Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

nghệ thuật điêu khắc với chất liệu gốm việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.63 MB, 131 trang )

Trờng đại học mỹ thuật công nghiệp
= = = = = = = =
Lê anh vũ
luận văn thạc sĩ
Đề tài:
Nghệ thuật điêu khắc với chất liệu gốm
việt nam hiện nay
Giáo viên hớng dẫn khoa học:
TS. Phạm Hoàng Vân
Chuyên ngành thiết kế mỹ thuật công nghiệp
Mã số: 062135
Hà nội - 2011
1
1
phần nội dung
chơng i
nghệ thuật điêu khắc trong dòng chảy của sự phát
triển nghề gốm Việt Nam
1.1. Lịch sử phát triển và mối quan hệ giữa điêu khắc với nghề gốm Việt Nam.
1.1.1. Thời kỳ Nguyên Thủy.
Nhìn lại quá khứ lịch sử, từ đầu thời đại đồ đá mới, gốm đất nung Việt
Nam đã phổ biến rộng rãi tuy còn ở dạng thô sơ. Từ cuối thới đại đồ đá mới và
sang thời đại đồ đồng Gốm Việt Nam đã đợc làm bằng nhiều kiểu khắc, vạch.
Đặc biệt, một số gốm xơng đất mịn, trang trí nhiều chỗ hết sức tỷ mỉ, lại còn đợc
tô, hoặc áo rất đều bằng chất trắng, chất màu son lên các hình trang trí trớc khi
nung. Đó là những mảnh gốm phát hiện ở di chỉ Gò Bông (Vĩnh Phú) thuộc gốm
Phùng Nguyên muộn ( khoảng 4.000- 3.500 năm về trớc). Đó là gốm Sa Huỳnh
(Nghĩa Bình), mà địa bàn phân bố khá rộng ở nhiều tỉnh miền Nam, niên đại
sớm từ thế kỷ thứ 5 trớc Công nguyên, đã có nhiều loại chum to có nắp đậy, có
loại tô màu đá son và màu vàng (chất chì non lửa ) lên các hoa văn nổi rất đẹp.
Đó là gốm đồng bằng sông Cửu Long khoảng từ đầu Công nguyên trở về trớc


cũng có nhiều hình dáng, nhiều hoa văn phong phú. Đặc biệt gốm Dốc Chùa
( Sông Bé ) khoảng trên 1.000 năm trớc CN, đã biết tô màu nâu, màu đen lên hoa
văn. Nhìn lại các loại gốm nguyên thủy có gia công trang trí đều có trên cả ba
miền, điều nổi bật là về các mặt hình dáng, trang trí khắc vạch và cả về mặt dùng
chất liệu tô mầu, rõ ràng là có mối liên quan khăng khít trên cùng một dải đất cổ
xa của đất nớc ta.Nh vậy, có thể nói đồ gốm Việt Nam ra đời kể từ ngày sơ khởi
đã từ rất lâu, nhng qua khảo cổ thì những tợng gốm cổ nhất đầu tiên mà hiện nay
chúng ta có đợc là những tợng gốm tìm thấy trong các di chỉ ở Đồng Đậu, xóm
Rền ( Vĩnh phú ) đã có cách đây 4000 năm.
2
2
Gốm đồng đậu thời tiền sử Gốm gò mun thời tiền sử
Có thể nêu ra những tác phẩm điển hình tiêu biểu cho nghệ thuật điêu
khắc thời kỳ sơ khởi này là tợng gốm nhỏ hình con bò với t thế đang húc lao về
phía trớc, các khối ở đây đơn giản thể hiện đợc sức sống của những bắp thịt
trong mình nó, chứng tỏ ngời nặn tợng đã nắm bắt đợc các đặc điểm và cái thần
của con vật và diễn tả bằng hình khối một cách nhẹ nhàng sinh động với những
khối gọn, đơn giản, chắt lọc một cách tinh tế.
Ngời ta còn tìm đợc tợng tròn đầu gà bằng đất nung ở di chỉ xóm Rền
(Vĩnh Phú), có thể đây là một phần lớn của các tợng gà và chỉ căn cứ vào chiếc
đầu ta có thể đoán dịnh đợc loại tợng này không phải là tợng nhỏ. Kỹ thuật thể
hiện dã khá tinh vi: các chi tiết ở đầu gà nh mỏ, mào, tai đều đợc diễn tả đầy đủ
nhng cách tạo khối lại không tách bạch với nhau mà liên kết thành những góc
gãy làm cho toàn khối toát lên vẻ mịn màng liên tục. Đặc biệt với đôi mắt, ngời
nặn tợng đã mạnh dạn dùng một viên đất tròn nhỏ ấn dẹt xuống chứ không vẽ
nét hoặc khoét sâu nh các cách làm khác. Rõ ràng quan điểm về thẩm mỹ, về ph-
ơng pháp diễn tả đã chủ động sáng tạo hơn thông qua t duy và mỹ cảm với cá
tính riêng của ngời nghệ sĩ, mà không lệ thuộc vào việc đơn thuần sao chép hình
tợng một cách tự nhiên chủ nghĩa nữa. Ta còn có thể cảm nhận đợc điều đó qua
bức tợng nhỏ nặn một ngời đang cỡi lên lng con tê giác: con ngời bé nhỏ, lng cúi

rạp, tay bám chắc trên lng con vật gần nh khó có thể tách rời và đang cố tình bắt
con tê giác phải thuần phục mình mặc dù con vật ở đây đợc tạo khối với một
thân hình to lớn béo mập, chân to, đuôi quặn, đầu ngửa cao, mắt mở to và có vẻ
nh đang ngoác mồm dọa dẫm. Một vấn đề đợc đặt ra ở đây là liêu những cách
3
3
tạo hình nh vậy chỉ là một sự ngẫu nhiên hay chỉ là một sự biểu đạt hứng khởi
đơn thuần về nghệ thuật? Ngắm nhìn kỹ bức tợng ta sẽ thấy không đơn thuần nh
vậy.Toàn bộ t thế và cách tạo hình khối của bức tợng toát lên sức mạnh vô địch
của con ngời trong quá trình chinh phục thiên nhiên; dù bé nhỏ nhng với bộ óc
thông minh họ đang chinh phục những con thú rừng hung ác.Phải chăng đó cũng
chính là ý tởng kêu gọi, cổ vũ cho sự thuần hóa các con vật trong thiên nhiên
hoang dã thành những gia súc, vật nuôi trong nhà để phục vụ lợi ích cho cuộc
sống con ngời.
Những tợng gốm ở thời kỳ Nguyên thủy tuy còn bé nhỏ, đơn sơ nhng
chúng giúp chúng ta rút ra đợc nhiều kết luận khá quan trọng: trớc tiên là sự
phản ánh con ngời đơng đại với bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ phát triển đã
tạo nên đợc những pho tợng đẹp, đơn giản chắt lọc và giàu tính trang trí, thứ hai
là nêu lên đợc ớc vọng của con ngời muốn chinh phục thiên nhiên, thuần hóa các
loại gia súc, muốn vơn tới một sức mạnh cải tạo cuộc sống. Bản thân những tợng
nhỏ này cũng có thể là mẫu của những con vật rất phát triển cùng thời và con ng-
ời đang muốn truyền những kinh nghiệm hoặc cách nhận dạng về hình dáng của
chúng giống nh ngời châu âu đã dùng cách vẽ lên những hang động lớn các hình
động vật để tuyền đạt kinh nghiệm săn bắn.
Nh vậy tợng gốm Việt Nam ngay từ thủa sơ khai đã không đơn thuần chỉ
mang tính chất nh những đồ chơi, đồ trang trí hay đồ thờ cúng mà đã mang đầy
đủ cảm nhận về thẩm mỹ, những mong ớc vơn lên trong cuộc sống, và mang tính
giáo dục thông qua những hình tợng nghệ thuật và đặc biệt là chúng đợc tạo bởi
loại chất liệu rất dễ tạo hình, rất gần gũi với đời sống là đất làm gốm.
Có thể nói thêm rằng, thời tiền sử Việt Nam đợc tính từ nền văn hóa Núi

