Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

BÀI 2 rủi RO KIỂM TOÁN và HOẠT ĐỘNG LIÊN tục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.16 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA KINH TẾ - CƠ SỞ THANH HÓA

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: KIỂM TOÁN PHẦN 1
ĐỀ TÀI:
RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG LIÊN TỤC

GIẢNG VIÊN HD: ĐỖ THỊ HẠNH
SINH VIÊN TH : NHÓM 04
Lớp : DHKT7ATH
THANH HÓA, THÁNG 10 NĂM 2014
DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN
TT Họ và tên MSSV Ghi chú
1
Nguyễn Thị Phương Phú 11010543 Nhóm trưởng
2
Lê Thị Hải Yến 11011203
3
Lê Thị Thùy Dương 11021523
4
Vũ Thị Phương 11011823
5
Lê Thị Duyên 11015153
6
Nguyễn Thị Hương 11027993
7
Lê Thị Thu 11024913
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


















Thanh Hóa, ngày … tháng … năm 2014
Giảng viên
MỤC LỤC
DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN 2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN 3
MỤC LỤC 4
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: RỦI RO KIỂM TOÁN 2
1.1. Các khái niệm về rủi ro kiểm toán 2
1.2. Các loại rủi ro kiểm toán 2
1.2.1 Rủi ro tiềm tàng ( Inherent Risk- IR ) 2
1.2.2. Rủi ro kiểm soát (control Risk-CK) 4
1.2.3 Rủi ro phát hiện (Detection Risk-DR) 7
1.3. Đánh giá rủi ro trong kiểm soát nội bộ 9
1.3.1 Nhận diện rủi ro 9

1.3.2 Đánh giá rủi ro 11
1.3.3 Tư vấn DN quản lý rủi ro 13
1.4. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro 15
1.5. Mô hình rủi ro kiểm toán: 16
1.6. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán 17
1.6.1 Khái niệm trọng yếu. 17
1.6.2 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro 18
CHƯƠNG 2 20
HOẠT ĐỘNG LIÊN TỤC TRONG KIỂM TOÁN 20
2.1 Khái Niệm Về Hoạt Động Liên Tục Trong Kiểm Toán 20
2.2. Các dấu hiệu ảnh hưởng đến hoạt động liên tục 20
2.2.1 Các dấu hiệu về mặt tài chính 20
2.2.2. Các dấu hiệu về hoạt động liên tục 21
2.2.3 Các dấu hiệu khác 21
2.2. Nguyên tắc hoạt động liên tục ảnh hưởng đến hoạt động kiểm toán 22
2.2.1 Các nguyên tắc hoạt động liên tục 22
2.2.2 Nội Dung Các Nguyên Tắc Hoạt Động Liên Tục Và Ảnh Hưởng Đến Thủ Tục Kiểm Toán 23
CHƯƠNG 3 28
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN 28
KẾT LUẬN 30
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới WTO. Có thể nói đây là mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong tiến trình
phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh sự kiện này, sự phát triển, mở rộng theo
hướng đa dạng hóa, đa phương hóa của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều cơ hội
lớn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, đồng thời thì việc phải đối mặt với
những rủi ro thách thức là điều không thể tránh khỏi. Sự hình thành và lớn mạnh của
các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong một môi trường kinh doanh nhiều rủi ro
tạo nên nhiều kênh thông tin tài chính khác nhau. Những người sử dụng thông tin tài
chính để đánh giá tình hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế ngày càng nhiều và đa

dạng. Yêu cầu về tính chính xác và kịp thời của những thông tin tài chính cũng ngày
càng tăng. Trong xu thế phát triển tất yếu đó có thể nói rằng, dịch vụ kiểm toán là dịch
vụ có uy tín nhất trong việc thẩm định thông tin tài chính doanh nghiệp. Những người
quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý kiến cuối
cùng trong việc thẩm định, xác minh tính trung thực , hợp lý của các báo cáo tài chính.
Bất cứ ngành nào cũng chứa đựng những yếu tố rủi ro, không mong muốn. Hoạt
động trong lĩnh vực kiểm toán cũng không nằm ngoài quy luật đó. Rủi ro mà các công
ty kiểm toán phải đối mặt trong khi kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói
riêng là yếu tố cần xem xét trong bất kỳ một cuộc kiểm toán nào.
Hoạt động liên tục là một nguyên tắc cơ bản trong kế toán, và đồng thời quan
trọng trong lĩnh vực kiểm toán,. Trong thực tế, hằng năm đều có một số chấm dứt hoạt
động vì những lý do khác nhau như phá sản, hết hạn hoạt động. vì vậy chuẩn mực kế
toán ban hành nguyên tắc hoạt động liên tục như một trong những hoạt động liên tục.
Nắm bắt được tầm quan trọng và dưới sự hướng dẫn của cô giáo hạnh nên chúng
em chọn đề tài : “ Rủi ro kiểm toán và hoạt động liên tục “
Trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận , chúng em không thể tránh khỏi những
thiếu xót mong cô và các bạn đóng góp ý kiến cho chúng em.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1
CHƯƠNG 1: RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1. Các khái niệm về rủi ro kiểm toán.
Theo VAS 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, thì “rủi ro kiểm toán là ro
do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp, khi
báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Như vậy, khái niệm rủi ro kiểm toán cho rằng rủi ro kiểm toán là rủi ro của kiểm
toán viên công bố ý kiến chấp nhận toàn phần đối với các báo cáo tài chính được trình
bày có sai sót trọng yếu. Điều này sảy ra khi hai sự kiện độc lập diễn ra: một là trình
bày sai lệch trọng yếu xảy ra trong quá trình ghi chép và lập báo cáo tài chính, hai là
kiểm soát viên thất bại trong việc phát hiện ra sự trình bày thông tin sai lệch này.
Đối với việc trình bày sai lệch trọng yếu sảy ra trong quá trình ghi chép và lập

