Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nghiên cứu một số các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU ảnh hưởng đến việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.91 KB, 86 trang )

A, MỞ ĐẦU
EU là một thị trường rộng lớn gồm 27 quốc gia thành viên, có diện tích 4
triệu km2, dân số 456 triệu người, GDP gần 13.000 tỷ USD (chiếm 27% toàn
thế giới). Kim ngạch ngoại thương 1.400 tỷ USD/năm (chiếm 20% toàn thế
giới, nếu tính cả buôn bán nội khối thì tổng kim ngạch mậu dịch lên tới 3.100
tỷ USD (chiếm 41,5% toàn thế giới). XK dịch vụ chiếm 43,8% toàn thế giới,
đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% và nhận đầu tư từ nước ngoài chiếm 20%
toàn thế giới.
Tháng 11/1990, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu thiết lập quan hệ ngoại
giao. Ngày 17/7/1995, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu ký Hiệp định hợp
tác. Tháng 1/1996, Ủy ban châu Âu (EC) lập Phái đoàn đại diện thường trực
và cử Đại sứ - Trưởng Phái đoàn tại Hà Nội.
Đề án tổng thể quan hệ Việt Nam - EU: Ngày 14/6/2005, Chính phủ đã
phê duyệt Đề án Tổng thể quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu và Chương
trình Hành động của Chính phủ về phát triển quan hệ Việt Nam - Liên minh
châu Âu đến 2010 và định hướng tới 2015. Việt Nam là nước đầu tiên ở Đông
Nam Á chủ động có chiến lược tổng thể về hợp tác với EU và EU là đối tác
đầu tiên, duy nhất mà Việt Nam có chiến lược phát triển quan hệ. Cho tới nay
đã có 2 cuộc họp về triển khai Đề án giữa Lãnh đạo các Bộ, ngành của Việt
Nam với Đại sứ các nước EU tại Hà Nội.
Ngày 29/3/2007, Uỷ ban châu Âu đã thông qua Chiến lược Hợp tác với
Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2013 với ngân sách 304 triệu Euro. Nội
dung hỗ trợ tập trung vào hai lĩnh vực chính: hỗ trợ việc thực hiện Kế hoạch
Phát triển Kinh tế Xã hội của Việt Nam (SEDP) và hỗ trợ ngành y tế. Ngoài
ra, các lĩnh vực cũng được đưa vào nội dung Chiến lược hợp tác gồm: Trợ
giúp liên quan đến thương mại và Hỗ trợ đối thoại chiến lược EC - Việt Nam.
Tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (12/2006), EU cam kết tài
1
trợ 720 triệu Euro cho năm 2007, thể hiện mức cam kết tiếp tục tăng cho Việt
Nam.
Kể từ năm 1995 đến nay, quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước


thành viên EU tăng trung bình 15-20%/năm. EU là đối tác thương mại lớn
nhất của Việt Nam, chiếm 17% tổng giao dịch thương mại (sau đó là Mỹ:
14%; Nhật Bản: 13%; và Trung Quốc: 11%).
Năm 2006, Kim ngạch thương mại hai chiều tăng 22,2% đạt 9,9 tỷ USD
(so với 8,2 tỷ USD năm 2005), trong đó xuất khẩu tăng 25% đạt 6,9 tỷ USD
và nhập khẩu tăng 16% đạt 3 tỷ USD.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và thị trường các
nước Liên minh Châu Âu (EU) đạt 8,5 tỷ USD, tăng 0,6 tỷ USD so với năm
2006.
Cũng theo dự báo của Bộ Công Thương, trong năm 2008, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vào EU sẽ đạt trên 10 tỷ USD, trong đó các mặt hàng về
nông-lâm-thủy sản cũng sẽ tăng mạnh về sản lượng và giá trị. Thủy sản ước
sẽ đạt khoảng 1,15 tỷ USD, cà phê là hơn 800 triệu USD, đồ gỗ là 780 triệu
USD.
Về việc Việt Nam gia nhập WTO: Nhân dịp Hội nghị ASEM 5, Việt Nam
và EU đã kết thúc đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO.
Nhân chuyến thăm EC (9/2006) của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam
và EC cũng đã tuyên bố kết thúc đàm phán đa phương về việc Việt Nam gia
nhập WTO. Đây là những bước tiến mang tính chất đột phá, có tác động tích
cực đến đàm phán song phương của ta với các đối tác khác, đặc biệt trong
"giai đoạn nước rút" của Việt Nam trong quá trình hòa nhập một cách đầy đủ
vào cộng đồng thương mại quốc tế.
Thương mại Việt Nam – EU được đánh giá là rất “năng động”, tổng kim
ngạch hai chiều đạt 14,23 tỷ USD( năm 2007) (tăng 39,26%), vượt mức dự
2
báo trước đó. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu 9,1 tỷ USD (tăng 28,2%) và
nhập khẩu 5,14 tỷ USD (tăng 64,3%).
Trong các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường khu vực EU, hàng nông sản
chiếm lượng rất lớn. Hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam
như cà phê, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản đều có vị trí quan trọng trong tỉ trọng

xuất khẩu vào thị trường các nước trong khối EU.
Với 27 quốc gia thành viên, EU là một thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn
nhất thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những thị trường khó tính với
nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chặt chẽ được lập ra áp dụng cho hàng hóa
nhập khẩu.
Đối với mỗi một mặt hàng, thị trường châu Âu đều có những tiêu chuẩn áp
dụng riêng, chẳng hạn như: mặt hàng rau quả tươi yêu cầu đạt chứng chỉ chất
lượng GAP, mặt hàng thủy sản phải đạt chứng nhận chất lượng của Cục Quản
lý an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (NAFIQUAVED) cấp, mặt hàng lâm sản,
đồ gỗ khi xuất vào thị trường châu Âu phải có chứng chỉ rừng FSC (Forest
Stewardship Council - Hội đồng Quản lí rừng Quốc tế).Cũng chính vì những
quy định này mà trong vụ cà phê 2005-2006, trong đợt kiểm tra tại 10 cảng
khác nhau ở Châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại của 17 nước và
vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê xuất xứ từ VN.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là cần phải nghiên
cứu các quy định và tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với nhập khẩu hàng
nông sản; xác định khả năng đáp ứng các yêu cầu của EU về môi trường của
hàng nông sản Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp đáp ứng các quy định
và tiêu chuẩn môi trường đối với hai nhóm hàng này nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU.
Hơn nữa, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới
với việc thực thi các cam kết quốc tế về thương mại và môi trường. Hội nhập
với thương mại thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi trong việc mở rộng
3
thị trường xuất khẩu, nhưng cũng phải chấp nhận sự cạnh tranh hết sức gay
gắt với các nước khác. Một trở ngại đặt ra cho xuất khẩu của ta trong tương
lai là khi các hàng rào thương mại được bãi bỏ thì sức cạnh tranh của hàng
hoá Việt Nam trong buôn bán quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào việc đáp ứng
các tiêu chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là các tiêu chuẩn môi trường. Đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam thì “hàng rào xanh” trong buôn bán quốc