Đọ cách đây 300.000 năm đến nền văn hóa Đông Sơn cách đây 2500 năm. Thời
kỳ này chắc hẳn mọi hoạt động văn hóa cha phân chia rõ ràng trong đó bao gồm
cả nghệ thuật. Vì thế có thể nói, không thể có một nền điêu khắc tiền sử, mà chỉ
có những biểu hiện có tính điêu khắc mà thôi. Đáng kể nhất là những hình khắc
trên hang Đồng Nội (Lạc Thủy-Hòa Bình) cách đây 10.000 năm, hình khắc có ba
mặt ngời và một mặt thú đợc khắc một cách sơ lợc, trên đầu có cắm sừng hay
lông chim. Điều đó chứng tỏ ngời Hòa Bình đã nhìn thấy gơng mặt mình dù cha
rõ ràng nhng đã khôn ngoan biết đội lốt thú một cách khái quát khi săn bắn.
Ngoài ra còn nhiều những tợng gốm và đá nhỏ chừng vài cm xuất hiện trong các
di chỉ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chỉ nh những hình thể trang trí gắn
với các đồ trang sức và công cụ lao động. Đến nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng
4
4
với các trống đồng và các sản vật điêu khắc nhỏ gắn với đồ tế khí, đồ gia dụng
đẹp một cách tinh tế trong thẩm mỹ mang tính bạo lực. Đó là các tợng ngời biến
hình thành cán dao găm, các tợng hơu voi, cóc, rùa trên các trống đồng, thạp
hoặc thạp bằng đồng, Đặc biệt là bốn cặp tợng nam nữ giao phối trên nắp thạp
đồng Đào Thịnh với một nhãn quan phồn thực. Thờ thần mặt trời, tế lễ cầu ma
hay tang ma là âm hởng chủ đạo qua các hình khắc trống đồng Đông Sơn còn
điêu khắc đóng vai trò nhấn mạnh tính hình khối rõ ràng của nhạc khí, tế khí và
đồ dùng. Điêu khắc tiền sử hoàn toàn thuần Việt trớc khi các cuộc xâm lợc từ
phơng Bắc tràn xuống.
Gốm tiền sử tại khu mộ táng của
c dân Sa Huỳnh
Gốm Phùng Nguyên thời tiền sử
1.1.2. Thời kỳ Bắc thuộc.
Mối quan hệ giữa hai nền văn hóa Việt Nam và Trung Quốc đã có từ lâu
đời. Một thời nghề gốm Việt Nam cũng ít nhiều có chịu sự ảnh hởng của đồ gốm
Trung Quốc trong thới kỳ Bắc thuộc. Tuy nhiên gốm Việt Nam đã biết khai thác
đầy sáng tạo nghệ thuật gốm nớc láng giềng mà chủ yếu là khai thác kỹ thuật và

phong cách dân gian. Qua đó, đã biết biến chỗ yếu thành chỗ mạnh của mình,
tiếp tục góp phần tạo ra bộ mặt riêng của gốm Việt Nam. Đó là điều đáng tự hào
của dân tộc. Thế giới ngày nay, những ai đã từng hiểu biết và yêu nghệ thuật
truyền thống Việt Nam cũng đều dễ dàng tìm thấy những điều rất đáng hấp dẫn
của nghệ thuật gốm Việt Nam.
Ngoài một số đồ gốm phỏng theo kiểu dáng gốm Trung Quốc tìm thấy
trong các ngôi mộ Hán, còn không ít gốm đợc tự sản tự tiêu trong các cộng đồng
làng xã thờng mang nhiều hình dáng của gốm nguyên thủy Việt Nam, mà cho
đến nay, một số hình dáng đó còn đợc bảo lu trong các lò gốm dân gian. Nh các
5
5
loại nồi miệng loe, các loại âu, vò, bát và đĩa chân cao. Ngay các hiện vật tìm đ-
ợc trong các ngôi mộ Hán, vẫn có một số mang nét thuần túy Việt Nam. Nh tại
di chỉ Cụ Trì (Thanh Miện- Hải Dơng), một khu vừa là nơi c trú vừa có mộ Hán,
và ở nhiều nơi c trú khác của ngời Hán lúc bấy giờ. Ngôi mộ ngời Hán đào đợc ở
Ninh Sơn (Chơng Mỹ-Hà Sơn Bình), niên đại khoảng thế kỷ thứ VII, thứ VIII thấy
có một số hiện vật gốm Trung Quốc, một số phỏng theo gốm Hán, và còn một só
hoàn toàn gốm Việt Nam, trong đó là một số bát, âu men ngọc, đặc biệt có một con
ngựa bằng sành trắng dáng thô mập, lốm đóm hoa nâu, khác hẳn kiểu ngựa đất nung
nhà Đờng. Chất đất, men, màu ở đây hoàn toàn giống với nhiều đồ gốm hoa nâu thời
Lý sau này.
ấm đầu gà kiểu Hán thế kỷ I - III ấm đầu hình con vịt thế kỷ VI - VII
ấm men trắng nhạt thế kỷ I - III ấm men trắng xám kiểu Đờng
thế kỷ VII - IX
1.1.3. Thời kỳ Lý-Trần.
Đại Việt trở thành quốc gia độc lập, hùng cờng sau khi Lý Công Uẩn lên
ngôi và dời đô từ Hoa L về Thăng Long. Những đồ gốm tìm đợc trong khu vực
6
6
Hoàng Thành là những bằng chứng quan trọng để có thể nói rằng: Từ thời

Lý,Việt Nam cũng đã sản xuất đợc những đồ gốm khá tinh xảo. Trớc đây, khi ch-
a có những bằng chứng này, nhiều học giả nớc ngoài vẫn nghĩ rằng ngoài gốm
hoa nâu thì các loại gốm khác của thời Lý chủ yếu đợc du nhập từ Trung Quốc.
Họ không tin thời Lý đã có thể sản xuất đợc những loại gốm men trắng và men
ngọc tinh xảo nh gốm thời Tống. Nhiều su tập gốm Việt Nam thời Lý do ngời
Pháp đào đợc tại Thăng Long vào đầu thế kỷ XX từng đợc gọi là gốm Tống với
hàm nghĩa đó là gốm của Trung Quốc thời Tống. Một số học giả Việt Nam cũng
từng đa ra quan điểm tơng tự. Họ cho rằng thời Lý công nghệ sản xuất gốm sứ
cha phát triển, do đó, những loại gốm men trắng và gốm men xanh ngọc của
thời kỳ này thờng đợc xếp vào hệ gốm Tống. Nhng những quan điểm đó giờ đây
đã không còn đứng vững bởi những chứng cứ mới đầy sức thuyết phục đợc tìm
thấy tại khu vực khai quật. Tại nhiều vị trí, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều đồ
gốm sứ cao cấp men trắng, men xanh lục, men ngọc, men nâu và men vàng thời
Lý.
Hũ, chén, bát thời Lý
Men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mợt nh gốm Tống và phần nhiều về
chất lợng đã đạt tới trình độ sứ nh sứ Tống. Nhiều tiêu bản cho thấy thời Lý
cũng sản xuất loại gốm men trắng xanh và có hoa văn nh gốm Nam Tống lò
Cảnh Đức Trấn. Sự khác nhau giữa gốm trắng Tống và gốm trắng Lý chủ yếu đ-
ợc nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xơng gốm và kỹ thuật tạo
dáng. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Tống và gốm trắng
Lý. Nhng nếu có đợc cái nhìn hệ thống từ những đồ gốm trắng Lý đích thực,
thuần Việt qua đồ án trang trí hình rồng và hoa lá mà phong cách của nó giống
hệt nh những hình chạm khắc trên đá trong kiến trúc chùa tháp thời Lý (tháp Ch-
7
7
ơng Sơn, chùa Phật Tích), chắc chắn ta sẽ cảm nhận đợc đầy đủ và rõ ràng hơn
về gốm men trắng Lý.
Mảnh bệ tháp sứ trắng trang trí hình rồng (Hố Bia) và mảnh bệ tháp sứ
trang trí hình tiên nữ (Apsara)(Hố B16) là minh chứng sinh động cho thấy trình

