Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích bài ca dao “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cố rắn tha ra ngoài đồng…” - văn mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.29 KB, 4 trang )

Phân tích bài ca dao “Bao giờ cho đến tháng ba,
ếch cắn cố rắn tha ra ngoài đồng…”

Đề 44: Phân tích bài ca dao sau:

Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông

BÀI LÀM

Trong văn học dân gian có một thể loại khá đặc biệt là đồng dao. Thực ra, đồng dao cũng là ca dao nhưng
thường sáng tác cho trẻ con đọc hoặc hát khi chăn trâu cắt cỏ trên cánh đồng hoặc lúc vui chơi trên bờ đê,
ngõ xóm. Bản sắc đồng dao gần gũi với ngụ ngôn, có phong vị của thơ trào phúng, kết hợp với chất trữ
tình ngọt ngào vốn có của ca dao, rất phù hợp với tính hồn nhiên, ham hiểu biết của trẻ thơ. Đồng dao có
đề tài muôn hình muôn vẻ. Phạm vi miêu tả của nó rất rộng: từ cây cỏ, loài vật đến sinh hoạt xã hội, các
trò chơi con trẻ v.v… Nó mở ra trước mắt trẻ em cả một thế giới rộng lớn. Chủ đề đồng dao thường diễn
tả tinh thần lạc quan yêu đời, đồng thời ẩn chứa triết lí về nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân lao
động trong xã hội phong kiến ngày xưa. Bài đồng dao dưới đây là bức tranh phong phú về thế giới tự
nhiên và cuộc sống của con người:

Bao giờ cho đến tháng ba,


Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông

Những hiện tượng mà bài đồng dao miêu tả toàn là ngược đời, chẳng bao giờ xảy ra trọng thực tế. Qua
đó, tác giả chế giễu những hiện tượng phi lí trong xã hội, đồng thời đề cập tới sự xoay vần muôn màu
muôn vẻ của thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người.

ágsgsgdgsdgsdgd

Kết cấu của bài đồng dao này là kiểu kết cấu trùng điệp, đề cập tới rất nhiều nhân vật với nhiều sự kiện
thú vị, hấp dẫn. Mở đầu lả một câu hỏi mang tính ước lệ: Bao giờ cho đến tháng ba?Đọc toàn bộ bài
đồng dao, ta thấy rất nhiều hiện tượng trong bài không gắn với tháng ba. Chẳng hạn, tháng ba chưa có
hồng, chưa có cào cào, v.v… Mặt khác, nếu các hiện tượng như Nắm xôi nuốt trẻ lên mười, Con gà be
rượu nuốt người lao đao là có thật thì nó xảy ra quanh năm chứ chẳng cứ gì tháng ba mới có.

Những hiện tượng được miêu tả trong bài đồng dao này nếu nói xuôi thì chẳng có gì để nói. Nói ngược
mới có chuyện, chuyện cuộc đời cũng như chuyện nghệ thuật. Cách nói ngược này rất phổ biến trong hò
vè, ca dao, chẳng hạn nói ngược trong vè: Lên núi đặt lờ, xuống sông bổ củi; nói ngược trong ca dao ;
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa, Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình, Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim thái ghém
thì mình lấy ta…


Trong toàn bộ mười một câu tiếp theo của bài đồng dao, các tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật nói
ngược làm phương tiện nghệ thuật chủ đạo nhằm lôi cuốn sự chú ý qua người nghe và khắc sâu kiến thức
muốn truyền đạt; qua đó kín đáo gửi gắm suy nghĩ và tình cảm của mình.

Tháng ba là thời gian cuối xuân, đầu hạ với những cơn mưa rào, báo hiệu sự thay đổi của thời tiết, khí
hậu. Ở đây, tháng ba mang tính chất ước lệ, tượng trưng cho khao khát đổi thay trong cuộc sống của con
người. Câu hỏi tu từ mở đẩu bài đồng dao thể hiện khao khát, mong mỏi ấy:

Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,

Ếch là con vật bé nhỏ thựờng sống quẩn quanh ở góc ao, vũng nước; còn rắn là con vật có nọc độc nguy
hiểm, kẻ thù xưa nay của ếch. Tháng ba đến tức là cơ hội vừa đến. Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, thật
bất ngờ và hả hê, thỏa mãn vì ếch đã trả được mổi thù truyền kiếp.

Lợn là con vật hiền lành, chỉ sống loanh quanh trong vườn, trong chuồng, là mồi ngon của con hùm to
lớn, hung dữ. Vậy mà giờ đây, hùm lại ngoan ngoãn nằm im cho lợn liếm lông. Quả là chuyện lạ, chuyện
thay bậc đổi ngôi!

Tiếp theo, bài đồng dạo chuyển sang đề tài sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày:


Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.