tế như là một thách thức đối với thương mại của ta trong tương lai. EU là một
thị trường lớn và có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế, nhưng cũng
là một trong những thị trường có “hàng rào xanh” cao nhất thế giới. Nếu
chúng ta đáp ứng tốt các quy định về môi trường của EU, thì không những
hàng nông sản Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường này, mà còn có thể
xuất khẩu sang các thị trường khác, thực hiện được phương châm "đa dạng
hoá thị trường xuất khẩu", bảo vệ môi trường và góp phần thực hiện tốt các
cam kết quốc tế về môi trường.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu một số các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU ảnh
hưởng đến việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam”
là hết sức cần thiết và cấp bách.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu các quy định và tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với
nhập khẩu hàng nông sản, kinh nghiệm của một số nước trong việc đáp ứng
các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU khi xuất khẩu hàng nông sản
vào thị trường này.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường
EU dưới tác động của các quy định môi trường của EU và khả năng đáp
ứng các quy định, tiêu chuẩn môi trường của hàng nông sản Việt Nam.
4
- Đề xuất các giải pháp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của
EU nhằm nâng cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam vào thị trường này.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng: Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU.
Hàng nông sản trong đề tài này được hiểu theo nghĩa hẹp, tức không bao
hàm hàng lâm sản vì EU có quy định về môi trường riêng đối với hàng lâm
sản; còn hàng nông sản thì có quy định về môi trường vì EU có quy định về
môi trường đối với hàng thực phẩm

- Phạm vi: Các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU đối với nhập
khẩu hàng nông sản và thực trạng xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam
vào thị trường EU dưới tác động của các quy định EU về môi trường.
Nội dung nghiên cứu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chia làm ba phần chính:
Phần thứ nhất: Giới thiệu một số quy đ ịnh và tiêu chuẩn môi trường của
EU ảnh hưởng tới việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam
Phần thứ hai: Khả n ă ng đ áp ứng các quy đ ịnh và tiêu chuẩn môi trường
của EU đ ối với một số mặt hàng nông sản Việt Nam
Phần thứ ba: Các giải pháp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn EU về môi
trường đối với hàng nông sản của Việt Nam nhằm nâng cao sức cạnh tranh và
đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU
Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
- Tìm hiểu các quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU đối với nhập
khẩu hàng nông sản.
- Khảo sát thực tế ở một số doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng nông,
thuỷ sản xuất khẩu sang EU về việc thực hiện các quy định môi trường của
EU.
5
- Thu thập tài liệu, số liệu về xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang
thị trường EU giai đoạn 2006 – 2008, và có sự so sánh với số liệu các năm
trước đó; Phân tích và tổng hợp tài liệu, số liệu.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc đáp ứng các quy
định môi trường của EU khi xuất khẩu hàng nông sản vào thị trường này.
- Xin ý kiến chuyên gia.
- Viết báo cáo khoa học.
B. PHẦN THÂN
Chương I. GIỚI THIỆU MỘT SỐ QUY ĐỊNH VÀ TIÊU CHUẨN MÔI
TRƯỜNG CỦA EU ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
CỦA VIỆT NAM

I. Các quy định môi trường của EU ảnh hưởng tới việc xuất khẩu
nông sản của Việt Nam
1. Quy định về giám sát HACCP
HACCP (Hazarrd Analysis and Critical Control Point)
Định nghĩa: Hệ thống phân tích mối nguy hiểm và xác định điểm kiểm
soát trọng yếu là một hệ thống sản xuất và kiểm tra dựa trên cơ sở khoa học
nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm. Hệ thống HACCP áp dụng đối với toàn bộ
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong EU, từ người sản xuất đến
người tiêu dùng. Quy định về vệ sinh thực phẩm (93/43/EC) ghi rõ rằng: “các
công ty thực phẩm sẽ xác định từng khía cạnh trong các hoạt động của mình
6
có liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm và đảm bảo rằng các trình tự an
toàn đã được thiết lập, áp dụng, duy trì và tái xét trên cơ sở hệ thống HACCP”
Hệ thống HACCP thường áp dụng đối với ngành chế biến thực
phẩm.Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm của EU (93/43/EC có hiệu lực vào tháng
11/1996 qui định "các công ty thực phẩm phải xác định từng khía cạnh trong
hoạt động của họ đều có liên quan tới an toàn thực phẩm và việc đảm bảo thủ
tục an toàn thực phẩm phải được thiết lập, áp dụng, duy trì và sửa đổi trên cơ
sở của hệ thống HACCP.Tất cả các nhà chế biến thực phẩm của EU theo quy
định pháp luật phải áp dụng hệ thống HACCP hoặc là họ sẽ phải phối hợp
thực hiện một hệ thống HACCP. hệ thống HACCP có thể có hiệu lực đối với
các công ty chế biến, xử lý, bao bì, vận chuyển, phân phối hay kinh doanh
thực phẩm. Những công ty này bắt buộc phải hiểu và phải chống lại các nguy
cơ liên quan đến sản xuất thức ăn ở mọi công đoạn, từ nuôi trồng, chế biến,
sản xuất, phân phối đến tiêu thụ. Đây là những rủi ro sinh học vĩ mô (súc vật),
vi mô (vi rút vi khuẩn, mốc), độc tố (phóng xạ hoá học với thuốc trừ sâu) hay
vật chất ( gỗ, kim loại, thuỷ tinh, nhựa, xơ)
Các định nghĩa liên quan:
Điểm kiểm soát tới hạn:Critical control point (CCP)
Một bước mà tại đó việc kiểm soát có thể áp dụng và phát triển để ngăn