độ phát triển rất cao của công nghệ sản xuát đồ sứ trắng thời Lý. Bằng chứng
thuyết phục khác là trong số đồ sứ trắng Lý tìm đợc trong Hoàng thành có những
loại bát, đĩa, nắp hộp, đài sen bị méo hoặc cháy do quá lửa cho thấy nó đợc sản xuất
tại chỗ. Suy đoán này đợc khẳng định rõ khi tại các hố ở Khu D đã phát hiện đợc
hàng nghìn mảnh bao nung gốm cùng nhiều loại con kê, dụng cụ thử men, đặc biệt
là những đồ gốm lớn bị sống men, nh chiếc dĩa có đờng kính miệng 39,5 cm ở hố
D5, cho thấy khả năng có những lò sản xuất gốm thời Lý ở đâu đó quanh khu vực
này.
Mảnh tháp sứ trắng trang trí tiên nữ (apsara) thời Lý
Bằng chứng quan trọng về gốm men ngọc Lý là nhóm bát đĩa trang trí văn
in hoa cúc đây nh kiểu gốm Tống và nhóm bát đĩa khắc chìm hoa sen mang
phong cách Việt đặc trng. Đây là loại gốm có chất lợng cao, men phổ biến có
màu xanh ngọc sắc đậm, xơng gốm trắng, mịn và có nhiều điểm khác biệt so với
gốm thời Trần về kỹ thuật tạo chân đế. Bằng chứng sản xuất tại chỗ của loại gốm
này cũng đợc khăng định rõ qua những đồ gốm phế thải, đặc biệt là qua những
mảnh khuôn in hoa cúc phát hiện đợc ở hố D6. Hoa văn trên khuôn in này có
phong cách nh hoa văn trên đá men ngọc tìm thấy trong lòng giếng thời Lý ở hố
A10 và cả hai đều phản ánh sự ảnh hởng khá đậm phong cách trang trí hoa cúc
dây của gốm Tống. Theo nhiều t liệu thì hoa cúc dây kiểu này là loại hoa văn
trang trí kinh điển của gốm Tống Trung Quốc, có niên đại từ 1090 đến1096. Dựa
vào bằng chứng tin cậy này ta có thể nhận diện chinh xác về gốm men ngọc Lý.
Phát hiện có ý nghĩa lớn về gốm thời Lý trong Hoàng thành Thăng Long là nhóm
8
8
đồ gốm men xanh lục (vert glazed). Đây là dòng gốm có màu men quyến rũ, hoa
văn trang trí đẹp với các đề tài hoa lá, trong đó có những đồ tinh xảo trang trí
hình rồng. Chiếc nắp hộp tìm thấy ở hố A9MR là một trong những tỉêu bản đặc
sắc, cho thấy sự phát triển cao của gốm men xanh lục Lý. Nắp có đờng kính
18,5cm, ở giữa trang trí nổi hình một con rồng uốn 18 khúc nằm trong vòng tròn,
xung quanh là dải văn mây hình khánh hay văn nh ý, viền ngoài cùng là dải văn

chấm tròn nhỏ nh kiểu nhũ đinh. Do đợc tạo nổi và đan xen là các lỗ tròn trổ
thủng, nên men dồn đọng không đều và tạo nên những mảng màu đậm nhạt khác
nhau trông rất sinh động. Sự tinh tế về thẩm mỹ và phong cách thể hiện hình
rồng trên nắp hộp này giống nh hình rồng chạm trên đố đá tròn trang trí trên tháp
Chơng Sơn (Nam Định) có niên đại Lý (1007).
Nắp hộp gốm men xanh lục Lý
Qua những chứng tích su tập đợc về gốm thời Lý tìm thấy trong Hoàng
thành ta thấy: về kỹ thuật đồ gốm thời Lý thờng thanh thoát, trang nhã trong
hình khối nhng lại rất cầu kỳ, tinh mỹ trong đờng nét hoa văn trang trí. Đồ án
trang trí phổ biến là hoa sen, hoa cúc hay hình rồng, tiên nữ và văn nh ý.Các đề
tài mang đậm yếu tố Phật giáo và một vài khía cạnh có ảnh hởng khá nhuần
nhuyễn đến mức tinh tế nghệ thuật gốm thời Tống.Tuy nhiên bên cạnh đó, nhiều
mẫu hình, nhiều kiểu dáng, đặc biệt là cách trang trí diềm văn cánh sen đắp nổi
hay diềm hoa văn vòng tròn nhỏ mà ta thấy phổ biến trên rất nhiều đồ gốm thời
Lý lại cho thấy rõ thêm truyền thống rất riêng biệt của gốm Việt Nam. Truyền
thống riêng biệt ấy đợc kết tinh và thể hiện rõ qua đồ gốm hoa nâu vốn từng đợc
coi là sản phẩm độc đáo và đặc sắc nhất của gốm Việt Nam. Do vậy có ý kiến
cho rằng những sản phẩm gốm này đợc sản xuất nhằm phục vụ cho tầng lớp trên
9
9
của xã hội đơng thời. Dựa vào yếu tố ấy và so sánh với những su tập gốm phát
hiện đợc ở những khu vực khác ngoài Hoàng thành ta có thể thấy: bên cạnh đồ
gốm tạm gọi là cung đình ấy còn có nhiều đồ gốm mang đậm nét dân gian
và nhất là những đồ gốm dùng trong gia đình, đồ gốm phục vụ đời sống hàng
ngày: thạp, liễn, ấm, bát, đĩa, chậu đến tận ngày nay những đồ gốm thuộc loại
này còn khá nhiều, một phần đã đợc lu giữ ở bảo tàng một phần tản mát trong
nhân dân, phần lơn chắc hẳn còn cha đợc khai quật hết. Mặc dù chỉ là đồ gốm
gia dụng, chúng vẫn biểu hiện đợc óc sáng tạo độc đáo về hình dáng cũng nh
hình thức trang trí của những nghệ nhân tài ba sống cách đây hàng mời thế kỷ.
Những sản phẩm đó cho đến nay vẫn còn giữ đợc hơi ấm, còn phảng phất những

