1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU QUẢ KINH
DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Cùng với sự vận động và phát triển kinh tế, nhu cầu đầu tư và tích luỹ
trong xã hội không ngừng tăng và ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Những
người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn
rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Từ đó trong nền kinh tế cũng hình thành nên một
cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư. Lúc đầu sẽ xuất hiện những khoản
vay trực tiếp, dựa trên quan hệ quen biết cá nhân để giải quyết nhu cầu vốn của
mình. Tuy nhiên, khi cung cầu vốn tăng lên thì hình thức này không đáp ứng
được nữa. Thực tế đòi hỏi phải xuất hiện các trung gian tài chính, mặt khác do
nhu cầu về các khoản vốn lớn nên phải có các cách khác nhau để vay vốn. Các
nhà đầu tư phát hành ra chứng khoán để vay vốn. Thị trường tài chính xuất
hiện.
Thị trường chứng khoán nằm trong thị trường tài chính dài hạn thông qua
cơ chế tài trợ trực tiếp, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng
các loại chứng khoán dài hạn.
Cho tới nay, thị trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là không
thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất
là những nước đang phát triển cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế
quốc dân.
1.Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường.
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế
thị trường phát triển.Thị trường chứng khoán là chiếc cầu nối vô hình giữa cung
và cầu vốn trong nền kinh tế. Một thị trường chứng khoán lành mạnh và hoạt
2
động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế,
tạo sự lành mạnh trong việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế một
cách có hiệu quả nhất.
Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng
của nền kinh tế. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán là công cụ huy
động vốn đầu tư cho nền kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát
hành và luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua đi bán lại chứng khoán trên
thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi
thiếu vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu tư từ ngành này sang ngành khác, từ
đó góp phần điều hoà vốn giữa các ngành kinh tế, phá vỡ ‘‘tính ỳ’’ của đầu tư
trong sản xuất, tạo ra những động năng cho sản xuất kinh doanh, góp phần tạo
nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là
một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài chính, là chất xúc tác quan
trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy các hoạt động
kinh tế.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư
nước ngoài. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi mà các
nhà đàu tư nước ngoài có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động
của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, thị trường chứng khoán
thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường đầu tư thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
lành mạnh và có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp muốn huy động được vốn và
duy trì vốn thông qua thị trường chứng khoán phải tính toán, làm ăn đàng
hoàng, lành mạnh và có hiệu quả ngày càng cao. Nếu không thì doanh nghiệp
và ban lãnh đạo sẽ được quyết định bởi thị trường.
3
Thị trường chứng khoán là phương tiện giúp chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế, tài chính. Bên cạnh việc tăng thu ngân sách từ thuế, Nhà
nước thường sử dụng biện pháp phát hành trái phiếu Nhà nước-một hình thức
tín dụng Nhà nước, trong đó Nhà nước vay tiền của công chúng.
Thị trường chứng khoán còn là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh
và phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng
của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia. Các thị giá chứng khoán
được thể hiện thường xuyên trên thị trường đã phản ánh giá trị phần tài sản Có
của doanh nghiệp, mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh
nghiệp làm ăn lành mạnh, có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt đẹp
thì giá trị thị trường của chứng khoán công ty mới cao và ngược lại. Ngoài ra,
thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của nền kinh tế, giúp những người
đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương
lai của nền kinh tế.
Rõ ràng, với cách thức hoạt động mềm dẻo linh hoạt của thị trường
chứng khoán, thị trường chứng khoán đã phát huy vai trò tích cực và có ý nghĩa
quan trọng đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
2. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán thường nhìn vào 3 mục tiêu lớn: hoạt động có
hiệu quả, điều hành công bằng, phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, thị
trường chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc sau :
Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này đòi hỏi việc mua bán chứng khoán phải thực hiện thông
qua môi giới trung gian. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không
mua trực tiếp nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị
trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới kinh doanh, các công ty
chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các
4
khách hàng với nhau qua việc thực hiện cácgiao dịch mua bán chứng khoán trên
tài khoản của mình. Nguyên tắc trung gian đảm bảo cho thị trường hoạt động
lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Có
tác dụng đảm bảo an toàn về chứng khoán, tránh chứng khoán giả mạo, trộm
cắp chứng khoán, khắc phục những hạn chế về không gian của sàn giao dịch.
Điều này thể hiện rõ hơn trên thị trường chứng khoán tập trung – tức là Sở giao
dịch chứng khoán.
Nguyên tắc đấu giá:
Mục tiêu của thị trường chứng khoán là cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy
không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán, mà giá cả chỉ có
thể xác định căn cứ vào sự tác động qua lại của cung và cầu chứng khoán theo
nguyên tắc đấu giá. Giá cả của chứng khoán được định ra trên nguyên tắc thị
trường. Vì vậy thị trường chứng khoán được coi là thị trường mang tính tự do
nhất trong các loại thị trường.
Nguyên tắc công khai thông tin :
Để đảm bảo công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán,
đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian
lận trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán
đều phải được công khai, như các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên
thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty phát hành
chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao
dịch.Việc công khai thông tin về thị trường chứng khoán đòi hỏi thoả mãn các
yêu cầu về tính chính xác, tính kịp thời và tính dễ dàng.
