Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm tra sau thông quan tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.41 KB, 78 trang )

1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Giải thích
KTSTQ Kiểm tra sau thông quan (tên Tiếng Việt)
KTTTQ Kiểm tra trong thông quan
TTHQ Thủ tục hải quan
KTHQ Kiểm tra hải quan
PCA Kiểm tra sau thông quan (tên Tiếng Anh)
WTO Tổ chức thương mại thế giới
WCO Tổ chức Hải quan thế giới
ASEAN Khu vực các nước Đông Nam Á
NĐ-CP Nghị định-Chính phủ
TT-BTC Thông tư-Bộ Tài chính
QĐ Quyết định
CT Chỉ thị
TCHQ Tổng cục Hải quan
GATT Hiệp định trị giá hải quan
GTGT Thuế giá trị gia tăng
TNDN Thuế thu nhập doanh nghiệp
EU Liên minh Châu Âu
KT Kiểm tra
KTTTSHQ Kiểm tra tại trụ sở hải quan
KTTTSDN Kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp
CBCC Cán bộ, công chức
TCCB Tổ chức cán bộ
AEO Chương trình Doanh nghiệp ưu tiên
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
NSNN Ngân sách nhà nước
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển kinh tế xã hội và việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức


Thương mại thế giới WTO đã làm gia tăng nhanh chóng lượng hàng hóa xuất nhập
khẩu, đặt ra cho ngành Hải quan yêu cầu cấp thiết là phải thông quan hàng hóa nhanh
chóng, đồng thời quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu, đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước.
Trong bối cảnh đó, chuyển từ phương pháp quản lý truyền thống dựa trên hoạt
động kiểm tra toàn bộ hàng hóa để thông quan sang phương pháp quản lý tiên tiến dựa
trên kỹ thuật quản lý rủi ro, tức là trên cơ sở thu thập, phân tích, xử lý thông tin để
2
quyết định thông quan, cùng với việc sử dụng các giải pháp nghiệp vụ hỗ trợ như quản
lý rủi ro, kiểm tra sau thông quan, kiểm soát, thu thập thông tin, đã trở thành yêu cầu
tất yếu khách quan. Một trong các mô hình nghiệp vụ hỗ trợ có hiệu quả nhất chính là
nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan (KTSTQ).
Theo tổ chức Hải quan thế giới và kinh nghiệm của một số nước tiên tiến thì
trong điều kiện hiện nay, việc duy trì và phát triển hệ thống KTSTQ là rất cần thiết, vì
một hệ thống KTSTQ đủ mạnh có thể phát hiện và ngăn chặn mọi hình thức gian lận,
đặc biệt là gian lận về trị giá hải quan.
Trước đây, việc quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động KTSTQ chỉ
thông qua một số nội dung sơ sài, rời rạc trong các văn bản dưới luật. Chỉ sau khi Luật
Hải quan ban hành năm 2001 và sửa đổi, bổ sung năm 2005, hoạt động này mới chính
thức được quy định chi tiết, các quy trình, thủ tục quản lý mới được hướng dẫn thống
nhất.
Trong quá trình triển khai thực hiện, hoạt động KTSTQ tuy đã có những thành
công và đóng góp nhất định nhưng vẫn gặp phải một số vấn đề vướng mắc cần được
nhận diện chính xác và có giải pháp kịp thời.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của hoạt động KTSTQ, người viết quyết
định thực hiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm tra sau
thông quan tại Việt Nam”.
3
2. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích mối quan hệ qua lại giữa các chính sách, môi trường kinh tế, xã hội

và hoạt động KTSTQ.
- Phân tích thực trạng và kết quả của hoạt động KTSTQ tại Việt Nam.
- Đưa ra ý kiến giúp hoàn thiện hoạt động KTSTQ trong giai đoạn tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới hoạt
động KTSTQ trong lãnh Việt Nam từ khi Luật Hải quan sửa đổi được có hiệu lực năm
2006 đến hết năm 2011 và các biện pháp hoàn thiện hoạt động này tới năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, trong đó
vận dụng các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem xét, đánh giá từng vấn
đề cụ thể; đồng thời dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước về những vấn đề liên quan. Trên cơ sở đó, khóa luận đã sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu dữ liệu như: nghiên cứu dữ liệu thứ cấp (nguồn dữ liệu, thông
tin được thu thập từ các website, số liệu thống kê của cơ quan quản lý, sách, tạp chí );
phương pháp tổng hợp các phân tích, lý luận; phương pháp thống kê, so sánh…
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 3 phần chính
sau đây:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động kiểm tra sau thông quan
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra sau thông quan tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm tra sau thông quan tại Việt
Nam
Do hạn chế về thời gian, tài liệu và vì đây là lĩnh vực còn đang tiếp tục cần được
hoàn thiện trong hoạt động hải quan nên khóa luận của em sẽ có thể còn nhiều thiếu
sót. Bởi vậy, em rất mong được sự góp ý của thầy cô và bạn đọc. Người đọc xin chân
thành cảm ơn thầy Đinh Khương Duy, giảng viên Đại học Ngoại thương, người đã tận
tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn em trong việc hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN
1.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động kiểm tra sau thông quan
1.1.1. Thủ tục hải quan

4
Theo Công ước Kyoto: “Thủ tục hải quan là tất cả các hoạt động tác nghiệp
mà bên hữu quan và cơ quan hải quan có thực hiện nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật
hải quan.” [19]
Theo Điều 4, Khoản 6, Luật hải quan sửa đổi 2005: “Thủ tục hải quan là các
công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo quy định
của Luật này đối với hàng hóa và phương tiện vận tải.”
Đối tượng phải làm thủ tục hải quan (TTHQ) là hàng hóa, phương tiện vận tải
và hồ sơ chứng từ. Người khai hải quan là chủ hàng hóa, chủ phương tiện vận tải hoặc
người được chủ hàng hóa, phương tiện vận tải ủy quyền. Địa điểm làm TTHQ là trụ sở
Chi cục Hải quan cửa khẩu hoặc địa điểm khác theo quy định của pháp luật.
Tiến hành TTHQ phải tuân theo một số nguyên tắc sau:
- Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, quá
cảnh phải được làm TTHQ, chịu sự kiểm tra giám sát của hải quan, vận chuyển đúng
tuyến đường theo quy định của pháp luật;
- Hàng hóa, phương tiện vận tải được thông quan sau khi đã làm TTHQ;
- TTHQ phải được thực hiện công khai, nhanh chóng, thuận tiện, theo đúng quy
định của pháp luật;
- Việc bố trí nhân lực, thời gian làm việc phải đáp ứng yêu cầu hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
TTHQ là một khâu nghiệp vụ quan trọng trong vận tải, giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Người làm
công tác xuất nhập khẩu cũng như cán bộ trong ngành Hải quan cần phải nắm vững
kiến thức về quy trình nghiệp vụ TTHQ, cập nhật liên tục những quy định mới trong
lĩnh vực này, đồng thời cần phát hiện những điểm bất hợp lý và kiến nghị biện pháp
sửa đổi để thực hiện công việc được thuận lợi, nhanh chóng.
5
1.1.2. Kiểm tra hải quan
Theo Công ước Kyoto, phần phụ lục tổng quát, chương III Thông quan và các thủ
tục khác, phần 6 Kiểm tra khai báo hàng hóa: “Mọi hàng hóa, kể cả phương tiện vận