tâm hồn của các bậc tiền nhân đã sáng tạo ra thế kỷ đồ gốm thời Lý.
Dới triều đại thời Lý Phật giáo trở thành quốc đạo phát triển cực thịnh, tới
mức nh sử gia Lê Văn Hu đã nói : Nhân dân quá nửa là s sãi, trong nớc chỗ nào
cũng có chùa chiền . Các trung tâm Phật giáo ở Quảng Ninh, Hà Nam Ninh và
đặc biệt ở Bắc Ninh, quê hơng nhà Lý đợc xây dựng đồ sộ theo kiểu thức kiến
trúc Đông Nam á, kéo theo một nền điêu khắc Phật giáo. Các chùa thời Lý th-
ờng có 4 cấp ăn sâu và cao dần theo triền núi, hoặc có mặt bằng hình vuông,
hình tròn, trung tâm là tháp cao có tơng Phật đặt ở trong. Tợng A Di Đà chùa
Phật Tích làm năm 1057 là tác phẩm đầu tiên của thé giới Phật giáo vĩnh hằng
đầu tiên ở Bắc Bộ. Các tợng Kim Cơng chùa Long Đọi, tợng đầu ngời mình
chim, các bức chạm khắc chùa Bà Tấm, chùa Chơng Sơn đều thống nhất một tinh
thần viên mãn, cá tính bị tan biến sau lớp đăng ten trang trí hoa văn dày đặc trên
bề mặt. Cột biểu chùa Dạm (1086) vay mợn từ biểu tợng Linga- Yoni Champa, là
tác phẩm đồ sộ cao5,4m có tính hoành tráng. Tinh thần Thiền Nhà Lý đã chi
phối tính ôn hòa và mạnh mẽ bên trong của các tác phẩm điêu khắc vừa khái
quát về tổng thể, kỹ lỡng về chi tiết ở các công trình kiến trúc kỳ vỹ mà từ đó các
bậc Thiền s có thể Hú lên một tiếng lạnh cả trời (Đạo Hạnh).
10
10
Tháp men trắng thời Lý
Ngói úp nóc trang trí hình chim phợng
thời Lý
Đồ gốm thới Trần đợc tìm thấy khá nhiều trong các hố khai quật và thờng
đợc tìm thấy cùng với những đồ gốm trang trí kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ
này có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm : men trắng, men ngọc, men xanh lục,
men nâu, hoa nâu và hoa lam.
Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần
cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng màu men và hoa
văn trang trí. Cùng chính vì đặc thù này nên việc phân tách giữa gôm thời Lý và
gốm thời Trần là điều không phải dễ dàng. Tuy nhiên, dựa vào một số kết quả

nghiên cứu kỹ thuật tạo chân đế, hiện nay chúng ta bớc đầu đã có thể phân biệt
đợc sự khác nhau giữa gôm Lý và gốm Trần. Nhìn chung kỹ thuật tạo chân đế
của gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ nh gốm thời Lý. Đặc biệt đối với
gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn
phổ biễn loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Dờng nh đây là loại hoa văn rất
phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so
với gốm thời Lý. Tại hố đào ở khu D cũng đã tìm thấy mảnh khuôn in gốm thời
kỳ này cùng nhiều mảnh bao nung, con kê và đồ gốm phế thải. Bên cạnh sự
phong phú các loại hình đồ gốm độc sắc (men trắng, men ngọc, men nâu) tại khu
vực khai quật đã tìm đợc khá nhiều đồ gốm hoa nâu có chất lợng cao trong đó
đáng chú ý nhất là chiếc thạp lớn có nắp trang trí hoa sen và những chiếc vò, chậu
trang trí hoa văn dây lá. Đặc biệt tại hố D5 còn tìm thấy một chiếc chậu trang trí hình
bốn con chim đang đi kiếm mồi trong bốn t thế khác nhau, xen giữa là cành lá sen và
hoa sen nhỏ. Theo t liệu hiện vật thì đây là một trong những tiêu bản gốm hoa nâu
thời Trần đặc sắc ở Việt Nam.
11
11
Gốm dân dụng thời Trần Gốm hoa nâu thời Trần
Nét mới riêng biệt và rất đáng lu ý về gốm thời Trần là sự xuất hiện dòng
gốm hoa lam. Loại gốm này đợc tìm thấy khá nhiều trong các hố khai quật và
phổ biến là bát, đĩa vẽ cành hoa cúc màu nêu sắt và xanh cụ ban giống nh những
đồ gốm đã đợc xuất khẩu sang Đông Nam á, Trung Đông và Nhật Bản vào
khoảng giữa thế kỷ 14. Đáng lu ý là tại các hồ ở khu D đã tìm thấy chồng đĩa lớn
vẽ cành hoa cúc cùng nhiều chồng dính của loại gốm men độc sắc trang trí văn
mây hình khánh, chim phợng và hoa lá. T liệu này góp phần khẳng định thêm rằng
ngoài những dấu hiệu về gốm thời Lý nói trên khả năng ở đây còn có những lò gốm
thời Trần.
Thạp hoa nâu thời Trần Một số bát và đĩa men ngọc và da lơn
thời Trần
Có thể coi gốm thời Lý-Trần (thế kỷ 11-14) là đỉnh cao của gốm Việt. Gần

bốn thế kỷ, từ thời Lý sang thời Trần, nghề gốm đạt đợc những thành tựu rực rỡ
trên mọi phơng diện. Từ quy mô sản xuất, chủng loại, chất liệu đều đợc mở
rộng. Kỹ thuật tạo hoa văn thời kỳ này có ba loại cơ bản là đắp nổi, khắc chìm và
in khuôn trong. Cũng có nhiều loại không trang trí hoa văn, nhng vẻ đẹp của
12
12
hình dáng, màu men cũng không kém phần đặc sắc. Những trung tâm sản xuất
gốm nổi tiếng thịnh vợng vào thời kỳ này và còn lu truyền đến tận ngày nay nh
Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hơng Canh (Vĩnh Phúc),
Quế Quyển (Nam Định), Chum Thanh (Thanh Hóa).
Thời Lý nổi bật với kỹ thuật tạo gốm bằng men ngọc, men hoa nâu. Các
loại vật dụng thờng thấy nh đĩa men lục bên trong có họa tiết hoa nổi là dây cúc,
các loại tô men ngọc, ấm trà hình quả da, bình tỳ bà thờng đợc tạo hình thanh thoát,
trang nhã, nhng lại rất cầu kỳ, tinh mỹ trong từng đờng nét, hoa văn trang trí.
Ngợc lại, gốm thời Trần có nét thô mộc, đa dạng hơn về họa tiết với loại
gốm in khuôn trong. Thời kỳ này thấy rõ ảnh hởng của văn hóa Phật giáo lên các
tác phẩm gốm với hoa văn trang trí phổ biến là hoa sen, cũng có hoa cúc hay
hình rổng phợng, tiên nữ.
Gốm men ngọc, gốm hoa nâu của thời Lý vẫn tiếp tục phát triển vào thời
Trần nhng cũng có sự ra đời của dòng gốm mới men xanh trắng với các sản
phẩm tiêu biểu nh: âu, chậu, thạp, ang hoa nâu, tớc, ấm men ngọc, thố men
trắng. Gốm thời Trần không chỉ đợc sản xuất trong nớc mà còn xuất khẩu sang
các nớc Malaisia, Indonesia, Philippines.
Nhà Trần thay thế nhà Lý suy tàn trong sự phát triển đi lên của Phong kiến
Việt Nam. Ba lần chống quân Nguyên Mông thắng lợi, bảo tồn giang sơn đã tạo
nên một hào khí oai hùng cho dân tộc và thấm đẫm trong văn học nghệ thuật;
mặt khác, chiến tranh nhiều lần tàn phá đất nớc, hoạt động nghệ thuật bị hạn
chế, cuối cùng chế độ điền trang thái ấp cũng tan vỡ trong cuộc cải cách của Hồ
Quý Ly vào cuối thế kỷ 14. Dù chùa triền không đợc đồ sộ, nhng đạo Phật vẫn
thịnh hành. Điều khắc Phật giáo hiện cha tìm đợc pho tợng nào nhng còn lại rất

nhiều bệ tợng đá hoa sen hình hộp trên đặt tợng Tam Thế (Quá Kh-Hiện Tại-Vị
Lai) ở các chùa Thầy, chùa Bối Khê, chùa Dơng Liễu. Chạm khắc gỗ trang trí
kiến trúc thấy ở chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hng Yên) với các
đề tài Rồng chầu lá đề, Tiên nữ dâng hoa, Tiên nữ tấu nhạc, Tiên nữ dâng
hơng phong cách hài hòa thời Lý đã biến đổi, phong cách Trần mạnh mẽ, khái
quát và quan tâm đến tính biến động của cấu trúc tổng thể hơn là hình mô tả.
Trong các lăng mộ đời Trần, điêu khắc đã chủ yếu là tợng ngời, tợng thú chầu và
làm thần canh giữ cho thế giới vĩnh viễn của ông vua có vẻ đẹp trầm mặc và
sinh động. Tợng hổ ở lăng Trần Thủ Độ, tợng trâu và chó ở lăng Trần Hiền Tông,
tợng quan hầu ở lăng Trần Anh Tông là lối điêu khắc lăng mộ đầu tiên ở Việt
13
13
Nam, mà cách tạo hình luôn gắn với sự xác định trong không gian quần thể kiến
trúc lộ thiên.