ngừa hoặc loại trừ một mối nguy thực phẩm hoặc giảm nó đến mức chấp
nhận được. Một điều “ phải làm ”.
Điểm chất lượng tới hạn: Critical Quality point (CQP)
Một bước mà ở đó một mối nguy chất lượng, nghề nghiệp, môi trường
hoặc an toàn và sức khỏe nghề nghiệp có thể được ngăn ngừa, loại trừ hoặc
làm giảm xuống mức có thể chấp nhận được. Một điều “ cần phải làm ”.
Giới hạn tới hạn:Critical limit (CL)
Một dung sai qui định (một đặc tính kỹ thuật) cho một phương pháp
kiểm soát mà nó không thể bị vượt quá nếu mối nguy được kiểm soát tại
7
bước quan trọng trong quá trình – các giới hạn của kiểm soát.
việc kiểm soát tính nghiêm trọng của các mối nguy cho an toàn thực
phẩm trong dây chuyền chế biến thực phẩm.
Phân tích mối nguy
Quá trình thu thập và đánh giá các thông tin về các mối nguy và các điều
kiện đưa đến để họ quyết định điểm nào là mối nguy trầm trọng cho an toàn
thực phẩm và do đó phải xử lý theo kế hoạch HACCP.
Các nguyên t
ắc
:
Bảy nguyên tắc của HACCP
Nguyên tắc 1: Phân tích mối nguy và xác định các biện pháp phòng ngừa
Mối nguy là các yếu tố hoặc tác nhân sinh học, hoá học và vật lý có thể
làm cho thực phẩm không an toàn khi sử dụng. Phân tích mối nguy là bước cơ
bản của hệ thống HACCP. Để thiết lập các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả
các mối nguy về an toàn thực phẩm, điều mấu chốt là phải xác định được tất
cả các mối nguy đáng kể và các biện pháp phòng ngừa chúng.
Để nhận biết được các mối nguy cụ thể ở mỗi công đoạn nhất định (của
quá trình chế biến) hoặc ở một trạng thái vật chất nhất định (nguyên vật liệu,
thành phần) chúng ta cần đánh giá mức độ quan trọng của mối nguy đó để xác

định xem đó có phải là mối nguy hại đáng kể hay không. Việc này rất phức
tạp, vì dễ có khả năng đề xuất phải kiểm soát tất cả các mối nguy ảnh hưởng
đến an toàn thực phẩm. Nhưng thực ra HACCP chỉ tập trung vào các mối
nguy đáng kể hay xảy ra và có nhiều khả năng gây những rủi ro không chấp
nhận được cho sức khoẻ người tiêu dùng. Sau khi hoàn tất việc đánh giá các
mối nguy đáng kể thì phải tiến hành xác lập các biện pháp kiểm soát cụ thể.
Có thể dùng các biện pháp tổng hợp để kiểm soát một mối nguy nhưng cũng
có thể dùng một biện pháp để kiểm soát nhiều mối nguy khác nhau. Khi xác
8
định các biện pháp kiểm soát cần lưu ý các mối nguy nào có thể kiểm soát
được bằng việc áp dụng chương trình tiên quyết thì ghi rõ kiểm soát bằng
GMP hay SSOP. Còn đối với các mối nguy không thể kiểm soát đầy đủ tại cơ
sở (như mối nguy đối với nguyên vật liệu) thì cần ghi rõ các biện pháp kiểm
soát và nơi thực hiện các biện pháp đó (nông trại, nhà cung ứng...).
Nguyên tắc 2: Xác định các điểm kiểm soát tới hạn (CCP)
Điểm kiểm soát tới hạn là điểm, bước hoặc thủ tục tại đó có thể tiến hành
các biện pháp kiểm soát nhằm ngăn ngừa, loại trừ hoặc giảm thiểu các mối
nguy đáng kể về an toàn thực phẩm tới mức chấp nhận được. Đối với mỗi mối
nguy đáng kể đã được xác định trong nguyên tắc 1 thì cần phải có một hay
nhiều CCP để kiểm soát các mối nguy đó. Các CCP là những điểm cụ thể
trong quá trình sản xuất mà ở đó diễn ra các hoạt động kiểm soát của chương
trình HACCP. Các CCP có thể thay đổi tuỳ theo sự khác nhau về bố trí mặt
bằng xí nghiệp, định dạng sản phẩm, quy trình công nghệ, loại thiết bị sử
dụng, nguyên vật liệu và các chương trình tiên quyết. Để xác định các CCP
trong suốt quá trình sản xuất của doanh nghiệp ta có thể dùng “sơ đồ quyết
định”. Nếu sử dụng đúng, “sơ đồ quyết định” có thể trở thành công cụ hữu ích
để xác định CCP. Tuy nhiên, “sơ đồ quyết định” không thay thế được kiến
thức chuyên gia, vì nếu chỉ dựa hoàn toàn vào “sơ đồ quyết định” có thể dẫn
tới những kết luận sai.
Nguyên tắc 3: Thiết lập các ngưỡng tới hạn

Ngưỡng tới hạn là một chuẩn mực nhằm xác định ranh giới giữa mức chấp
nhận được và mức không thể chấp nhận. Mỗi CCP phải có một hoặc nhiều
giới hạn tới hạn cho mỗi mối nguy đáng kể. Khi vi phạm giới hạn tới hạn,
phải tiến hành hành động sửa chữa để đảm bảo an toàn thực phẩm. Trong
nhiều trường hợp, giới hạn tới hạn có thể không rõ ràng hoặc không có, do
vậy vẫn phải tiến hành thử nghiệm hoặc thu thập thông tin từ các nguồn như
các tài liệu khoa học, các hướng dẫn, quy định của cơ quan có thẩm quyền,
9
các chuyên gia hoặc các nghiên cứu thực nghiệm. Nếu không có các thông tin
cần thiết để xác định ngưỡng tới hạn thì cần phải chọn trị số an toàn. Cở sở và
tài liệu tham khảo để thiết lập ngưỡng tới hạn phải là một phần của tài liệu hỗ
trợ cho kế hoạch HACCP.
Nguyên tắc 4: Thiết lập hệ thống giám sát CCP
Hệ thống giám sát là các hoạt động được tiến hành một cách tuần tự và
liên tục bằng việc quan trắc hay đo đạc các thông số cần kiểm soát để đánh
giá một điểm CCP nào đó có được kiểm soát hay không. Hệ thống giám sát
phải được xác định một cách cụ thể như: giám sát cái gì? Giám sát các
ngưỡng tới hạn và các biện pháp phòng ngừa như thế nào? Tần suất giám sát
như thế nào và ai sẽ giám sát.
Nguyên tắc 5: Xác lập các hành động khắc phục
Khi vi phạm các ngưỡng tới hạn tại các CCP phải thực hiện các hành động
khắc phục ngay. Các hành động khắc phục được tiến hành nhằm khôi phục sự
kiểm soát của quá trình, xử lý các sản phẩm vi phạm trong thời gian xảy ra sai
lệch và xác định cách xử lý an toàn các sản phẩm đã bị ảnh hưởng. Thường
thì các hành động khắc phục dự kiến trong kế hoạch HACCP sẽ được kiểm
chứng hiệu quả của nó trong thực tế khi khắc phục sự vi phạm và sau đó sẽ
được điều chỉnh các hành động khắc phục trong kế hoạch HACCP nhằm đảm
bảo hợp lý và hiệu quả hơn.
Nguyên tắc 6: Thiết lập hệ thống tài liệu, hồ sơ cho chương trình HACCP
Lưu trữ và kiểm soát hồ sơ là một nhiệm vụ quan trọng của chương trình

