Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

bài giảng khai thác thông tin vtđ hàng hải gmdss - nhiều tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.69 KB, 79 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI
KHOA: ĐIỆN – ĐIỆN TỬ TÀU BIỂN
BỘ MÔN: ĐIỆN TỬ VIỄN THÔNG
BÀI GIẢNG
KHAI THÁC THÔNG TIN VTĐ HÀNG HẢI
GMDSS
TÊN HỌC PHẦN : KHAI THÁC THÔNG TIN VTĐ HÀNG HẢI
- GMDSS -
MÃ HỌC PHẦN : VÔ TUYẾN ĐIỆN
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO : ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
DÙNG CHO SV NGÀNH: ĐIỆN TỦ VIỄN THÔNG
HẢI PHÒNG - 2008
1
CHƯƠNG 1.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN GMDSS
1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG THÔNG TIN GMDSS.
Năm 1979 tổ chức hàng hải quốc tế IMO đã tổ chức hội nghị về vấn đề tìm kiếm và cứu nạn trên biển , với
mục đích là lập ra và thống nhất một kế hoạch toàn cầu cho công tác tìm kiếm và cứu nạn trên biển để đáp
ứng yêu cầu cấp thiết về vấn đề an toàn trên biển. Hội nghị cũng yêu cầu tổ chức hàng hải quốc tế IMO
2
thiết lập một hệ thống an toàn và cứu nạn toàn cầu, với những quy định bắt buộc về các thiết bị thông tin
liên lạc để giúp cho công việc tìm kiếm và cứu nạn trên biển đạt hiệu quả cao nhất.
Đến năm 1988 thì hệ thống thông tin an toàn và cứu nạn hàng hải toàn cầu đã được thông qua, gọi tắt là
GMDSS (Global maritime distress and safety system).
Đặc trưng của hệ thống GMDSS là hệ thống mang tính toàn cầu và tính tổ hợp. Đặc điểm chính của hệ
thống GMDSS như sau:
• Phân chia vùng thông tin thưo cự ly hoạt động của tầu, từ đó xác định các loại thiết bị sẽ được lắp
đặt trên tầu cùng với tần số và phương thức thông tin thích hợp
• Không sử dụng các tần số cấp cứu 500Khz bằng VTĐ báo và tần số 2182 Khz bằng VTĐ thoại để
báo động và gọi cấp cứu mà dùng kỹ thuật gọi chọn số DSC với những tần số thích hợp giành riêng cho báo


động và gọi cấp cứu.
• Những thông tin ở cự ly xa sẽ được đảm bảo thông qua thiết bị thông tin vệ tinh và các thiết bị
hoạt động trên dải sóng ngắn HF.
• việc trực canh cấp cứu và thu nhận các thông báo an toàn hàng hải và dự báo thời tiết bằng
phương thức tự động
• Sử dụng kĩ thuật gọi chọn số DSC, in chữ trực tiếp băng hẹp NBDP và vô tuyến điện thoại trong
thông tin liên lạc, bỏ không dùng VTĐ báo nên không nhất thiết phải sử dụng các sĩ quan chuyên nghiệp.
1.2 CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG GMDSS.
Cấu trúc của hệ thống thông tin GMDSS gồm có hai hệ thống thông tin chính là: Hệ thống thông tin vệ tinh
và hệ thống thông tin mặt đất.
2.1.1. Hệ thống thông tin vệ tinh
Hệ thống thông tin vệ tinh là một đặc trưng quan trọng trong hệ thống GMDSS. Hệ thống thông tin vệ tinh
trong hệ thống GMDSS gồm có: Thông tin qua hệ thống vệ tinh INMARSAT và thông tin qua hệ thống vệ
tinh COSPAS-SARSAT.
Hệ thống INMARSAT với các vệ tinh địa tĩnh hoạt động trên dải tần 1.5 Mhz và 1.6 Mhz(băng L), cung
cấp cho các tàu có lắp đặt trạm đài tầu vệ tinh một phương tiện báo động và gọi cấp cứu có khả năng thông
tin hai chiều bằng phương thức telex và vô tuyến điện thoại. Ngoài ra các vệ tinh INMARSAT còn được sử
dụng như phương tiện chính để thông báo các thông tin an toàn hàng hải MSI cho các vùng không được
phủ sóng bởi dịch vụ NAVTEX. Các vệ tinh trong hệ thống bao gồm bốn vệ tinh địa tĩnh hoạt động ở độ
cao 36.000 Km, bao phủ 4 vùng đại dương từ 70 vĩ độ bắc đến 70 vĩ độ nam. AOR-E, AOR-W, IOR VÀ
POR.
1.2.1.1.Các thiết bị thông tin trong hệ thống INMARSAT.
−INMARSAT A: là hệ thống thông tin INMARSAT đầu tiên được đưa vào hoạt động thương mại từ
năm 1982, cung cấp các dịch vụ thoại, telex, fax, email và các dịch vụ truyền số liệu. . .
Các thế hệ mới của INMARSAT hiện nay nhỏ gọn hơn và dễ sử dụng hơn so với các thế hệ trước.
Hình 1.2a. Các vệ tinh địa tĩnh INMARSAT
3
−INMARSAT B: là thiết bị thông tin di động vệ tinh hiện đại sử dụng công nghệ số, kế tục sự phát triển
của INMARSAT A. INMARSAT B cung cấp các dịch vụ thông tin giống như các dịch vụ của INMARSAT
A.

−INMARSAT C: là thiết bị thông tin di động vệ tinh ra đời năm 1993 cung cấp các dịch vụ truyền số
liệu và telex hai chiều với tốc độ 600bit/s. INMARSAT C đơn giản, giá thành rẻ với anten vô hướng, nhỏ,
nhẹ, toàn bộ thiết bị có thể xách tay hoặc gắn vào bất cứ tầu thuyền nào.
−INMARSAT M: là sự phát triển tiếp theo của INMARSAT B nhưng có kích thước nhỏ nhẹ và giá
thành rẻ hơn. Các dịch vụ thông tin trong INMARSAT M chỉ có thoại, fax và truyền dữ liệu
−INMARSAT E: là EPIRB vệ tinh hoạt động trên băng L qua hệ thống INMARSAT, được dùng như
một phương tiện báo động cứu động cứu nạn cho các tầu hoạt động nằm trong vùng bao phủ của vệ tinh
INMARSAT.
−Máy thu gọi nhóm tăng cường EGC: là máy thu chuyên dụng để thu các thông tin an toàn và cứu nạn
hàng hải trong hệ thống vệ tinh INMARSAT. Nó được thiết kế đủ khả năng tự động trực canh liên tục trong
mạng SAFETYNET, phát trên hệ thống thông tin vệ tinh INMARSAT. Máy thu EGC được tích hợp trong
các trạm đài tầu INMARSAT A/B, INMARSAT C hoặc được thiết kế độc lập với anten thu riêng nhỏ, gọn.
1.2.1.2.Thiết bị thông tin trong hệ thống COSPAS – SARSAT.
Hệ thống COP là một hệ thống vệ tinh trợ giúp tìm kiếm và cứu nạn, được thiết lập để xác định vị trí của
thiết bị EPIRB trên tần số 121.5 Mhz hoặc 406 Mhz. Hệ thống cop được sử dụng để phục vụ cho tất cả các
tổ chức trên thế giới có trách nhiệm tìm kiếm và cứu nạn trên biển, trên không và trên đất liền.
Hiện nay có 3 loại beacon vệ tinh: ELP (emergency locator transmitter) dùng trong nghành hàng không,
EPIRB (emergency position indicating radio beacon) dùng trong nghành hàng hải và PLB (personal locator
beacon) dùng trên đất liền. Các beacon đó phát tín hiệu và các thiết bị thu của vệ tinh trong hệ thống cop
thu nhận và xử lí tín hiệu phù hợp. các tín hiệu đó được chuyển tiếp tới một trạm thu trên mặt đất LUT
(local user terminal) ở đó sẽ xử lý các tín hiệu để xác định vị trí của beacon. Sau đó, một báo động cấp cứu
có các số liệu về vị trí, số nhận dạng và các thông tin khác nhau cùng được gửi tới một trung tâm phối hợp
điều khiển MCC (Mission control centre) và trung tâm phối hợp cứu nạn RCC (recue co-ordination centre)
quốc gia, cũng như tới các MCC khác hoặc tới một tổ chức tìm kiếm và cứu nạn thích hợp để phối hợp
hành động.
Hệ thống cop ứng dụng hiệu ứng DOPPLER để xác định vị trí của beacon ở các tần số sóng mang 121.5
Mhz và 406.025 Mhz. Hệ thống cop thực hiện 2 dạng bao phủ mặt đất cho việc phát hiện và xác định vị trí
của beacon. Đó là dạng tức thời và dạng bao phủ toàn cầu. Cả hai loại 121.5 Mhz và 406.025 Mhz đều hoạt
đồng ở dạng tức thời, trong khi chỉ có loại 406.025 Mhz mới có thêm dạng bao phủ toàn cầu.
1.2.1.1.Các trạm vệ tinh mặt đất