tải, người vào hay rời khỏi lãnh thổ hải quan, phải chịu thuế hải quan hay thuế khác,
đều phải chịu sự kiểm tra hải quan.”
Theo Luật Hải quan Việt Nam sửa đổi năm 2005: “Kiểm tra hải quan là việc kiểm
tra hồ sơ hải quan, các chứng từ liên quan và kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện
vận tải do cơ quan hải quan thực hiện.”
Tại Việt Nam, kiểm tra hải quan (KTHQ) là một quá trình trong TTHQ. Nội dung
của KTHQ thường bao gồm các vấn đề chính sau:
- Kiểm tra tên hàng, mã số hàng;
- Kiểm tra lượng hàng hóa;
- Kiểm tra về chất lượng hàng hóa (bao gồm cả vệ sinh an toàn thực phẩm);
- Kiểm tra xuất xứ hàng hóa;
- Kiểm tra thuế.
Trong khi cả nước đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đẩy
mạnh sản xuất xuất khẩu, thì hoạt động kinh tế gian dối, phi pháp của một bộ phận cá
nhân tập thể muốn gian lận thương mại đã gây hại nghiêm trọng tới nền kinh tế, đi
ngược lại và cản trở tiến trình phát triển chung. Vì thế, để bảo vệ thành công các thành
quả kinh tế - xã hội chống gian lận thương mại, đặc biệt trong lĩnh vực hải quan, là một
việc làm cầp thiết, đòi hỏi sự quan tâm của mọi cấp, mọi ngành và các tầng lớp nhân
dân trong xã hội. Trong đó, TTHQ phải được hoàn thiện sao cho đảm bảo lợi ích Nhà
nước thu đúng thu đủ về thuế, không bị thất thu cho ngân sách quốc gia. Và KTHQ
cũng cần được tăng cường để gian lận thương mại và những kẽ hở trong chính sách,
những lỏng lẻo trong hoạt động quản lý thương mại quốc tế phải phá bỏ.
1.1.3. Kiểm tra sau thông quan
Theo Công ước Kyoto sửa đổi 1999 của WCO (Phụ lục tổng quát, Chương II,
định nghĩa E3/F4), Kiểm tra sau thông quan (KTSTQ) “ post-clearance audit” (PCA)
hay kiểm soát hải quan dựa trên cơ sở kiểm toán “audit-based control” là một quá trình
6
giúp cơ quan hải quan xác minh tính chính xác của việc khai hải quan thông qua kiểm
tra sổ sách, hồ sơ, các hệ thống kinh doanh và tất cả các dữ liệu thương mại liên quan
đến hải quan được các công ty hoặc cá nhân tham gia trực tiếp hay gián tiếp đến

thương mại quốc tế lưu giữ.
Theo cộng đồng Hải quan ASEAN cũng như Luật Hải quan Indonesia năm
1995, KTSTQ là một giải pháp kiểm soát hải quan có hệ thống, qua đó cơ quan hải
quan thẩm định độ chính xác và xác thực của khai báo hải quan thông qua việc kiểm
tra sổ sách, hồ sơ hệ thống kinh doanh có liên quan và dữ liệu thương mại của các cá
nhân, tổ chức tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào thương mại quốc tế.
Theo Điều 2, Điều lệ Kiểm tra sau thông quan nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa 1997: “Trong thời hạn 3 năm kể từ ngày hàng hóa xuất nhập khẩu được thông
quan hoặc trong thời hạn giám sát hải quan của hàng hóa bảo thuế, hàng hóa miễn
giảm thuế nhập khẩu, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra sổ sách kế toán, chứng từ,
đơn chứng báo quan và các tài liệu liên quan khác cùng với hàng hóa xuất nhập khẩu
của đơn vị được kiểm tra để thẩm định tính hợp pháp và chân thực của hoạt động xuất
nhập khẩu.”
Tại Việt Nam, theo Thông tư 194/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính, hướng dẫn
về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thì kiểm tra sau
thông quan là hoạt động nghiệp vụ do cơ quan chuyên trách của ngành Hải quan thực
hiện nhằm thẩm định tính chính xác, trung thực của việc khai hải quan đối với hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan và đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật
của người khai hải quan làm cơ sở xem xét mức độ ưu tiên trong việc làm thủ tục hải
quan, kiểm tra, giám sát hải quan và xử lý vi phạm (nếu có).
Tóm lại, KTSTQ là hoạt động của cơ quan hải quan nhằm hai mục đích chính:
Thẩm định tính chính xác, trung thực nội dung các chứng từ mà chủ hàng, người được
chủ hàng ủy quyền, tổ chức, cá nhân trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu đã khai, nộp, xuất
trình với cơ quan hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan;
Thẩm định việc tuân thủ pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
1.2. Vài nét về lịch sử hình thành hoạt động kiểm tra sau thông quan
1.2.1. Các nước trên thế giới
7
Trên thế giới, việc xác định nguồn gốc và lịch sử của hoạt động KTSTQ là rất