HACCP. Hồ sơ HACCP là một bằng chứng quan trọng chứng minh rằng kế
hoạch HACCP của doanh nghiệp có được xây dựng chính xác và đúng thủ tục
hay không, kế hoạch HACCP có được vận hành và tuân thủ một cách triệt để
hay không. Tài liệu hỗ trợ HACCP gồm có các tài liệu hình thành trong quá
trình xây dựng kế hoạch HACCP và các chương trình tiên quyết như GMP,
10
SSOP; các ghi chép, báo cáo thu thập được trong quá trình áp dụng kế hoạch
HACCP.
Nguyên tắc 7: Xác lập các thủ tục thẩm định
Một chương trình HACCP đã được xây dựng công phu, đảm bảo các
nguyên tắc và đầy đủ các bước nhưng vẫn chưa thể khẳng định chương trình
HACCP đó áp dụng một cách có hiệu quả. Do vậy, cần phải thiết lập các thủ
tục thẩm định bao gồm các phương pháp đánh giá, lấy mẫu thử nghiệm sản
phẩm nhằm đánh giá kết quả áp dụng chương trình HACCP, qua đó có thể
phát hiện một số mối nguy chưa được kiểm soát đúng mức hoặc một số hoạt
động khắc phục thiếu hiệu quả và đó chính là cơ sở để bổ sung, sửa đổi
chương trình HACCP. Theo quan niệm chung thì thẩm định bao gồm các hoạt
động thẩm tra nhằm đánh giá độ tin cậy của kế hoạch HACCP và mức độ tuân
thủ kế hoạch HACCP.
Các l
ợi ích của việc áp dụng HACCP
- Áp dụng trong toàn bộ dây chuyền thực phẩm.
- Giảm các tai nạn ngộ độc thực phẩm.
- Đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng thực phẩm và các quy định.
- Giảm các sự cố liên quan đến các qui định.
- Giảm các nổ lực kiểm tra.
- Đáp ứng các yêu cầu thương mại.
- Giúp việc cải tiến kinh doanh (năng suất).
- Tạo nên nền tảng cho hệ thống.
- Chất lượng thực phẩm.

- Giúp chứng minh sự chuyên cần.
Thêm vào việc đáp ứng các luật định và các quy tắc đạo đức để sản xuất ra
các thực phẩm an toàn khi ăn. HACCP có rất nhiều lợi thế không những dành
cho khách hàng mà còn dành cho ngành công nghiệp và chính phủ. Một số
11
người ở các doanh nghiệp cảm thấy rằng HACCP đang gây áp lực lên họ bởi
các khách hàng của họ nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng có rất nhiều lợi ích.
Dưới đây là các ví dụ về các lợi ích có được khi thực hiện chương trình
HACCP
 HACCP có thể áp dụng trong toàn bộ dây chuyền thực phẩm từ người
sản xuất cho tới người tiêu thụ cuối cùng.
 Một chương trình HACCP khi được thiết kế và thực hiện phù hợp sẽ
làm giảm một cách đáng kể những cơ hội bị nhiễm vi sinh, hoá chất và vật lý
từ khách hàng.
 HACCP làm giảm nhu cầu thử nghiệm sản phẩm cuối bằng việc nhận
diện các mối nguy gắn liền với các yếu tố đầu vào của quá trình sản phẩm và
phương pháp kiểm soát mà có thể giám sát để giảm thiểu hoặc loại trừ các
mối nguy.
 Các nguyên tắc HACCP có thể áp dụng được cho các khía cạnh khác
của chất lượng thực phẩm và các yêu cầu luật định.
 HACCP có thể làm giảm các quy định liên quan (và do đó là chi phí)
bằng cách lập lại các kiểm tra trên dây chuyền với các cuộc đánh giá định kỳ.
 Vì HACCP cải thiện năng lực để phát hiện chất lượng sản xuất tồi trong
quá trình sản xuất những sản phẩm đó có thể được thực hiện trước khi gia
tăng giá trị. Các nguồn lực được tiết kiệm và sản phẩm hư hỏng không bị sản
xuất ra. Năng suất được cải tiến.
 HACCP có khả năng giúp thay đổi chẳng hạn như những ưu điểm trong
nguyên vật liệu, thiết bị và thiết kế nhà xưởng, các quy trình và phát triển kỹ
thuật
 HACCP cải tiến mối quan hệ giữa các nhà cung cấp và khách hàng. Nó

khuyến khích các doanh nghiệp làm việc với nhau gần gũi hơn và giúp cho họ
hiểu khả năng và các yêu cầu của nhau hơn.
12
 Mối quan hệ giữa các phần của dây chuyền thực phẩm cải tiến vì
HACCP cung cấp một ngôn ngữ chung và định hướng vào chất lượng.


HACCP tương thích với các hệ thống quản trị chất lượng như là bộ tiêu
chuẩn ISO 9000 và tạo nên nền tảng cho tiêu chuẩn chất lượng SQF 1000
CM
và SQF 2000
CM
 Cải tiến niềm tin của khách hàng dẫn tới việc gia tăng thị phần.
2. Quy định về vệ sinh: Lu
ật REACH
Luật Reach quy định sử dụng các loại hóa chất trong sản xuất.
Quy định mới này áp dụng cho tất cả các loại hàng hóa sản xuất tại châu
Âu và nhập khẩu vào thị trường này.
Các nước thuộc khối Liên minh châu Âu (EU) đã soạn thảo ra văn bản
Luật Reach về những quy định việc đăng ký, đánh giá và cấp phép các loại
hóa chất. Reach quy định rõ về việc đăng ký, đánh giá và cấp phép đối với các
hóa chất thông qua các tiêu chuẩn, chi tiết cụ thể quy định việc sử dụng hóa
chất trong sản xuất.
Bản dự thảo REACH đang được trình cho Hội đồng Bộ trưởng EU phê
duyệt và sẽ có ảnh hưởng đến tất cả các mặt hàng có chứa hóa chất xuất khẩu
vào thị trường EU. Dự kiến Kể từ tháng 6/2007, Luật Reach đã bắt đầu có
hiệu lực
Với quy định Reach, yêu cầu các giấy chứng nhận được cấp từ các trung
tâm kiểm định chất lượng được quản lí bằng hệ thống chất lượng ISO 17025
Đối với VN, các mặt hàng đầu tiên bị ảnh hưởng có thể bao gồm: lương

