chóng.
Trang 18 / 25
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
2.6. Những quy định khác (áp dụng Điều 310 BLTTDS)
Thủ tục tái thẩm và giám đốc thẩm có một số nét tương đồng về thủ tục tố tụng nên
BLTTDS đã quy định nếu các quy định về thủ tục tái thẩm mà luật không quy định thì có
thể dựa vào quy định của thủ tục giám đốc thẩm theo Điều 310 BLTTDS. Từ đó, ngoài

những quy định của kháng nghị tái thẩm kể trên thì những quy định khác của kháng nghị
tái thẩm sẽ giống với kháng nghị giám đốc thẩm. Bao gồm:
+ Thủ tục gửi, nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm áp dụng tương tự Điều 284b
BLTTDS; hướng dẫn chi tiết tại Điều 2, 3, 4, 5, 8, 9 Thông tư liên tịch
03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC;
+ Hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật áp dụng
tương tự Điều 286 BLTTDS; Điều 48, 49 Luật thi hành án dân sự 2008;
+ Quyết định kháng nghị tái thẩm áp dụng tương tự Điều 287 BLTTDS;
+ Thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị tái thẩm áp dụng tương tự Điều 289
BLTTDS;
+ Gửi quyết định kháng nghị tái thẩm áp dụng tương tự Điều 290 BLTTDS; Điểm e
Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC.
3. Xét xử tái thẩm
3.1. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm (Điều 309 BLTTDS)
Vì thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đều là thủ tục xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên hội đồng xét xử không xem xét trực tiếp về quyền và
lợi ích của các bên đương sự mà chỉ xem xét tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trên cơ sở hồ sơ vụ án. Với tính chất này, thẩm
quyền của Hội đồng tái thẩm giống Hội đồng giám đốc thẩm ở chỗ:
+ Có quyền không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nếu bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là đúng, việc
kháng nghị không có căn cứ;
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án nếu
có 1 trong các căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDS
Ngoài hai quyền hạn trên thì do tính chất của giám đốc thẩm và tái thẩm khác nhau nên
quyền hạn của hội đồng tái thẩm cũng khác với hội đồng giám đốc thẩm ở chỗ:
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục
chung.
LƯU Ý: Thủ tục tái thẩm không có việc giao vụ việc để xét xử phúc thẩm lại.

Trang 19 / 25
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
Khi kháng nghị có căn cứ, nghĩa là quyết định của Toà án trong các bản án, quyết
định bị kháng nghị giải quyết vụ án không phù hợp với thực tế khách quan của nó, không
đúng pháp luật thì Hội đồng tái thẩm hủy bản án, quyết định để xét xử lại vụ án. Tòa án
xử lại vụ án phải tiến hành giải quyết vụ án như đối với vụ án mới. Trong quá trình giải
quyết vụ án, Tòa án phải tuân thủ tất cả các quy định của pháp luật TTDS. Điều này lý
giải tại sao Hội đồng tái thẩm phải hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét
xử sơ thẩm lại mà không thể xét xử phúc thẩm lại như thủ tục giám đốc thẩm. Còn ở thủ
tục tái thẩm, nếu xác định có tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án thì phải xử lại vụ
án đó như đối với án mới nên phải xét xử sơ thẩm.
Khi hủy bản án, quyết định để điều tra xét xử lại, Hội đồng tái thẩm có thể hướng
dẫn Tòa án cấp dưới xử lại vụ án về những vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, khi giải quyết lại
vụ án Tòa án cấp dưới vẫn phải căn cứ vào pháp luật và thực tế khách quan của vụ án để
quyết định. Bản án, quyết định của Tòa án xét xử lại vụ án cũng có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
3.2. Những quy định khác (áp dụng Điều 310 BLTTDS)
Như đã nói ở trên, căn cứ theo Điều 310 BLTTDS nếu có các quy định khác về thủ
tục tái thẩm không được quy định thì được thực hiện như các quy định về thủ tục giám
đốc thẩm trong luật này. Như vậy, về quy định xét xử tái thẩm sẽ giống với quy định xét
xử giám đốc thẩm ở những điểm sau:
+ Thẩm quyền tái thẩm áp dụng tương tự Điều 291 BLTTDS,
+ Thành phần Hội đồng tái thẩm áp dụng tương tự Điều 292 BLTTDS, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2002
+ Thời hạn mở phiên toà tái thẩm áp dụng tương tự Điều 293 BLTTDS
+ Chuẩn bị phiên toà tái thẩm áp dụng tương tự Điều 294 BLTTDS
+ Thủ tục phiên toà tái thẩm áp dụng tương tự Điều 295 BLTTDS
+ Phạm vi tái thẩm áp dụng tương tự Điều 296 BLTTDS
+ Quyết định tái thẩm áp dụng tương tự Điều 301 BLTTDS
+ Hiệu lực của quyết định tái thẩm áp dụng tương tự Điều 302 BLTTDS