khó khăn vì nó hình thành và hoàn thiện cùng với sự phát triển của khoa học quản lý
rủi ro trong công tác hải quan. Hoạt động này đã được Hội đồng hợp tác Hải quan, tiền
thân của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), triển khai áp dụng vào những năm 1960.
Công ước Kyoto 18/05/1973, có hiệu lực từ 25/09/1974, về đơn giản hóa và hài hòa
hóa thủ tục hải quan được xem là công ước đầu tiên quy định về hoạt động KTSTQ.
Đến tháng 09/1999, khi công ước Kyoto được sửa đổi, bổ sung thì hoạt động KTSTQ
mới được WCO chính thức nêu ra và đưa vào chương trình hoạt động tại phần Phụ lục
tổng quát, Chương VI, quy định về hoạt động kiểm tra sau thông quan và kiểm tra hệ
thống sổ sách doanh nghiệp. Hoạt động này nhanh chóng được triển khai rộng rãi tới
các nước thành viên.
Trong khu vực Châu Á, Nhật Bản là một trong những nước áp dụng hoạt động
KTSTQ đầu tiên. Hải quan Nhật Bản thực hiện thí điểm KTSTQ từ năm 1967 và chính
thức áp dụng hệ thống này vào năm 1968. Tại Trung Quốc, KTSTQ ban đầu chỉ thực
hiện tại ba địa phương phức tạp nhất về xuất nhập khẩu từ tháng 04/1992. Điều lệ
KTSTQ được Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa công bố ngày
01/03/1997.
Trong khối ASEAN, Thái Lan là nước thực hiện KTSTQ sớm nhất vào những
năm 1990 nhưng Indonesia lại là nước có nhiều kinh nghiệm và áp dụng KTSTQ hiệu
quả nhất từ năm 1998 và hiện tại đang là điều phối viên về KTSTQ của chương trình
hợp tác hải quan ASEAN. Hoạt động KTSTQ của Hải quan ASEAN đã có một khuôn
mẫu chuẩn cho các thành viên hoạt động, tuy nhiên chưa được phê duyệt chính thức.
Hiện nay, ASEAN đã thống nhất xây dựng sách Hướng dẫn KTSTQ của ASEAN (được
hội nghị Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN lần thứ 12 tại Hà Nội phê chuẩn) nhằm
định hướng chiến lược và áp dụng chung cho khối.
8
1.2.2. Tại Việt Nam
Hoạt động KTSTQ tại Việt Nam chính thức triển khai khi Luật Hải quan có hiệu
lực vào ngày 01/01/2002. Tuy nhiên, trước đó, hoạt động KTSTQ đã bắt đầu hình
thành trong một số điều luật về xuất nhập khẩu.
Theo Khoản 5, Điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế xuất

khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ban hành ngày 20/05/1998, nghiệp vụ KTSTQ
được quy định như sau: “Nếu phát hiện và kết luận có sự gian lận, trốn thuế, cơ quan
thuế có trách nhiệm truy thu tiền thuế, tiền phạt trong thời hạn năm năm trở về trước,
kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự gian lận, trốn thuế; trường hợp đối tượng nộp thuế
nhầm lẫn trong kê khai, cơ quan thuế có trách nhiệm truy thu hoặc hoàn trả tiền thuế
đó trong thời hạn một năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự nhầm lẫn
đó.”
Tiếp đó, hoạt động KTSTQ được tách riêng với tên gọi “Kiểm tra sau giải
phóng hàng” (post-entry examination), được quy định rõ tại Điều 10, Nghị định
16/1999/NĐ-CP ban hành ngày 27/03/1999 về thủ tục hải quan, giám sát và lệ phí hải
quan:
“1. Doanh nghiệp có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ hải quan của những lô hàng đã
giải phóng trong thời hạn là 05 năm kể từ ngày giải phóng hàng và có trách nhiệm
xuất trình bộ hồ sơ cùng sổ sách, chứng từ liên quan khác cho cơ quan hải quan khi cơ
quan hải quan yêu cầu.
2. Cơ quan hải quan thông qua việc kiểm tra hồ sơ hải quan lưu tại cơ quan hải
quan hoặc qua các nguồn thông tin khác, mà phát hiện có sai lệch về số thuế phải nộp
của doanh nghiệp, thì được phép kiểm tra hồ sơ lưu ở doanh nghiệp cùng các sổ sách,
chứng từ khác có liên quan đến lô hàng đã được giải phóng.”
Quy định về nghiệp vụ kiểm tra sau giải phóng hàng tuy đã được tách riêng
nhưng vẫn còn rất sơ sài. Sau đó, Tổng cục Hải quan mới chi tiết thêm bằng cách ban
ra Quy chế về kiểm tra sau giải phóng hàng theo Quyết định 199/1999/QĐ-TCHQ
ngày 05/06/1999, trong đó quy định: “Kiểm tra sau giải phóng hàng là một khâu
nghiệp vụ kiểm tra hải quan, do cơ quan hải quan thực hiện để thẩm định tính chính
xác trung thực các nội dung đã khai báo và tính thuế của người làm thủ tục hải quan
đối với lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu đã được giải phóng nhằm thu đủ thuế cho ngân
9
sách Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức và cá
nhân liên quan.”
Quyết định trên còn chi tiết thêm về trình tự, thủ tục kiểm tra và cách thức tổ

chức thực hiện nghiệp vụ kiểm tra sau giải phóng hàng.
Có thể nói, Nghị định 16/1999/NĐ-CP ngày 27/03/1999 là cơ sở nền tảng cho
quá trình hình thành và phát triển của hoạt động KTSTQ tại Việt Nam. Khoảng thời
gian từ năm 1999 đến 2001 có thể xem là giai đoạn thử nghiệm của hoạt động KTSTQ.
Trong giai đoạn này, ngành Hải quan Việt Nam đã có những nỗ lực và đã đạt được một
số thành tựu đáng kể về kiểm tra và giám sát hải quan.
Ngày 29 tháng 06 năm 2001, Luật Hải quan được ban hành với quy định chính
thức đầu tiên về KTSTQ tại Điều 32, sau đó được cụ thể hóa trong Nghị định
102/2001/NĐ-CP quy định chi tiết về KTSTQ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Những
quy định này bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2002, cũng từ thời điểm đó Hải quan Việt
Nam mới chính thức triển khai hoạt động nghiệp vụ KTSTQ.
Tiếp đó có rất nhiều những nghiên cứu hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cũng như
những văn bản pháp luật sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực này. Hiện nay, hoạt động
KTSTQ chính thức được áp dụng sâu rộng theo Luật Hải quan sửa đổi năm 2005, bao
gồm các Nghị định 154/2005/NĐ-CP và Thông tư 194/2010/TT-BTC hướng dẫn thực
hiện. Gần đây nhất, vào ngày 09/02/2010, Tổng cục Hải quan Việt Nam đã ban hành
Chỉ thị 568/CT-TCHQ về tăng cường hoạt động KTSTQ cho các giai đoạn tiếp theo.
1.3. Các đối tượng và hạng mục liên quan tới hoạt động kiểm tra sau thông quan
1.3.1. Đối tượng chịu kiểm tra sau thông quan
Theo Điều 142, Thông tư 194/2010/TT-BTC: “Người xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá; người được ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá; đại lý làm thủ tục hải
quan, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh; người
được chủ hàng ủy quyền làm thủ tục hải quan là đối tượng chịu sự kiểm tra sau thông
quan.”
1.3.2. Đối tượng kiểm tra của kiểm tra sau thông quan
Theo Điều 143, Thông tư 194/200/TT-BTC, “đối tượng kiểm tra của kiểm tra
sau thông quan bao gồm:
10
- Hồ sơ hải quan đang lưu giữ tại doanh nghiệp và đơn vị hải quan làm thủ tục
hải quan cho hàng hóa liên quan.