thực, thực phẩm, thức uống các loại có sử dụng các chất bảo quản, chống
mốc..., mỹ phẩm, dược phẩm, thuốc lá. Đặc biệt là các đồ nông sản xuất khẩu
có sử dụng hoá chất để bảo quản.
13
REACH là quy định khung mới của EU liên quan đến 103.000 loại hóa
chất khác nhau. Đó là tập hợp chữ viết tắt: Registration (đăng ký), đánh giá
(Evalution) và cấp phép lưu hành (Authorisation), hóa chất (Chemicals)
Quy định này nhằm cải thiện việc bảo vệ sức khỏe con người và môi
trường, tăng cường tính cạnh tranh và nâng cao khả năng đổi mới của ngành
hóa chất EU (dự kiến sẽ có tới 20% loại hóa chất trên thị trường EU có thể bị
ngưng sản xuất hay sử dụng). REACH đặc biệt quan tâm đến các sản phẩm sử
dụng các loại hóa chất gây lo ngại cao như: chất sinh ung thư, chất gây đột
biến tế bào, chất ảnh hưởng đến sinh sản, các hóa chất bền bỉ, sinh tụ và độc
hại, các hóa chất quá bền, quá sinh tụ...
Trong thực tế, hệ thống pháp lý hiện hành của EU về lĩnh vực này gồm 40
chỉ thị và quy định khác nhau, với REACH, 100.000 hóa chất hiện hành và
3.000 loại hóa chất mới sẽ được đề cập, phân loại, hướng dẫn thống nhất theo
một quy trình 5 bước và những cấm đoán cũng như những ngoại lệ.
REACH thật sự là một đạo luật có tầm ảnh hưởng sâu rộng mà các doanh
nghiệp công nghiệp sản xuất, chế biến và xuất khẩu cần tìm hiểu.
Có thể nói Reach (đăng ký, đánh giá, cấp phép và hạn chế về hóa chất)
và hướng dẫn RoHS (các hạn chế về hóa chất độc hại) là hai trong những điều
luật quan trọng nhất và phức tạp của Nghị viện châu Âu
Reach là một quy định cao nhất trong quản lý hóa chất của EU có phạm vi
điều chỉnh rộng liên quan đến nhiều ngành công nghiệp. Hướng dẫn RoHS thì
tập trung sâu hơn vào các thiết bị điện, điện tử, hạn chế việc sử dụng 6 hóa
chất chủ yếu gồm chì, thuỷ ngân, Catmi, Hexora (Chrome 6), Polybrominated
(PBB) và Polybrominated Diphenyl Ethers ( PBDE).
Mục đích của hai điều luật này EU đưa ra là nhằm quản lý, ngăn chặn các
tác động của hóa chất có nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi

trường. Bắt đầu từ năm 2008, hàng vạn các loại hóa chất khác nhau sẽ phải
14
chịu sự điều chỉnh của Reach và RoHS, trong đó có những chất không được
phép gia nhập vào thị trường EU.
Để các DN xuất khẩu nói riêng và DN sản xuất Việt Nam nói chung nâng
cao nhận thức, hiểu biết cặn kẽ về Reach và RoHS tránh những rủi ro đáng
tiếc có thể xảy ra khi xuất khẩu hàng vào EU, sự phối hợp của Eurocham
( Phòng Thương mại châu Âu ) và các cơ quan xúc tiến thương mại của Việt
Nam và các nước đối tác thuộc EU trong việc hỗ trợ phổ biến rộng rãi thông
tin tới DN là rất cần thiết.
3. Các yêu câu về nhãn mác
Ba quy định chính liên quan đến việc dán nhãn là Quy định 2000/104/EC,
Chỉ thị 2000/13/EC và Quy định 2065/2001/EC. Tất cả các luật mới của EU
đều (và sẽ) dựa trên quyền lợi của người tiêu dùng và sự an toàn theo phương
thức người tiêu dùng sẽ không bị bất kỳ sản phẩm nào hay bao bì nào đánh
lừa. Ðối với yêu cầu vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là truy xuất nguồn gốc các
sản phẩm nông sản, quy định của EU yêu cầu tất cả các sản phẩm đóng gói
phải ghi nước xuất xứ. Nhãn mác phải được in lên gói hàng hoặc thùng các
tông để tránh bị tẩy xoá hoặc rách khi sử dụng. Ngôn ngữ sử dụng phải chính
thống và dễ hiểu
Yêu cầu về nhãn mác
Việc ghi nhãn phải đầy đủ các thông tin sau:
- Tên loại sản phẩm
- Công dụng
- Thành phần
- Giá
- Cách sử dụng
- Hạn sử dụng
Một số yêu cầu cơ bản trong việc dán nhãn mác
15

- Ngôn ngữ: Nhãn phải được ghi rõ ràng, dễ hiểu bằng tiếng Pháp. Nếu có
từ hay chữ viết tắt nước ngoài phải được luật của Pháp hay luật quốc tế chấp
nhận.
- Tên: Ghi rõ tên sản phẩm là gì. Ví dụ "dầu ôliu"
- Thương hiệu: Bất kỳ tên, biểu tượng hay ký hiệu có liên quan tới
sản phẩm đều phải có ngoài bao bì, trên nhãn hoặc nắp chai. Nhãn hiệu và
thương hiệu được đăng ký chỉ dành cho nhà sản xuất sử dụng.
- Thành phần: Mọi thành phần hay chất liệu làm nên sản phẩm đều
phải được liệt kê trên nhãn, mác.
- Hướng dẫn sử dụng: Phải giải thích cặn kẽ sản phẩm được sử dụng như
thế nào.
- Thời hạn: Cần ghi rõ ngày sản xuất, hạn sử dụng.
- Tên và địa chỉ cụ thể của nhà sản xuất.
- Đặc điểm kỹ thuật,
- Giá: Giá (bao gồm mọi loại thuế) phải được ghi trên mọi sản phẩm đóng
gói sẵn, trừ khi chúng được bán theo đơn đặt hàng.
- Mã vạch.
Sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo phương pháp hữu cơ là sản
phẩm nông nghiệp có tính bảo vệ môi trường cao, hay còn gọi là sản phẩm
nông nghiệp thân thiện với môi trường. Có nghĩa là nông, thủy sản được nuôi
trồng theo phương pháp hữu cơ, có nguồn gốc hữu cơ, vì vậy thuộc “Chương
trình nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ”. Chương trình này được
áp dụng cho tất cả nông, thủy sản được sản xuất trong khối EU và nhập khẩu
từ các nước phát triển. Các nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ
đang nhanh chóng trở nên phổ biến ở thị trường EU.
Hiện nay có rất nhiều dấu tiêu chuẩn quốc gia khác nhau. Ở Đức, các hiệp
hội người trồng trọt khác nhau sử dụng các biểu tượng khác nhau. Ở Thụy
16
Điển, nhãn hiệu sản phẩm có nguồn gốc hữu cơ là KRAV. Hà Lan sử dụng
dấu tiêu chuẩn EKO.