báo cáo tài chính thuộc loại rủi ro tiềm tàng hoặc rủi ro kiểm soát. Kiểm soát viên thất
bại trong việc phát hiện ra sự trình bày thông tin sai lệch này là rủi ro phát hiện.
1.2. Các loại rủi ro kiểm toán
Có 3 loại rủi ro kiểm toán :
- Rủi ro tiềm tàng.
- Rủi ro kiểm soát
- Rủi ro phát hiện.
1.2.1 Rủi ro tiềm tàng ( Inherent Risk- IR )
a) Khái niệm
Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng khoản mục, từng
nghiệp vụ trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng lẻ hoặc
gộp lại, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
Ở mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh và tính chất ngành nghề khác
nhau thì rủi ro tiềm tàng khác nhau.Việc phân tích, đánh giá rủi ro tiềm tàng có vai trò
rất quan trọng trong việc lập kế hoạch kiểm toán. Trên cơ sở đánh giá rủi ro tiềm tàng,
giúp cho kiểm soát viên lựa chọn các phương pháp (thủ tục) thích hợp, khối lượng
công việc, thời gian nhân sự và chi phí kiểm soát cần thiết.
b) Cơ sở đánh giá rủi ro tiềm tàng.
Kiểm soát viên phải dụa vào việc xem xét đoán chuyên môn của mình để đánh
2
giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:
+ Trên phương diện báo cáo tài chính:
Sự liêm khiết, kinh nghiệm hiểu biết của ban giám đốc cũng như sự thay đổi
thành phần ban quản lý xảy ra trong niên đọ kế toán
Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế
toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có ) của họ
Những áp lực bất thường đối với ban giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất ìa
những hoàn cảnh thúc đẩy ban giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo các tài
chính không chung thực
Đặc điểm hoạt động của đơn vị như: quy trình công nghệ, cơ cấu vốn các đơn vị

phụ thuộc phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của đơn v, như: các biiens động về kinh tế,
về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mư, thị trường bán và sự thay đổi của hệ thống
kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị
+ Trên phương điện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
Báo các tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: bá cáo tài chính có những
điều chỉnh lien quan đến niên đọ trước, báo các tài chính có nhiều ướ tính kế toán,
hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán
Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế như:
số dư các tài khoản dự phòng nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau ghi nhận
ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá tài sản cố định…
Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệ vụ thu, tiền
mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn thời gian thanh toán dài
Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiên quan trọng đỏi hỏi phải có ý kiến
của chuyên gia như: sảy ra kiện tụng hoăc trộm cắp…
Việc ghi chếp các nghiệp vụ bất thường và phức tạp đặc biệt là gần thời điểm kết
thúc niên độ
Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác
c) Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào các nhân tố sau:
Đặc điểm hình thành kinh doanh (loại sản phẩm và dịch vụ, môi trường kinh tế,
chính sách nhà nước…);
3
Bản chất của cá bộ phận, khoản mục, nghiệp vụ được kiểm toán trong báo cáo tài
chính;
Bản chất hệ thống kế toán và thông tin trong đơn vị (múc hiệu quả và tính chất
phức tạp của hệ thống điện toán, bản chất và phương pháp kế toán đang áp dụng, trình
độ nhân viên…);
d) Nguồn thông tin đánh giá rủi ro tiềm tàng:
Kết quả các cuộc kiểm toán những năm trước, thu thập các thông tin thông qua
báo chí, khảo sát thực tế trước khi tiến hành kiểm toán.

e) Trình tự phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng
f, Ý nghĩa của việc nghiên cứu rủi ro tiềm tàng:
Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa rất quan trọng
trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Mức rủi ro tiềm tàng ở mỗi doanh nghiệp mà
KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác định về khối
lượng, quy mô, phạm vi công việc kiểm toán cần thực hiện. Đây sẽ là căn cứ để KTV
dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và các phương tiện cần thiết khác cho một cuộc
kiểm toán. Khi phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng ở một doanh nghiệp mà KTV kiểm
toán đòi hỏi KTV phải có một sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện và đầy đủ về thực trạng
hoạt động của doanh nghiệp và các yếu tố tác động đến rủi ro tiềm tàng, cũng như đòi
hỏi KTV phải có một sự xét đoán nghề nghiệp với những kinh nghiệp khá tốt mới có
thể có được một kết quả sát thực
1.2.2. Rủi ro kiểm soát (control Risk-CK)
a) Khái niệm
Rủi ro kiểm soát là “rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong tưng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng lẻ hay tinh gộp lại mà hệ thống kế
4
Tổng cty
Công ty B
Công ty
A
Công ty
C
CCCCCC
CCCCCC
C
Toàn bộ
BCTC
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện sửa chữa
kịp thời” (VAS 400).

Rủi ro kiểm toán cũng như rủi ro tiềm tàng tồn tại khách quan nằm ngay trong
doanh nghiệp không phụ thuộc vào công việc kiểm toán có tiến hành được hay không
b) Các bước tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát:
- Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát.
Là việc đánh giá hiệu quả hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ đơn vị
trong việc ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm
soát thường không hoàn toàn được loại trừ do sự hạn chế tiềm tàng của hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV và
công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho
từng số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.
- Lưu giữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát:
+ KTV phải ghi chép, lưu giữ lại trong hồ sơ kiểm toán:
Những kết quả đạt được trong việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm
soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
Những nhận xét và đánh giá về rủi ro kiểm soát của KTV. Trường hợp rủi ro
kiểm soát được đánh giá không cao thì KTV cũng phải ghi chép và lưu lại các tài liệu
làm cơ sở cho việc đánh giá này.
+ KTV có quyền lựa chọn kỹ thuật khác nhau để lưu trữ thông tin liên quan hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Thử nghiệm kiểm soát:
Thử nghiệm kiểm soát bao gồm:
Kiểm tra chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế và các sự kiện để thu được bằng
chứng kiểm toán về hoạt động hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát
nội bộ. VD: kiểm tra các chứng từ liên quan đến chi phiếu chi tiền có được phê duyệt
đầy đủ hay không.
Phỏng vấn, quan sát thực tế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm soát của
những người thực thi công việc kiểm soát nội bộ xem có để lại bằng chứng kiểm soát
hay không.
5