Một số hiện vật khai quật tại Hoàng Thành Thăng Long 2002 - 2004
Tợng gốm Việt Nam phát triển mạnh trong thời Lý-Trần khi mà nền độc
lập tự chủ của đất nớc đợc thiết lập sau hơn 1000 năm bị phong kiến phơng Bắc
đô hộ. Các chính quyền phong kiến đã ra sức ủng cố nhà nớc, lo xây dựng nhiều
cung điện lộng lẫy và đề cao các sản phẩm sản xuất trong nớc.
Ngoài các thể loại gốm dân dụng, ta có thể nghiên cứu tợng gốm thời Lý-
Trần trên hai thể : Tợng gốm trang trí và tợng gốm kiến trúc.
Cùng với sự phát triển rực rỡ của đồ góm sành xốp tráng men ngà, men
ngọc, tợng gốm cũng đợc sản xuất khá nhiều. Những tợng gốm đó đến nay vẫn
còn mang trên mình dấu ấn của thời đại đã qua, từ nội dung đề tài cho đến phong
cách biểu hiện. Các tợng nhỏ bằng sành xốp, đất nung ít thấy xuất hiện mà phần
lớn là tợng nhỏ bằng sành xốp có tráng men màu. Rõ ràng những tợng này đợc
sản xuất trong những lò gốm của triều đình cùng với các loại gốm men ngọc và
đối tợng phục vụ của nó không phải là nhân dân lao động mà là giai cấp phong
kiến hồi bấy giờ.

14
14
Vì đối tợng phục vụ nh vậy nên nội dung các tợng này thờng là vũ nữ, ng-
ời quỳ dâng hoa, những con vẹt ngủ,con s tử, con nghê, con mèo, con sóc tợng
thờng nhỏ, xinh xắn, đợc diễn tả theo thực, hoặc chạm trổ chi tiết rất trau chuốt.
Về mặt nghệ thuật, những tợng nhỏ này đều có chung một vẻ đẹp đơn
giản, chú ý tạo hình khối và những nét viền tòan tợng do khối tạo nên. các con
vật đợc diễn tả khá tập trung vào các đặc điểm và gợi đợc những chi tiết đẹp.
Toàn tợng đợc đắp thành một khối ít có lỗ thủng hoặc những góc sâu, lỗ hõm hay
gãy khúc. Chính vì vậy mà bản thân tợng toát lên một vẻ đẹp nhẹ nhàng hấp dãn
nh mọt bài thơ ngắn gọn, súc tích. Đặc điểm của tợng là gọn, các khối tạo nên
hơi dẹt, có xu hớng nh các khối trên tợng chạm gỗ Tây Nguyên. Đặc biệt nếu
nhìn chính diện từ phía ngực, ta sẽ thấy rất rõ những khối vuông đợc tạo nên một
cách hài hoà giữa các khối và nét trang trí.
Cũng trong thờ Lý-Trần, tợng gốm kiến trúc xuất hiện khá nhiều trên các
công trình xây dựng, đó là những đầu con giống đặt trên các đền chùa hoặc dinh
thự làm tôn thêm vẻ đẹp của kiến trúc. Phền lớn các tợng này làm bằng chất liệu
đất nung, tạo hình khỏe khoắn và mang tính cách điệu cao.
Thờng thấy nhất là các tợng đầu rồng và đầu phợng. Tuy cùng là một đề
tài nhng đó là những tợng đơn chiếc đợc tạo tác tại chỗ tùy theo từng công trình
kiến trúc nên về mặt nghệ thuật ở mỗi cái đều có vẻ đẹp và những tìm tòi riêng
trong cách diễn tả khối cũng nh trong tạo dáng. Tuy là khối tợng tròn nhng lại
chịu nhiều ảnh hởng của lối tạo hình trang trí cân xứng theo trục dọc cứa đôi con
vật, và cách giải quyết các chi tiết cũng không theo lối tả thực từng cái riêng mà
đã cách điệu những mảng lông thành những mảng hoa lá rất đẹp mắt. Có thể coi
đây là nững tợng chân dung bởi hiệu quả nghệ thuật của chúng. Ví dụ nh với
chiếc đầu chim phợng: Bên cạnh chiếc mỏ to, khỏe, để nhẵn, là phần trang trí
phức tạp: mắt mở to và những đờng mi mắt, lông mắt dập dờn, phần lông má đợc
diễn tả bằng những đờng gạch chéo hình qủa trám và một hoa văn hoa chanh
hiện ra từ gốc trám tạo nên từng lớp nh chiếc lông nọ chồng lên chiếc lông kia và

đợc tạo bằng những nét chìm trên nền phẳng. Tiếp đó là một đờng viền hình cánh
cúc xoắn và những cạnh hình lửa. Sau nữa là những chiếc lông cong, dài, đợc tạo
ra từ những họa tiết lá kép có hình nh những móc câu, càng ra ngoài càng tha
dần. Đặc biệt phần lông dới mỏ đợc tạo nh một cành lá cúc có độ sâu chênh lệch
uốn lợn. Cũng với phong cách đó, chiếc đầu rồng bằng đất nung cũng có giá trị
trang trí và rát có hồn.
15
15
Một số đồ góm kiến trúc bằng đất nung khai quật tại Hoàng Thành Thăng Long
Ngoài nhng công trình điêu khắc phục vụ kiến trúc trên các mái đình, đền,
dinh thự, ta còn thấy có những tợng tròn bằng gốm đất nung về những con vật
hoàn chỉnh, không những tái tạo đợc hình ảnh những con vật mà còn thể hiện đ-
ợc sinh khí của chúng. Ví dụ nh tợng s tử bằng đất nung cao 17 cm thuộc thế kỷ
XI-XII hiện lu tại bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Đặc biệt trong thời kỳ này các nghệ nhân gốm đã tạo đợc tợng ngời, đó là
bức tợng một ngời ngồi (Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam), phần tay của tợng đã
bị gãy nên không rõ ngời đó đang làm gì, tuy nhiên nhìn qua vẻ mặt, động tác
ngồi xổm và phần tay còn lại đặt trên đùi, ta có thể hình dung đợc là ngời ngồi
trong dáng đang nghỉ ngơi, mặt nhìn ra phía trớc, vì vậy có ý kiến cho rằng đó là
bức tợng một ngời đang ngồi nghỉ vừa hút xong thuốc lào, tay cầm điếu, miệng
nhả khói và tâm hồn đang lâng lâng thoải mái. Với chiều cao 33 cm, đây là bức
tợng ngời bằng đất nung loại lớn ở thời kỳ này mà chúng ta tìm đợc, nó gợi cho
chúng ta suy nghĩ về những tợng ngời to lớn hơn bằng đất nung ngày nay.

16
16
Gốm kiến trúc trang trí bằng đất nung thời Lý Trần
1.1.4. Thời kỳ Lê-Mạc.
Đồ gốm sứ thời Lê tìm đợc tại các hố khai quật có số lợng lớn nhng tập
trung nhiều nhất là ở khu vực ven triền sông cổ nằm giữa khu A và B.