Tất cả những nguyên tắc này đều được thể hiện bằng các văn bản pháp
quy, các đạo lụât, các quy chế, điều lệ của từng thị trường chứng khoán, nhằm
bảo vệ cho các nhà đầu tư và ràng buộc các thành viên của thị trường chứng
khoán, tạo điều kiện ổn định và phát triển thị trường chứng khoán.
5
3. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán.
Trên thị trường chứng khoán, hàng hoá của thị trường bao gồm nhiều
loại. Nhưng xét về mặt lich sử và theo cách gọi có tính thống nhất, các loại
hàng hoá này đều có tên là chứng khoán. Có thể hiểu khái quát chứng khoán là
những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc điện tử (bút toán ghi sổ) xác nhận
quyền sở hưũ hợp pháp của chủ chứng khoán và có thể được mua bán, trao đổi,
chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán
Thông thường chứng khoán gồm 3 loại cơ bản là: Chứng khoán vốn: Cổ
phiếu (Equity securities); Chứng khoán nợ: Trái phiếu (Debt securities); Chứng
khoán phái sinh: Các chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán
(Derivatives).
Cổ phiếu:
Là một chứng thư xác nhận quyền sở hữu đối với tài sản và vốn của công
ty cổ phần, do đó nó được coi là một tài sản thực sự. Người sở hữu cổ phiếu
được gọi là cổ đông. Các cổ đông được hưởng quyền lợi hợp pháp tại công ty
cổ phần tuỳ theo tỉ lệ vốn tham gia vào công ty cổ phần đó.
Trái phiếu:
Là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối vớ
người sở hữu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với tiền lãi
trong một thời hạn nhất định.
Các chứng khoán phái sinh:
Trên thị trường chứng khoán, bên cạnh các giao dịch mua bán các chứng
khoán vốn, chứng khoán nợ, còn có các giao dịch mua bán các chứng từ tài
chính khác như chứng quyền, chứng khế, quyền lựa chọn…Các chứng từ tài
chính nay được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi
sang chứng khoán qua mua bán. Do đó, người ta gọi chúng là các chứng từ có
nguồn gốc tài chính hoặc các chứng khoán phái sinh.
6
4. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể tham gia hoạt động
theo nhiều mục đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể trung
gian chứng khoán, chủ thể quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường
chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
Chủ thể phát hành:
Đây là những người cần tiền và huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán và bán cho những người đầu tư hoặc những người kinh doanh chứng
khoán. Chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ
chức khác theo qui định của pháp luật.
Chủ thể đầu tư:
Người đầu tư là người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư và thị trường
chứng khoán bằng cách thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Có 2 loại chủ thể đầu tư là nhà đầu tư cá
nhân và các tổ chức đầu tư.
Chủ thể trung gian chứng khoán:
Nhà trung gian chứng khoán có thể hoạt động với tư cách là nhà trung
gian cá nhân, tổ chức trung gian ( pháp nhân ). Vai trò chủ yếu của nhà trung
gian chứng khoán là kinh doanh, môi giới và bảo lãnh chứng khoán, ngoài ra
còn thực hiện các nghiệp vụ khác như tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, giao dịch mua
bán chịu chứng khoán ...
Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng
khoán:
Thực hiện việc quản lý và giám sát ngành công nghiệp chứng khoán là
một cơ quan chuyên trách theo dõi, hỗ trợ, kiểm soát, chỉnh lý, điều hoà hoạt
động các thị trường chứng khoán trong cả nước.
Các tổ chức liên quan:
7
Ngoài các tổ chức trên, trên thị trường chứng khoán còn có các tổ chức
quan trọng khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị trường chứng
khoán như Sở giao dịch chứng khoán; tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ
chứng khoán; tổ chức dịch vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng
khoán; Hiệp hội đầu tư chứng khoán; Hiệp hội kinh doanh chứng khoán; công
ty tín thác đầu tư; các tổ chức dịch vụ vi tính về chứng khoán; trung tâm đào tạo
và hành nghề chứng khoán.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1. Mô hình tổ chức công ty chứng khoán.
Trong hoạt động của thị trường chứng khoán, tuỳ theo luật định ở mỗi
nước mà các Ngân hàng, tổ chức tín dụng hay công ty chứng khoán có vai trò
nhất định trên thị trường. Ở các nước kinh tế thị trường, trong hệ thống ngân
hàng hoạt động theo mô hình ngân hàng chuyên doanh hay ngân hàng đa năng
một phần, các công ty chứng khoán là các chủ thể quan trọng và đông đảo của
thị trường chứng khoán, thực hiện nhiều nghiệp vụ cơ bản trong lĩnh vực này.
Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phổ biến về công ty chứng khoán
sau:
Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán:
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty
chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận,
các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán, được áp
dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada… Mô hình này có ưu
điểm là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho thị
trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, khả năng san bằng rủi ro trong kinh
doanh bị hạn chế. Trong thời gian gần đây, các nước áp dụng mô hình này có
xu hướng giảm dần sự hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ
chứng khoán.
8
Mô hình công ty đa năng:
Có hai loại công ty đa năng, đó là công ty đă năng một phần và công ty
đa năng hoàn toàn.