+ Gửi quyết định tái thẩm áp dụng tương tự Điều 303 BLTTDS
4. Áp dụng pháp luật TTDS theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (hướng
dẫn theo Nghị quyết 02/2012/NQ-HĐTP)
Áp dụng pháp luật TTDS để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản
án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia định, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 01/01/2012 (Điều 2)
Áp dụng pháp luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ việc dân sự được thụ lý trước ngày
01/01/2012 (Điều 3)
Trang 20 / 25
Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC Nhóm 11
III.THỦ TỤC ĐẶC BIỆT XEM XÉT LẠI QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG
THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1. Cơ sở của thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
Dựa trên tính chất của các căn cứ xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhà
lập pháp Việt Nam đã phân hoá các căn cứ này thành hai loại, trên cơ sở đó thiết lập hai
thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật tương ứng là thủ tục giám đốc
thẩm và thủ tục tái thẩm. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, trong phần thẩm quyền
kháng nghị tại điều 285 đối với thủ tục giám đốc thẩm: “…trừ quyết định giám đốc thẩm
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” và điều 307 đối với thủ tục tái thẩm:
“…trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”. Thực tiễn công tác
giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao cũng đã phát hiện một số quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có sai lầm nghiêm
trọng nhưng pháp luật tố tụng trước đây cũng chưa có quy định về vấn đề xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Khiến cho đương sự và dư
luận xã hội rất bức xúc, khiếu nại gay gắt, kéo dài.
Mặt khác, khoản 1 Điều 21 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân chỉ quy định Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm chứ không quy định quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là
quyết định cuối cùng, do đó, khoản 52 Điều 1 của Luật đã bổ sung Chương XIXa quy

định thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
2. Yêu cầu, kiến nghị và đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
Yêu cầu, kiến nghị và đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao được quy định tại Điều 310a BLTTDS hiện hành.
Theo quy định tại điều luật này thì quyết định của HĐTPTANDTC chỉ có thể
được xem xét lại khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
Thứ nhất, có vi phạm pháp luật nghiêm trọng (giám đốc thẩm) hoặc có tình tiết quan
trọng mới (tái thẩm) phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của
HĐTPTANDTC, đương sự ko biết được khi ra quyết định đó
- Vi phạm pháp luật nghiêm trọng có thể là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (khoản 2
Điều 283: không tiến hành hòa giải đối với các vụ án dân sự bắt buộc phải hòa giải hoặc
tiến hành hòa giải đối với các vụ án dân sự không được hòa giải Điều 180-181; Hội đồng
xét xử ko đúng luật định như Thẩm phán, Hội thẩm đã hết nhiệm kỳ mà chưa được tái
nhiệm; xét xử sai thẩm quyền như TA cấp huyện xét xử vụ án có yếu tố nước ngoài thuộc
Trang 21 / 25
Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC Nhóm 11
thẩm quyền xét xử của TA cấp tỉnh; nội dung quyết đinh của bản án mâu thuẫn với biên
bản nghị án hoặc vs biên bản phiên tòa… ) hoặc sai lầm trong việc áp dụng pháp luật
(khoản 3 Điều 283: áp dụng ko đúng Điều khoản, giải thích ko đúng nội dung quy định
của điều luật dẫn đến việc xét xử ko đúng….) => đây là những căn cứ để kháng nghị
giám đốc thẩm
- Tình tiết quan trọng mới phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của
HĐTPTANDTC, đương sự ko biết được khi ra quyết định đó. Ví dụ: bản án đã chia di
sản thừa kế theo pháp luật nhưng sau đó phát hiện nguyên đơn đã giấu di chúc của người
để lại di sản => đây là căn cứ để kháng nghị tái thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 305
BLTTDS hiện hành.
Thứ hai, có yêu cầu của UBTV Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc
hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSND tối cao hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC.

Yêu cầu của UBTV Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của
Viện trưởng VKSND tối cao về phát hiện vi phạm, tình tiết mới phải lập thành văn bản và
được gửi cho Chánh án TANDTC. Như vậy, theo BLTTDS hiện hành thì việc xem xét lại
quyết định của HĐTPTANDTC theo thủ tục đặc biệt không phải dựa trên kháng nghị của
Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC.
Lưu ý: Điều 16 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
Sau khi nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư
pháp của Quốc hội hoặc sau khi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị
xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo quy định
tại khoản 1 Điều 310a BLTTDS, Tòa án nhân dân tối cao gửi cho Viện kiểm sát nhân dân
tối cao bản sao văn bản yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị đó kèm theo hồ sơ vụ án để Viện
kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại phiên họp xem xét
kiến nghị, đề nghị theo hướng dẫn tại Điều 19 Thông tư liên tịch này về trình tự tiến
hành phiên họp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao phải trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tối cao.
1. Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem
xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phát hiện
vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị đó.
Trường hợp nhất trí với kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao tổ chức nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định.
Trang 22 / 25
Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC Nhóm 11
Trường hợp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không nhất trí với kiến