- Chứng từ, tài liệu liên quan hàng hóa xuất nhập khẩu đã được thông quan như
sổ kế toán, chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, các tài liệu, dữ liệu liên quan, do
doanh nghiệp lưu giữ ở dạng giấy tờ hoặc dữ liệu điện tử.
- Hàng hóa, nơi sản xuất nếu cần thiết và còn điều kiện.”
Từ Điều 142 và 143, ta có thể thấy phạm vi, đối tượng của KTSTQ là rất rộng.
Đặc biệt, trong đó có cả việc kiểm tra hàng hóa. Trong thực tế, hàng hóa sau khi thông
quan đã được doanh nghiệp đưa vào sản xuất hoặc tiêu thụ, dẫn đến khó khăn rất lớn
trong việc kiểm tra. Tuy vậy, với chuyên môn nghiệp vụ, cũng như kinh nghiệm lâu
năm, các công tác kiểm tra đều đạt những thành tựu nhất định.
1.3.3. Các hạng mục chịu sự kiểm tra sau thông quan
Sau khi xác định rõ các đối tượng cần KTSTQ và thu thập đầy đủ thông tin,
chứng từ liên quan, hoạt động KTSTQ đòi hỏi được tiến hành kỹ lưỡng trên các hạng
mục chính sau: các hạng mục liên quan tới đến cơ sở tính thuế, các hạng mục liên quan
đến thuế suất, các hạng mục liên quan đến tổng số thuế và một số hạng mục khác.
1.3.3.1. Các hạng mục liên quan tới cơ sở tính thuế
a) Trị giá hàng hóa
Kiểm tra giá trị hàng hóa được coi là công tác quan trọng nhất của KTSTQ, nhất
là với các quốc gia áp dụng hệ thống trị giá GATT của WTO. Giá trị hàng hóa thường
được ghi trên hóa đơn thương mại bao gồm giá hàng hóa và các chi phí hợp lý tính đến
cửa khẩu xuất nhập hàng. Vì vậy, các gian lận về trị giá thường là: Chênh lệch thấp hơn
nhiều, hoặc cao hơn nhiều so với: Giá bán của hàng hoá đó trên thị trường trong nước
sau khi đã trừ thuế, các chi phí và lợi nhuận hợp lý; Giá tính thuế nhập khẩu của hàng
hoá giống hệt, hàng hoá tương tự do các đơn vị khác nhập khẩu tại cùng thời điểm,
cùng thị trường, cùng phương thức giao hàng; Khai không đúng các khoản phải cộng
vào hoặc các khoản phải trừ ra khỏi trị giá giao dịch, mối quan hệ đặc biệt giữa người
mua và người bán; Phương thức và thời gian thanh toán thực tế không đúng với khai
hải quan; Bất hợp lý trong việc khai phương thức vận tải, phương tiện vận tải, quãng
đường vận tải, tuyến đường vận tải, cước phí vận tải, phí bảo hiểm có liên quan đến
xác định trị giá hải quan.
11

Tuy nhiên, cơ quan hải quan có thể thông qua các dữ liệu trong sổ sách kế toán,
giao dịch ngân hàng để nắm bắt mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ đó phát hiện ra
những trường hợp cố tình vi phạm để có biện pháp xử phạt nghiêm khắc.
Bên cạnh đó, gian lận về giá trị hàng hóa cũng có thể là khai tăng giá trị hàng,
đặc biệt là việc góp vốn cổ phần từ nước ngoài bằng tài sản cố định. Các nhà đầu tư
thường khai tăng giá trị tài sản lên để tăng phần trăm vốn trong doanh nghiệp để được
phân chia lợi nhuận nhiều nhất có thể. Ngoài ra, giá trị của các nguyên liệu đầu vào
nhập khẩu tăng có thể giúp cơ quan hải quan tăng thu thuế nhập khẩu nhưng lại gây
thất thu cho các thuế nội địa như thuế GTGT, thuế TNDN.
b) Số lượng hàng hóa
Đối với các giao dịch xuất nhập khẩu hàng hóa áp dụng thuế lũy tiến theo số
lượng hay có giấy phép cấp hạn ngạch, việc xác minh số lượng là một trong những
điểm quan trọng. Thường gặp nhất là trường hợp khai giảm số lượng hàng thực tế hoặc
không khai để trốn thuế. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể khai tăng số lượng với những
hàng hóa có giá trị hoặc mức thuế suất thấp; và khai giảm với những hàng có giá trị
cao hoặc mức thuế suất cao để thu lợi từ chênh lệch về thuế. Trong những trường hợp
này, hải quan hoàn toàn có thể dựa trên chứng từ, sổ sách kế toán đã giao dịch của
doanh nghiệp để kiểm tra.
c) Tỷ giá tính thuế
Dù giá ghi trên hóa đơn thương mại là nội tệ hay ngoại tệ thì việc tính trị giá
tính thuế đều phải dựa trên đồng nội tệ. Điều này khiến số thuế phải nộp phụ thuộc rất
nhiều vào tỷ giá. Việc KTSTQ giúp cơ quan hải quan xác minh điều khoản tiền tệ đã
thỏa thuận giữa các bên, bằng cách kiểm tra hợp đồng và chứng từ liên quan, từ đó
phát hiện ra các dấu hiệu vi phạm.
1.3.3.2. Các hạng mục liên quan tới thuế suất
a) Mã số hàng hóa
Thông thường, việc phân loại hàng hóa được xác định thông qua mô tả trong
hợp đồng thương mại. Trong trường hợp, việc mô tả hàng hóa chưa đủ căn cứ để phân
loại hoặc khi ý kiến phân loại của cơ quan hải quan có khác biệt với người khai hải
quan thì việc kiểm tra thực tế hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong việc phân loại