Các trạm vệ tinh mặt đất bao gồm:
− Các trạm đài tầu SESs (ship earth stations) bao gồm các trạm INMARSAT-A/B, INMARSAT C
hoặc M có chức năng gọi và báo động cấp cứu chiều từ tàu đến bờ và chức năng thông tin thông thường
trong vùng bao phủ của các vệ tinh INMARSAT.
− Các trạm đài mặt đất LESs (land earth stations), trong mỗi vùng bao phủ của vệ tinh INMARSAT
có thể có nhiều trạm LES, các trạm LES này được nối mạng với thuê bao qua đường bưu điện quốc gia và
4
quốc tế để thu nhận các bức điện thông thường , được phát từ tầu thông qua vệ tinh mà các trạm LES đó
nằm trong vùng bao phủ của các vệ tinh đó và chuyển các bức điện này tới các thuê bao và ngược lại. Đồng
thời các trạm LES này cũng được nối với các trung tâm phối hợp tìm kiếm và cứu nạn RCC, trong trường
hợp có các cuộc gọi cấp cứu từ tầu thông qua các kênh ưu tiên của vệ tinh, trạm LES sẽ nhận và chuyển
tiếp các bức điện tới trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn thích hợp
2.1.2. Hệ thống thông tin mặt đất.
Trong hệ thống thông tin mặt đất gồm các thiết bị chính sau đây:
1.2.1.1.Thiết bị gọi chọn số DSC.
Các thiết bị DSC có thể là các thiết bị độc lập hoặc được kết hợp với các thiết bị thoại trên các băng tần
HF/MF, VHF.
Thành phần cơ bản của một bức điện DSC gồm: nhận dạng của trạm đích, tự nhận dạng trạm phát và nội
dung bức điện bao gồm những thông tin ngắn gọn, cơ bản nhất để chỉ ra mục đích cuộc gọi.
1.2.1.1.Thiết bị thông thoại.
Các thiết bị thông tin thoại trong hệ thống GMDSS làm việc trên các dải sóng MF/HF và VHF ở các chế độ
J3E, H3E (cho tần số cấp cứu 2182 Khz) và G3E. Các thiết bị thông thoại này cũng được dùng để gọi cấp
cứu khẩn cấp và an toàn.
1.2.1.1.Bộ phát đáp radar tìm kiếm và cứu nạn –SART.
SART là phương tiện chính trong hệ thống GMDSS để xác định vị trí tầu bị nạn hoặc xuồng cứu sinh của
các tầu bị nạn đó. Theo công ước của SOLAS/88 sửa đổi, tất cả các tầu chạy trên biển đều phải trang bị
SART. Các thiết bị SART làm việc ở dải tần 9 Ghz (băng X) và sẽ tạo ra một chuỗi tín hiệu phản xạ khi có
sự kích hoạt của bất kỳ một tín hiệu của radar hàng hải hoặc hàng không hoạt động ở băng X nào.
1.2.1.1.EPIRB VHF DSC.
Đối với tầu hoạt động trong vùng biển A1, có thể sử dụng EPIRB gọi chọn số DSC trên kênh 70

VHF, phát đi tín hiệu báo động khi bị kích hoạt theo chu kì đã được qui định gồm 5 tín hiệu cấp cứu liên
tục phát đi trong giây thứ 230+10N (N là số của nhóm tín hiệu phát đi).
EPIRB DSC cho phép hiển thị luôn tính chất bị nạn giống như EPIRB đã phát đi. Ngoài ra EPIRB này còn
có bộ phản xạ radar hoạt động trên tần số 9 Ghz.
1.2.1.1.NAVTEX quốc tế.
Navtex quốc tế là một dịch vụ truyền chữ trực tiếp trên tần số 518 Khz , sử dụng kĩ thuật truyền chữ trực
tiếp băng hẹp NBDP và chế độ phát FEC, để truyền những thông tin an toàn hàng hải MSI bằng tiếng Anh
với phạm vi bao phủ sóng cách bờ khoảng 400 hải lý. Dịch vụ của navtex bao gồm dự báo về khí tượng và
thời tiết, các loại thông báo hàng hải, các thông tin về khẩn cấp và an toàn, sẽ truyền tới tất cả các tầu
nằm trong vùng phủ sóng của Navtex.
1.2.1.1.Thiết bị NBDP.
Các thiết bị NBDP là một bộ phận cấu thành trong hệ thống GMDSS, để hỗ trợ trong thông tin cấp cứu
khẩn cấp và an toàn.
Các thiết bị NBDP hoạt động trên các dải sóng MF và HF, ở các chế độ ARQ,dùng để trao đổi thông tin
giữa 2 đài và chế độ FEC dùng để phát các thông tin có tính chất thông báo tới nhiều đài. Trên mỗi dải sóng
VTĐ hàng hải đều được thiết kế một tần số dành riêng cho cấp cứu khản cấp và an toàn bằng thiết bị
NBDP.
5
CHƯƠNG 2.
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ THÔNG TIN VTĐ
TRONG HỆ THỐNG GMDSS.
2.1. ĐỊNH NGHĨA CÁC VÙNG BIỂN HOẠT ĐỘNG CỦA TÀU.
Căn cứ vào đặc điểm của các thiết bị trong hệ thống GMDSS và để phát huy được tính hiệu quả của hệ
thống, tổ chức hàng hải quốc tế IMO đã chia các vùng biển và đại dương thành 4 vùng như sau:
6
2.1.3. Vùng biển A1.
Là vùng nằm trong tầm hoạt động của ít nhất một trạm đài bờ VHF có dịch vụ gọi chọn số DSC.
Thông thường mỗi một trạm VHF có vùng phủ sóng với bán kính từ 25-30 hải lý.
2.1.4. Vùng biển A2.
Là vùng biển, trừ vùng A1, nằm trong tầm hoạt động của ít nhất một trạm đài bờ có dịch vụ gọi chọn

số DSC. Thông thường mỗi trạm MF có vùng phủ sóng với bán kính từ 150-200 hải lý.
2.1.5. Vùng biển A3.
Là vùng biển , trừ vùng A1 và A2, nằm trong vùng bao phủ của các vệ tinh địa tĩnh INMARSAT của
tổ chức vệ tinh hàng hải quốc tế. Vùng bao phủ của vệ tinh hàng hải từ 70 vĩ độ bắc đến 70 vĩ độ nam.
2.1.6. Vùng biển A4.
Là vùng biển còn lại, trừ vùng A1, A2, A3. Về cơ bản đó là các vùng gần địa cực.
2.2. QUI ĐỊNH VỀ CÁC TRANG THIẾT BỊ THÔNG TIN TRÊN TẦU TRONG
HỆ THỐNG GMDSS.
2.2.1. Các trang thiết bị thông tin VTĐ trong hệ thống GMDSS trang bị cho tầu biển.
2.2.1.1.Qui định chung cho tất cả các tầu hoạt động trên biển(không phụ thuộc vào vùng
biển mà tàu hoạt động)
Mỗi tầu hoạt động trên biển bắt buộc phải được trang bị các thiết bị sau đây trong hệ thống GMDSS
mà không phụ thuộc vào vùng biển mà tầu hoạt động:
− Máy thu phát VHF:
+ Có khả năng thu phát và trực canh liên tục bằng DSC trên kênh 70.
+ Có các tần số của kênh thoại 156.8 Mhz (kênh 16), 156.650 Mhz (kênh thiết bị thu phát VHF thoại)
− Thiết bị phản xạ radar (radar transponder) hoạt động trên tần số 9 Ghz phục vụ cho tìm kiếm và
cứu nạn.
− Thiết bị thu nhận và xử lý thông tin an toàn hàng hải(MSI) – Máy thu Navtex, nếu tầu hoạt động
trong vùng biển có các dịch vụ Navtex quốc tế. Nếu tầu hoạt động ở các vùng biển không có các dịch vụ
Navtex quốc tế thì phải được trang bị một máy thu gọi nhóm tăng cường (EGC).
− Phao định vị vô tuyến qua vệ tinh: Có khả năng phát báo động cấp cứu qua vệ tinh quĩ đạo cực
hoạt động trên tần số 406 Mhz, hoặc nếu tầu chỉ hoạt động ở vùng bao phủ của vệ tinh INMARSAT thì
EPIRB vệ tinh phải có khả năng phát báo động cấp cứu qua vệ tinh địa tĩnh INMARSAT hoạt động ở băng
L.
− Các tầu khách phải được trang bị các thiết bị cho thông tin hiện trường: VHF – two – ưay phục
vụ cho mục đích tìm kiếm và cứu nạn trên tần số 121.5 Mhz và 123.1 Mhz

2.2.1.2.Trang thiết bị vô tuyến điện cho tầu chạy vùng biển A1.
Tất cả các tàu khi hoạt động trong vùng biển A1, ngoài các trang thiết bị qui định chung được nêu ở

mục 2.2.1.1, còn phải bắt buộc trang bị một trong các thiết bị vô tuyến điện sau đây, có khả năng báo động
cấp cứu chiều từ tầu đến bờ.
− VHF DSC EPIRB, hoặc
− EPIRB vệ tinh hoạt động trên tần số 406 Mhz, hoặc thiết bị thu phát MF gọi chọn số DSC hoặc,
7
− Thiết bị thu phát HF gọi chọn số DSC hoặc,
− Một trạm INMARSAT, hoặc
− EPIRB INMARSAT hoạt động trên băng L
2.2.1.3.Trang thiết bị vô tuyến điện cho tầu chạy vùng biển A1 và A2.
Tất cả các tầu khi hoạt động ngoài vùng biển A1 nhưng trong vùng biển A2, ngoài các trang thiết bị
qui định chung như ở mục 2.2.1.1, sẽ phải trang bị thêm:
− Thiết bị MF, có thể thu phát tín hiệu cấp cứu bằng DSC trên tần số 2187.5 Khz và trên tần số
2182 Khz bằng thông tin vô tuyến điện thoại.
− Máy thu trực canh DSC có khả năng duy trì liên tục việc trực canh trên tần số 2187.5 Khz
− Một thiết bị phát tín hiệu cấp cứu chiều từ tầu tới bờ (ngoài thiết bị MF), có thể là EPIRB 406
Mhz, hoặc thiết bị HF/DSC, hoặc một trạm INMARSAT, hoặc EPIRB vệ tinh INMARSAT băng L.
− Thiết bị thu phát cho mục đích thông tin thông thường bằng VTĐ thoại, hoặc truyền chữ trực tiếp
băng hẹp NBDP hoạt động ở dải tần số từ 1605 Khz – 4000 Khz hoặc ở dải tần số từ 4000 Khz – 27500
Khz, hoặc một trạm INMARSAT.
2.2.1.4.Trang thiết bị vô tuyến điện cho tầu chạy vùng biển A1, A2 và A3.
Tất cả các tầu khi hoạt động ngoài vùng biển A1, A2 nhưng trong vùng biển A3, ngoài các trang thiết
bị qui định chung như ở mục 2.2.1.1, sẽ phải trang bị theo một trong hai cách lựa chọn sau:
A/ lựa chọn 1:
− Trạm INMARSAT có khả năng:
+ Phát và thu những thông tin cấp cứu và an toàn bằng truyền chữ trực tiếp băng hẹp.
+ Nhận những cuộc gọi ưu tiên cấp cứu
+ Duy trì việc trực canh đối với những báo động cấp cứu chiều từ bờ tới tầu.
+ Phát và thu những thông tin thông thường bằng VTĐ thoại hoặc truyền chữ trực tiếp băng hẹp.
− Một thiết bị MF có khả năng thu phát cấp cứu và an toàn trên tần số 2187.5 Khz băng DSC và tần
số 2182 Khz bằng VTĐ thoại.