Để nhận diện về chất lợng gốm trong Hoàng thành, ta phân định gốm thời
Lê theo 3 thời kỳ: gốm thời Lê Sơ (thế kỷ 15), gốm thời Lê-Mạc (thế kỷ 16), và
gốm thời Lê Trung Hng (thế kỷ 17-18). Nhìn chung, gốm thời Lê-Mạc và Lê
Trung Hng có chất lợng thấp, hoa văn trang trí đơn giản và phát triển mạnh theo
xu hớng dân gian. Những su tập đồ gốm tìm đợc từ các hố khai quật phần nhiều
là sản phẩm của các lò gốm vùng Hải Dơng và Bát Tràng. ở đây có sự khác biệt
lớn so với gốm thời Lê Sơ.
Gốm thời Lê Sơ có bớc phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung tâm
sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dơng. Thời kỳ này, gốm hoa lam, gốm men
trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Bằng chứng từ
những phát hiện trên các con tàu đắm ở Hội An (Quảng Nam), Pandanan
(Philippin) cho thấy những đồ gốm này đã từng là mặt hàng chủ đạo trong việc
xuất khẩu ra thị trờng quốc tế. Trong công trình nghiên cứu trớc, khi bàn về gốm
ngoại thơng Việt Nam có ý kiến đã đa ra nhận xét rằng: nhiều đồ gốm cao cấp
trong lô hàng trên con tàu đắm Hội An có những sản phẩm của lò gốm Thăng
Long. Nhận xét này nay đã có đủ cơ sở khi tại dải gốm ven sông khu A đã tìm
thấy nhiều loại gốm hoa lam cao cấp, có hình dáng và hoa văn tơng tự nh những
đồ gốm trên tàu đắm Hội An, ví dụ nh loại bát vẽ rồng bốn móng, dới đáy khắc
chữ Trù (bếp), giữa lòng viết chữ Kính hay loại đĩa lớn vẽ rồng có bút pháp tinh
tế nh trên bản đang lu giữ tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam. Phát hiện có ý nghĩa
này cho phép một lần nữa khẳng định về sự góp mặt quan trọng của gốm Thăng
Long trong mối giao lu kinh tế, văn hóa với quốc tế trong lịch sử. Một phát hiện
khác đem lại sự khâm phục của giới chuyên môn và những ngời say mê gốm cổ
là loại gốm trắng mỏng trang trí in nổi hình rồng có chân năm móng (cũng có
17
17
loại rồng có bốn móng), giữa lòng ghi chữ Quan, hay chữ Kính. Nghiên cứu so
sánh với gốm Hải Dơng các nhà chuyên môn cho rằng đây là những sản phẩm
của lò Quan Thăng Long.
Cách đây vài năm tại di chỉ gốm Ngói, Chu Đậu (Hải Dơng) và Kim Lan (Gia

Lâm) đã tìm thấy bằng chứng sản xuất gốm của lò Quan ở đây. Sản phầm chính của
những lò Quan này đợc khẳng định rõ qua những đồ gốm sứ men trắng, trang trí in
khuôn văn sóng nớc hình vảy cá, giữa lòng in nổi chữ Quan nh gốm Thăng Long.
Nhng so với gốm Thăng Long thì gốm lò Quan Hải Dơng có xơng gốm dày, nặng và
độ trắng của xơng và men kém hơn gốm Thăng Long. Gốm Thăng Long cũng có loại
xơng gốm mỏng và loại xơng gốm dày, nhng về cơ bản xơng gốm Thăng Long có
chất lợng tốt hơn gốm Hải Dơng. Gốm trắng mỏng Thăng Long chủ yếu là các loại
bát, đĩa cỡ nhỏ, có xơng mỏng nh vỏ trứng (dạng sứ thấu quang), thành trong in nổi
hình hai con rồng chân có năm móng, giữa lòng in chữ Quan. Loại gốm trắng mỏng
này cha từng tìm đợc ở đâu ngoài khu lăng mộ vua nhà Lê ở Lam Kinh (Thanh Hóa).
Đặc điểm đáng lu ý về loại gốm mỏng này là đợc nung đơn chiếc và men thờng phủ
kín đáy và mép vành chân đế. Chân đễ đợc tạo rất mỏng và mép vành chân về tròn
chứ không cắt vát và cạo men ở mép vành chân nh gốm Hải Dơng. Đây là đặc điểm
kỹ thuật rất khác biệt giữa gốm Thăng Long và gốm Hải Dơng hay gốm Kim Lan.
Bên cạnh gốm trang trí rồng, ở Thăng Long còn có loại gốm trắng trang trí văn in hoa
cúc dây, giữa lòng cũng in nổi hay viết chứ Quan, nhng phổ biến hơn là in hình một
bông hoa nhỏ loại có năm hoặc sáu cánh với đờng nét tinh xảo.
Đĩa gốm hoa Lam thời Lê Sơ Đầu tợng linh thú thời Lê Sơ
Gốm thời Lê-Mạc, Lê Trung Hng (thế kỷ 15-18) đánh dấu sự ra đời dòng
gốm men hoa lam đặc trng.
Đây là thời kỳ sau cuộc chiến chống quân Minh thắng lợi, đất nớc đợc hồi
phục, phát triển. Từ những làng nghề đã có từ trớc nh Bát Tràng, Thổ Hà, Phù
Lãng, nghề gốm cũng hình thành thêm nhiều trung tâm sản xuất có tính chất
18
18
chuyên nghiệp để đáp ứng cho việc xuất khẩu nh Chu Đậu, Hợp Lễ, Cậy (Hải D-
ơng). Thời kỳ này có sự ra đời của dòng men trắng vẽ lam (thờng đợc gọi là gốm
men hoa lam) rất đặc trng với các loại bình tỳ bà, nậm, vò, bát, đĩa có dáng và
chân đế cao, dới trôn tô màu nâu đỏ, hoa văn trăng trí hình lá chuối, cánh sen,
chim, cá gốm thời này đợc xuất khẩu sang nhiều nớc trên thế giới, tận Trung cận

Đông, châu Phi, châu Âu
Giai đoạn này ngoài dòng gốm men trắng thì đồ sành rất phát triển tại
trung tâm Hơng Canh (Vĩnh Phúc) nổi tiếng với các loại chum, vại, Phù Lãng với
loại sành trắng men da lơn.
Đến cuối thể kỳ 16 đầu 17, dòng gốm men nâu, men lam, men trắng vẫn
tiếp tục phát triển với các loại sản phẩm ché, hũ, ấm, chậu, bát, đĩa và gốm kiến
trúc. Tuy nhiên, có xuất hiện thêm loại gốm men lam, hoa văn đắp nổi kết hợp vẽ
lam mà những sản phẩm chủ yếu là đồ thờ cúng và trang trí nh chân đèn, l hơng, bát
nhang thời kỳ này lần đầu tiên trên gốm Việt có ghi tên ngời và lò gốm sản xuất.
Bát men trắng hoa Lam gốm thời Lê Phần thân của chân đèn men đắp nổi
gốm thời Lê
Phải kể đến sự ra đời của dòng gốm miền Trung, là sự tiếp nối gốm miền
Bắc và gốm Gò Sành (thế kỷ 13-16) tạo nên sự xuyên xuốt trong dòng chảy gốm
Việt. Đó là dòng đồ sành mộc mạc, thô ráp của gốm Phớc Tích (Thừa Thiên
Huế), Quảng Đức (Quảng Ngãi), là đồ gốm xốp men da lơn, xanh vàng trang trí
nổi của gốm Châu Ô (Phú Yên) mà hiện vật tiêu biểu là các loại ống cắm, bình
đựng nớc có men nhiều màu, các loại bình vôi, bình rợu.
Trong năm trăm năm của triều đại Lê Sơ (1428-1527), Phật giáo đã bị đẩy
lùi về các làng xã, Nho giáo lên ngôi và kinh tế nông nghiệp với quan hệ địa chủ
-nông dân cũng phát đạt. Ngoài ba pho tợng đá chua Ngọc Khám (Bắc Ninh) đến
19
19
nay hình ảnh điêu khắc Phật giáo thời Lê Sơ rất mờ nhạt. Thay vào đó là nên
điêu khắc lăng mộ của các vua Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa). Tám lăng vua Lê và
hai bà Hoàng hậu đều theo hình thức của lăng vua Lê Thái Tổ làm năm 1433,
mặt bằng hình vuông, chính giữa là đờng thần đạo dẫn đên một phần ở đáy lăng,
hai bên có hai dãy tợng chầu gồm quan hầu, lân, tê giác, ngựa, hổ. Bên ngoài
lăng là nhà bia. Các lăng khác đều tơng tự, tuy các con vật chầu có chút ít thay
đổi. Sau hai mơi năm chiến tranh với nhà Minh (1407-1427), đất nớc trở nên
hoang tàn, sản vật bị vơ vét, sách vở bị đốt, đền chùa bị phá, thợ giỏi bị đa về