chính xác hàng hóa đó. Tuy nhiên, công tác xác định lại việc phân loại hàng hóa
12
thường gặp rất nhiều khó khăn. Cơ quan hải quan chỉ có thể đủ khả năng kiểm tra lại
khi hàng hóa còn tồn tại hoặc có một vài thay đổi nhưng vẫn giữ nguyên các đặc điểm
khi nhập khẩu và ít nhất hồ sơ hải quan phải bao gồm hóa đơn thương mại, phiếu đóng
gói để phục vụ công tác kiểm tra.
b) Thuế suất
Một mặt hàng xuất nhập khẩu có thể chịu nhiều mức thuế suất theo các chương
trình ưu đãi khác nhau. Tuy nhiên, để được áp dụng mức thuế suất nào đó thì hàng hóa
phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng điều này,
xuất hàng qua một nước thứ ba hoặc không khai đủ quy trình, nguồn gốc nguyên vật
liệu sản xuất để được hưởng ưu đãi về thuế quan. KTSTQ cho phép cơ quan hải quan
xác định xuất xứ thực của hàng hóa thông qua việc kiểm tra các chứng từ có liên quan.
c) Các hạng mục liên quan tới tổng số thuế và các hạng mục khác
KTSTQ giúp xác minh lại việc áp dụng các điều kiện miễn, giảm thuế, hoàn
thuế và việc tính toán thuế. KTSTQ cũng là một biện pháp hữu hiệu xác định xem các
điều kiện áp dụng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu như giấy phép, hạn ngạch, hàng
cấm, hàng nhập có điều kiện có được tuân thủ triệt để hay không. Vì vậy, việc xem xét
cụ thể các nội dung về chính sách mặt hàng đóng vai trò rất quan trọng trong kiểm tra
sau thông quan.
1.4. Lợi ích của hoạt động kiểm tra sau thông quan
1.4.1. Lợi ích đối với cơ quan hải quan
Trong những năm gần đây, cơ quan hải quan các nước ngày càng nhận thấy rõ
ràng lợi ích của KTSTQ và đạt KTSTQ nằm trong chương trình phát triển, hiện đại hóa
hải quan. Sau đây là một vài lợi ích quan trọng của KTSTQ đối với cơ quan hải quan:
Bản chất của hoạt động KTSTQ là kiểm tra, xác minh tính hợp pháp của các
chứng từ thông quan, qua đó ngăn chặn, xử lý kịp thời, đầy đủ các hành vi gian lận,
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Trong hoạt động KTSTQ, cơ quan hải quan quản lý doanh nghiệp xuất nhập
khẩu trong mối quan hệ tổng thể, liên tục chứ không phải theo từng lần thông quan.

Quản lý trên cơ sở đánh giá rồi lựa chọn đối tượng kiểm tra. Nhờ đó mà góp phần giảm
chi phí mà vẫn hiệu quả do chỉ tập trung vào các đối tượng có khả năng gian lận cao
13
nhất. Quan trọng hơn là giảm thời gian thông quan, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp kinh doanh chân chính, khuyến khích họ có ý thức tuân thủ pháp luật ở
mức độ cao và tự giác.
Hoạt động KTSTQ phát triển do áp dụng tốt phương pháp quản lý rủi ro sẽ thúc
đẩy quá trình hiện đại hóa hải quan, đồng thời giảm thiểu các nguy cơ gây tổn hại tới
liêm chính hải quan.
Hoạt động KTSTQ triển khai nhận được sự đồng thuận từ phía doanh nghiệp
xuất nhập khẩu. Đa số doanh nghiệp nhận thức công tác KTSTQ là vấn đề nghiệp vụ
bình thường như các khâu nghiệp vụ khác của cơ quan hải quan. Hầu hết doanh nghiệp
bày tỏ thiện chí khắc phục kịp thời những sai sót sau công tác KTSTQ. Tuy nhiên,
trong quá trình tác nghiệp, KTSTQ cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế về nhân sự và
những căn cứ pháp lý khi áp dụng vào thực tiễn hay sự chưa thống nhất giữa các chủ
trương của nhà nước. Qua đó, các doanh nghiệp có thể đưa ra các kiến nghị với cơ
quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn luật.
Thông qua một số lợi ích quan trọng trên, toàn ngành Hải quan nên phát triển
công tác nghiệp vụ theo hướng KTSTQ, dựa trên hệ thống quản lý rủi ro, thể hiện sự
tiên tiến trong công tác quản lý, bắt kịp định hướng của thế giới.
1.4.2. Lợi ích đối với doanh nghiệp
Đối với đại đa số doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cụm từ “kiểm tra sau thông
quan” hay “kiểm toán hải quan” luôn có nghĩa tiêu cực. Họ luôn liên tưởng tới hoạt
động của cơ quan hải quan tập trung vào việc kiểm tra khắt khe giấy tờ, tài liệu của lô
hàng đã thông quan, nhằm phát hiện ra những lỗi vi phạm, dẫn tới việc truy thu thêm
thuế, có khi là bị truy tố.
Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp tuân thủ đúng pháp luật có thể được
lợi từ việc được KTSTQ. Nếu doanh nghiệp có thể vượt qua cuộc sát hạch với những
quy định phức tạp của luật pháp được vận dụng trong cuộc kiểm tra, cũng như trải qua
các chương trình tự đánh giá, doanh nghiệp sẽ có cái nhìn toàn diện và tốt hơn, từ đó

rút ra nhiều bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý chuỗi cung ứng của
mình.Sau đây là một số lợi ích quan trọng của KTSTQ tới doanh nghiệp:
* Giúp doanh nghiệp thay đổi cơ cấu hoạt động theo định hướng của pháp luật
14
Đối với doanh nghiệp, việc chuẩn bị cho một cuộc KTSTQ rất phức tạp. Sau khi
nhận được thông báo của cơ quan hải quan về việc sẽ tổ chức gặp mặt để đánh giá sơ
bộ trước khi tiến hành KTSTQ, doanh nghiệp sẽ phải tìm hiều kỹ về những giấy tờ, tài
liệu mà cơ quan hải quan sẽ xem xét. Tiếp đó, một điều cũng quan trọng là phải xem và
tự trả lời những câu hỏi liên quan đến kiểm soát nội bộ và các quy trình xử lý dữ liệu.
Một bước chuẩn bị cũng quan trọng là phải đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng bộ
phận, phòng ban của công ty đến các hoạt động xuất nhập khẩu (chẳng hạn như phòng
phụ trách xuất nhập khẩu, phòng kế toán, bộ phận trợ lý giám đốc, bộ phận văn thư lưu
trữ, kho quỹ ). Điều thuận lợi nhất là doanh nghiệp có thể xác định các vấn đề và chủ
động chỉnh sửa tất cả trước khi cuộc kiểm tra bắt đầu.
Có một điều chắc chắn rằng cuộc kiểm tra sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dù ít hay nhiều. Những kiểm tra viên hải quan có
thể sẽ yêu cầu nhiều điều trong vòng từ một vài tuần tới một vài tháng (tùy theo quy
định của từng quốc gia). Một trong những điểm quan trọng là phải đạt được sự thống
nhất giữa hai bên doanh nghiệp và hải quan về lộ trình dự kiến của cuộc kiểm tra. Việc
kiểm tra nhanh hay chậm sẽ phụ thuộc vào quy mô hoạt động xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp, vào mức độ chuẩn bị của công ty cho việc đánh giá, mức độ hợp tác và
năng lực của các bên, và tất nhiên cả những yếu tố khách quan.
* Đạt tới sự kiểm soát tốt hơn
Cùng với sự chuẩn bị trong và sau quá trình KTSTQ, doanh nghiệp sẽ thu được
những lợi ích, tuy không trực tiếp tới quá trình kinh doanh song cũng rất thiết thực:
- Cơ hội để tự đánh giá nhằm tối ưu hóa công tác quản lý doanh nghiệp.
- Cơ hội để liên kết những quy trình, những bộ phận, cá nhân và cả thông tin
trong nội bộ doanh nghiệp (để thỏa mãn những yêu cầu xuất trình, chứng minh… của
cơ quan hải quan).
- Cơ hội nhận biết và giảm thiểu những rủi ro trong việc tuân thủ pháp luật, từ