− Một máy thu trực canh có khả năng duy trì việc trực canh liên tục bằng DSC trên tần số 2187.5
Khz
− Một thiết bị phát tín hiệu cấp cứu chiều từ tầu - bờ. Ngoài các thiết bị kể trên có thể là EPIRB
trên tần số 406Mhz, hoặc thiết bị HF/DSC, hoặc một trạm INMARSAT dự phòng, hoặc EPIRB vệ tinh
INMARSAT.
B/ lựa chọn 2:
− Một thiết bị thu phát MF/HF cho mục đích thông tin cấp cứu và an toàn trên tất cả các tần số cấp
cứu và an toàn trong dải tần từ 1605 Khz – 4000 Khz và 4000Khz -27500Khz bằng các phương thức thông
tin DSC, thoại và truyền chữ trực tiếp băng hẹp.
− Một thiết bị có khả năng duy trì việc trực canh bằng DSC trên tần số 2187.5 Khz và 8414.5 Khz
và ít nhất một trong những tần số cấp cứu và an toàn DSC sau: 4207.5 Khz, 6312 Khz, 12577 Khz hoặc
16804.5Khz.
− Thiết bị thu phát tín hiệu cấp cứu chiều từ tầu - bờ.
8
− Thiết bị thu phát MF/HF có dải tần 1605 Khz – 4000 Khz và 4000Khz – 27500 Khz, phục vụ cho
các dịch vụ thông tin thông thường bằng phương thức thông tin thoại hoặc truyền chữ trực tiếp băng hẹp.
2.2.1.5.Trang thiết bị vô tuyến điện cho tầu chạy vùng biển A1, A2, A3 và A4.
Tất cả các tầu khi hoạt động ngoài vùng biển A1, A2 nhưng trong vùng biển A3, ngoài các trang thiết
bị qui định chung như ở mục 2.2.1.1, sẽ phải trang bị thêm các thiết bị sau:
− Thiết bị thu phát MF/HF sử dụng cho mục đích an toàn và cứu nạn, có các phương thức thông tin
gọi chọn số DSC, thoại và truyền chữ trực tiếp băng hẹp, làm việc trong dải tần 1605 Khz – 4000 Khz và
4000Khz – 27500 Khz.
− Máy thu trực canh DSC trên tần số 2187.5 Khz, 8414.5 Khz và ít nhất một trong các tần số sau:
4207.5 Khz, 6312Khz, 12577Khz và 16804.5Khz.
− Thiết bị EPIRB-406Mhz, thu phát tín hiệu cấp cứu chiều tầu-bờ.
− Thiết bị thu phát thông tin thông thường, có dịch vụ thông tin VTĐ thoại và truyền chữ trực tiếp
băng hẹp.
2.2.2. Thời hạn áp dụng
Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển SOLAS/74 sửa đổi 1988 đã có hiệu lực kể từ ngày
1/2/1992. Và hệ thống thông tin GMDSS đã được áp dụng từng phần trong thời gian chuyển tiếp, từ

1/2/1992 đến 1/2/1999.
2.3. QUI ĐỊNH VỀ NGUỒN CUNG CẤP CHO CÁC THIẾT BỊ VTĐ TRÊN TẦU.
Nguồn điện chính, nguồn điện sự cố và nguồn điện dự trữ của tầu được bố trí theo sơ đồ hình 2.1
Main
source
Emergency
Source
Hình 2.1. Sơ đồ bố trí nguồn cung cấp cho các thiết bị
Thông tin VTĐ.
2.3.1. Nguồn điện chính của tầu:
Gồm ít nhất hai máy phát điện phải có khả năng cung cấp đủ điện năng cho tất cả các thiết bị điện và
VTĐ trên tàu.
2.3.2. Nguồn điện sự cố:
Trong trường hợp nguồn điện chính của tàu bị mất thì nguồn điện sự cố phải đủ cung cấp điện năng
cho các thiết bị VTĐ trong thời gian ít nhất 18giờ đối với tàu hàng và 36 giờ đối với tàu khách.
2.3.3. Nguồn điện dự trữ
Nguồn điện dự trữ ở đây là ắc qui hoặc pin. Trong trường hợp cả nguồn điện chính và nguồn điện sự
cố của tàu bị mất thì ắc quy hoặc pin sẽ là nguồn điện dự trữ cung cấp điện năng cho các thiết bị VTĐ thực
hiện các thông tin cứu nạn và an toàn hàng hải.
9
AC-DC
Charger
Battery
Auto
Switch
Charger
Battery
Radio
Equipments
2.4. QUI ĐỊNH VỀ TRỰC CANH.

Để đạt được mục đích là an toàn sinh mạng trên biển, đồng thời với việc qui định về các trang thiết bị
trên tầu, Tổ chức Liên minh viễn thông Quốc tế đã đưa ra những qui định về trực canh như sau:
2.4.1. Đối với đài duyên hải.
Đối với các đài duyên hải đảm nhận trách nhiệm trực canh trong hệ thống GMDS, sẽ phải duy trì việc
trực canh tự động bằng DSC trên các tần số cấp cứu và an toàn trong dải tần làm việc của đài duyên hải.
Việc trực canh này phải theo một chu kì nhất định trong giờ nghiệp vụ của mình. Tần số và giờ trực canh
của mỗi một đài được chỉ rõ trong danh bạ các đài duyên hải.
2.4.2. Các đài vệ tinh mặt đất.
Các đài vệ tinh mặt đất đảm nhận trách nhiệm trực canh trong hệ thống GMDSS sẽ phải duy trì việc
trực canh tự động đối với các cuộc gọi chuyển tiếp báo động cấp cứu được phát bởi các vệ tinh
2.4.3. Các đài tầu.
Tất cả các tầu trong khi hành trình trên biển phải duy trì việc trực canh tự động bằng DSC trên các tần
số gọi cấp cứu và an toàn thích hợp trong các băng tần mà đài tầu đang khai thác. Các đài tầu đã được trang
bị các thiết bị VTĐ trong hệ thống GMDSS theo quy định, cũng phải duy trì việc trực canh trên các tần số
thích hợp để tự động nhận các thông báo khí tượng, thông báo hàng hải và các thông tin khẩn cấp khác.
2.4.4. Các đài tầu mặt đất.
Các đài tầu vệ tinh mặt đất phải có khả năng duy trì việc trực canh đối với các cuộc gọi chuyển tiếp
báo động cấp cứu chiều từ bờ tới tầu, trừ khi những thông tin đó thực hiện trên kênh làm việc.
a/ Mỗi tàu khi hành trình trên biển phải duy trì việc trực canh liên tục trên:
− VHF/DSC kênh 70, nếu tầu lắp đặt thiết bị radio VHF/DSC, có khả năng trực canh liên tục bằng
DSC trên kênh 70.
− Tần số cấp cứu và an toàn DSC 2187.5Khz nếu tầu có lắp đặt thiết bị radio có khả năng duy trì
việc trực canh liên tục bằng DSC trên tần số 2187.5Khz kết hợp với thiết bị radio MF.
− Tần số cấp cứu và an toàn DSC: 2187.5Khz, 8417.5Khz và trên ít nhất một trong các tần số cấp
cứu và an toàn DSC sau: 4207.5Khz, 6312Khz, 12577Khz hoặc 16804.5Khz, tuỳ theo thời gian và vị trí
thích hợp của tầu, nếu tầu được lắp đặt các thiết bị VTĐ có khả năng duy trì việc trực canh liên tục bằng
DSC trên các tần số kể trên và được kết hợp với một thiết bị VTĐ MF/HF. Việc trực canh nói trên cũng có
thể được thay thế bằng một máy thu trực canh quét tự động.
− Đối với các báo động chuyển tiếp cấp cứu bằng vệ tinh chiều từ bờ -tầu, nếu tầu được trang bị
trạm đài tầu mặt đất INMARSAT.