Tàu. Vua Lê đành phải dùng những nông dân lân cận tạc tợng, xây lăng. Tính
thô mộc, giản dị, sự cần kiệm của một chính thể mới lên đã dẫn đến một nền
điêu khắc đơn điệu, nghèo nàn, dù con mắt kiến trúc tổng thể khá đặc sắc.
Nhà Mạc thay thế nhà Lê Sơ (1528-1598). Nông thôn Việt Nam tạm yên
ổn và phát triển một phong cách điêu khắc đình làng từ chối tính tôn giáo và
phong kiến trớc đó. Nội chiến bắt đầu giữa nhà Mạc với các quan lại họ Trịnh và
Nguyễn ủng hộ con cháu nhà Lê, còn gọi là chiến tranh Nam-Bắc triều.
Tợng gốm thời Lê-Mạc phần lớn là tợng bằng chất liệu sành nâu, sành
trắng có men màu vẽ trang trí hoa lam, tam sắc, men màu xanh đồng, nâu hoặc
lam. Nhiều tợng đã mang tính mỹ thuật ứng dụng rõ nét, có nghĩa là đã kết hợp
với công dụng, đợc làm bằng sành nâu hoặc sành nâu tráng men da lơn.
Nổi bật là các tợng voi, nghê, ngựa đợc tạo hình đa dạng và rất sáng tạo. Các
loại tợng nhỏ phuc vụ cho trng bày trong nhà thờng là voi, ngựa loại thứ hai là dùng
cho nơi thờ cúng có kích thớc lớn nh nghê, ngựa, hạc loại thứ ba là kết hợp với sản
phẩn ứng dụng nh tợng nghê, cá, ngời trong các loại bình uống rợu.
20
20
Tợng con nghê men xanh thời Lê Trung
Hng
Chân đèn đắp nổi men xanh trắng thời
Lê Trung Hng
Nhà Mạc thất bại. Thế kỷ 17, họ Trịnh nắm binh quyền ở Bắc Bộ chi phối
vua Lê. Họ Nguyễn cát cứ ở Nam Bộ. Chiến tranh Trịnh-Nguyễn xảy ra tới bảy
lần trong suốt thế kỷ 17. Nhân tâm náo loạn. Phật giáo phục hng nh một cứu
cánh tinh thần. Thế kỷ 17-18 cũng là giai đoạn phát đạt nhất của văn hóa nghệ
thuật. Điều khắc đạt số lợng và loại hình đáng kể chi phối toàn bộ tinh thần thẩm
mỹ ngời Việt. Có các bộ phận sau: điêu khắc Phật giáo trong các chùa làng, điêu
khắc lăng mộ của vua quan Lê - Trịnh, điêu khắc trong các đền thờ với tín ngỡng
bản địa. Tợng Phật Bà Quan Âm (nghìn mắt nghìn tay) ở chùa Hạ (Vĩnh Yên),
cao 3,7 mét; 42 tay là tác phẩm đồ sộ của thế kỷ 16. Tợng Phật Bà Quan Âm

(nghìn mắt nghìn tay) chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) cao 3,7 mét; 42 tay lớn; 952 tay
nhỏ kết thành quầng mắt và ánh sáng rực rỡ tiêu biểu cho nghệ thuật thế kỷ 17.
Kết thúc thế kỷ 18 là nhóm điêu khắc các vị tổ chùa Tây Phơng đợc làm năm
1794 thời Tây Sơn. Điêu khắc đình làng nh các đình Phù Lãng, Chu Quyến, Thổ
Tang, Liên Hiệp, Hơng Lộc mang đến một nguồn sinh khí mới với nét chạm tự
do, cấu trúc đồ sộ nh nghệ thuật Baroque. Cá tính và phong cách cá nhân chìm
lẫn trong các hình tợng Thần Phật và đợc dung dỡng bởi đời sống làng xã vừa
khép kin, vừa đa dạng nh những tế bào gộp nên nền văn hóa nông nghiệp Việt
Nam.
Vào thời Nguyễn ngoài loại tợng đất nung thôn quê mang tính dân dã,
kích thớc nhỏ dùng để trang trí hòn non bộ nh cầu, chùa, tháp, lão tiều phu, ông
già câu cá thì các loại tợng lớn nh hổ, hạc, nghê bằng gốm hoa lam hoặc gốm
men rạn cũng khá phong phú.
Qua đó, chúng ta thấy rõ ràng mối quan hệ khăng khít giữa điêu khắc với
nghề gốm trong dòng chảy của sự phát triển nghề gốm Việt Nam ở các thời kỳ
lịch sử này. Bởi về kỹ thuật tạo khối, lúc này ngoài chất liệu bằng đá, gỗ và đồng
thì đất sét, thông qua phơng pháp nung gốm là chất liệu dễ khai thác, dễ tạo tác
đa dạng, linh hoạt và có giá trị kinh tế thuận lợi nhất.
Từ đó có thể nói, tợng gốm Việt Nam là một kho tàng điêu khắc dân gian
vô cùng phong phú để cùng với các loại tợng đá, tợng gỗ làm nên nền nghệ thuật
điêu khắc cổ Việt Nam.
1.1.5. Thời kỳ Trịnh-Nguyễn.
Gốm thời Nguyễn (thế kỷ 19-20): gốm của vùng đất mới miền Nam.
21
21
Nghề gốm giai đoạn này tuy không còn cực thịnh nhng vẫn đợc duy trì và
các làng nghề vẫn giữ đợc cốt cách riêng: gốm Bát Tràng nổi tiếng với vẻ đẹp
nhuần nhị, tinh tế của gốm xốp men trắng ngà, men rạn vẽ màu; gốm Thổ Hà
khỏe khoắn, phá cách với những sản phầm không men, màu nâu sẫm, đanh chắc;
gốm Phù Lãng cầu kỳ, sâu lắng với men màu da lơn hoa văn trang trí nổi.