Việc phát triển nhãn mác và thương hiệu cho các sản phẩm Việt Nam, đặc
biệt là mặt hàng nông sản, đã được đẩy mạnh trong những năm gần đây. Điều
này góp phần cải thiện rõ rệt giá trị và hình ảnh của hàng hoá Việt Nam trên
thị trường nội địa cũng như quốc tế.
Người dân nghèo tham gia vào quá trình sản xuất phần lớn những sản
phẩm này, nên họ có thể được hưởng lợi từ việc phát triển nhãn mác và
thương hiệu cho hàng nông sản. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhận thức
được rằng việc phát triển mạnh nhãn, mác và thương hiệu cho các sản phẩm
phải được coi là một phần của toàn bộ quá trình nâng cấp chuỗi giá trị cho sản
phẩm.
Nền kinh tế không ngừng tăng trưởng của Việt Nam đã dẫn đến sự phát
triển một thị trường phong phú các sản phẩm tiêu thụ đặc thù với các nhãn,
mác khác nhau. Đây chính là cơ hội cho các doanh nghiệp xây dựng các chiến
lược phát triển nhãn hiệu. Làm thế nào để người sản xuất nghèo có thể tham
gia một cách có hiệu quả vào chiến lược phát triển thương hiệu và hưởng lợi
từ xu hướng thương mại hoá nông nghiệp?
Ở Việt Nam, có ba cây trồng biến đổi gen đã hiện diện là lúa, ngô và
bông. Một tỷ lệ nhất định các sản phẩm biến đổi gen đã có mặt trong
thức ăn chăn nuôi. Song, các nhà quản lý, nhà khoa học hiện vẫn chưa
nắm được có bao nhiêu diện tích, chủng loại cây biến đổi gen.
Chính phủ cũng yêu cầu phải bảo đảm 100% sinh vật biến đổi gen lưu
hành trên thị trường đã qua đánh giá rủi ro tại Việt Nam, được dán nhãn và bị
theo dõi, giám sát theo quy định; trên 50% dân số được tiếp cận với thông tin
và được tham gia ý kiến trong quyết định cấp giấy chứng nhận an toàn sinh
học
17
Tuy nhiên Bộ NN-PTNT cho rằng, rất có thể một số thực phẩm chế biến từ
đậu tương, ngô, cải dầu... trên thị trường cũng có chứa sản phẩm biến đổi gen
mà ngoài nhãn mác không hề ghi thông báo "sản phẩm biến đổi gen".
Các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đầu tư cho chiến lược chất lượng

sản phẩm gắn liền với xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Mẫu mã,
bao bì hàng nông sản của Việt Nam vẫn còn quá sơ sài, đơn điệu. Muốn hàng
nông sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh tại thị trường EU, các doanh
nghiệp cần tăng cường đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu hàng nông sản,
coi trọng đăng ký thương hiệu, thiết kế nhãn mác và mẫu mã, bao bì cho sản
phẩm, liên kết với người sản xuất nguyên liệu đăng ký xuất xứ hàng hóa, đảm
bảo các chứng chỉ cần thiết khi xuất khẩu vào thị trường EU. Thương hiệu
không chỉ là của doanh nghiệp mà còn là của cả nhà nông. Cần liên kết với
nông dân, trong đó nông dân có trách nhiệm đảm bảo chất lượng và được
chung chia lợi nhuận từ doanh nghiệp.
4. Yêu cầu về đóng gói bao bì
4.1. Các quy định trong sản xuất bao bì
Quy định mực in: Điều luật áp dụng cho mực in bao bì
Trong các lĩnh vực sản xuất khác, việc sử dụng các chất liệu và các
phụ liệu nào đó hoặc là được chấp thuận hoặc là bị nghiêm cấm. Nhưng mực
in và vec-ni thì phức tạp hơn rất nhiều. Không có những phê chuẩn chính thức
nào về các chất liệu có trong vật liệu dùng cho bao bì mặc dù những quy của
định pháp luật được áp dụng thì hết sức rộng và đa dạng liên quan đến các
chất tiếp xúc với thực phẩm.
Chỉ thị số 86/109/EEC của các nước Châu âu, liên quan đến chất liệu tiếp
xúc với thực phẩm thì mang tính quyết định về sản phẩm bao bì làm từ những
vật liệu chứa các chất như vậy. Chỉ thị này đề cập đến bao bì một một cách
khái quát, bất kể đến cấu trúc và quy trình sản xuất. Hơn nữa, vật liệu làm bao
bì trên thực tế (giấy, bìa cứng, nhựa và kim loại), chất kết dính, chất phủ, các
18
loại vec-ni và mực in cũng bị kiểm soát bằng Chỉ thị hoặc bằng luật pháp của
các nước thuộc Châu Âu (và Thụy Sĩ) bắt nguồn từ Chỉ thị này.
Ngoài khung luật nêu trên, một số các luật định chi tiết hơn quy định về
điều luật liên quan đến sự tiếp xúc giữa vật liệu bao bì và thực phẩm, chẳng
hạn như Chỉ thị của các quốc gia Châu Âu về nhựa số 90/128/EEC.

Đối với mực in và các chất vec-ni thì không có một danh sách xác định
nào và cũng không có những quy định cụ thể. Điều này có nghĩa là, mực in
không tiếp xúc trực tiếp lên thực phẩm. Sự thiếu đi các quy định không có
nghĩa là các quy định này không cần thiết. Hội đồng Châu Âu dự định ban
hành Qui định liên quan đến mực in trong những năm sắp tới. Nội dung của
Qui định này cũng chưa gọi là cụ thể, tuy nhiên trọng tâm chính của việc ban
hành Qui định này chắc hắn sẽ là sự nhiễm chất tiềm ẩn từ việc in ấn.
4.2. Quản lý chất thải bao bì đóng gói
Chỉ thị 94/62/EEC về đóng gói và chất thải bao bì đóng gói: có quy định
các mức độ tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yeu cầu
đối với sản xuất và thành phần của bao bì:
Bao bì được sản xuất bằng phương pháp để cho thể tích và cân nặng được
giới hạn ở mức thấp nhất nhằm duy trì mức độ an toàn, vệ sinh cần thiết và
sự chấp thuận của người tiêu dùng cho sản phẩm đóng gói.
Bao bì được thiết kế, sản xuất và thương mại hoá sao cho có thể được tái
sử dụng hoặc thu hồi, bao gồm tái chế, và để giảm thiểu ảnh hưởng về môi
trường khi chất thải bao bì hoặc những phần dư từ chất thải bao bì được loại
trừ.
Bao bì phải được sản xuất để giảm thiếu sự hiện diện của các chất độc hại
và các chất nguy hiểm khác có quan tâm đến sự hiện diện của các chất tro,
bức xạ khi bao bì hoặc các phần dư được thiêu hủy hoặc chôn.
Việc thực hiện Chỉ thị đã được nhiều quốc gia thành viên đưa vào luật
tuy nhiên các quy định ở mỗi quốc gia khác nhau.
19
Thông dụng nhất là hệ thống “Green Dot” do Chính phủ Đức áp dụng.
Biểu tượng Green Dot thể hiện cho người mua biết rằng bao bì có thể được tái
sử dụng hoặc tái chế và cũng cho biết việc loại bỏ và tái chế bao bì vận
chuyển sẽ do các bên liên quan chịu chi phí.
Chỉ thị số 94/62/EEC về bao bì và phế thải bao bì với mục tiêu là nhằm hài
hoà các biện pháp quốc gia liên quan đến việc quản lý đóng gói và thải bao bì.