nghị, đề nghị thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị,
đề nghị quy định tại khoản 3 Điều này phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
 Về thời hạn mở phiên họp và thông báo mở phiên họp: Điều 17 Thông tư liên tịch
03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Ủy ban tư pháp
của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc kể từ ngày
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị, thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao phải mở phiên họp xem xét kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội,
kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao thông báo bằng văn bản cho Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về thời gian mở phiên họp xem xét kiến nghị, đề
nghị theo quy định tại khoản 3 Điều 310a BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này.
 Về thành phần tham dự phiên họp: Điều 18 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội,
kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao theo quy định tại khoản 4 Điều 310a BLTTDS.
Đại diện Uỷ ban tư pháp của Quốc hội được mời tham dự phiên họp của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét kiến nghị của Uỷ ban tư pháp của Quốc
hội.
 Về trình tự tiến hành phiên họp: Điều 19 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC
“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tự mình hoặc phân công một thành viên Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trình bày tóm tắt nội dung vụ án và quá trình
giải quyết.
2. Đại diện Uỷ ban tư pháp của Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trình bày về các vấn đề sau đây:
a) Nội dung kiến nghị, đề nghị; căn cứ của việc kiến nghị, đề nghị;
b) Phân tích chứng cứ cũ và chứng cứ mới bổ sung (nếu có) để làm rõ việc vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hoặc có những tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết
định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Trang 23 / 25
Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC Nhóm 11
3. Trường hợp xem xét kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội hoặc xem xét đề
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao phát biểu ý kiến về tính có căn cứ và hợp pháp của kiến nghị, đề nghị; nêu rõ quan
điểm và lý do nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị đó.
Ý kiến phát biểu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải thể hiện bằng
văn bản, có chữ ký của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và phải được gửi
cho Tòa án nhân dân tối cao trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc
phiên họp.
4. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thảo luận và biểu quyết theo đa số
về việc nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
5. Trường hợp nhất trí kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định về việc mở
phiên họp để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,
đồng thời giao cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức nghiên cứu hồ sơ báo
cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định tại phiên họp
xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
6. Trường hợp không nhất trí kiến nghị, đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao phải thông báo bằng văn bản cho cá nhân, cơ quan quy định tại Điều
20 Thông tư liên tịch này và nêu rõ lý do.
7. Mọi diễn biến tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị và các quyết định được

thông qua tại phiên họp phải được ghi vào biên bản phiên họp và lưu hồ sơ xem xét kiến
nghị, đề nghị.”
Lưu ý:
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên họp xem xét kiến nghị,
đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gửi cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Uỷ ban tư pháp của Quốc hội văn bản thông báo về việc Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.( Điều 20 Thông tư liên
tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC )
3. Thẩm quyền và thủ tục đặc biệt xét lại quyết định của HĐTPTANDTC
Điều 310b. Thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ vụ
án, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong
thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định tại khoản 2 Điều 310a của Bộ luật này hoặc kể từ ngày có quyết định của Hội đồng
Trang 24 / 25
Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC Nhóm 11
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (giao Chánh án TANDTC tổ chức nghiên cứu hồ sơ
vụ án, báo cáo HĐTPTANDTC xem xét, quyết định) quy định tại khoản 3 Điều 310a của
Bộ luật này.
Lưu ý: Điều 21 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
2. Phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải có sự tham dự của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án nhân
dân tối cao có thể mời cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến tham dự phiên họp.
Lưu ý: Điều 22 và Điều 23 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
3. Sau khi nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan được

mời tham dự, nếu có, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định hủy
quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực
của Tòa án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới
làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định và tùy từng trường hợp mà quyết định
như sau:
a) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án;
b) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Tòa án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm
trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách
nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật;
c) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật.
Lưu ý: Điều 23 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
4. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba
phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết
tán thành. (Quyết định này do Chánh án TANDTC ký thay mặt HĐTPTANDTC và có
hiệu lực thi hành ngay kể từ ngày ra quyết định) Thông thường quyết đinh của
HĐTPTANDTCtheo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm phải được quá nửa tổng số thành
viên của HĐTPTANDTC biểu quyết tán thành. Tuy nhiên, để tránh nguy cơ thủ tục đặc
biệt sẽ phá vỡ nguyên tắc hai cấp xét xử và việc xét lại quyết định có thể trở thành cấp
xét xử thứ ba, nên đã có quy định nghiêm ngặt hơn về việc biểu quyết của
HĐTPTANDTC khi xét lại quyết định của mình.
Lưu ý: Điều 24 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
5. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành Điều này

Trang 25 / 25

×