Kiểm tra lại việc thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ.
VD: Kiểm tra lại bảng đối chiếu tiền gửi của đơn vị với ngân hàng, xem xét lại
biên lai kiểm kê quỹ, kiểm kê hàng tồn kho, đối chiếu lại công nợ để đảm bảo rằng
chúng có được đơn vị thực hiện hay không.
- Đánh giá cuối cùng về rủi ro kiểm soát:
Trước khi rút ra kết luận kiểm toán, KTV phải dựa vào kết quả các thử nghiệm
cơ bản và những bằng chứng kiểm toán khác để khẳng định lại quá trình đánh giá của
mình về rủi ro kiểm soát.
c) Nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro kiểm soát chính là các nhân tố hình thành hệ
thống kiểm soát nội bộ:
Môi trường kiểm soát;
Hệ thống kiểm soát;
Các thủ tục kiểm soát;
d) Một số trường hợp có thể dẫn đến rủi ro kiểm soát:
- Tính chất phức tạp và mới của các loại giao dịch;
- Khối lượng, cường độ các loại giao dịch;
- Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ (cơ cấu tổ chức, tính thích hợp và hiệu quả,
nhân sự)
- Quan điểm nhận thức, hành động của nhà quản lý về phương thức tổ chức, phân
định trách nhiệm quyền hạn của ban giám đốc và các bộ phận…
- Hệ thống máy tính cũng có rủi ro kiểm soát như kế toán viên cố tình nhập liệu
sai dẫn đến kết quả sai; hoặc sai lầm khi lập trình nên ảnh hưởng dây chuyền đến hệ
thống…
e) Đánh giá rủi ro kiểm soát:
KTV có thể đánh giá rủi ro kiểm soát là cao hoặc không cao đối với cơ sở dẫn
liệu của BCTC.
- KTV đánh giá rủi ro kiểm soát cao trong các trường hợp:
+ Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ và không hiệu
quả.
+ KTV không được cung cấp đầy đủ cơ sở để đánh giá sự đầy đủ và hiệu quả của

hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp.
6
- KTV đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao trong các trường hợp:
+ KTV có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
được thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu.
+KTV có đầy đủ điều kiện và có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm
cơ sở cho việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát.
f) Ý nghĩa của việc nghiên cứu rủi ro kiểm soát:
Việc nghiên cứu rủi ro kiểm soát giúp cho KTV:
- Xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai phạm trọng yếu.
- Xác định được phạm vi kiểm toán cần thiết đối với những sai sót trọng yêu có
thể tồn tại trong BCTC.
- Xác định, lựa chọn và xây dựng được thủ tục kiểm toán cơ bản thích hợp về
phạm vi, quy mô và thời gian vận dụng các thủ tục kiểm toán.
1.2.3 Rủi ro phát hiện (Detection Risk-DR)
a) Khái niệm
Rủi ro phát hiện là “rủi ro mà kiểm soát viên và công ty kiểm soát không phát
hiện được các sai sót, sai phạm trọng yếu, làm ảnh hưởng đến các báo cáo tài chính”
(VAS 400).
Nguyên nhân có thể bắt nguồn từ phương pháp kiểm toán của kiểm toán viên;
hoặc nếu có kiểm tra 100% cũng có rủi ro phát hiện vì lựa chọn, áp dụng phương pháp
không phù hợp, hoặc giải thchs sai hay nhận định sai về kết quả (như kiểm soát viên
thiếu kiểm tra thông tin do các trợ lý thu thập nên tổng hợp và nhận định sai).
b) Đánh giá rủi ro phát hiện:
Mức độ rủi ro phát hiện có liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm
toán viên.
Kiểm toán viên phải dựa vào đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản để giảm rủi ro phát hiện
và giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được.
Để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán, kiểm toán viên cần xem xét:

Nội dung thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục thu thập tài liệu, hoặc xác nhận thông
tin từ bên ngoai độc lập với đơn vị có giá trị cao hơn là thu thập tài liệu trong nội bộ
đơn vị; hoặc kết hợp kết quả kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư với thủ tục phân
7
tích;
- Lịch trình của thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục kiểm tra số dư hàng tồn kho
cuối năm được thực hiện vào cuối niên độ kế toán có giá trị cao hơn là thực hiện kiểm
tra vào một thời điểm khác và phải điều chỉnh;
- Phạm vi thử nghiệm cơ bản, ví dụ xác định cỡ mẫu kiểm tra rộng hơn là hẹp.
Tuy nhiên, khó có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro phát hiện ngay cả khi kiểm toán
viên kiểm tra chi tiết toàn bộ các nghiệp vụ và số dư tài khoản.
Mục tiêu của thử nghiệm cơ bản và thử nghiệm kiểm soát làkhác nhau, nhưng kết
quả thu được từ hai loại thử nghiệm này có thể bổ sung cho nhau trong việc thực hiện
đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví dụ: Những sai sót phát hiện được
trong thử nghiệm cơ bản có thể buộc kiểm toán viên phải xem xét lại đánh giában đầu
về rủi ro kiểm soát.
c) Yếu tố ảnh hưởng:
Trong một cuộc kiểm toán, với mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là cố
định. Nếu rủi ro phát hiện càng tăng, tức là khả năng không phát hiện ra gian lận sai
sót trọng yếu càng tăng thì rủi ro kiểm toán cũng càng tăng. Ngược lại, để hạ thấp rủi
ro kiểm toán, kiểm toán viên thường phải hạ thấp rủi ro phát hiện. Để làm được điểu
này, kiểm toán viên phải nắm vững được các yếu tố ảnh hưởng đển rủi ro kiểm toán,
đó là :
+ Phạm vi kiểm toán: với tính hiệu quả, khoa học và trình độ kinh nghiệm của
kiểm toán viên là cố định. Nếu phạm vi kiểm toán càng rộng thì khả năng phát hiện
gian lận, sai sót càng tăng lên tức là khả năng không phát hiện ra gian lận sai sót giảm
đi có nghĩa là rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
+ Phương pháp kiểm toán: Nếu phương pháp kiểm toán càng khoa học, chặt chẽ
và hiệu quả thì khả năng phát hiện các gian lận, sai sót tăng lên tức là những gian lận,
sai sót không phát hiện được sẽ giảm xuống có nghĩa là rủi ro phát hiện giảm và ngược