B/ Mỗi một tầu trong khi hành trình trên biển sẽ phải duy trì việc trực canh VTĐ đối với các thông báo an
toàn hàng hải trên các tần số thích hợp, mà các thông báo này được phát tới các vùng biển mà tầu đang
hành trình.
C/ Cho đến ngày 1/2/1999 hoặc đến một ngày nào khác có thể được ấn định bởi Uỷ ban về an toàn hàng
hải, tất cả các tầu khi hành trình trên biển vẫn sẽ phải duy trì việc canh nghe liên tục trên kênh 16VHF và
trên tần số VTĐ thoại 2182Khz.
2.5. HÔ HIỆU VÀ SỐ NHẬN DẠNG CỦA CÁC ĐÀI LÀM NGHIỆP VỤ THÔNG
TIN LƯU ĐỘNG HÀNG HẢI.
2.5.1. Qui định chung.
10
Tất cả mọi phát xạ trong nghiệp vụ thông tin VTĐ hàng hải đều phải được nhận dạng bằng tín hiệu
nhận dạng. Tín hiệu nhận dạng phải tuân thủ và phù hợp với các khuyến nghị của Uỷ ban tư vấn VTĐ quốc
tế (CCIR).
Tín hiệu nhận dạng có thể là một trong các dạng sau:
+ Tiếng nói: Sử dụng trong thoại điều biên;
+ Mã Morse quốc tế: Sử dụng trong morse A1A;
+ Mã điện báo phù hợp với các thiết bị truyền chữ trực tiếp băng hẹp
+ Các dạng khác do CCIR khuyến nghị
2.5.2. Hô hiệu(C/S) và số nhận dạng (ID) của các thiết bị thông tin mặt đất.
Hô hiệu của các đài tầu, các đài duyên hải và các đài làm nghiệp vụ lưu động hàng hải được cấu tạo
từ 26 chữ Latin và 10 chữ số tự nhiên từ 0 đến 9.
Số nhận dạng (ID) của các đài làm nghiệp vụ thông tin lưu động hàng hải được cấu tạo từ 10 chữ số
tự nhiên từ 0 đến 9.
Trong nghiệp thông tin lưu động hàng hải có 4 loại số nhận dạng như sau:
− số nhận dạng đài tầu
− số nhận dạng của nhóm tầu
− số nhận dạng của các đài duyên hải
− số nhận dạng của nhóm đài duyên hải
− số nhận dạng của các đài phát Navtex.
Mỗi một quốc gia được Tổng thư ký của tổ chức liên minh viễn thông quốc tế ấn định một số nhận

dạng hàng hải MID (Maritime Identification Digits). Mỗi một quốc gia được ấn định một MID duy nhất,
trừ khi số MID đó đã được sử dụng quá 80% thì tổng thư ký liên minh viễn thông quốc tế sẽ ấn định một
MID bổ sung.
Hô hiệu và số nhận dạng của các đài phải có cấu trúc sao cho không được nhầm lẫn với các tín hiệu
cấp cứu, khẩn cấp và an toàn hoặc các tín hiệu có bản chất tương tự.
A/ Hô hiệu của đài duyên hải.
Hô hiệu của đài duyên hải bao gồm 3 kí tự chính để chỉ tên đài là các chữ cái hoặc hỗn hợp chữ cái
và chữ số, trong đó:
− Hai kí tự đầu là dãy hô hiệu do Tổ chức tư vấn VTĐ quốc tế (CCIR) ấn định riêng
cho mỗi một quốc gia.
− Kí tự thứ ba là một trong các chữ cái Ả Rập từ A đến Z nằm trong dãy kí tự của quốc gia do
CCIR ấn định cho quốc gia.
Ngoài 3 ký tự chính kể trên, hô hiệu của các đài duyên hải còn có thể có thêm phần ký tự phụ gồm 2
chữ số từ 0 đến 9 nhưng chữ số ngay sau chữ cái không được dùng chữ số 0.
B/ Hô hiệu của đài tầu.
Hô hiệu của đài tầu gồm 4 kí tự chính là một nhóm chữ cái hoặc hỗn hợp chữ cái và số, trong đó:
− Hai kí tự đầu tiên là dãy hô hiệu quốc tế do Tổ chức tư vấn VTĐ quốc tế CCIR ấn định cho mỗi
quốc gia:
− Hai kí tự tiếp theo nằm trong dãy hô hiệu quốc gia do quốc gia đó ấn định riêng cho mỗi tầu, hai
kí tự này là các chữ cái, không dùng các chữ số.
11
Ngoài 4 kí tự chính hô hiệu của tầu còn có thể có thêm phần phụ là các chữ số từ 1 đến 9.
C/ Nhận dạng của đài phát thoại
Nhận dạng của đài phát thoại được qui định dùng tên địa danh nơi đặt đài phát kèm theo chữ “Radio”
để nhận dạng đài phát thoại.
Ví dụ: HAIPHONG Radio
Đối với các đài tầu di động, dùng tên của đài di động để nhận dạng các đài phát thoại đó.
D/ Nhận dạng của đài Radio Telex.
Nhận dạng của đài Radio Telex. được cấu tạo từ các số tự nhiên từ 0 đến 9, gồm 4 chữ số đối với đài
bờ và 5 chữ số đối với đài tầu.

Ví dụ:
Số gọi chọn của đài Radio telex Singapore là 4620
Ngoài số gọi chọn kể trên, các đài Radio telex còn có số Answerback code dùng để tự xưng trong các
cuộc thông tin radio telex.
E/ Nhận dạng của đài phát DSC.
Số nhận dạng của các đài có nghiệp vụ lưu động hàng hải (MMSI) gồm 9 chữ số tự nhiên từ 0 tới 9,
được cấu tạo như sau:
− Đối với đài bờ: 00MIDXXXX
Trong đó: 00: để chỉ đài duyên hải
MID: số nhận dạng hàng hải quốc gia
XXXX: 4 chữ số tự nhiên để chỉ số nhận dạng của đài duyên hải.
Ví dụ: Đài HaiPhòng radio có số nhận dạng MMSI là 005741997
Trong đó: 00: chỉ đài duyên hải
574: số nhận dạng hàng hải của Việt Nam
1997: số nhận dạng của đài duyên hải Hải Phòng.
− Đối với đài tầu: MIDXXXXXX
Trong đó:
MID là số nhận dạng hàng hải quốc gia
XXXXXX: 6 chữ số tự nhiên để chỉ số nhận dạng của đài tầu.
Ví dụ: Tầu Brazil Victoria có số nhận dạng là 636005973, trong đó 636 là số nhận dạng hàng hải quốc gia
của Liberia, 005973 là số nhận dạng riêng của tầu Brazil Victoria.
− Đối với nhóm tầu: 0MIDXXXXX
Trong đó:Nhóm chữ số “0” đầu tiên để chỉ nhóm tầu
MID: là số nhận dạng hàng hải quốc gia
XXXXX: là 5 chữ số tự nhiên từ 0 đến 9 để chỉ số nhận dạng của nhóm tầu.
F/ Nhận dạng của đài phát Navtex.
Trong hệ thống Navtex quốc tế, các vùng biển trên thế giới được chia thành 16 vùng được đánh số từ
I đến XVI. Số trạm phát các dịch vụ Navtex quốc tế trong một vùng không quá 24 trạm, số nhận dạng của
mỗi một trạm trong một vùng là một chữ cái theo thứ tự từ A đến Z. Chữ cái thứ 2 tiếp sau đó để chỉ loại
bức điện và 2 chữ số tiếp theo để chỉ số bức điện Navtex đó.

Ví dụ:
Một bản điện Navtex có dạng như sau:
ZCZC X
1
X
2
X
3
X
4
12
(nội dung bức điện)
NNNN.
Trong đó:
ZCZC: mã bắt đầu bức điện NBDP
X
1
: số nhận dạng của đài phát kí hiệu từ A đến Z.
X
2
: bằng một chữ cái để chỉ loại bức điện ký hiệu từ A đến Z.
X
3
X
4
: là 2 chữ số tự nhiên để chỉ số bức điện.
2.5.3. Số nhận dạng của các thiết bị thông tin vệ tinh.
Số nhận dạng của các thiết bị thông tin vệ tinh cũng phải tuân thủ theo các qui định của Uỷ ban tư
vấn VTĐ quốc tế (CCIR).
A/ Số nhận dạng của các đài tầu vệ tinh mặt đất (SES).

Số nhận dạng của các đài tầu vệ tinh mặt đất (INMARSAT) giống như một số thuê bao dùng
để gọi từ một đài vệ tinh mặt đất hoặc từ một thuê bao khác thông qua một trạm vệ tinh mặt đất. Chức năng
của nó giống như một số điện thoại hoặc một số fax. Cấu trúc số nhận dạng của các đài tầu vệ tinh mặt đất
như sau:
+ với INMARSAT A:
Gồm một nhóm 7 chữ số octal có dạng TMIDXXX.
Trong đó: T=1 để chỉ trạm INMARSAT A
MID là 3 chữ số nhận dạng quốc gia do Tổ chức INMARSAT quốc tế ấn định.
XXX là 3 chữ số được ấn định riêng cho mỗi trạm
+ với INMARSAT B:
Gồm một nhóm 9 chữ số Decimal có dạng TMIDXXXYZ.
Trong đó: T=3 để chỉ trạm INMARSAT B
MID là 3 chữ số nhận dạng quốc gia do Tổ chức INMARSAT quốc tế ấn định.
XXX là 3 chữ số giữa 000 và 999 để nhận dạng một đài tầu vệ tinh,
XY là 2 chữ số giữa 10 và 99 dùng để nhận dạng một đài tầu vệ tinh
MES trên tầu (Y không được dùng chữ số 0)
+ với INMARSAT C:
Gồm 9 chữ số decimal có dạng TMIDXXXYZ.
Trong đó: T=4 để chỉ trạm INMARSAT C
MID là 3 chữ số nhận dạng quốc gia do Tổ chức INMARSAT quốc tế ấn định.
XXX là 3 chữ số giữa 000 và 999 để nhận dạng một đài tầu vệ tinh,
YZ là 2 chữ số giữa 10 và 99 dùng để nhận dạng đài MES trên tầu.
+ với INMARSAT M:
Gồm 9 chữ số decimal có dạng TMIDXXXYZ.
Trong đó: T=6 để chỉ trạm INMARSAT M
MID là 3 chữ số nhận dạng quốc gia do Tổ chức INMARSAT quốc tế ấn định.
XXX là 3 chữ số giữa 000 và 999 để nhận dạng một đài tầu vệ tinh,
YZ là 2 chữ số giữa 10 và 99 dùng để nhận dạng đài MES trên tầu.
+ với INMARSAT mini M:
Gồm 9 chữ số decimal có dạng TMIDXXXYZ.