đó tránh những nguy cơ phải nhận những hậu quả pháp lý tiêu cực.
- Cơ hội vận dụng những biểu mẫu đánh giá của cơ quan hải vào việc đánh giá
nội bộ của chính doanh nghiệp.
- Cơ hội đánh giá hoạt động xuất nhập khẩu như là một khâu của chuỗi sản xuất,
kinh doanh.
15
- Cơ hội thiết lập quan hệ hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau với cơ quan hải quan.
Trong trường hợp kết quả KTSTQ cho thấy doanh nghiệp hoàn toàn tuân thủ tốt
pháp luật về xuất nhập khẩu, doanh nghiệp có những quy trình và tổ chức hiệu quả,…
thì việc công bố kết luận KTSTQ rộng rãi lại là một hình thức quảng bá thương hiệu rất
hiệu quả cho bản thân doanh nghiệp (tương tự như kiểm toán thông thường).
* Tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp, giảm thời gian thông quan
Hoạt động KTSQ tạo sự công bằng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa nhập khẩu bởi vì nó đảm bảo mọi doanh nghiệp
đều phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế.
Ngoài ra, khi KTSTQ được thực thi, các doanh nghiệp có ý thức chấp hành tốt
luật pháp luôn được đơn giản hóa thủ tục hải quan, tạo điều kiện cho việc lưu thông
hàng hóa nhanh chóng, dễ dàng và thuận tiện. Nhờ đó, doanh nghiệp giảm được rất
nhiều chi phí lưu kho, chi phí đi lại của nhân viên và rất nhiều chi phí cơ hội khác.
16
1.5. Đặc điểm hoạt động kiểm tra sau thông quan tại một số quốc gia và khu vực
1.5.1. Mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan ASEAN
Về KTSTQ, mục đích của cộng đồng Hải quan ASEAN là hài hòa hóa các thông
lệ và thủ tục KTSTQ để tạo thuận lợi cho thương mại và bảo vệ hiệu quả số thuế do hải
quan đảm nhiệm.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, Hải quan ASEAN cũng khuyến nghị các nước
thành viên nên thành lập một đơn vị chuyên trách về kiểm tra sau thông quan tại cơ
quan Tổng cục hay các đơn vị thực thi tại các vùng trực thuộc.
Theo ASEAN PCA Manual, sơ đồ sau sẽ minh họa vị trí của một đơn vị KTSTQ
tại cơ quan hải quan cấp Trung ương hoặc địa phương:

Hình 1.1. Sơ đồ vị trí đơn vị kiểm tra sau thông quan
Nguồn:[17]
Tổng cục
(địa phương)
Bộ phận thông quan
Bộ phận chức năng khác
Bộ phận kiểm soát
Bộ phận KTSTQ
Chức năng của đơn vị KTSTQ được chia thành hai nhóm nhỏ. Một là hoạt động
về thông tin, bao gồm công việc như thu thập, phân loại xử lý và tập hợp thông tin cơ
bản về đối tượng KTSTQ. Hai là các hoạt động kiểm tra tại doanh nghiệp do nhân viên
KTSTQ thực hiện thông qua kiểm tra hồ sơ, sổ sách và các chứng từ có liên quan của
đối tượng KTSTQ và các đơn vị hải quan liên quan.
17
Mô hình sau sẽ mô tả tổ chức của một đơn vị KTSTQ theo chuẩn ASEAN:
Tổng cục Hải quan
Nguồn: [18]
Hình 1.2. Mô hình tổ chức đơn vị kiểm tra sau thông quan
Cục trưởng PCA
Đơn vị phối hợp
Đội thông tin
Đội kiểm tra
Cục trưởng
Cục Hải quan
Đơn vị PCA
Đội thông tin
Đội kiểm tra
18
Quy trình KTSTQ theo khuyến nghị của ASEAN gồm 3 bước: lựa chọn đối
tượng kiểm tra, kiểm tra thực tế và xử lý kết quả kiểm tra. Phương pháp quản lý rủi ro

được sử dụng trong tất cả các bước KTSTQ, đồng thời cơ quan hải quan nên chú ý tập
trung vào rà soát và kiểm tra hồ sơ chứng từ của đối tượng kiểm tra. Đây được coi là
điểm nổi bật của mô hình KTSTQ theo chuẩn mực ASEAN. Quá trình thực hiện cần
liên lạc thường xuyên với đối tượng kiểm tra. Thêm vào đó, sự hợp tác với các đơn vị
chức năng khác cũng cần được duy trì để thực hiện KTSTQ có hiệu quả.
Mô hình KTSTQ mẫu của ASEAN là mô hình chuẩn đầu tiên được áp dụng cho
một liên kết kinh tế trên phạm vi toàn thế giới. Điểm mạnh của mô hình là sử dụng một
hệ thống đánh giá rủi ro chất lượng cao cho tất cả các khâu trong quy trình kiểm tra
trực tiếp. Tuy nhiên, quá trình thực hiện mô hình này vẫn gặp một số vấn đề phát sinh
do môi trường tài chính và pháp luật ở các nước thành viên chưa thực sự minh bạch,
đồng đều.
19
1.5.2. Mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Trung Quốc
Với đặc điểm địa lý vô cùng phức tạp, vai trò quản lý của Hải quan Trung Quốc
luôn được nhà nước điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp. Đó cũng là kinh nghiệm quý báu
cho Việt Nam khi tiến hành cải cách và hiện đại hóa hải quan.
Mô hình thực thi KTSTQ của Hải quan Trung Quốc được thiết lập vào năm
1994. Hiện nay, Cục điều tra của Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm chính về công
tác kiểm toán, bao gồm bộ phận kiểm toán và bộ phận điều tra thương mại. Tại các cơ
quan hải quan vùng cũng có các bộ phận kiểm toán và nhân viên kiểm toán chuyên
nghiệp với hàng nghìn nhân viên trong toàn quốc. Để hiểu rõ cơ cấu tổ chức Hải quan
tại Trung Quốc, ta có thể xem mô hình dưới đây:
Hình1.3. Mô hình tổ chức KTSTQ của Hải quan Trung Quốc
20
21
Nguồn:
truy cập ngày 15/04/2012
Mô hình KTSTQ của Hải quan Trung Quốc được tập trung xem xét vấn đề lựa
chọn đối tượng kiểm tra. Hải quan Trung Quốc tiến hành kiểm tra thông quan trong
vòng 03 năm kể từ ngày hàng hóa được thông quan, hoặc trong khoảng thời gian giám