lại.
+ Trình độ, kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Nếu kiểm toán viên có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề
nghiệp tốt thì những gian lận, sai sót trọng yếu dễ bị phát hiện. Khả năng không phát
hiện ra gian lận, sai sót sẽ giảm tức rủi ro phát hiện sẽ giảm
8
1.3. Đánh giá rủi ro trong kiểm soát nội bộ
Trong hoạt động SXKD các DN thường phải đối mặt với nhiều loại rủi ro.
Những rủi ro này có thể phát sinh do bản thân DN hay từ môi trường kinh tế, chính trị,
xã hội bên ngoài. Để hoạt động của đơn vị đạt được hiệu qủa kinh tế cao DN phải quản
lý rủi ro thông qua các công cụ khác nhau, trong đó có kiểm toán nội bộ. Bằng việc sử
dụng các phương pháp riêng kết hợp với khả năng chuyên môn và địa vị pháp lý nhất
định trong DN, kiểm toán nội bộ nhận diện rủi ro, đánh giá rủi ro ở các mức độ khác
nhau, từ đó có những tư vấn hợp lý cho lãnh đạo các cấp trong đơn vị để ra quyết định
đúng.
Mục tiêu hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp là lợi nhuận. Để đạt được mục
tiêu này, các DN phải thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ (HTKSNB) hữu
hiệu. Nhờ đó các nhà quản trị có thể hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại có thể
xảy ra do hoạt động SXKD gặp những bất trắc khó lường trước, điều hành toàn bộ
hoạt động SXKD có hiệu quả và đảm bảo tính hệ thống. Một trong những bộ phận
quan trọng của HTKSNB là kiểm toán nội bộ (KTNB). Với chức năng '' đánh giá và
cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm soát và đánh giá'', KTNB có thể giúp
DN thiết lập mục tiêu hoạt động cũng như lập kế hoạch, giám sát quá trình thực hiện
các mục tiêu. Với vai trò đó KTNB cần thực hiện đánh giá rủi ro trong hoạt động của
DN.
Rủi ro là khả năng xảy ra sự cố bất lợi cho chủ thể, hay có thể hiểu đó là những
nguy cơ một hành động hoặc một sự kiện sẽ có ảnh hưởng bất lợi đến việc đạt được
các mục tiêu cũng như việc thực hiện thành công những chiến lược kinh doanh của
một tổ chức. Khi thực hiện công việc, kiểm toán viên cần phát hiện, xác định phạm vi
của rủi ro để báo cáo cũng như có những đề xuất để đơn vị có thể quản lý được rủi ro.

Liên quan tới rủi ro, kiểm toán viên nội bộ cần thực hiện một số công việc:
1.3.1 Nhận diện rủi ro
Rủi ro trong doanh nghiệp thường do các nguyên nhân: mâu thuẫn về mục đích
hoạt động; các chiến lược DN đưa ra cản trở việc thực hiện mục tiêu; các yếu tố bên
ngoài: chính trị, môi trường – đối thủ cạnh tranh, thay đổi ngành, thay đổi môi trường
pháp lý, thị trường tiền tệ; các yếu tố bên trong: qui trình – hoạt động, xử lý thông tin,
công nghệ; thiếu nhân sự chủ chốt, bộ phận quản lý chất lượng yếu, tăng trưởng quá
9
nhanh,
Nếu xét theo bản chất, rủi ro trong DN gồm:
- Rủi ro kinh doanh: là rủi ro liên quan tới lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật hay đối thủ
cạnh tranh. Loại rủi ro này thường liên quan tới việc tìm kiếm mục tiêu kinh doanh-
hàng hóa, dịch vụ từ các nhà cung cấp bên ngoài. Những rủi ro có thể có là thông tin
giả mạo hoặc quá mức từ nhà cung cấp, thông tin sai hoặc chậm, quan hệ với nhà cung
cấp hiện thời không đạt được giá trị tốt nhất,
- Rủi ro tài chính: là rủi ro liên quan tới lãi suất, dòng tiền, tỷ giá hối đoái, tiền,
Loại rủi ro này có khả năng phát sinh rất lớn. Các rủi ro cơ bản thường xảy ra là: sai
sót trong quản lý dòng tiền dẫn tới thiếu tiền vào thời điểm cấp bách, tổn thất do tỷ giá
hối đoái thay đổi bất thường, lựa chọn sai nguồn tiền cần sử dụng làm tăng chi phí tài
chính, giảm sự đầu tư, rủi ro liên quan tới doanh thu, Chẳng hạn rủi ro hối đoái là
hoạt động kinh doanh của một công ty bị tác động bởi những thay đổi trong tỷ giá.
Loại rủi ro này dễ xảy ra ở các DN xuất nhập khẩu. Đối với DN nhập khẩu rủi ro xảy
ra khi ngoại tệ đơn vị phải trả trong tương lai lên giá so với nội tệ, còn với DN xuất
khẩu sẽ ngược lại khi ngoại tệ sẽ nhận trong tương lai giảm giá so với nội tệ.
- Rủi ro nhân nhượng liên quan tới việc vi phạm pháp luật (Luật Kế toán, chuẩn
mực kế toán, ). Chẳng hạn, DN có thể ghi nhận doanh thu sai niên độ: ghi nhận
doanh thu phải trước ngày có tờ khai xuất khẩu nhưng trong thực tế ghi nhận doanh
thu sau ngày có tờ khai xuất khẩu. Ghi nhận doanh thu không đủ điều kiện của VAS
14 và doanh thu không có thực xảy ra chủ yếu ở các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
(khách hàng gia công chế biến) và xây dựng vì thời điểm ghi nhận doanh thu khá phức