Trong đó: T= 7để chỉ trạm INMARSAT mini M.
13
MID là 3 chữ số nhận dạng quốc gia do Tổ chức INMARSAT quốc tế ấn định.
XXX là 3 chữ số giữa 000 và 999 để nhận dạng một đài tầu vệ tinh,
YZ là 2 chữ số giữa 10 và 99 dùng để nhận dạng đài MES trên tầu.
B/ Số nhận dạng của các trạm vệ tinh mặt đất (SES).
Số nhận dạng của các trạm vệ tinh mặt đất là một nhóm gồm 3 chữ số, trong đó:
− Chữ số thứ nhất để chỉ tên vệ tinh:
Chữ số 0 để chỉ vệ tinh AOR-W
Chữ số 1 để chỉ vệ tinh AOR-W
Chữ số 2 để chỉ vệ tinh POR
Chữ số 3 để chỉ vệ tinh IOR.
− Hai chữ số tiếp theo để chỉ số nhận dạng của riêng mỗi trạm trong một vùng vệ tinh.
2.6. QUI TRÌNH VỀ BẢO DƯỠNG VÀ CHỨNG CHỈ KHAI THÁC VIÊN TRÊN
TẦU TRONG HỆ THỐNG GMDSS.
2.6.1. Qui trình về bảo dưỡng các thiết bị thông tin VTĐ trên tầu.
Vấn đề bảo dưỡng các thiết bị thông tin VTĐ trên tầu được qui định rõ trong điều 15 chương 4 như sau:
− Các thiết bị phải được thiết kế theo dạng Modul để có thể dễ dàng thay thế và không được điều
chỉnh hoặc chuẩn lại.
− Với các tầu áp dụng hệ thống GMDSS các thiết bị phải được cấu trúc và lắp đặt sao cho rõ ràng,
thuận tiện cho việc thanh tra,kiểm tra và bảo dưỡng trên tầu
− Những chức năng thông tin của các thiết bị được lắp đặt trên tầu phải được thoả mãn và duy trì
khả năng làm việc của các thiết bị.
2.6.2. Các phương pháp đảm bảo tính sẵn sàng của thiết bị thông tin VTĐ.
Theo qui định trong điều 15 chương 4 của SOLAS sửa đổi 1988, có ba phương pháp để đảm bảo tính
sẵn sàng của các thiết bị thông tin, như sau:
1. Trang thiết bị kép các thiết bị
2. Bảo dưỡng bờ và
3. Bảo dưỡng trên tầu
2.6.3. Qui dịnh về chứng chỉ khai thác viên trên tầu trong hệ thống GMDSS.

2.6.3.1.Qui định chung.
Trong trường hợp không có một khai thác viên chính thức, các nhiệm vụ của khai thác viên chỉ giới
hạn trong một số nội dung sau:
− Gọi cấp cứu, chuyển bức điện cấp cứu, khẩn cấp và an toàn.
− Phát các bức điện liên quan trực tiếp tới an toàn sinh mạng trên biển
− Các bức điện khẩn liên quan đến sự di chuyển của tầu.
− Đối với các đài tầu hoặc các đài di động mặt đất áp dụng hệ thống GMDSS có 4
loại chứng chỉ khai thác viên như sau:
− The first - class radio electronic certificate
14
− The second - class radio electronic certificate
− The general operator’s certificate
− The restricted operator’s certificate
Mỗi một khai thác viên trước khi được cấp những chứng chỉ trên đây, phải có một trình độ nhất định
về lý thuyết và thực tế khai thác đối với hệ thống thông tin GMDSS theo qui định.
2.6.3.2.Điều kiện để cấp các chứng chỉ khai thác viên VTĐ.
The first-class radio electronic certificate
Những người được cấp chứng chỉ “The first-class radio electronic certificate” phải có kiến thức
chuyên nghiệp như sau:
1. Có kiến thức nguyên lý vế nguồn điện năng và kiến thức lý thuyết về VTĐ và điện tử đủ để đáp ứng
những yêu cầu 2, 3, 4 dưới đây.
2. Có kiến thức lý thuyết về các thiết bị thông tin VTĐ trong hệ thống GMDSS, bao gồm các thiết bị
thu và phát NBDP, radio telephone, thiết bị DSC, EPIRBs, MES, hệ thống anten hàng hải, thiết bị VTĐ cho
phao bè, cùng với tất cả các thiết bị dự phòng bao gồm nguồn cung cấp, cũng như những kiến thức chung
về nguyên lý của các thiết bị VTĐ hàng hải với những qui tắc riêng biệt để bảo dưỡng các thiết bị đó.
3. Có kiến thức thực tế về khai thác và bảo dưỡng những thiết bị kể trên.
4. Có kiến thức thực tế cần thiết để xác định và sửa chữa có hiệu quả các thiết bị kể trên khi các thiết
bị đó hư hỏng trên biển
5. Có khả năng phát và thu chính xác bằng thoại và telex
6. Có kiến thức chi tiết về những qui tắc áp dụng trong thông tin VTĐ, những tài liệu liên quan đến

cước phí trong thông tin VTĐ và nắm những điều khoản của Hội nghị quốc tế về an toàn sinh mạng trên
biển liên quan đến thông tin VTĐ.
7. Có khả năng nói và viết thành thạo một trong những ngôn ngữ của tổ chức Liên minh viễn thông
quốc tế
The second-class radio electronic certificate
2.7. GIẤY PHÉP VÀ VIỆC KIỂM TRA GIÁM ĐỊNH TRÊN TẦU.
2.7.1. Giấy phép VTĐ đài tầu
Nội dung của giấy phép VTĐ đài tầu bao gồm:
− Tên tầu
− Hô hiệu, số nhận dạng (ID) hay các số hiệu nhận biết khác
− Tên chủ tầu
− Các loại thiết bị phát
− Công suất phát xạ
− Chế độ phát xạ
− Dải tần số làm việc
− Các tần số ấn định khác
2.7.2. Kiểm tra, giám định VTĐ trên tầu.
Theo qui định thì tất cả các thiết bị thông tin VTĐ trên tầu đều phải được giám định, kiểm tra định kì
bởi các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo rằng các đài tầu đã thoả mãn và phù hợp với các công ước, các
15
qui định hiện hành. Chủ tầu và những người có trách nhiệm trên tầu phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện
để việc kiểm tra, giám định này được tiến hành thuận lợi.
Khi các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại tiến hành việc thanh tra, kiểm tra đài tầu, thuyền
trưởng hoặc người có trách nhiệm trên tầu phải trình báo những chứng chỉ VTĐ có liên quan đến đài tầu
cũng như những chứng chỉ của sỹ quan VTĐ.
2.8. CHỨC TRÁCH CỦA SỸ QUAN VTĐ TRÊN TẦU.
Sỹ quan VTĐ trên tầu chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thuyền trưởng hoặc người có trách nhiệm trên tầu.
Người có thẩm quyền đó sẽ yêu cầu sĩ quan VTĐ phải tuân thủ theo các qui định, thể lệ thông tin VTĐ
quốc tế.
Sỹ quan VTĐ sẽ là người trực tiếp chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng thông tin trên tầu.

CHƯƠNG 3.
NGHIỆP VỤ THÔNG TIN
CẤP CỨU, KHẨN CẤP VÀ AN TOÀN
3.1. CÁC TRƯỜNG HỢP CẤP CỨU, KHẨN CẤP VÀ AN TOÀN.
Chỉ áp dụng đối với các đài làm nghiệp vụ thông tin lưu động hàng hải hoặc hàng không.
3.1.1. Các trường hợp cấp cứu.
Một đài tàu hoặc một đài tầu mặt đất là các đài lưu động được gọi là đang trong tình trạng cấp cứu
khi đài tầu hoặc đài tầu mặt đất đó; hoặc một hoặc nhiều người trên các tầu đó đang hoặc sẽ gặp nguy hiểm
cần sự trợ giúp ngay lập tức.
16
Các cuộc gọi cấp cứu được bắt đầu bằng tín hiệu báo động cấp cứu
Các bức điện cấp cứu được bắt đầu bằng tín hiệu báo động cấp cứu “MAY DAY”
3.1.2. Các trường hợp khẩn cấp.
Một đài tàu hoặc một đài tầu mặt đất là các đài lưu động được gọi là đang trong tình trạng khẩn cấp
khi đài tầu hoặc đài tầu mặt đất đó; hoặc một hoặc nhiều người trên các tầu đó đang hoặc sẽ gặp nguy hiểm
cần sự trợ giúp.
Các cuộc gọi khẩn cấp được bắt đầu bằng tín hiệu báo động khẩn cấp
Các bức điện khẩn cấp được bắt đầu bằng tín hiệu khẩn cấp “PAN PAN”
3.1.3. Các trường hợp gọi an toàn.
Các cuộc gọi an toàn được thực hiện bởi các đài lưu động, các đài duyên hải hoặc các đài bờ làm
nghiệp vụ lưu động hàng hải để phát đi các thông báo hoặc các bản tin mà các đài đó nhạn thấy rằng chúng
cần thiết cho vấn đề an toàn hàng hành của các đài lưu động khác.
Các bức điện an toàn được bắt đầu bằng tín hiệu an toàn “SECURITY”
3.2. QUI ĐỊNH CHUNG VỀ CẤP CỨU KHẨN CẤP VÀ AN TOÀN.
3.2.1. Những qui định chung.
− Những thông tin cấp cứu sẽ được ưu tiên tuyệt đối trên tất cả các loại thông tin khác. Tất cả các
đài khi nghe được một cuộc gọi cấp cứu hoặc thông tin cấp cứu hoặc những thông tin liên quan đến cấp
cứu, phải ngay lập tức ngừng mọi phát xạ gây can nhiễu hoặc có thể gây can nhiễu tới cuộc gọi hoặc các
thông tin cấp cứu và phát điện cấp cứu.
− Các cuộc gọi cấp cứu và điện cấp cứu chỉ được phát đi khi có lệnh của thuyền trưởng hoặc người