sát và quản lý hải quan đối với hàng thuộc diện miễn thuế hoặc giảm thuế. Hệ thống
lựa chọn hoạt động theo phương thức:
- Kết hợp giữa phân tích rủi ro và KTSTQ
- Kết hợp giữa kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất.
- Kết hợp giữa kiểm tra và thi hành nội quy doanh nghiệp.
Về quy trình nghiệp vụ, công tác KTSTQ của Hải quan Trung Quốc được tiến
hành theo 4 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn thực thi, giai đoạn xử lý sơ bộ, giai
đoạn đánh giá kết quả.
Hải quan Trung Quốc sử dụng công cụ hỗ trợ là hệ thống tình báo hải quan,
trong đó quy định thẩm quyền rất mạnh của lực lượng cảnh sát hải quan. Lực lượng
này được thành lập vào tháng 01/1999, với tên là Cục Điều tra tội phạm buôn lậu và
được đổi tên là Cục chống buôn lậu vào năm 2002. Cảnh sát chống buôn lậu thực hiện
bốn chức năng, nhiệm vụ chính là: thực thi pháp luật hình sự, xử lý vi phạm hành
chính, xử phạt lĩnh vực trị an và điều phối tổng quát trong lĩnh vực chống buôn lậu.
Thêm vào đó, cảnh sát chống buôn lậu có quyền thực thi pháp luật hình sự trên toàn
lãnh thổ, được bắt giữ, điều tra, xét hỏi, khởi tố, truy nã với các đối tượng nghi vấn,
được sử dụng các công cụ hỗ trợ, vũ khí để trấn áp tội phạm, được sử dụng các biện
pháp trinh sát đặc biệt như giám sát điện thoại, ngoại tuyến, nội tuyến, chụp ảnh, quay
phim, đột nhập.
Hải quan Trung Quốc đang áp dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý thông
tin tình báo. Thông tin thu được dùng để phục vụ công tác chống buôn lậu trong toàn
ngành. Lực lượng tình báo được quyền sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng
cảnh sát chống buôn lậu để thu thập các nguồn thông tin công khai và bí mật liên quan
tới công tác quản lý Nhà nước về hải quan và các hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhờ vậy
mà các vụ trái phép do tình báo phát hiện ngày càng gia tăng.
Mô hình KTSTQ của Trung Quốc tuy mới được thực thi, nhưng với biện pháp
quản lý cứng rắn, tiên tiến nên đã đạt được nhiều kết quả trong kiểm soát và điều tiết
22
hoạt động xuất nhập khẩu. Điểm mạnh của mô hình là nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ
của hệ thống cảnh sát hải quan, với nguồn tin tình báo vô cùng phong phú và hiệu quả.

Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm địa lý, kinh tế, sự phát triển không đồng đều giữa các
miền đã dẫn đến sự phức tạp trong việc quản lý, khó khăn trong thống nhất về cơ sở dữ
liệu cũng như thủ tục cho KTSTQ.
1.5.3. Mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Pháp
Theo công bố của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF năm 2010 và 2011, Pháp là một trong
những quốc gia phát triển có nền kinh tế xếp thứ năm thế giới. Đồng thời, chế độ quản
lý tiên tiến, hệ thống giám sát thuế nội địa và hệ thống tài chính minh bạch, dựa trên
nền tảng công nghệ thông tin đã giúp công tác phối hợp thực thi cực kỳ hiệu quả. Tuy
nhiên, mô hình KTSTQ của Hải quan Pháp cũng có nhiều đặc thù, đó là không có hệ
thống riêng mà được tích hợp trong các đơn vị chức năng khác nhau, có thể gây khó
khăn cho việc thực hiện. Xem xét theo khía cạnh đó, mô hình này cần được nghiên cứu
để ứng dụng cho hệ thống KTSTQ tại Việt Nam.
Vai trò của cơ quan Hải quan Pháp, từ chỗ chỉ nhằm mục đích thu thuế, đã có
những thay đổi đáng kể tương ứng với sự phát triển của xã hội nói chung. Ngày nay, cơ
quan này phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ nặng nề khác nhau, trong đó, nhiệm vụ chính
là thu thuế, đồng thời thực hiện nghĩa vụ tài chính với Cộng đồng Châu Âu EU. Ngoài
ra, cơ quan Hải quan Pháp còn có nhiệm vụ đấu tranh chống gian lận thương mại và
buôn lậu quốc tế, chịu trách nhiệm bảo vệ lợi ích kinh tế của EU và các quốc gia thành
viên. Cơ quan Hải quan Pháp cũng đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe và an ninh
cộng đồng, bảo vệ môi trường và truyền thống bản sắc dân tộc (kiểm soát giao dịch cổ
vật và sản phẩm nghệ thuật khác.
Quy trình KTSTQ của Hải quan Pháp tương tự chuẩn mực quốc tế và khuyến
nghị của WCO, bao gồm các bước lần lượt như sau:
- Kế hoạch tổng thể;
- Thu thập thông tin về đối tượng, vụ việc;
- Kiểm tra thực tế;
- Kết thúc, lập biên bản tổng hợp lại tất cả các biên bản trước, kết luận;
- Đưa vào cơ sở dữ liệu (của lực lượng điều tra) phục vụ quá trình tiếp theo.
Trong mô hình nghiệp vụ KTSTQ của Hải quan Pháp, điểm quan trọng vẫn là
khâu phân tích thông tin để lựa chọn đối tượng kiểm tra dựa trên cơ sở quản lý rủi ro.

23
Kỹ thuật quản lý rủi ro được Hải quan Pháp ứng dụng phù hợp với các quy định của
EU và quốc tế. Các đơn vị tiến hành kiểm tra có nhiệm vụ xác định tỷ lệ kiểm tra thích
hợp dựa trên phân tích rủi ro, lần lượt đánh giá tổng thể rủi ro và các thành phần theo
mục đích riêng biệt. Về quản lý thông tin, thông qua các nguồn thông tin như từ cơ sở
dữ liệu quốc gia, từ thông tin ngoại tuyến (các đơn vị hành chính, tư nhân có liên
quan), cơ quan hải quan sẽ tiến hành xác định định hướng kiểm tra.
Dựa trên kết quả phân tích này, kết hợp với chức năng nhiệm vụ, cơ quan Hải
quan Pháp tiến hành xác định định hướng kiểm tra giới hạn trong từng yếu tố, xây
dựng phương thức kiểm tra, gồm có tài liệu kiểm tra, kiểm tra thực tế, kiểm tra trực
tiếp, để phục vụ thực thi kế hoạch chung. Trong khuôn khổ đã xác định, Hải quan Pháp
sẽ tập trung vào:
- Chính sách nông nghiệp;
- Các sản phẩm từ dầu mỏ;
- Ma túy;
- Các chế độ ưu đãi thuế quan;
- Các nghĩa vụ trong Cộng đồng Châu Âu.
Đối với hải quan vùng, yếu tố gian lận đặc trưng của từng vùng sẽ được bổ sung
vào định hướng kiểm tra. Do đó, hệ thống đánh giá rủi ro sẽ chia làm hai loại, loại rủi
ro chung cho toàn ngành có thể coi là tiêu chí cứng, và loại rủi ro đặc trưng vùng miền,
được coi là tiêu chí mềm.
Kế hoạch tổng thể được cơ quan Tổng cục chuẩn bị cho từng năm, vạch ra cho
các đơn vị các định hướng và ưu tiên trong toàn quốc và được thực hiện ở cấp độ liên
vùng. Bên cạnh đó, còn có các kế hoạch kiểm tra đặc biệt trong từng lĩnh vực như kiểm
tra hoạt động tài chính, hoạt động buôn bán cổ vật.
Điểm mạnh của mô hình Hải quan Pháp là KTSTQ được thực hiện trong tổng
thể các hoạt động điều tra gian lận nên có đủ quyền lực tiến hành công việc mà không
cần đến một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt. Tuy nhiên, Hải quan
Pháp chỉ chú trọng các trường hợp có dấu hiệu vi phạm, không chú trọng nhiều đến
kiểm tra chung để đánh giá sự tuân thủ. Hơn nữa, về hoạt động nghiệp vụ, kiểm tra sau