tạp, tùy theo đặc điểm từng ngành nghề.
- Rủi ro điều hành: là những tổn thất về nhân lực chủ chốt, thị trường, độ tin cậy
đối với sản phẩm, khách hàng, Chất lượng và số lượng nhân lực trong các DN liên
quan đến việc tuyển dụng, đào tạo, chính sách tiền lương, khen thưởng, kỷ luật. Vì vậy
DN có thể gặp các rủi ro: nhân lực thiếu kinh nghiệm, không được đào tạo sâu, chi phí
cho lao động quá cao, nhân viên tuyển dụng đã có vi phạm pháp luật, trả lương cho
nhân viên không đúng (quá cao hoặc quá thấp), nhân viên vi phạm nội qui, qui chế,
Các quyết định liên quan tới thị trường (chính sách giá, quảng cáo, lựa chọn nhà phân
phối ) có thể dẫn tới những rủi ro: do quảng cáo không hợp lý làm mất khách hàng,
10
chi phí quảng cáo quá cao so với lợi ích đem lại, đơn giá bán xây dựng không hợp lý
nên hàng không bán được hoặc doanh thu quá thấp so với chi phí bỏ ra, quyết định nhà
phân phối thiếu điều kiện làm ảnh hưởng đến thương hiệu của DN, Lãnh đạo DN
phê duyệt hồ sơ quá gấp nên ra quyết định sai lầm
Nếu xét theo mục tiêu kiểm toán, KTNB có thể gặp các loại rủi ro:
- Rủi ro về tính tuân thủ: hoạt động của doanh nghiệp không tuân thủ các qui
định của luật pháp, chế độ về tài chính, kế toán, bảo vệ môi trường,
- Rủi ro về tính chính xác: số liệu do kế toán thu thập, xử lý và cung cấp thiếu
chính xác do công việc khó kiểm tra, kiểm soát (xây dựng cơ bản), trình độ cán bộ
quản lý, kế toán,
- Rủi ro về tính đúng kỳ: việc ghi nhận doanh thu, chi phí của DN không đúng kỳ
phát sinh thực tế.
- Rủi ro về tính hiện hữu: các khoản doanh thu, chi phí thực tế phát sinh nhưng
không được ghi sổ và cung cấp trong Báo cáo kế toán.
- Rủi ro về tính hiệu quả: các khoản chi phí chi ra không hợp lý làm cho hoạt
động hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả.
- Rủi ro về tính trình bày và khai báo: doanh thu, chi phí không được đánh giá
đúng, thông tin trình bày trên Báo cáo kế toán không hợp lý.
Xét theo nguồn gây ra rủi ro có:
- Rủi ro do qui mô, tính phức tạp của quá trình SXKD của DN (rủi ro tiềm tàng).

- Rủi ro do Nhà nước thay đổi cơ chế chính sách.
1.3.2 Đánh giá rủi ro
Quá trình đánh giá rủi ro cần thực hiện qua các giai đoạn:
Trước hết kiểm toán viên cần căn cứ kế hoạch KTNB năm, yêu cầu của lãnh đạo
cấp cao trong DN để xác định đối tượng nào sẽ được đưa vào chương trình kiểm toán
này. Sau đó kiểm toán viên cần tìm hiểu từng đối tượng kiểm toán cụ thể, xem xét các
nhân tố có khả năng làm tăng rủi ro của DN. Công việc này luôn được coi trọng mặc
dù kiểm toán viên là người của DN. Lý do là KTV không thể hiểu một cách sâu sắc
11
Xác định đối tượng
được kiểm toán
(khách hàng)
Xác định các nhân tố
ảnh hưởng tới rủi ro
của từng đối tượng
Nhận diện rủi ro Đánh giá rủi
ro
mọi công việc trong từng hoạt động, từng bộ phận trong DN. Trong quá trình tìm hiểu
KTV đặt các câu hỏi và tìm đáp án hợp lý nhất:
- Những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của DN.
- Lãnh đạo các cấp của DN có chính sách gì trong quản lý, điều hành hoạt động
đơn vị cũng như sự quan tâm tới kết quả kiểm toán nội bộ (trước kia và hiện nay)?
- Trong giai đoạn hiện nay DN có ưu tiên tối đa hóa lợi nhuận không?
- Cơ chế tính tiền lương, thưởng cho người quản lý, viên chức?
- DN có tham gia các hoạt động của cộng đồng không?
- Trưởng các bộ phận kế toán, kinh doanh, có bị áp lực bất thường không?
- Giữa các cán bộ ở các vị trí, bộ phận quan trọng có mối quan hệ họ hàng hay
tình cảm không?
- Trong vòng 12 tháng trở lại, DN có sản phẩm, dịch vụ mới không?
Trên cơ sở những rủi ro có thể xảy ra, bộ phận KTNB lựa chọn các nhân tố chủ