có trách nhiệm trên tầu.
− Các đài dịch vụ di động mặt đất trong khu vực dân cư thưa thớt hoặc hoạt động trong khu vực
hạn chế, cho mục đích cấp cứu và an toàn sẽ dùng các tần số được qui định trong hệ thống GMDSS.
− Những thủ tục về cấp cứu, khẩn cấp và an toàn được trình bày trong chương này là bắt buộc đối
với trạm dịch vụ di động mặt đất dùng các tần số được qui định trong hệ thống GMDSS cho mục đích
thông tin cấp cứu, khẩn cấp và an toàn.
− Không có bất kì một điều khoản nào ngăn cấm các đài di động hoặc các đài vệ tinh di động mặt
đất trong khi bị nạn, dùng bất cứ phương tiện gì để báo vị trí, gây sự chú ý và đạt được mục đích cứu trợ.
− Không có bất kì một điều khoản nào ngăn cấm các đài tầu, đài máy bay, các đài duyên hải hoặc
các đài vệ tinh mặt đất dùng bất kỳ một phương tiện nào để tiến hành việc tìm kiếm cứu trợ một đài di động
hoặc một đài di động mặt đất khác đang trong tình trạng bị nạn.
− Các trạm đài tầu vệ tinh mặt đất có thể được chỉ định để thực hiện các mục đích thông tin cấp
cứu và an toàn với một đài khác trên các băng tần dùng cho nghiệp vụ di động vệ tinh hàng hải trong những
hoàn cảnh đặc biệt mặc dù các phương pháp làm việc đã quy định trong các điều khoản của Tổ chức liên
minh viễn thông quốc tế.
− Khi phát điện cấp cứu, khẩn cấp hoặc an toàn bằng VTĐ thoại phải phát âm chậm rãi, rõ ràng.
Trong trường hợp khó khăn về ngôn ngữ, có nghiệp vụ và bảng phiên âm quốc tế.
− Các trường hợp cấp cứu, khẩn cấp và an toàn có thể được phát trên các băng tần MH/HF và VHF
của các thiết bị DSC, thoại SSB, NBDP hoặc các thiết bị thông tin vệ tinh trên các kênh(tần số) chung quốc
tế với mức ưu tiên cao nhất.
17
− Các đài làm nghiệp vụ di động hàng hải có thể thông tin với các đài máy bay cho mục đích an
toàn nhưng phải sử dụng tần số thích hợp cho nghiệp vụ này và phải tuân theo các thủ tục qui định.
− Các đài máy bay khi thông tin với các đài lưu động hàng hải cho mục đích cấp cứu và an toàn,
phải tuân theo các qui định của quốc gia hoặc quốc tế và các qui định trong hệ thống GMDSS. Các đài đó
phải có khả năng thu, phát ở chế độ J3E và H3E trên các tần số 2182 Khz và 4125Khz; có khả năng thu,
phát ở chế độ G3E trên các tần số 156.8Mhz (kênh 16) và 156.3Mhz (kênh 6).
3.2.2. Các tần số trong thông tin cấp cứu khẩn cấp và an toàn.
3.2.2.1.Các tần số cho cấp cứu, khẩn cấp và an toàn bằng DSC.
− Dải tần MF/HF: Các tần số 2187.5Khz, 4207.5Khz, 8414.5Khz, 12577Khz và 16804.5Khz được

qui định chỉ giành riêng cho việc gọi cấp cứu và an toàn bằng DSC của các đài làm nghiệp vụ di động hàng
hải. Các tần số này không được phép dùng cho các mục đích khác.
− Dải tần VHF: Tần số 156.525 Mhz(kênh 70) là tần số dùng cho các đài làm nghiệp vụ di động
hàng hải để gọi cấp cứu, khẩn cấp và an toàn bằng DSC.
3.2.2.2.Các tần số cho cấp cứu khẩn cấp và an toàn bằng VTĐ thoại trong hệ thống thông tin mặt đất
− Dải tần MF/HF: Các tần số 2182 khz, 4125 khz, 6312 khz, 12577khz và 16804.5 khz được dùng
để thông tin cấp cứu, khẩn cấp và an toàn bằng VTĐ thoại ở chế độ J3E hoặc H3E. Trong trường hợp trên
đó không có các thông tin liên quan đến cấp cứu, khẩn cấp và an toàn thì các tần số này có thể được dùng
để gọi và bắt liên lạc cho thông tin thông thường bằng VTĐ thoại, nhưng thời gian gọi và công suất của
máy phát phải được hạn chế ở mức nhỏ cần thiết.
− Dải tần VHF:
+ Tần số 156.8Mhz (kênh 16) được dùng cho thông tin thông tin cấp cứu, khẩn cấp và an toàn bằng VTĐ
thoại. Trong trường hợp trên đó không có các thông tin liên quan đến cấp cứu, khẩn cấp và an toàn thì các
tần số này có thể được dùng để gọi và bắt liên lạc cho thông tin thông thường bằng VTĐ thoại, nhưng
không được kéo dài quá một phút
+ Tần số 156.3Mhz (kênh 6) có thể được dùng cho hoạt động phối hợp tìm kiếm và cứu nạn giữa các đài
tầu và đài máy bay. Tần số này cũng có thể được dùng cho mục đích thông tin an toàn giữa các đài máy bay
và đài tầu.
+ Tần số 121.5Mhz trong băng tần 117.975 Mhz đến 136 Mhz dùng cho mục đích cấp cứu và khẩn cấp
trong nghiệp vụ di động hàng không bằng VTĐ thoại.
3.2.2.3.Các tần số cấp cứu, khẩn cấp và an toàn bằng phương thức thông tin NBDP
− Tần số 490 khz là tần số quốc gia giành riêng cho các đài duyên hải phát các thông báo khí
tượng, thông báo hàng hải và các thông tin an toàn cho các tầu bằng thiết bị truyền chữ trực tiếp băng hẹp.
− Tần số 518 khz là tần số của hệ thống Navtex dành riêng cho các đài duyên hải phát các thông
báo khí tượng, thông báo hàng hải bà các thông tin khẩn cấp cho các tầu bằng thiết bị truyền chữ trực tiếp
băng hẹp.
− Các tần số2174.5 khz, 4177.5 khz, 6268 khz, 8376.5 khz, 12520 khz và 16695 khz là tần số dành
riêng cho các thông tin cấp cứu, khẩn cấp và an toàn bằng thiết bị truyền chữ trực tiếp băng hẹp. Các tần số
này không được phép sử dụng cho các mục đích thông tin khác.
18

− Các tần số 4210 khz, 6314 khz, 8416.5 khz, 16804.5 khz, 19680.5 khz, 22376 khz và 26100.5
khz là các tần số dành riêng cho các đài duyên hải phát các thông tin an toàn hàng hải bằng thiết bị truyền
chữ trực tiếp băng hẹp.
3.2.2.4.Các tần số cấp cứu, khẩn cấp và an toàn trong hệ thống thông tin vệ tinh.
Các tần số 406-406.1 Mhz là tần số dành riêng cho các phao định vị VTĐ bằng vệ tinh trong hệ thống
COSPAS-SARSAT.
Băng tần 1544-1545 Mhz được dùng cho các hoạt động cấp cứu, khẩn cấp và an toàn chiều từ vệ
tinh xuống các trạm mặt đất, bao gồm:
− Phát chuyển tiếp các tín hiệu định vị vô tuyến vệ tinh xuống các trạm mặt đất.
− Phát chuyển tiếp đường tín hiệu băng hẹp từ vệ tinh xuống các trạm di động
Băng tần 1626.5-1645.5Mhz được dùng cho các mục đích cấp cứu và an toàn chiều từ mặt đất tới vệ
tinh trong nghiệp vụ di động hàng hải.
Băng tần 1645.5-1646.5Mhz được dùng cho các cấp cứu, khẩn cấp và an toàn chiều từ mặt đất tới vệ
tinh, bao gồm:
− Việc phát từ các EPIRB vệ tinh
− Phát chuyển tiếp các loan báo bấp cứu từ các vệ tinh tầm thấp quĩ đạo cực tới các trạm mặt đất
3.2.2.5.Tần số cấp cứu, khẩn cấp và an toàn sử dụng trên các xuồng cứu sinh.
− Các thiết bị VTĐ thoại dùng trên xuồng cứu sinh phải có khả năng thu và phát trên tần số 156.8
Mhz trong băng tần từ 156-174 Mhz và phải có thêm ít nhất một tần số khác trong băng tần này
− Thiết bị phát tín hiệu định vị trên xuồng cứu sinh phải có khả năng hoạt động trên băng tần số
9200-9500 Mhz.
− Thiết bị gọi chọn số DSC trên xuồng cứu sinh hoạt động trên các băng tần số:
+ Từ 1605-2850 khz thì phải có khả năng phát trên tần số 2187.5 khz
+ Từ 4000-27500 khz thì phải có khả năng phát trên tần số 8414.5 khz
+ Từ 156-174 Mhz thì phải có khả năng phát trên tần số 156.525 khz
Bảng 3.1 trình bày các tần số dùng trong cấp cứu, khẩn cấp và an toàn trong thông tin lưu động hàng
hải của các thiết bị thông tin mặt đất.
Dải tần(khz) DSC(khz) Thoại (khz) NBDP (khz) Ghi chú
410-535 490
518