Công ty đa năng một phần: Ở đây các ngân hàng muốn kinh doanh
chứng khoán phải thành lập công ty con độc lập.
Công ty đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép kinh
doanh tổng hợp.
Mô hình này có ưu điểm là kết hợp đa năng rất cao, do đó mà giảm bớt
rủi ro trong hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu đựng các biến động
của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu như thị trường có biến động mạnh
thì hoạt động kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng nếu không tách bạch rõ ràng các
nghiệp vụ kinh doanh. Thường thường, các nước châu Âu, châu Úc thường áp
dụng mô hình công ty đa năng.
2. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức một công ty chứng khoán có thể được xây dựng từ đơn
giản đến phức tạp tuỳ theo qui mô của thị trường, phương thức kinh doanh của
chủ sở hữu, khách hàng…, mặt khác, tuỳ thuộc vào tính chất sở hữu của công
ty.
Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản
trị. Hội đồng quản trị bổ nhiệm ban Giám đốc và Giám đốc điều hành công ty.
Giúp việc cho Hội đồng quản trị có Ban kiểm soát, có nhiệm vụ theo dõi và
kiểm soát tất cả các giao dịch chứng khoán.
Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán gồm
các phòng chủ yếu sau:
Hình 1: Sơ đồ tổ chức chung của công ty chứng khoán :
9
Phòng giao dịch: Thực hiện các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán
và OTC. Thông thường, phòng giao dịch bao gồm ba bộ phận: Bộ phận môi
giới cho khách hàng, bộ phận tự doanh, bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng
khoán. Chức năng chính của phòng giao dịch là nhận và thực hiện giao dịch tại
Sở đối với các lệnh giao dịch. Các thông báo về việc giao dịch đã được thực
hiện xong chuyển đến cho người đặt lệnh và cuối cùng chuyển các tờ lệnh cho
phòng tài chính – kế toán để soạn các văn bản hợp đồng tương ứng và đưa dữ
liệu sang bộ phận lưu trữ. Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán cung
cấp cho các bộ phận của công ty, khách hàng các báo cáo về kinh tế và tình
hình hoạt động của các công ty được niêm yết, tình hình thị trường và động thái
giá chứng khoán, các nhà môi giới ra các quyết định mua bán chứng khoán có
lợi nhất cho công ty và cho khách hàng của công ty.
Phòng kế toán- tài chính: Phòng này có hai bộ phận chủ yếu là bộ phận
kế toán và bộ phận tài chính. Bộ phận kế toán xử lý các hợp đồng và tài liệu
Hội đồng quản trị
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng
giao
dịch
Phòng
kế toán-
tài
chính
Phòng
marketi
ng
Phòng
quản trị
– hành
chính
Phòng
lưu ký,
đăng ký
lưu trữ
10
giao dịch, soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận tài liệu từ khách hàng, lưu
trữ các hợp đồng, chứng từ, lệnh…Bộ phận tài chính quản lý tài chính của Công
ty thông qua tài khoản chứng khoán và tiền quản lý việc cho khách hàng vay
tiền để đầu tư chứng khoán, thoả thuận với khách hàng trong các giao dịch nhận
thế chấp chứng khoán, bảo đảm việc tuân thủ tỷ lệ vốn cho vay trên tổng giá trị
chứng khoán thế chấp. Bộ phận này thường thoả thuận với các ngân hàng để
vay tiền từ ngân hàng, cho khách hàng vay và ký kết các văn bản thoả thuận thế
chấp có liên quan.
Phòng Marketing: Với chức năng chủ yếu là quan hệ với khách hàng
của công ty, nhận lệnh từ khách hàng sau đó chuyển sang phòng giao dịch để
thực hiện, nghiên cứu phát triển thị trường.
Phòng quản trị – hành chính tổng hợp: Phòng này có nhiệm vụ chủ
yếu là duy trì cơ sở kinh doanh, văn phòng làm việc, trang thiết bị đồ dùng văn
phòng nói chung, duy trì điện nước, nhà ăn…; tổ chức gặp gỡ, làm việc với các
cơ quan hữu quan, các tổ chức quốc tế, tổ chức kinh doanh khác; ký kết và quản
lý các hợp đồng tuyển dụng lao động, quản lý nhân sự…
Phòng lưu ký, đăng ký và lưu trữ thông tin: Thực hiện các việc liên
quan đến lưu ký, đăng ký chứng khoán và lưu giữ thông tin về giao dịch chứng
khoán, về tài khoản của khách hàng…
Trong trường hợp công ty chứng khoán được cấp quản lý tài sản khách
hàng, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán có thể thành lập phòng
quản lý tài sản.
Các phòng này đem lại cho công ty những thu nhập to lớn bằng cách đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó. Trên
thực tế, nhiều công ty chứng khoán chào bán rất nhiều chủng loại chứng khoán
và loại hình khác nhau. Vì vậy, mỗi công ty chứng khoán là một thực thể riêng
11
biệt và rất phức tạp, có cơ cấu hoạt động riêng và cơ cấu này luôn thay đổi theo
thời gian.
Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng và phản ánh của
nhiều nhân tố, về quản lý, về thị trường, về con người. Trình độ chuyên môn
hoá cao độ dẫn đến phân cấp quản lý, nhiều khi các bộ phận trong tổ chức
không phụ thuộc lẫn nhau. Bên cạnh đó, thị trường tài chính có ảnh hưởng lớn
đến các Công ty chứng khoán, đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng
thu lợi nhuận của công ty. Mọi hoạt động quản lý và chuyên môn trong công ty
chứng khoán đều diễn ra trong bối cảnh của thị trường chứng khoán. Mặt khác
trong công ty chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng số một.
Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Khách hàng
tin tưởng vào người môi giới về mua bán chứng khoán, giá, thời điểm…Vì vậy
nhân viên môi giới phải thực hiện nguyên tắc ‘‘biết khách hàng của mình’’,
nắm khả năng tài chính của khách hàng, tư vấn cho khách hàng, giữ gìn đạo đức
kinh doanh và tôn trọng khách hàng, luôn đặt quyền lợi của khách hàng lên trên
hết.
3. Các loại công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán thường được phân loại theo hình thức kinh
doanh mà công ty tiến hành.
Công ty môi giới (The member firm):
Loại công ty này còn được gọi là công ty thành viên vì nó là một thành
viên của Sở giao dich chứng khoán. Công việc kinh doanh chủ yếu của công ty
môi giới là mua và bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao dịch
chứng khoán mà công ty đó là thành viên.
Công ty đầu tư ngân hàng (The Investment Banking Firm):
Loại công ty này phân phối những chứng khoán mới được phát hành cho
công chúng qua việc mua chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại
12
các chứng khoán này cho công chúng theo giá tính gộp cả lợi nhuận của công
ty. Vì vậy công ty này còn gọi là nhà bảo lãnh phát hành.
Công ty giao dịch phi tập trung (The over counter firm):
Công ty này mua bán chứng khoán tại thị trường OTC.
Hiện nay nhiều công ty chứng khoán có vốn lớn được phép hoạt động cả
ba lĩnh vực trên.
Công ty dịch vụ đa năng (Multiservices Firm):
Những công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của
ngành công nghiệp chứng khoán. Ngoài ba dịch vụ trên, họ còn cung cấp cho
khách hàng dịch vụ đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán trên Sở giao
dịch chứng khoán, uỷ nhiệm các giao dịch buôn bán cho khách hàng trên thị
trường OTC. Sự kết hợp giữa sản phẩm và kinh nghiệm của công ty sẽ quyết
định cơ sở cho những dịch vụ mà họ có thể cung cấp cho khách hàng.
Công ty buôn bán chứng khoán:
Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí do công ty tự chịu.
Công ty phải cố gắng bán chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Vì vậy
loại công ty này hoạt động với tư cách là người uỷ thác chứ không phải là đại lý
nhận uỷ thác.
Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng:
Loại công ty này nhận chênh lệch giá qua việc buôn bán chứng khoán, do
đó họ còn được gọi là nhà tạo thị trường, nhất là trên thị trường giao dịch OTC.
Các công ty chứng khoán là đối tượng quản lý của các nguyên tắc, qui
chế do Uỷ ban chứng khoán ban hành. Các quy chế này chi phối hoạt động của
các công ty này, kiểm soát họ trong quan hệ giữa các công ty chứng khoán với
nhau và giữa công ty chứng khoán với khách hàng của họ.
4. Vai trò của công ty chứng khoán
13
Khi thực hiện các hoạt động của mình, các công ty chứng khoán cũng tạo
ra sản phẩm vì họ là đại lý hay uỷ thác trong quá trình mua bán chứng khoán,
dịch vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân đầu tư, công ty và cả Chính phủ nữa.
Vai trò huy động vốn:
Các công ty chứng khoán là các trung gian tài chính có vai trò huy động
vốn, tức là họ là các kênh chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng
vốn. Các công ty chứng khoán thường đảm nhận vai trò này qua các hoạt động
về nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán.
Vai trò xác định giá cả chứng khoán:
Thông qua Sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC, các công ty chứng
khoán cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá
đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình.
Vai trò thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán:
Các công ty chứng khoán thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành
chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất.
Vai trò thúc đẩy vòng quay của chứng khoán:
Các công ty chứng khoán cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung
cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó, họ góp phần làm tăng
vòng quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải
tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của
khách hàng.
Dịch vụ tư vấn tài chính:
Các công ty chứng khoán với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh
của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông
tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư.
Công ty có thể tư vấn về: thu thập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội
14
đầu tư, triển vọng ngắn và dài hạn của thị trường chứng khoán và các công ty
trong thời gian hiện tại và tương lai, tư vấn đầu tư chứng khoán …
Các sản phẩm đầu tư:
Các sản phẩm hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị
trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách
hàng đối với thị trường tài chính, sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng
khoán. Các công ty chứng khoán có các dịch vụ yểm trợ rất to lớn đối với thị
trường, vì mỗi sản phẩm tài chính có những quy trình riêng biệt và nhu cầu của
khách hàng là đa dạng khác nhau.
5. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán.