yếu và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên để làm cơ sở đánh giá. Do có thể có nhiều loại rủi ro
nên kiểm toán viên cần chọn những rủi ro quan trọng nhất đối với các bộ phận trong
DN (5 – 10 loại) để xem xét. Công việc này được thực hiện dựa trên kinh nghiệm của
kiểm toán viên với các đối tượng được kiểm toán, kết hợp với tham khảo các thông tin
từ người quản lý và các nguồn khác. Chẳng hạn, khi kiểm toán hoạt động huy động
vốn của ngân hàng cần xem xét rủi ro về lãi suất, rủi ro môi trường trong nước và thế
giới, rủi ro đạo đức của cán bộ huy động vốn. Còn khi kiểm toán quá trình thi công các
công trình XDCB tại các DN xây lắp cần quan tâm hơn tới rủi ro không tuân thủ các
qui định trong xây dựng, thiết kế, rủi ro do tập hợp chi phí không chính xác và đúng
kỳ, rủi ro về tính hiệu quả sản xuất. Trong mọi trường hợp bộ phận KTNB đều xây
dựng mô hình đánh giá rủi ro cho từng đối tượng kiểm toán theo mẫu:
BẢNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO
Bộ phận (hoạt động)
Rủi ro Điểm cho mức độ ảnh hưởng Điểm cho khả năng xảy ra
Kiểm toán viên nội bộ chấm điểm về khả năng xảy ra và mức độ nghiêm trọng
12
cho từng bộ phận hoạt động, từng nội dung theo nguyên tắc khả năng rủi ro càng lớn
thì điểm càng cao (thang điểm 10/10). Trong đó rủi ro có mức độ nghiêm trọng, khả
năng xảy ra gần như chắc chắn (76 - 100%) có điểm cao nhất từ 8 – 10 điểm, còn
những rủi ro hiếm khi xảy ra (dưới 5%) có điểm thấp nhất từ 0 đến 2 điểm. Sau đó
kiểm toán viên có thể lập Bảng tổng hợp rủi ro của các đối tượng kiểm toán trong đó
sắp xếp các bộ phận (hoạt động) theo thứ tự ưu tiên trên cơ sở tổng điểm rủi ro. Nếu có
những đối tượng cùng điểm thì căn cứ thêm vào các nhân tố khác để xếp hạng.
BẢNG TỔNG HỢP RỦI RO
STT
Rủi ro
Bộ phận (hoạt động)

Tổng điểm rủi
ro

1
2

Các phương pháp đánh giá rủi ro mà KTV nội bộ có thể sử dụng là:
- Phương pháp hồi cố: đánh giá hoạt động đã qua thông qua các bằng chứng có
giá trị (chứng từ, thông tin thứ cấp).
- Phương pháp dự báo: đánh giá tác động tiềm tàng gây ra bởi các tác nhân đang
tồn tại và sẽ phát triển trong tương lai.
1.3.3 Tư vấn DN quản lý rủi ro
Từ kết quả đánh giá rủi ro, kiểm toán viên có thể tư vấn cho các nhà quản lý DN
các biện pháp quản lý rủi ro theo các hướng:
- Giảm rủi ro bằng cách tăng cường việc sử dụng hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm
làm giảm khả năng xuất hiện hoặc sự tác động của rủi ro xuống mức có thể chấp nhận.
- Tránh rủi ro bằng việc không tiến hành một số hoạt động
- Chấp nhận rủi ro nếu rủi ro không lớn
- Chuyển giao rủi ro cho tổ chức khác như mua bảo hiểm, góp vốn liên doanh,
đấu thầu lại.
Ví dụ một DN có hoạt động kinh doanh ở nước ngoài dễ gặp phải rủi ro thị
13
trường, rủi ro tỷ giá hối đoái. Trường hợp này hoạt động của DN phụ thuộc vào sự
biến động của tỷ giá hối đoái. KTNB có thể đề xuất các phương án như sau:
Một là: giảm rủi ro bằng cách thuê các chuyên gia về ngoại tệ; đa dạng hóa các
hoạt động SXKD và thực hiện hợp đồng nhập khẩu song song với hợp đồng xuất khẩu
để lấy lãi hoạt động này bù lỗ hoạt động kia; sử dụng công cụ phòng ngừa như thực
hiện giao dịch kỳ hạn, quyền chọn tiền tệ, gia tăng dự phòng thông qua những nghiệp
vụ phái sinh trên thị trường ngoại hối, ; bán rủi ro cho trung gian tài chính,
Hai là: tránh rủi ro bằng cách ngừng hoạt động kinh doanh ở nước ngoài hoặc giữ
nguyên hoạt động tại khu vực đó
Ba là: chấp nhận rủi ro và không tiến hành bất kỳ hoạt động nào.
Bốn là: chuyển giao rủi ro bằng việc sử dụng các biện pháp đề phòng hoặc chứng

tỏ rằng tất cả các đơn hàng mua và bán đều nằm trong khả năng tài chính của DN.
Hoặc trong DN xây lắp, KTNB có thể tư vấn:
+ Giảm rủi ro bằng cách kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng máy thi công, qui định
chế độ báo cáo và cung cấp thông tin từ công trường thích hợp. DN cần xác định cụ
thể nội dung thông tin báo cáo, thời gian báo cáo (tùy thuộc vào vị trí của công trình so
với văn phòng DN gần hay xa) phương thức báo cáo (văn bản, điện thoại, ), người
báo cáo, người nhận và kiểm tra báo cáo, chế độ thưởng (báo cáo sớm), phạt (báo cáo
chậm, sai sự thật). Phòng kế toán có tạo điều kiện cho hoạt động của các bộ phận chức
năng không, có gây khó khăn ở khâu nào, ?. Đồng thời DN cũng phải thường xuyên
tổ chức đánh giá việc thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro.
+ Né tránh rủi ro bằng cách chỉ thực hiện những giao dịch có khả năng phát giác
rủi ro lớn.
+ Đa dạng hóa rủi ro bằng cách đa dạng hóa thị trường, sản phẩm ( thực hiện
thêm các hoạt động khác như sản xuất, kinh doanh hàng hóa, kinh doanh bất động sản
đầu tư, )
+ Chuyển giao rủi ro bằng cách mua bảo hiểm cho những công trình có khả năng
xảy ra rủi ro cao, thực hiện liên kết, liên doanh với các đơn vị khác, giao thầu cho các
nhà thầu phụ. Phương án này nên thực hiện khi chi phí thực hiện cao hơn chi phí
chuyển giao.
Kết quả KTNB chỉ có thể trợ giúp DN đạt được mục tiêu hoạt động khi lãnh đạo
14
đơn vị thiết lập chương trình hoạt động cho KTNB; tiếp nhận và coi trọng báo cáo
KTNB; đảm bảo sự hỗ trợ nhất định cho KTNB về tài chính, công việc; tổ chức
KTNB có vị trí nhất định trong bộ máy quản lý của DN, hay nói cách khác DN thực sự
quan tâm tới công tác KTNB. Mặt khác, công việc này đòi hỏi kiểm toán viên nội bộ
không những phải có chuyên môn cao về kiểm toán mà còn phải có kiến thức về các
lĩnh vực khác như quản trị doanh nghiệp, quản trị nhân sự, kinh tế môi trường, kỹ
thuật, Trường hợp kiểm toán viên không thể thỏa mãn nhiều yêu cầu về chuyên môn
như vậy thì DN cần bố trí thêm những cán bộ có chuyên môn chuyên sâu trong các
lĩnh vực khác tham gia vào KTNB.