Navtex quốc gia
Navtex quốc tế
1605-4000 2187.5 2182 2174.5
4000-27500 4207.5
6312
8414.5
12577
4125
6215
8291
12290
4177.5
4209.5
4210
6268
8376.5
8416.5
12520
Đài bờ phát navtex
Đài bờ phát thông báo an toàn
19
16804.5 16420
12579
16695
16806.5
19680.5
22376
26100.5
156-174mhz 156.525mhz
kênh 70

156.650mhz
(kênh 13)
156.8mhz
(kênh 16)
Cho hoạt động tìm kiếm và cứu nạn
Bảng 3.1: Câc tần số dùng trong cấp cứu, khẩn cấp và an toàn trong thông tin lưu động hàng hải của các
thiết bị thông tin mặt đất.
3.2.2.6.Bảo vệ và chống can nhiễu các tần số cấp cứu, khản cấp và an toàn.
Ngoại trừ những điều khoản qui định về việc sử dụng các tần số cấp cứu, khẩn cấp và an toàn, ngoài
ra nghiêm cấm bất kì việc phát nào gây ra can nhiễu hoặc có thể gây can nhiễu tới các thông tin cấp cứu,
thông báo cấp cứu, báo động cấp cứu, khẩn cấp hoặc an toàn trên các tần số: 500 khz, 2174.5 khz, 2182
khz, 2187.5khz, 4125 khz, 4207.5 khz, 6215 khz, 6312 khz, 8291 khz, 8376.5 khz, 8414.5 khz, 12290 khz,
12520 khz, 12577 khz, 16420 khz, 16695 khz, 16804.5 khz, 121.5 Mhz, 156.525 Mhz, 156.8 Mhz, hoặc tần
số trong băng tần 406-406.1 Mhz, 1544-1545 mhz và 1645.5-1646.5 Mhz.
Trước khi phát các thông tin liên quan đến mục đích cấp cứu, khẩn cấp và an toàn trên các tần số cấp
cứu, khẩn cấp và an toàn như nói ở mục 3.2.2. phải lắng nghe để chắc chắn rằng trên tần số đó không có
các cuộc gọi cấp cứu, khẩn cấp và an toàn hoặc các thông tin liên quan đến cấp cứu, khẩn cấp và an toàn
đang được tiến hành.
Nghiêm cấm tất cả các cuộc phát xạ ở bất kì tần số nào trong dải tần số từ 2173.5-2190.5 khz, trừ các
tần số 2182 khz, 2174.5 khz, 2177 khz, 2187.5 khz, 2189.5 khz mà đã có những qui định riêng về việc sử
dụng các tần số đó.
Nghiêm cấm tất cả các cuộc phát xạ ở bất kì tần số nào trong dải tần số từ 156.7625- 156.8375 Mhz,
trừ tần số 156.8 Mhz mà có thể gây can nhiễu tới các đài làm nghiệp vụ thông tin di động hàng hải làm việc
trên tần số 156.8 Mhz.
3.3. TRỰC CANH THÔNG TIN CẤP CỨU, KHẨN CẤP VÀ AN TOÀN.
3.3.1. Trực canh chu kì im lặng đối với tần số cấp cứu thoại 2182 Khz.
Tất cả các đài làm nghiệp vụ thông tin lưu động hàng hải đều phải thực hiện việc trực canh các chu kì
im lặng của tần số cấp cứu thoại 2182 Khz trong giờ nghiệp vụ của mình, từ phút 00 đến phút thứ 03 và từ
phút thứ 30 đến phút thứ 33 của mỗi giờ trong ngày từ 00 giờ đến 24 giờ UTC. Do đó nghiêm cấm tất cả
mọi phát xạ trên tần số 2182 Khz trong các chu kì im lặng nói trên, trừ các cuộc gọi cấp cứu hoặc các thông

tin liên quan đến cấp cứu.
Ngoài ra các đài làm nghiệp vụ thông tin lưu động hàng hải trong giờ nghiệp vụ của mình cũng phải
thực hiện việc trực canh cấp cứu, khẩn cấp và an toàn trên các tần số cấp cứu, khẩn cấp và an toàn trong các
dải tần làm việc đã được đăng kí của các đài đó.
3.3.2. Đối với các đài duyên hải.
20
Tất cả các đài duyên hải làm nghiệp vụ thông tin công cộng trong hệ thống thông tin GMDSS làm
việc với hệ thống của hệ thống thông tin mặt đất, sẽ phải có trách nhiệm duy trì việc trực canh tự động bằng
DSC với những chu kì, thời gian và trên những tần số mà đã được đăng kí trong danh bạ các đài duyên hải.
3.3.3. Đối với các đài bờ mặt đất.
Tất cả các trạm đài bờ mặt đất làm nghiệp vụ thông tin công cộng trong hệ thống thông tin GMDSS
làm việc với hệ thống thông tin vệ tinh, sẽ phải có trách nhiệm duy trì việc trực canh tự động, liên tục đối
với những cuộc phát chuyển tiếp cấp cứu của các vệ tinh.
3.3.4. Đối với các trạm đài tầu
Tất cả các trạm đài tầu mà được trang bị các thiết bị thông tin trong hệ thống GMDSS trong khi hành
trình trên biển sẽ phải duy trì việc trực canh tự động bằng DSC trên những tần số gọi cấp cứu, khẩn cấp và
an toàn trên những băng tần mà tầu đang khai thác. Những trạm đài tầu mà được trang bị các thiết bị thông
tin như vậy cũng sẽ phải duy trì việc trực canh trên những tần số thích hợp để có thể tự động thu nhận
những thông báo khí tượng và những thông tin an toàn hàng hải có liên quan đến hàng hải có liên quan đến
hàng hành của tầu.
3.3.5. Đối với các trạm đài tầu mặt đất. (SES)
Những trạm đài tầu mặt đất phải duy trì việc trực canh để thu nhận những chuyển tiếp loan báo cấp
cứu chiều từ tầu trên những kênh chung hoặc những kênh dành cho cấp cứu và an toàn.
Theo đó tất cả các trạm đài tầu SES đều phải duy trì việc trực canh thông qua máy thu EGC.
3.4. BÁO ĐỘNG VÀ GỌI CẤP CỨU.
Một thông tin cấp cứu bao gồm ba giai đoạn:
- Tín hiệu báo động cấp cứu
- Gọi cấp cứu và
- Bức điện cấp cứu
Báo động cấp cứu có thể được phát qua hệ thống thông tin vệ tinh với mức ưu tiên cao nhất trên kênh

thông tin chung hoặc hệ thống thông tin VTĐ mặt đất trên những tần số giành riêng cho thông tin cấp cứu
của các băng tầng MH, HF và VHF dùng kĩ thuật gọi chọn số. Các cuộc gọi cấp cứu là các cuộc gọi không
có địa chỉ và những cuộc gọi cấp cứu và các bức điện cấp cứu như vậy chỉ được phát đi bởi thuyền trưởng
hoặc người được uỷ quyền của thuyền trưởng hoặc người có trách nhiệm trên tầu.
Bất kì một báo động cấp cứu nào cũng phải bao gồm nhận dạng của đài bị nạn và vị trí của nó. Một
báo động cấp cứu như vậy có thể thực hiện tự động hoặc nhân công.
Trong nghiệp vụ thông tin lưu động hàng hải các cuộc báo động và gọi cấp cứu chỉ được phát đi từ
các đài di động.
3.4.1. Báo động và gọi cấp cứu bằng DSC.
Theo công ước quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển SOLAS/1974 bổ sung và sửa đổi năm 1988,
trong hệ thống an toàn và cứu nạn hàng hải toàn cầu GMDSS, các thiết bị gọi chọn số DSC là các thiết bị
cơ bản cho mục đích thông tin an toàn và cứu nạn hàng hải toàn cầu.
Nội dung củamột báo động cấp cứu bằng DSC gồm:
− Tín hiệu báo động cấp cứu
− Số nhận dạng (ID) của tầu bị nạn
− Vị trí của tầu bị nạn (vĩ độ, kinh độ)
21
− Thời gian bị nạn (UTC)
− Tính chất bị nạn
Những nội dung trên có thể được truy cập tự động hoặc bằng tay.
Nếu trường hợp thông tin về vị trí của tầu bị nạn không được truy cập hoặc không được xác định thì
thiết bị sẽ tự động phát đi 10 con số 9 liên tiếp.
Nếu trường hợp thông tin về thời gian của tầu bị nạn không được truy cập hoặc không được xác định
thì thiết bị sẽ tự động phát đi 4 con số 8 liên tiếp.
3.4.1.1.Cuộc gọi cấp cứu (tức thời) bằng DSC.
Kiểu gọi này áp dụng cho trường hợp khai thác viên không có thời gian chuẩn bị các bức điện cấp
cứu mà chỉ việc ấn vào nút “Distress”, một số thông tin quan trọng của một cuộc gọi cấp cứu trên đây có
thể thực hiện trên một tần số cấp cứu duy nhất hoặc nhiều tần số gọi cấp cứu trong băng tần MF và HF.
Trong dải tần VHF chỉ dùng một tần số gọi duy nhất 156.525 Mhz (kênh 70)
Nội dung của cuộc gọi gồm:


Format: DISTRESS

Self identification: MMSI (của tầu phát cấp cứu)