Xuất phát từ nhu cầu khách quan và chủ quan trong những hoạt động của
thị trường chứng khoán nói chung và người đầu tư nói riêng đòi hỏi công ty
chứng khoán cung cấp rất nhiều các dịch vụ trung gian. Tuy nhiên, với phạm vi
hoạt động khác nhau mà các công ty chứng khoán có thể cung cấp theo hướng
chuyên môn hoá các nghiệp vụ sau:
5.1. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán.
Giao dịch chứng khoán theo uỷ thác (môi giới) (in commission):
Công ty chứng khoán hoạt động nghiệp vụ môi giới với tư cách là một
đại lý thay mặt khách hàng để giúp người bán và người mua gặp nhau thông
qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường chứng khoán.
Lượng hoa hồng từ nghiệp vụ này được hưởng theo một tỉ lệ nhất định trên tổng
doanh số chứng khoán giao dịch hộ khách hàng và chính khách hàng phải chịu
hậu quả kinh tế của giao dịch đó. Đây chính là hoạt động mua bán chứng khoán
và là nghiệp vụ chủ yếu của các công ty chứng khoán.
Sơ đồ quy trình giao dịch:
15
(1): Mở tài khoản. Một khách hàng có thể mở một hoặc nhiều tài khoản ở
một công ty chứng khoán, gồm có: tài khoản tiền mặt, tài khoản ký quỹ, tài
khoản uỷ thác.
(2): Đặt lệnh: Khi khách hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải đưa
lệnh cho người đại diện có giấy phép đang giữ tài khoản của mình qua điện
thoại, gặp trực tiếp hoặc bằng thư từ. Khi đó công ty chứng khoán sẽ kiểm tra
số khách hàng cần bán hoặc số tiền trên tài khoản đủ thanh toán cho số lượng
chứng khoán cần mua cả về giá trị chứng khoán và các loại phí giao dịch hay
không và luôn yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một phần chứng khoán cần bán
hoặc một số tiền nhất định trên tài khoản khách hàng ở công ty heo một tỉ lệ
nhất định.
(3): Công ty chứng khoán chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực
hiện: Các lệnh mua bán chứng khoán niêm yết chuyển trực tiếp đến sàn giao
dịch Sở giao dịch chứng khoán. Còn đối với các lệnh mua hoặc bán những
chứng khoán không được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán của khách
hàng vẫn được chuyển tới phòng thực hiện lệnh.
(4): Xác nhận lệnh cho khách hàng: Sau khi lệnh được chuyển tới thị
trường thích hợp để thực hiện, một báo cáo về việc thực hiện lệnh này được lập
ra để thông báo lệnh đó có được thực hịên hay không, trong đó có hai liên, một
liên giao cho khách hàng, một liên giao cho phòng kế toán làm căn cứ để thanh
toán.
Khách hàng
Công ty chứng
khoán
Sở giao dịch
(2)
(1)
(4)
(5)
(3)
16
(5): Thanh toán và giao hàng: Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao
tiền thông qua ngân hàng chỉ định thanh toán và người bán sẽ giao chứng khoán
thông qua hình thức chuyển khoản tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Sau khi
đã hoàn tất các thủ tục, công ty sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng mở tại công ty chứng khoán. Trong
trường hợp lệnh sai, sàn giao dịch vẫn thực hiện bình thường còn những sai sót
sẽ do công ty điều chỉnh.
Như vậy, với nghiệp vụ này, công ty chứng khoán là một trung gian mua
bán chứng khoán hộ cho khách hàng nên được hưởng hoa hồng môi giới. Đó là
khoản phí mà nhà môi giới quy định khách hàng phải trả về các dịch vụ mua
bán chứng khoán. Tiền hoa hồng được tính theo phần trăm trên tổng giá trị một
giao dịch, tuỳ theo quy định của từng công ty chứng khoán. Đồng thời với
khoản thu nhập nhận được từ hoạt động môi giới thì công ty chứng khoán cũng
phải chi một khoản cho việc nộp thuế, thuế sẽ được tính trên cơ sở tổng mức
hoa hồng hay chiết khấu mà công ty nhận được.
Trong quá trình thực hiện các bước của lệnh theo yêu cầu của khách
hàng, công ty chứng khoán phải tuân thủ những quy định trong quy chế của
công ty và pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để đảm bảo lợi
ích và thuận tiện cho cả khách hàng và công ty chứng khoán.
Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán:
Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn vốn kinh doanh
của công ty chứng khoán nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi của
chính mình. Đây là nghiệp vụ kinh doanh rất phức tạp và khó khăn, nó có thể
mang lại lợi nhuận cho công ty nhưng cũng có thể gây ra không ít rủi ro. Để
thực hiện tốt nghiệp vụ này, các công ty chứng khoán phải có đội ngũ nhân viên
phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với những biến động của
thị trường để đưa ra được quyết định đầu tư chính xác, hợp lý. Các khoản thu
17
của nghiệp vụ này gồm hai phần chủ yếu là cổ tức và lãi vốn (số chênh lệch
giữa giá mua và giá bán) nhưng phần thu lãi vốn sẽ là phần chủ yếu.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán:
Với đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am hiểu thị trường, có tiềm
lực tài chính, các công ty chứng khoán hoạt động rất mạnh mẽ về nghiệp vụ
nay. Đây là hoạt động hỗ trợ cho công ty phát hành hay chủ sở hữu chứng
khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả thuận mua chứng
khoán để bán lại.
Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư:
Thực chất nghiệp vụ này là nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán
nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này, khách hàng sẽ uỷ thác cho
công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay
những nguyên tắc mà đã được khách hàng thoả thuận. Thực hiện nghiệp vụ này
cho khách hàng, công ty chứng khoán vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu
tư hộ chứng khoán nên công ty chứng khoán nhận được khoản phí quản lý bằng
tỉ lệ phần trăm trên tổng số lợi nhuận thu về cho khách hàng.
Đối với các nhà đầu tư thì việc uỷ thác đầu tư này đem lại cho họ rất
nhiều lợi ích như giảm rủi ro, đảm bảo ổn định lợi nhuận, giảm chi phí giao
dịch và nghiên cứu, hiệu quả đầu tư được đảm bảo hơn so với tự đầu tư, đặc
biệt là đối với người đầu tư ít có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán:
Đây là nghiệp vụ uỷ thác của khách hàng thực hiện các quyền của mình
đối với chứng khoán. Thực hiện nghiệp vụ này khách hàng sẽ đưa số chứng
khoán họ cần thu gỡ hộ đến công ty và ký hợp đồng với công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán có trách nhiệm bảo quản, lưu giữ anh toàn cho các chứng
khoán này. Công ty chứng khoán thu được khoản phí nghiệp vụ gần như không
18
bị rủi ro, có điều kiện mở rộng các nghiệp vụ khác để thu hoa hồng, tăng thêm
nguồn lợi, bảo quản chứng khoán như vật thế chấp cho một khoản vay của
khách hàng.
Nghiệp vụ thu lợi tức hộ khách hàng:
Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ lưu ký
chứng khoán cho khách hàng. Khi thực hiện lưu ký, công ty chứng khoán phải
phối hợp với trung tâm lưu ký chứng khoán, công ty phát hành chứng khoán và
một ngân hàng chỉ định thanh toán để tổ chức theo dõi kỳ hạn thu lợi tức, tỉ lệ
lợi tức, số lượng các loại chứng khoán, thu đủ và gửi báo cáo, trả lợi tức cho
khách hàng.
Nghiệp vụ tư vấn và đầu tư chứng khoán:
Là họat động phân tích và đưa ra những vấn đề liên quan đến chứng
khoán. Trong đó khách hàng được tư vấn về lựa chon công cụ đầu tư cho phù
hợp với điều kiện và khả năng của mình. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty
chứng khoán phải tuân thủ theo các nguyên tắc tư vấn là khách quan, đầy đủ,
chi tiết các thông tin liên quan đến công việc cần tư vấn, tôn trọng nguyện vọng
của khách hàng, thông báo cho khách hàng biết về sự thay đổi của pháp luật có
liên quan đến hoạt động đầu tư của khách hàng. Làm sao cho khách hàng luôn
hài lòng về quyết định đầu tư của họ chính là thành công của hoạt động tư vấn.
5.2. Các nghiệp vụ phụ trợ của công ty chứng khoán
Hoạt động tín dụng:
Khi khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng không có đủ tiền
thanh toán, công ty chứng khoán sẽ mua bán chứng khoán qua thị trường giao
dịch mua bán chịu. Thị trường này mang tính chất một giao dịch thị trường
bằng tiền mặt, mặc dù đứng trên quan điểm của khách hàng thì đây là một giao
dịch kỳ hạn. Giao dịch mua bán chịu là biện pháp ngăn chặn việc lên giá chứng
khoán có thể xảy ra trong tương lai và giúp cho việc lưu hành chứng khoán
19
được trôi chảy hơn thông qua việc hỗ trợ giao dịch thị trường tiền mặt. Giao
dịch mua bán chịu bao gồm việc cấp tín dụng dưới dạng tiền mặt cho khách
hàng khi khách hàng mua chịu, còn khi khách hàng bán chịu, công ty chứng
khoán sẽ cấp tín dụng dưới dạng cổ phiếu. Khách hàng muốn được giao dịch
mua bán chịu phải có đủ tiền đảm bảo trong tài khoản tiền gửi ngân hàng. Tỉ lệ
mua bán chịu sẽ xác định số tiền đảm bảo cần thiết.
Quỹ quản lý trái phiếu:
Sản phẩm của quỹ quản lý trái phiếu là trái phiếu công ty có bảo đảm, trái
phiếu giao dịch… Có nhiều loại quản lý: Khách hàng có thể ký gửi tuỳ chọn, ký
gửi cố định hoặc ký gửi từng phần.
Giao dịch trái phiếu theo hợp đồng chuộc lại trái phiếu:
Hợp đồng chuộc lại trái phiếu từ vòng đầu tư tại một thời điểm trong
tương lai sẽ được hai bên ký kết tại thời điểm giao dịch hiện tại. Có nhiều loại
chuộc lại: Chuộc lại chung qui định rõ khối lượng giao dịch, đơn vị mua bán, lãi
suất cố định; Chuộc lại theo qui mô lớn qui định khối lượng giao dịch lớn, đơn
vị giao dịch .
Ký gửi đầu tư trái phiếu số lượng nhỏ để tiết kiệm thuế:
Loại ký gửi này có ưu điểm lớn về thuế, điều kiện mở tài khoản đơn giản.