Những quả hồng xinh xắn, đỏ tươi, chín mọng thường thấy trong dịp Tết Trung thu là món quà quý giá
mà con cháu trân trọng dâng lên để mừng thọ lão tám mươi. Nắm xôi là món quà thơm ngon hằng ngày
rất được ưa thích của trẻ lên mười. Hình ảnh nắm xôi và trẻ lên mười thật xinh xắn, nhỏ bé, dễ thương, dễ

mến!

Nhưng cuộc sống đâu chỉ có toàn chuyện vui, chuyện đáng yêu mà bên cạnh đấy còn có những chuyện
đáng trách, đáng ghét nữa. Đó là hình ảnh người uống rượu đến mức say nhè mà bài đồng dao gọi là
người lao đao. Hình ảnh người say ngật ngưỡng, chệnh choạng, đi không vững sau khi nhắm hết con gà,
be rượu thật là đáng cười. Những lúc đó thì đúng là rượu nuốt người, chứ đâu phải người nuốt rượu nữa.
Từ xưa, đồng dao đã giễu cợt, châm biếm tệ nghiện rượu, một thói xấu chỉ đem lại tác hại cho cuộc sống
con người.

Ở đoạn cuối của bài đồng dao, tác giả tiếp tục dẫn dắt các em nhỏ đến với thế giới sinh động của các loài
vật và cây cỏ. Nghệ thuật nói ngược làm cho việc miêu tả thêm ấn tượng và hiệu quả:

Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đẩu bồ nông.

Trong cuộc sống thường ngày, mọi việc diễn ra ngược lại như vậy: trũm được dùng để bắt lươn, cá rô bắt
cào cào, bò ăn lúa mạ, trâu ăn cỏ năn, cỏ lác, diều hâu bắt gà con và bồ nông đuổi đánh chim ri… Nhưng
với cái nhìn hài hước, hóm hỉnh, mọi trật tự của thiên nhiên có sự đảo lộn. Các động từ đuổi bắt, nhảy lên,
rình mò, đuổi đánh vỡ đầu thật sinh động, ngộ nghĩnh, có khả năng miêu tả và biểu cảm kì lạ.

Như trên đã nói, nghệ thuật miêu tả của bài đồng dao vô cùng độc đáo. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa thủ pháp nội ngược, yếu tố thậm xưng, ước lệ với giọng điệu hài hước, dí dỏm. Nếu chúng ta lược bỏ
giọng điệu chế giễu những hiện tượng phi lí ngược đời thì bài đồng dao là bức tranh sinh động về con
người và cuộc sống, nhằm mục đích cung cấp những kiến thức cơ bản về cỏ cây (quả hồng, lúa mạ, cỏ
năn, cỏ lác), về loài vật (cá rô, con gà, con lươn, cào cào, chim ri, con bò, con trâu, diều hâu, con hùm,
con ếch, bồ nông), về đồ vật, sự vật (nắm xôi be rượu) và về con người (lão tám mươi, trẻ lên mười,

người lao đao…). Đó là những kiến thức đầu đời quý giá giúp cho trẻ em làm quen, tìm hiểu, khám phá,
tiếp cận dần dần với thế giới tự nhiên phong phú và xã hội con người phức tạp. Cách nói ngược gây ấn
tượng và lôi cuốn sự chú ý, tạo sức hấp dẫn, gợi trí tò mò, giúp các em dễ thuộc lòng bài đồng dao để từ
đó quan tâm tìm hiểu, suy nghĩ về thế giới xung quanh.

Ngày nay ở nông thôn, mỗi khi cùng nhau vui chơi, nhảy múa, trẻ em vẫn hát đồng dao để làm cho không
khí càng thêm hào hứng, sôi động. Có thể ý nghĩa sâu xa, thâm thúy của bài đồng dao này con trẻ chưa
hiểu hết, nhưng lời hát, nhịp điệu và trò chơi đi kèm bài đồng dao thì các em đón nhận một cách dễ dàng.
Rồi sau này lớn lên, các em sẽ suy ngẫm ra ý tứ sâu xa của bài đồng dao mà lúc còn bé các em đã từng
say mê, yêu thích và càng thương yêu thêm chốn quê nghèo, nơi minh đã sinh ra và lớn lên.

Cũng như nhiều bài đồng dao khác, bài đồng dao bao giờ cho đến tháng ba… mãi mãi hấp dẫn người lớn
và trẻ em. Nó gợi mở những hiểu biết, suy nghĩ về thiên nhiên, về thế giới động vật, về con người, về
khao khát ước mơ công lí, ước mơ hạnh phúc. Sức sống của đồng dao có thể ví như một dòng suối trong
veo, cứ róc rách tuôn chảy mà không bao giờ khô cạn.

Theo: Thu Hương

×