Chỉ thị này đề ra các biện pháp nhằm ngăn ngừa tạo ra chất thải bao bì, tái sử
dụng bao bì, tái chế và giảm phần vứt bỏ/tiêu huỷ cuối cùng của chất thải đó.
Chỉ thị cũng quy định mức tối đa kim loại nặng chứa trong bao bì và mô tả
những yêu cầu cụ thể trong sản xuất và cấu thành bao bì. Chỉ thị áp dụng cho
tất cả các loại bao bì và chất thải bao bì dùng trong ngành công nghiệp,
thương mại, văn phòng, cửa hàng, dịch vụ, hộ gia đình hoặc ở bất kỳ nơi nào
khác bất kể dùng nguyên liệu gì.
Có nhiều hình thức khác nhau để thực thi Chỉ thị trong các nước thành
viên EU. Trong số các chương trình đang hoạt động thì chương trình chất thải
bao bì được biết đến nhiều nhất ở châu Âu là hệ thống “Grune Punkt” hay “
Green Dọt” của Đức.
Ngành sản xuất bao bì của EU trước những thách thức mới về
bảo vệ môi trường
Bao bì được thiết kế tốt đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và
phân phối vì chúng giúp ngăn ngừa và giảm bớt các loại rác thải khác.
Mặc dù vậy, hầu hết các bao bì cuối cùng rồi cũng thành rác và phần lớn
trong số đó được chôn lấp tại các bãi rác.
Các quá trình sản xuất, xử lý và chôn lấp rác thải đều có thể làm hại
môi trường, không chỉ vì các vấn đề liên quan đến việc chôn lấp, đốt hay
các cách xử lý khác, v.v... mà còn do nhiều lý do. Mỗi năm, riêng nước
Anh tiêu thụ hết khoảng 600 triệu tấn nguyên liệu, 570 tấn trong số đó bị
lãng phí dưới dạng rác thải.
20
Hiện nay, các quá trình tiêu thụ và sản xuất bền vững để tiết kiệm tài
nguyên và tăng cường sử dụng lại hoặc tái chế là mục tiêu then chốt
trong kế hoạch xây dựng một xã hội bền vững hơn của các nước châu
Âu. Nghĩa là mọi loại bao bì đều phải được sản xuất, sử dụng và thải bỏ
dưới những điều luật nghiêm ngặt.
Tại Anh, các công ty tham gia sản xuất, xử lý, kinh doanh bao bì sẽ
phải tuân thủ những quy định pháp lý ngày càng chặt chẽ hơn. Cụ thể là

Chỉ thị 94/62/ EC, Chỉ thị về sử dụng các bãi chôn lấp rác (1999/31/EC).
Nói rộng hơn, các quy định trên nhằm làm giảm phát thải khí nhà kính
tại các bãi chôn lấp rác. để đạt được điều này, phải giảm lượng rác thải
có thể bị phân hủy sinh học, phân loại riêng loại rác thải này hoặc đơn
giản là giảm lượng rác thải bằng cách tăng cường tái chế và thu hồi phế
thải ngay từ bước đầu.
Những đổi mới trong tái chế chất dẻo
Hàng năm, chỉ riêng nước Anh đã sử dụng tới 5 triệu tấn chất dẻo,
36% trong số đó được dùng làm bao bì.
Hiện tại, người ta đã rất cố gắng để giảm lượng bao bì chất dẻo
thông qua nghiên cứu tìm kiếm những vật liệu mới hoặc cải tiến thiết kế
bao bì, đặc biệt đối với những bao bì được dùng phổ biến trong gia đình.
Sự đổi mới trong ngành chất dẻo cũng cho ra đời các loại bao bì
thông minh và linh hoạt với những tính năng đặc biệt. Ví dụ loại bao bì
kháng khuẩn, bao bì lọc oxy giữ cho thức ăn tươi lâu hơn, bao bì bị phân
hủy sinh học sau khi sử dụng.
các loại bao bì thông minh sẽ làm cho thời gian sử dụng của bao bì
lâu hơn và độ an toàn lớn hơn, do đó lượng bao bì thải sẽ ít đi.
Chương trình Hành động vì tài nguyên và chống rác thải (WRAP) coi
chai nhựa phế thải là ưu tiên hàng đầu trong những hoạt động nhằm tạo
thị trường ổn định và hiệu quả cho chất dẻo tái chế.
21
Những sáng kiến mới cũng góp phần làm giảm chi phí tái chế. Hiện
nay, người ta đang cố gắng sử dụng chất dẻo tái chế dưới dạng vảy
mỏng thay vì dạng viên như trước đây nhằm bỏ qua giai đoạn nấu chảy
tốn năng lượng và chi phí. Nếu có thể vượt qua những thách thức về kỹ
thuật, chi phí tái chế sẽ giảm khoảng 25%, tương đương 100 USD/ tấn.
4.3. Đóng gói, nhãn hiệu và ghi nhãn
Đóng gói được sử dụng để bảo vệ các sản phẩm nống sản chống lại các
thiệt hại về cơ học và tạo ra điều kiện khí hậu riêng phù hợp. Nó là một yếu tố

quan trọng để xác định chất lượng của sản phẩm, do đó nó thể hiệu cả sản
phẩm và bảo vệ sản phẩm.
Đóng gói và ghi nhãn là những yếu tố rất quan trọng khi sản phẩm được
các siêu thị bán lẻ hoặc tại các cửa hàng bán lẻ khác
Bên cạnh vận chuyển, các vấn đề về môi trường đóng một yếu tố trong
đóng gói. Theo luật về môi trường (tái sử dụng, tái chế các vật liệu đóng
gói) và các chất độc, một vài quy định cần phải tuân thủ khi sử dụng vật
liệu đóng gói.
Các điểm bắt đầu để xác định vật liệu thích hợp
cho đóng gói:

Trọng lượng của sản phẩm

Kích cỡ của sản phẩm

Số lượng sản phẩm được gói trong một gói
carton

Tình trạng sức khỏe

Mùi

Khả năng xếp chồng

Hình dáng bên ngoài

Tiện lợi trong xử lý
22

Các vấn đề về môi trường

4.4. Tái chế chất thải bao bì
Từ năm 2000 các thành viên của EU sẽ tái chế biến từ 50-65% chất thải
bao bì. Việc tái chế này có thể được thực hiện theo 2 cách là sử dụng làm vật
liệu hoặc làm năng lượng thông qua đốt cháy. Các quốc gia thành viên có
quyền đặt ra một tỉ lệ cao hơn nếu không gây tổn hại đến thương mại giữa các
quốc gia trong EU.
Các quốc gia đang phát triển khi xuất khẩu vào thị trường EU phải hiểu rõ
những quy định này và có những biện pháp thích hợp nhằm trở thành hoặc
giữ những đối tác thương mại có lợi cho mình. Các yêu cầu về môi trường sẽ
được chuyển cho các nhà xuất khẩu. Điều này có nghĩa là vật liệu đóng gói
(đóng gói vận chuyển, đóng gói bao và đóng gói để bán) cần phải được hạn
chế và có thể sử dụng lại hoặc tái chế. Nếu không thì những nhà nhập khẩu sẽ
phải chịu thêm chi phí và do vậy sẽ giảm tính cạnh tranh đối với nhà xuất
khẩu
II. Các tiêu chuẩn môi trường của EU ảnh hưởng tới việc xuất khẩu nông
sản của Việt Nam
1. Nhãn sinh thái
23
Định nghĩa: Theo tổ chức thương mại thế giới WTO và Ngân hàng thế giới
WB thì: Nhãn sinh thái là một loại nhãn được cấp cho những sản phẩm thoả
mãn một số tiêu chí nhất định do một cơ quan chính phủ hoặc một tổ chức
được chính phủ uỷ nhiệm đề ra. Các tiêu chí này tương đối toàn diện nhằm
đánh giá tác động đối với môi trường trong những giai đoạn khác nhau của
chu kỳ sản phẩm: từ giai đoạn sơ chế, chế biến, gia công, đóng gói, phân phối,
sử dụng cho đến khi bị vứt bỏ. Cũng có trường hợp người ta chỉ quan tâm đến
một tiêu chí nhất định đặc trưng cho sản phẩm, ví dụ mức độ khí thải phát
sinh, khả năng tái chế, v.v…
Về mặt hình thức, nhãn sinh thái có thể mang tên gọi khác nhau ở từng
nước. Ví dụ các nước Bắc Âu có nhãn Thiên nga trắng, Đức có nhãn Thiên
thần xanh, Châu Âu có nhãn Bông hoa, trong khi ở Singapore lại gọi là Nhãn

xanh.
Ngoài nhãn sinh thái do một cơ quan đứng ra cấp, còn có một loại nhãn
khác do nhà sản xuất tự gắn lên sản phẩm của mình như một hình thức
quảng cáo với người dùng. Ta thấy có tủ lạnh dán nhãn "Không có CFC"
(CFC là một loại hợp chất gây phá huỷ tầng ozone) hoặc có loại pin ghi
"Không có thuỷ ngân".
Cả hai loại nhãn trên, nhãn sinh thái và nhãn do nhà sản xuất tự dán, đều
gọi chung là nhãn môi trường.
Các tiêu chuẩn
Các tiêu chuẩn để đánh giá khía cạnh môi trường của sản phấm của Nhãn
sinh thái được quy định trong các hệ thống tiêu chuẩn ISO 14024:1999, ISO
14021:1999 và ISO 14025:2000.
ISO 14024 (Nhãn loại I/ Công bố môi trường kiểu I): Việc dán nhãn phải
được bên thứ ba công nhận (không phải do nhà sản xuất hay các đại lý bán lẻ
thực hiện), dựa trên phương pháp đánh giá chu trình sống của sản phẩm (Chu
trình sống là các giai đoạn kế tiếp và liên kết với nhau của một hệ thống sản
24
phẩm, từ khi tiếp cận nguyên liệu thô hoặc từ khi phát sinh của các nguồn tài
nguyên thiên nhiên cho đến khi thải bỏ cuối cùng).
ISO 14021 (Nhãn loại II/ Công bố môi trường kiểu II): Do nhà sản xuất
hoặc các đại lý bán lẻ tự nghiên cứu, đánh giá và công bố cho mình, đôi khi
còn được gọi là “Công bố xanh”, có thể công bố bằng lời văn, biểu tượng
hoặc hình vẽ lên sản phẩm do nhà sản xuất hoặc các đại lý bán lẻ quyết định.
Công bố loại này phải đáp ứng được một số yêu cầu cụ thể như: phải chính
xác và không gây nhầm lẫn, được minh chững và được kiểm tra, xác nhận,
tương ứng với sản phẩm cụ thể và chỉ được sử dụng trong hoàn cảnh thích
hợp hoặc đã định, không gây ra sự diễn giải sai
ISO 14025 (Nhãn loại III/ Công bố môi trường kiểu III): Bao gồm các
thông tin định lượng về sản phẩm dựa trên đánh giá chu trình sống của sản
phẩm. Mục đích chính là cung cấp dữ liệu môi trường được định lượng và có

thể được dùng để thể hiện sự so sánh giữa các sản phẩm. Cũng giống với nhãn
kiểu I là việc công bố phải được bên thứ ba công nhận nhưng các thông số
môi trường của sản phẩm còn phải được thông báo rộng rãi trong Báo cáo kỹ
thuật.
Nhãn sinh thái EU (EU ecolabel): Áp dụng cho 14 nhóm sản phẩm. Nhà
sản xuất hoặc người nhập khẩu áp dụng một dấu xác nhận môi trường của EU
trên cơ sở tự nguyện. Để có được dấu xác nhận môi trường của EU, các doanh
nghiệp phải trả 1 khoản phí và phụ thuộc vào doanh nghiệp nhập khẩu hoặc
doanh thu của công ty sản xuất. Khoản phí này không giống nhau giữa các
quốc gia.
Tiêu chuẩn sinh thái được áp dụng trong việc cấp nhãn không dựa trên
thông số đơn lẻ mà dựa vào tác động của sản phẩm thông qua chu trình sống
của nó, từ quá trình khai thác vật liệu thô ở công đoạn trước sản xuất cho đến
quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng sản phẩm, cuối cùng là tiêu huỷ sản
phẩm
25

×