Có thể thấy sản phẩm của những dòng gôm dân dụng này rất phong phú
về thể loại và kiểu dáng: bình hoa, chóe, âu, l hơng, chân đèn, tợng gốm, chum
vại, chậu cảnh.
Chậu cây hình thú gốm Thổ Hà Tợng ngựa gốm Bát Tràng
ở miền Nam - vùng đất mới có sự giao lu và tiếp biến văn hóa cũng ra đời
ba trung tâm lớn là Sài Gòn, Lái Thiêu (Bình Dơng) và Biên Hòa (Đồng Nai).
Nét đặc trng và khác biệt của gốm Sài Gòn so với hai dòng gốm phụ cận Lái
Thiêu và Biên Hòa là sự phát triển của dòng gốm trang trí, kiến trúc tín ngỡng,
tôn giáo. Những sản phẩm nh bình, chậu, đôn, tợng nhật nguyệt, tứ linh, các
quần thể phù điêu, tiểu tợng hiện còn lu giữ tại các đình, chùa, miếu ở thành phố
Hồ Chí Minh là mình chứng cho điều này. Các đề tài cổ chiếm đa phần trên các
sản phẩm của gốm Sài Gòn, bên cạnh đó các đề tài có tính dân gian cũng đợc đề
cập. Đây là dòng gốm men nhiều màu đầu tiên của vùng đất Nam Bộ.
Gốm Biên Hòa là sự kết hợp của hai dòng gốm Việt-Hoa, với những di
tích nh rạch Lò Gốm, bến Miếng Sành (Cù Lao Phổ - Biên Hòa). Những sản
phẩm nh nồi niêu, lò, bình vôi (bằng đất nung), lu, hũ, khạp (bằng sành) đều đợc
sản xuất để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con ngời.
Những yếu tố nh kỹ thuật khắc chìm và phối men nhiều màu, sự kết hợp
giữa trang trí và hội họa, sự tiếp thu kiểu dáng truyền thống cùng với các loại
men độc đáo nh men cobalt, xanh đồng, da lơn vừa giản dị, vừa trầm lắng đã tạo
nên sảm phẩm gốm thuần chất phơng Đông.
22
22
Bình men nâu đp rồng gốm Biên Hoà
Bình gốm Biên Hoà men xanh
Vợt qua không gian và thời gian, gốm Việt ngày nay có mặt tại nhiều bảo
tàng lớn trên Thế giới, làm phong phú thêm di sản văn hóa Việt Nam và cả Thế giới.
Điều mà ngời Việt nào cũng tự hào và góp phần gìn giữ, bảo tồn di sản của cha ông.
Bà Kerry- chuyên gia nghiên cứu về mỹ thuật, văn hóa phi vật thể cua Thế
giới cho biết điều thú vị nhất đối với bà là phát hiện về gốm Châu Ô (Phú Yên),

vì trớc đây ít đợc nhắc đến so với các tên tuổi gốm nổi tiếng của Việt Nam. Bà
nói: Đây là một chuyên đề rất đáng xem, rất hấp dẫn và bổ ích, không chỉ về
gốm mà còn là văn hóa Việt Nam.
Nghệ thuật gốm thời Nguyễn (nửa sau thế kỷ 19 đến non nửa đầu thế kỷ
20) vẫn duy trì kế thừa gốm truyền thống. Thời Nguyễn, ở Kinh đô Huế còn
nhắc đến men lam Huế, men lam cùng với Pháp Lam (nó không phải gốm mà là
Pháp Lam trên cốt đồng với nhiệt độ cao) cùng với gốm kiến trúc nh các loại
gạch ngói: Thanh lu ly, Hoàng lu ly, gốm với các màu men: xanh, vàng, nâu,
gạch, ngói trang trí để xây dựng cung đình, điện tháp, lăng tẩm. Các lò gốm ở
Móng Cái (Quảng Ninh) cũng đợc tiếp tục sản xuất nhiều để phục vụ cho cuộc
sống. Đến đầu thế kỷ 20, nổi lên với gốm Đồng Nai, Biên Hòa sản xuất gốm
sành xốp, với nhiều men màu thể hiện trên sản phẩm.
Nhà Nguyễn dời đô vào Huế (1802-1945), xây dựng kinh thành Huế và
quần thể lăng mộ cho các bậc đế vơng ở phía Tây kinh thành, điêu khắc lăng mộ
phong kiến Huế nghèo nàn về ngôn ngữ và cứng nhắc về quy phạm. Các lăng Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định tuy khác nhau về
kiến trúc nhng tơng đối thống nhất về kiêu khắc. Tợng quan hầu, lính hầu, voi và
ngựa nghiêm trang hai bên thần đạo, kích thớc gần nguyên mẫu nhng rất thiếu sinh
khí. ở Bắc Bộ, điêu khắc Phật giáo tiếp tục phát triển với một tinh thần chung của xã
23
23
hội phong kiến cuối mùa. Tợng thì to ra, nhng vẻ sinh động giảm thiểu. Những nét
khái lợc trên đã trình bày một cách cô đọng đặc tính điêu khắc từng thời. Bên cạnh
mảng điêu khắc tập trung ở chốn cung đình, chúng ta còn kho tàng khổng lồ các tác
phẩm điêu khắc dân gian có mặt ở khắp đó đây trên đất nớc. Đó là sản phẩm điều
khắc của những ngời thợ trong kiến trúc nhà cửa, vật dụng, đồ thờ, công cụ Có thể
nói các tác phẩm Quan Âm 112 tay chùa Tây Phơng, tợng Phật chùa Bà Đá, chùa
Hồng Phúc là những ánh sáng lóe lên cuối cùng khi một thời đại mới bắt đầu.
L hơng men rạn đáp nổi
gốm thời Nguyễn

Đĩa hoa Lam gốm thời Trịnh
24
24
1.1.6. Thời kỳ Đ ơng Đại, từ 1925 đến nay.
1.1.6.1: Từ 1925 đến 1945 .
Năm 1925, trờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dơng ra đời. Mỹ thuật Việt
Nam có bớc ngoặt mới, hội họa và điêu khắc với các nghệ sỹ có tên tuổi bắt đầu
thay thế địa vị độc tôn của nghệ thuật điêu khắc cổ.
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, nghệ thuật tạo hình Việt Nam tiếp
xúc ngày càng nhiều với nghệ thuật phơng Tây qua các cuộc đấu xảo do ngời
Pháp thực hiện, qua các giảng viên ngời Pháp giảng dạy và sáng tác theo phơng
pháp tạo hình châu Âu khác hẳn với lối tạo hình truyền thống, phục vụ cho một
cuộc sống mới với những không gian khác và đối tợng thởng thức cũng hoàn
toàn khác so với trớc đây- khi mà điêu khắc còn bám sát vào các nhu cầu tôn
giáo, tín ngỡng.
Trớc sự sự xuất hiện dù mới sơ khai của điêu khắc cận hiện đại, tuân thủ
theo những thớc đo, chuẩn mực của mỹ thuật phơng Tây, dòng điêu khắc thôn
làng cổ kính và gần gũi với cái nhìn của ngời Việt đã gần nh ngng chảy nhờng
chỗ cho dòng điêu khắc đô thị phát triển, thay thế. Nghệ thuật điêu khắc đang từ
chỗ là nghệ thuật của đông đảo quần chúng, các tác phẩm đợc nhân dân tôn thờ
nh là hiện thân của những nhân vật trong đạo Phật và đợc trân trọng giữ gìn hàng
bao thế kỷ thì từ năm 1930, tác phẩm điêu khắc cận đại bắt đầu trở thành những
thứ hàng xa xỉ nhằm trang trí kiến trúc, sân vờn, phòng khách của lớp ngời giàu
có hoặc đợc bày trong một thời gian ngắn nào đó tại các triển lãm, hội chợ một
thứ tợng không tô màu, không vàng son nh của điêu khắc truyền thống.
Lịch sử đã thay đổi, thói quen thị giác cũng thay đổi theo và điêu khắc
đang chuyển mình để thích ứng với một xã hội đang Âu hóa, hình thành một
nền điêu khắc mới tiến tới hòa nhập vào nền mỹ thuật hiện đại trên thế giới.
Từ năm 1925, khi trờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dơng đợc mở, một số
tác phẩm điêu khắc theo phơng pháp tả thực dần dần xuất hiện. Có thể nói các

phù điêu Em bé ngồi học, Sĩ - Nông - Công - Thơng và một hình nổi bán thân Cụ
gìa đợc làm từ năm 1927 của Nguyễn Đức Thục là những dấu hiệu đầu tiên của
khuynh hớng điêu khắc mới. Tác giả đã dày công sao chép hình ảnh các nhân vật
sao cho trung thực và chính xác. Các bức phù điêu cùng trong thời gian này th-
ờng thể hiện những ngời bán hàng rong, những anh phu xe, ngời làm ruộng với
những gơng mặt u uất, trầm cảm, phản ánh tâm trạng chung của một nớc thuộc
địa lúc đó. Một số tác phẩm có chất lợng cao đáng kể trong giai đoạn khởi đầu
là: Chân dung nhà s, Hút thuốc lào của Vũ Văn Thu; Cô gái cài lợc của Vũ Cao
25
25

×