Ở đây, người đầu tư phải giữ trái phiếu trong một thời gian từ một năm đến hết
hạn, thường là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương.
Ngoài ra, công ty chứng khoán còn có nhiều hoạt động khác mang tính
chất đặc biệt như huy động vốn ngắn hạn…
Hiện nay, luật chứng khoán ở nhiều nước cho phép các công ty chứng
khoán có thể thực hiện một, hai hay tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán. Số vốn điều lệ tối thiểu của công ty phải bằng số vốn điều lệ tương ứng
với mỗi nghiệp vụ chứng khoán mà công ty được phép kinh doanh.
5.3. Nguyên tắc hoạt động và đạo đức nghề nghiệp.
20
Các công ty chứng khoán đã được cấp giấy phép kinh doanh hoạt động
theo các nguyên tắc bắt buộc: Giao dịch trung thực và công bằng,vì lợi ích của
khách hàng; kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ,có tinh thần trách nhiệm. Phải có
hợp đồng với khách hàng trước khi thực hiện dịch vụ, không tiến hành các hoạt
động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu sai về giá cả, giá trị và bản
chất của chứng khoán hoặc các hoạt động gây thiệt hại cho khách hàng. Bảo vệ
tài sản của khách hàng bằng cách tách biệt tài sản của khách hàng với tài sản
của mình. Đảm bảo nguồn vốn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán
với khách hàng. Tổ chức và thực hiện công tác kiểm soát nội bộ, tổ chức và
thực hiện hạch toán và quản lý tài chính theo qui định của pháp luật. Đảm bảo
có đủ nhân viên kinh doanh chứng khoán có kỹ năng đã qua đào tạo và được
giám sát kỹ lưỡng, không được bán chứng khoán mình không sỡ hữu hoặc
không có lệnh bán của khách hàng, trừ trưòng hợp cơ quan có thẩm quyền cho
phép, không được nhận lệnh mua bán của khách hàng ngoài trụ sở công ty,
không được tham gia hoạt động kinh doanh ngoài phạm vi giấy phép hoạt động
được cấp.
Bên cạnh đó, cán bộ nhân viên công ty chứng khoán đều phải tuân thủ
các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cơ bản trong giao dịch kinh doanh chứng
khoán. Các nguyên tắc đó là:
Trung thực và công bằng:
Khi nhân viên tư vấn cho khách hàng hoặc hoạt động thay mặt cho khách
hàng, họ phải đảm bảo tính độc lập, công khai và không thiên vị. Họ không
được đòi hỏi, nhận, mời hay cho, tặng bất kỳ một món quà biếu hay hối lộ nào
từ phía khách hàng hoặc dành cho khách hàng, nhất là khách hàng tiềm năng
nhằm mưu cầu một sự cư xử ưu đãi và thiên vị so với các đối tượng khác.
Ngoài ra, khi tính các loại phí, nhân viên không được tính vượt mức cho phép
trong từng trường hợp cụ thể.
21
Năng lực:
Nhân viên phải nắm vững và tuân thủ các luật lệ, qui chế, qui định hiện
hành liên quan đến giao dịch kinh doanh chứng khoán, cung cấp dịch vụ tư vấn
đầu tư và các hoạt động khác có chức năng phụ trợ cho việc kinh doanh chứng
khoán và cung cấp các dịch vụ đầu tư. Trong quá trình giao dịch với khách
hàng, họ phải thể hiện là nhân viên có đủ năng lực cần thiết bao gồm cả việc
đào tạo hoặc có kinh nghiệm chuyên môn phù hợp để có thể làm tốt ở cương vị
được giao phó.
Thông tin về khách hàng:
Nhân viên phải tiến hành tất cả các bước hợp lý để nhận biết một cách
đầy đủ từng khách hàng, tình trạng tài chính, kinh nghiệm và mục đích đầu tư
của từng khách hàng, để bảo vệ chính mình, bảo vệ đồng nghiệp và bảo vệ thị
trường, nhân viên phải từ chối việc hành động thay mặt cho khách hàng hiện
thời hay khách hàng tiềm năng nếu họ không có một hồ sơ rõ ràng. Trong
trường hợp các cơ quan có thẩm quyền đưa ra yêu cầu, nhân viên phải cung cấp
được đầy đủ các thông tin như: tên tuổi, địa chỉ, tình hình tài chính, danh mục
đầu tư của khách hàng.
Thông tin cho khách hàng:
Nhân viên phải cung cấp cho khách hàng những thông tin đày đủ về công
ty mình, các điều kiện thuận lợi hay hạn chế liên quan tới việc kinh doanh của
khách hàng. Tất cả các thoả thuận về việc cung cấp dịch vụ giữa nhân viên với
khách hàng, giữa công ty với khách hàng đều phải được viết bằng văn bản và
phải được quy định đầy đủ, chi tiết. Sau khi thực hiện giao dịch cho khách
hàng, nhân viên phải nhanh chóng xác nhận các đặc điểm chính của giao dịch
như: ngày giờ giao dịch, loại chứng khoán giao dịch, giá cả và số lượng chứng
khoán giao dịch. Bên cạnh đó, các thông tin liên quan tới công ty niêm yết đều
phải công khai, rõ ràng minh bạch.