Phát triển công tác KTNB trong các DN cả về chiều rộng lẫn chiều sâu là công
việc không dễ dàng. Để đạt được mục đích này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ
Tài chính, Kiểm toán Nhà nước với các DN trong việc đưa ra hành lang pháp lý thuận
lợi cũng như quản lý, kiểm soát công việc này.
1.4. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Qua nghiên cứu các loại rủi ro, chúng ta thấy rằng rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát vẫn luôn tồn tại trong hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị cũng như
nằm trong bản chất của những số dư tài khoản,các loại nghiệp vụ. chúng tồn tại độc
lập và khách quan đối với thông tin của đơn vị, nằm ngoài phạm vi kiểm toán dù có
hay không có kiểm toán.
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
kiểm toán viên về Trung bình Thấp Trung bình Cao
rủi ro tiềm tàng Thấp Trung bình Cao Cao nhất

Trong đó:
. Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành 3 mức: Cao,
trung bình và thấp.
. Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
. Loại rủi ro phát hiện được chia thành 5 mức: Cao nhất, cao, trung bình, thấp và
thấp nhất.
Mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
15
soát. Ví dụ: Trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá là cao
và mức độ rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá là thấp thì mức độ rủi ro phát
hiện có thể đánh giá là trung bình nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có
thể chấp nhận được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro tiềm tàng là thấp và rủi ro kiểm soát
được đánh giá là trung bình thì có thể xác định mức độ rủi ro phát hiện là cao nhưng

vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán là thấp có thể chấp nhận được.
1.5. Mô hình rủi ro kiểm toán:
Quan hệ giữa các loại rủi ro trên có thể được phản ánh qua một mô hình rủi ro
sau đây:
AR=IR x CR x DR ◊ DR =AR/ (IR*CR)
Trong đó: AR : rủi ro kiểm toán
CR : rủi ro kiểm soát
DR : rủi ro phát hiện
IR : rủi ro tiềm tang
Với mô hình này, KTV có thể sử dụng để điều chỉnh rủi ro phát hiện dựa trên
các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán thấp như mong
muốn.
Ví dụ:
KTV muốn thực hiện một cuộc kiểm toán cụ thể và muốn rủi ro kiểm toán đạt
được ở mức tương đối thấp (ví dụ 0,05 ,có nghĩa là bình quân có khoảng 5% các quyết
định kiểm toán là không chính xác).Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều
được đánh giá và nhận định trên kinh nghiệm nghề nghiệp có minh chứng cụthể.Gỉa sử
KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng đối với đối tượng kiểm toán là rất lớn (IR=0,90) và hệ
thống kiểm soát nội bộ của đơn vị không được hiệu lực lắm (CR= 0,70).Nếu KTV
muốn đạt được mức rủi ro kiểm toán như mong muốn (AR= 0,05) thì các thủ tục kiểm
toán phải được thiết kế sao cho rủi ro phát hiện(DR) không được vượt quá mức 0,08
(từ công thức tính ra).
Kết quả về rủi ro phát hiện tính được là căn cứ để KTV dự kiến về qui mô,phạm
vi khố lượng công việc cần kiểm toán thích hợp .
Việc xác định phạm vi khối lượng công việc kiểm toán dựa trên kết quả dự kiến
tính đươc theo công thức trên
16
1.6. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
1.6.1 Khái niệm trọng yếu.
Trọng yếu Là một khái niệm để chỉ tầm cỡ, bản chất của các sai phạm( Kể cả bỏ

sót các thông tin tài chính mà trong từng bối cảnh cụ thể ) Nếu dựa vào những thông
tin đó để nhận xét và ra các quyết định thì sẽ dẫn đến ra quyết định sai lầm.
Nói cách khác: Một thông tin được coi là trọng yếu nếu bỏ sót hoặc sai sót thông
tin đó có ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng thông tin
* Vận dụng tính trọng yếu: là một khái niệm quan trọng và xuyên suốt quá trình
kiểm toán từ khâu lập kế hoạch kiểm toán đến khâu hoàn tất làm báo cáo kiểm toán.
Kiểm toán viên vận dụng tính trọng yếu thông qua 5 bước có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau dưới đây:
- Bước 1: Ước lượng sơ bộ ban đầu về mức trọng yếu( MP ):
+Thông qua việc tìm hiểu khách hàng, việc phân tích các báo cáo tài chính khách
hàng, Kiểm toán viên đưa ra ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Đó là lượng trọng
yếu tối đa mà kiểm toán viên cho rằng, ở trong mức đó các báo cáo tài chính có thể có
những sai lầm, nhưng chưa ảnh hưởng đến quan điểm và người sử dụng thông tin đó.
+Chú ý của kiểm toán viên:
(+)Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một khái niệm tuyệt đối.
(+)Nó phụ thuộc vào từng bối cảnh cụ thể và yêu cầu của pháp luật.
(+)Tính hai mặt của trọng yếu ( Định tính và định lượng của trọng yếu )
-Bước 2: Phân bổ mức trọng yếu cho các bộ phận, cac khoản mục của báo cáo tài
chính, hình thành nên mức trọng yếu cho từng khoản mục, từng bộ phận gọi là những
lỗi có thể bỏ qua, có thể tha thứ ( TE)
-Tầm quan trọng của khoản mục
-Mức độ rủi ro của khoản mục
-Bước 3; Ước tính tổng sai sót trong từng bộ phận từng khoản mục:
-Khi tiến hành kiểm toán các khoản mục, các bộ phận. Kiểm toán viên sẽ áp
dụng kỹ thuật chọn mẫu dựa vào những sai phạm của mẫu để ước lượng ra những sai
phạm của khoản mục, của bộ phận, sai phạm này được gọi là phạm dự kiến (PE) được
dùng để so sánh với (TE) giúp kiểm toán viên đưa ra chấp nhận, không chấp nhận
khoản mục hoặc đưa ra các khoản mục kiểm toán. TE>PE có thể bỏ qua và ngược lại.
17
-Bước 4: Ước tính sai số kết hợp của toàn báo cáo tài chính dựa vào sai số ước