Position: Được cập nhật trong máy

Time: Được cập nhật trong máy

Natural: Lựa chọn một trong 8 trường hợp bị nạn

Telecommand: Telephone
3.4.1.2. Cuộc gọi cấp cứu trong trường hợp có thời gian chuẩn bị bức điện cấp cứu- Được thực hiện bởi
khai thác viên.
Trong trường hợp có đủ thời gian để khai thác viên chuẩn bị bức điện gọi cấp cứu thì khai thác viên
phải truy cập một số thông tin quan trọng của một cuộc gọi cấp cứu như sau:
− vị trí bị nạn
− Thời gian bị nạn
− Tính chất bị nạn
− Phương thức và tần số để thực hiện thông tin cấp cứu
− Chọn tần số cấp cứu DSC thích hợp để gọi cấp cứu.
3.4.2. Các trường hợp báo động cấp cứu và chuyển tiếp báo động cấp cứu.
3.4.2.1.Báo động cấp cứu được phát bởi một đài tầu hoặc một đài tầu mặt đất.
Một báo động cấp cứu được phát bởi một đài tầu hoặc một đài tầu mặt đất khi tầu đó hoặc những
người trên tầu đó đang trong tình trạng cấp cứu, yêu cầu được trợ giúp ngay lập tức.
Một báo động cấp cứu có nội dung và cách tiến hành như sau:
− Phát tín hiệu báo động cấp cứu
− Nhận dạng của đài tàu đang trong tình trạng cấp cứu
− vị trí bị nạn
− Tính chất bị nạn

22
3.4.2.2.Phát chuyển tiếp báo động cấp cứu chiều từ bờ đến tầu.
Trong trường hợp một trung tâm phối hợp cứu nạn không thể tiến hành cứu trợ ngay lập tức thì một
đài bờ hoặc một trung tâm phối hợp cứu nạn sẽ phát chuyển tiếp báo động cấp cứu tới một tầu, một nhóm
tầu thích hợp hoặc tới tất cả các tầu bằng các thiết bị thông tin vệ tinh INMARSAT hoặc bằng các thiết bị
DSC.
Trong cuộc gọi chuyển tiếp cấp cứu phải chỉ ra số nhận dạng của đài phát chuyển tiếp cấp. Nội dung
của cuộc gọi chuyển tiếp cấp cứu giống như nội dung của cuộc gọi cấp cứu mà đài đó đã nhận được.
3.4.2.3.Phát chuyển tiếp báo động cấp cứu bởi một đài tầu không bị nạn.
Một đài di động hoặc một đài di động vệ tinh khi nhận thấy rằng một đài di động khác đang trong
tình trạng cấp cứu sẽ phát một báo động chuyển tiếp cấp cứu trong những trường hợp sau:
− Khi một đài di động trong tình trạng cấp cứu nhưng không tự phát được báo động cấp cứu.
− Khi thuyển trưởng hoặc người có trách nhiệm trên tầu nhận thấy rằng việc giúp đỡ là cần thiết.
Nội dung của một chuyển tiếp báo động cấp cứu:
− Format: all ships(or ships in geographical area or individual station)
− Address: Nếu cuộc gọi “all ship” thì không cần đưa địa chỉ, nếu gọi “geographical area or
individual station” phải đưa địa chỉ vùng địa lý hoặc ID của đài cần gọi.
− Category: DISTRESS
− Self identification: +9 số nhận dạng MMSI của đài phát chuyển tiếp
− Distress ship ID: 9 số nhận dạng MMSI của tầu bị nạn
− Message: Repeat of original alert information.
− MMSI (of station in distress)
− Distress co-ordinates
− Position
− Time
− Type of subsequent communications
3.4.3. Gọi cấp cứu bằng VTĐ thoại.
Thủ tục một cuộc gọi cấp cứu bằng thoại gồm:
− Tín hiệu báo động cấp cứu
− Gọi cấp cứu

− Phát bức điện cấp cứu
Cụ thể:
− MAYDAY MAYDAY MAYDAY
− This is (hoặc DE-delta echo- trong trường hợp ngôn ngữ khó khăn)
− Hô hiệu hoặc số nhận dạng của tầu bị nạn-phát 3 lần
Nội dung của một bức điện cấp cứu bao gồm
23
− Tín hiệu cấp cứu “MAYDAY”
− Hô hiệu hoặc số nhận dạng khác của tầu bị nạn
− Vị trí bị nạn
− Những yêu cầu trợ giúp
− Những thông tin khác nếu có
3.4.4. Gọi cấp cứu bằng các thiết bị thông tin vệ tinh
Trong các thiết bị thông tin vệ tinh có hai phương thức cơ bản để gọi cấp cứu:
− Gọi cấp cứu bằng telex.
− Gọi cấp cứu bằng thoại
3.4.4.1.Gọi cấp cứu bằng telex đối với trạm SES INMARSAT C
Gồm hai phương pháp sau:
A/ Dùng phím “DISTRESS ALERT” để phát một báo động cấp cứu.
Áp dụng trong trường hợp bị nạn nhưng không có thời gian để soạn bức điện chi tiết, bằng cách ấn và
giữ nút “DISTRESS ALERT” trong khoảng 5 giây.
Chú ý: một số thông tin về vị trí, thời gian, tốc độ và hướng tầu không có trong loan báo cấp cứu nếu
các thiết bị của SES không có các thiết bị cập nhật các thông tin đó liên tục.
B/ soạn thảo
Bước 1: soạn điện với nội dung sau:
− Tín hiệu cấp cứu MAYDAY
− Tên tầu hoặc số nhận dạng khác
− vị trí bị nạn
− Thời gian bị nạn
− Tính chất bị nạn

− Yêu cầu trợ giúp
− Những thông tin khác
Bước 2:
− Lưu bức điện vừa soạn vào file và đặt tên file
Bước 3: Làm thủ tục chuyển bức điện cấp cứu gồm:
− Format: Distress (selected)
− Type: Telex (selected)
− File name
− LES ID: (entered)
Bước 4: Tiến hành phát điện cấp cứu.
3.4.4.2.Gọi cấp cứu bằng thoại thông qua các thiết bị thông tin vệ tinh.
− Nhấc handset
24
− Ấn phím đỏ “EMERGENCY” hoặc phím “*” và giữ trong 5 giây.
− Nhập ID của trạm LES gần nhất
− Quay số điện thoại của RCC gần nhất
− Phát lời kêu cứu và bức điện cấp cứu.
3.5. BÁO NHẬN MỘT CUỘC GỌI CẤP CỨU.
3.5.1. Thủ tục báo nhận một cuộc gọi cấp cứu.
3.5.1.1.Báo nhận cấp cứu từ một đài duyên hải, một đài vệ tinh mặt đất CES hoặc từ một trung tâm phối
hợpcứu nạn RCC.
Các đài duyên hải và các đài vệ tinh mặt đất thích hợp khi nhận được một báo động cấp cứu phải
chắc chắn rằng nội dung của loan báo cấp cứu đó sẽ được gửi tới một trung tâm phối hợp cứu nạn RCC
thông qua một đài duyên hải hoặc một trạm vệ tinh mặt đất khi nhận được một loan báo cấp cứu sẽ phải
tiến hành phát xác nhận loan báo cấp cứu. đó càng sớm càng tốt.
Một đài duyên hải sẽ phải phát xác nhận một cuộc gọi cấp cứu tới tất cả các tầu bằng kỹ thuật gọi
chọn số DSC trên tần số gọi cấp cứu mà đài duyên hải đã nhận được một cuộc gọi cấp cứu đó.
3.5.1.2.Báo nhận cấp cứu từ một đài tầu hoặc một đài tầu mặt đất.
Các đài tầu hoặc các đài tầu mặt đất khi nhận được một loan báo cấp cứu sẽ phải thông báo cho
thuyền trưởng hoặc người có trách nhiệm trên tầu những thông tin của cuộc gọi cấp cứu đó càng sớm càng

tốt.
Những vùng biển mà ở đó chắc chắn sẽ thông tin được với một hoặc nhiều đài duyên hải, các đài tầu
khi nhận được một loan báo cấp cứu sẽ phải trì hoãn việc xác nhận của muình để cho các đài duyên hải xác
nhận trước.
Một đài tầu nhận được một loan báo cấp cứu trên dải tần HF sẽ không xác nhận loan báo cấp cứu đó,
nhưng sẽ phải thực hiện việc trực canh trên các tần số cấp cứu với những phương thức thông tin thích hợp.
Nếu trong khoảng thời gian 3 phút mà không có một đài duyên hải nào phát xác nhận loan báo cấp cứu đó
thì sẽ phát chuyển tiếp loan báo cấp cứu đó.
Một đài tầu khi phát xác nhận một cuộc gọi cấp cứu sẽ phải:
− Phát xác nhận cuộc gọi cấp cứu bằng thoại trên tần số giành cho cấp cứu và an toàn bằng thoại
ứng với băng tần đã dùng để nhận cuộc gọi cấp cứu.
− N ếu việc xác nhận cuộc gọi cấp cứu đó bằng thoại trên các tần số gọi cấp cứu của dải tần MF
hoặc VHF không thành công, thì việc xác nhận đó có thể được thực hiện bằng thiết bị gọi chọn số DSC trên
một tần số DSC thích hợp.
3.5.2. Thủ tục báo nhận gọi cấp cứu
Tất cả các cuộc báo nhận cấp cứu đều được thực hiện bằng nhân công mà không có chế độ tự động
xác nhận cuộc gọi cấp cứu trong tất cả các thiết bị thông tin trong hệ thống GMDSS.
3.5.2.1. Thủ tục báo nhận cấp cứu bằng DSC
Việc báo nhận một cuộc gọi cấp cứu bằng DSC thường được áp dụng cho các đài Duyên Hải, và sẽ
được phát triên cùng tần số cấp cứu DSC mà tầu bị nạn đã dùng để phát báo động cấp cứu đó.
Đối với các đài tầu khi nhận được một báo động cấp cứu bừng DSC sẽ phải chờ một khoảng thời gian
từ 3 đến 5 phút để cho các đài Duyên Hải xác nhận trước. Nếu trong khoảng thời gian trên, không có bất kỳ
một đài nào phát xác nhận thì dài tầu sẽ làm thủ tục báo nhận cuộc gọi cấp cứu đó bằng thoại nếu thấy sự
25

×