22
Ưu tiên khách hàng:
Nhân viên phải được xử lý các lệnh của khách hàng một cách công bằng
và theo thứ tự thời gian nhận được chúng, đảm bảo rằng trong mọi trường hợp
các lệnh của khách hàng phải được ưu tiên hơn so với lệnh của chính công ty
mình.
Xung đột về lợi ích:
Trường hợp nhân viên có một lợi ích trong một giao dịch với khách hàng
hoặc có mối quan hệ sẽ làm nảy sinh xung đột về lợi ích, họ phải tự giác không
làm tư vấn cho khách hàng hoặc thực hiện các giao dịch đó trừ khi đã công khai
hoá cho khách hàng biết được lợi ích đó và được khách hàng chấp nhận trước
khi tiến hành vụ giao dịch và nhân viên cũng đảm bảo rằng họ đã làm mọi việc
để khách hàng được đối xử công bằng.
Tuân thủ các qui định:
Nhân viên phải chấp hành pháp lụât, thực hiện và duy trì các biện pháp
thích hợp để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, các nguyên tắc của cơ quan có
thẩm quyền.
Quy định về đạo đức nghề nghiệp mang tính định tính cao và đòi hỏi các
cá nhân phải có ý thức tự giác thực hiện cùng với các quy tắc về hoạt động đảm
bảo lợi ích của công chúng đầu tư và thị trường hoạt động lành mạnh.
III. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán
Tất cả các doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều phải đặt ra những mục
tiêu cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó trước hết doanh nghiệp phải xác định cho
mình chiến lược kinh doanh phù hợp với sự biến động của thị trường. Đồng
thời phải tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vậy hiệu quả kinh
doanh là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
23
dụng các nguồn nhân lực, vật lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao
nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Trong nền kinh tế thị
trường một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả khi doanh nghiệp đó đạt được
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp thường dựa trên các chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
1.1. Chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn:
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động trong
quá trình kinh doanh, thể hiện ở hệ số sinh lời của vốn kinh doanh:
Tổng lợi tức các hoạt động
Hệ số sinh lời của VKD =
Tổng vốn bình quân của các hoạt động
Chỉ tiêu trên cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn kinh doanh bỏ ra
sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó có tác động khuyến khích và quản lý
chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm đồng vốn trong các khâu của quá trình kinh doanh.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh :
Doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần
HQSD chi phí KD =
Tổng chi phí kinh doanh
Vớí chỉ tiêu này sẽ phản ánh doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí kinh
doanh thì sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần.
Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần
Sức sinh lời của CPKD =
Tổng chi phí kinh doanh
24
Ý nghĩa của chỉ tiêu này: Cứ một đồng chi phí kinh doanh đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản:
Hiệu quả sử dụng của tài sản lưu động:
Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần
Khả năng sinh lời của TSLĐ =
Tổng giá trị tài sản lưu động bình
quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản lưu động
bình quân vào sản xuất kinh doanh thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định :
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định được đánh giá bằng
nhiều chỉ tiêu nhưng chủ yếu sử dụng những chỉ tiêu sau:
Tổng doanh thu
Sức sản xuất của TSCĐ =
Tổng giá trị tài sản cố định bình quân.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định
đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Tổng lợi nhuận
Mức sinh lời của TSCĐ =
Tổng giá trị tài sản cố định bình quân.
Chỉ tiêu này cho biết để đạt được một đồng lợi nhuận thì phải sử dụng
bao nhiêu đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu:
Tổng lợi tức các hoạt động
25
Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu =
Tổng vốn chủ sở hữu bình quân
Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được đánh giá bằng khả năng sinh lời
của vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại.
1.2. Chỉ tiêu định tính.
Chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh là những chỉ tiêu
không thể lượng hoá được bằng con số. Chỉ tiêu này thường được đánh giá bởi
thị trường, các nhà phân tích, đặc biệt là khách hàng. Ở công ty chứng khoán
chỉ tiêu định tính được nói đến là vị thế và uy tín của công ty trên thị trường.
Điều này thể hiện ở định hướng hoạt động của công ty có phù hợp với tình hình
thị trường, điều kiện thực tế của chính doanh nghiệp cũng như yêu cầu của
khách hàng hay không, chất lượng nhân sự trong công ty, vị trí địa lý của trụ sở
công ty có thuận lợi về giao thông, có ở trung tâm hay không, đặc biệt là có
chiến lược marketing phù hợp, từ đó công ty tạo ra được cách thức để thoả mãn
tốt nhất nhu cầu của khách hàng ...
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt thì các chỉ
tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các công ty càng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Khi một công ty đạt được những tiêu chuẩn định tính cũng
đồng nghĩa với việc tình hình kinh doanh của công ty rất có hiệu quả, có vị thế
cạnh tranh cao trên thị trường và đạt được các tiêu chuẩn định lượng.
Chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Chỉ tiêu định lượng là tiền đề, là cơ sở để đạt được chỉ tiêu định tính,
ngược lại chỉ tiêu định tính tác động trở lại để hoạt động kinh doanh của công ty
thêm hiệu quả.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chứng khoán.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của
một công ty. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một công ty nào cũng luôn