tính hay PE của các khoản mục. Kiểm toán viên tổng hợp sai số, kết hợp toàn báo cáo
tài chính.
-Bước 5: So sánh sai số kết hợp của toàn báo cáo tài chính trong bước 4 với bước
1. Việc so sánh này giúp kiểm toán viên đánh giá được, tổng sai phạm của toàn báo
cáo tài chính có vượt quá giới hạn về mức trọng yếu của toàn báo cáo tài chính hay
không. Kết hợp với việc so sánh ở bước 3 của từng khoản mục. Sẽ giúp kiểm toán viên
đưa ra phán quyết chấp nhận toàn bộ, chấp nhận từng phần, không chấp nhận đối với
các báo cáo tài chính.
1.6.2 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xem xét đến các nhân tố có thể
làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính. Đánh giá của kiểm toán
viên về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu
sẽ giúp kiểm toán viên xác định được các khoản mục cần được kiểm tra và lựa chọn
được những thủ tục kiểm toán thích hợp, việc kết hợp các thủ tục kiểm toán thích hợp
đó với nhau sẽ làm giảm được rủi ro kiểm toán tới mức độcó thể chấp nhận được.
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ
lệ nghịh vớinhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại.
Bởi vì khi mức sai sót trọng yếu có thể chấp nhận được càng thấp thì khả năng xảy ra
rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên.
Kiểm toán viên phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán một cách thích hợp, như: khi lập kế hoạch
kiểm toán, nếu kiểm toán viên xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được là thấp
thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Trường hợp này kiểm toán viên có thể
Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực
hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc
giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những
thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Các mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro có thể trình bày trong bảng tóm tắt sau:
Tính
trọng

Xác định mức
trọng yếu ở toàn
Kết hợp việc xem xét bản chất các khoản mục để xem
xét và lựa chọn các khoản mục trọng tâm càn kiểm tra.
18
yếu bộ báo cáo Làm cơ sở phân phối mức trọng yếu cho từng khoản mục
Phân bổ mức
trọng yếu cho
từng khoản mục
của báo cáo tài
chính
Xác định đối tượng chi tết các khoản mục cần kiểm tra.
Xác định thủ tục kiểm toán thích hợp.
Rủi ro
kiểm
toán
Xem xét rủi ro
kiểm toán ở mức
độ toàn bộ báo
cáo tài chính
Xây dựng kế hoạch chiến lược về kiểm toán.
Tổ chức nhân sự, xác định thời gian, chi phí kiểm toán.
Làm cơ sở đánh giá rủi ro kiểm toán và tính trọng yếu
cho từng khoản mục.
Đánh giá rủi ro
kiểm toán ở mức
độ từng khoản
mục BCTC
Từ mức đổủi ro kiểm toán ở mức độ chấp nhận được cho
từng khoản mục, với kết quả đánh giá rủi ro tiềm tàng và

rủi ro kiểm soát, xác định mức độ rủi ro thích hợp làm cơ
sở thiết kế thủ tục kiểm toán.
19
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG LIÊN TỤC TRONG KIỂM TOÁN
2.1 Khái Niệm Về Hoạt Động Liên Tục Trong Kiểm Toán
Hoạt động lien tục là một nguyên tắc cơ bản trong kế toán, đồng thời đặc biệt
quan trọng trong lĩnh vực kiểm toán. Trong thực tế, hàng năm đều có một số chấm dứt
hoạt động vì những lý do khác nhau như phá sản, hết hạn hoạt động… tuy nhiên, phần
lớn trong số chúng đều tiếp tục hoạt động trong những năm kế tiếp. việc lập báo cáo
tài chính đối với đơn vị chấm dứt hoạt động theo những nguyên tắc khác với doanh
nghiệp sẽ tiếp tục hoạt đông. Vì vậy, chuẩn mực kế toán ban hành nguyên tắc “hoạt
động liên tục” như là một nguyên tắc cơ bản trong việc lập báo cáo tài chính.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 thì: Hoạt động liên tục là doanh nghiệp
tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp
k có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô
hoạt động của mình.
2.2. Các dấu hiệu ảnh hưởng đến hoạt động liên tục
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xem xét các dấu hiệu khái niệm
hoạt động lien tục trong có được biểu hiện trong các báo cáo tài chính hoặc trong các
tài liệu khác hay không? Một số dấu hiệu làm cho khái niệm hoạt động lien tục bị vi
phạm như:
2.2.1 Các dấu hiệu về mặt tài chính
Nợ phải trả lớn hơn tài sản hoặc nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản ngắn hạn;
Nợ dài hạn đến hạn thanh toán mà k có khả năng chi trả hoặc đảo nợ. sử dụng
quá nhiều nợ ngắn hạn tài trợ cho tài sản dài hạn;
Các tỷ suất tài chính chủ yếu ở tình trạng xấu;
Kinh doanh bị thua lỗ liên tục, trầm trọng
Trì hoãn hoặc đình chỉ việc phân chia cổ tức;
Không có khả năng hoàn trả các khoản tín dụng đến hạn;

Gặp khó khan trong việc thực hiện các điều khoản của khế ước vay mượn;
Thay đổi điều khoản thanh toán với nhà cung cấp từ hình thức trả chậm sang
hình thức trả tiền ngay;
20

×