thông quan được coi là hoạt động mang tính chất điều tra, thể hiện qua cách làm và
thẩm quyền của điều tra viên.
1.5.4. Mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Australia
24
Nền kinh tế Australia vận hành theo định hướng xuất khẩu với một môi trường
thương mại mở cung cấp những chính sách hỗ trợ thuận lợi cho các thị trường nhằm
duy trì cho nền kinh tế luôn ở mức phát triển mạnh mẽ. Trong 30 năm qua, Australia
ủng hộ tích cực cho chủ trương tạo thuận lợi cho thương mại phát triển với việc tạo ra
những hàng rào thương mại "thấp nhất" so với khu vực khác trên thế giới.
Nội bộ cơ quan Hải quan, lãnh đạo Hải quan Australia rất chú trọng tới việc cải
tiến nhận thức về cách ứng xử và nhận thức về mặt xã hội của các nhân viên hải quan,
bằng cách cấp cho họ một thẻ Z. Thực chất đây là một văn bản tập hợp một cách tóm
tắt các quy định hiện hành về liêm chính dưới hình thức một cẩm nang tra cứu. Mục
đích quan trọng của thẻ Z là giúp nhân viên tuân thủ các quy định về liêm chính hải
quan và chấp hành các quy tắc của tổ chức. Thẻ Z được cấp cho tất cả nhân viên hải
quan và sẽ do bộ phận các chuẩn mực nghề nghiệp và liêm chính quản lý.
Biện pháp này được sự thống nhất và ủng hộ của lãnh đạo Hải quan Australia,
nhất là từ người đứng đầu cơ quan này, ngài Michael Carmody-Chủ tịch cơ quan Hải
quan và Bảo vệ biên giới Australia. Theo đánh giá của ngài Chủ tịch, tấm thẻ này
khẳng định vị trí của liêm chính đối với từng cá nhân trong tổ chức và toàn thể tổ chức
nói chung, điều này có giá trị sống còn trong việc giúp giữ gìn lòng tin của người dân
và của chính các nhân viên hải quan. Những giá trị chính của thẻ Z hay còn gọi là thẻ
chống gian lận trong nhân viên hải quan và bảo vệ biên giới là “chuẩn bị, ngăn chặn,
kiểm tra phát hiện và giải quyết” các vấn đề. Với cấu trúc đơn giản nhưng chứa đựng
đầy đủ thông tin cần thiết, thẻ Z là một công cụ tham khảo và tư vấn nhanh chóng.
Hiện nay, Hải quan Australia áp dụng hai loại hình KTSTQ chính: Kiểm tra
trọng điểm và Kiểm tra hoạt động giao dịch. Cơ quan hải quan có quyền kiểm tra tất cả
hoạt động của khách hàng liên quan đến hoạt động hải quan, trong đó bao gồm: hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, khấu trừ thuế quan, kho ngoại quan, cấp giấy phép
xuất nhập khẩu và thuế.

Khi xác định một doanh nghiệp cần phải tiến hành KTSTQ dựa trên những
nguyên tắc quản lý rủi ro, Hải quan Australia sẽ gửi công văn đến doanh nghiệp. Sau
đó, nhóm KTSTQ của hải quan sẽ có cuộc tiếp xúc trực tiếp với lãnh đạo chủ chốt của
25
phía doanh nghiệp vào một thời điểm thuận tiện, thảo luận về mục đích, phạm vi và
thời điểm tiến hành kiểm tra.
Các hồ sơ, tài liệu chính mà Hải quan Australia quan tâm trong quá trình
KTSTQ là những tài liệu liên quan đến hoạt động thương mại (bao gồm cả tài liệu điện
tử), như: đơn đặt hàng, giấy chứng nhận, hoá đơn vận chuyển, vận đơn hàng không,
giấy phép, bản hợp đồng, danh mục kê khai hàng hoá, giấy chứng nhận phương thức
thanh toán. Đối với một số trường hợp, hải quan có thể kiểm tra cả những hệ thống và
các quy trình hoạt động của doanh nghiệp.
Hải quan Australia nỗ lực tiến hành quá trình KTSTQ một cách nhanh chóng
nhất, tránh những xáo trộn trong hoạt động cho phía doanh nghiệp. Sau khi quá trình
thẩm tra hồ sơ kết thúc, cơ quan hải quan sẽ có cuộc tiếp xúc với phía doanh nghiệp.
Nhóm kiểm tra sau thông quan của hải quan sẽ trao cho doanh nghiệp một bản “Báo
cáo kiểm tra doanh nghiệp” và trao đổi với doanh nghiệp những vấn đề phát sinh trong
quá trình kiểm tra.
Trong trường hợp, nếu nhóm KTSTQ phát hiện dấu hiệu không minh bạch trong
hồ sơ của doanh nghiệp, hải quan sẽ có cuộc tiếp xúc với phía doanh nghiệp vi phạm,
thảo luận về những sai phạm đặc biệt. Trong phạm vi luật pháp cho phép, những sai
phạm có thể được chỉnh lý nếu doanh nghiệp đồng ý nộp khoản thuế cho số hàng vi
phạm. Đối với một số trường hợp vi phạm nghiêm trọng, những hình phạt thích đáng,
bao gồm cả truy tố trách nhiệm hình sự sẽ được áp dụng. Trong trường hợp không
đồng ý với kết quả kiểm tra của nhóm KTSTQ, doanh nghiệp có thể gửi đơn khiếu nại
lên cơ quan hải quan yêu cầu xem xét lại. Thực tế, doanh nghiệp có quyền tranh luận
về kết quả của quá trình KTSTQ.
Chương 1 đã giúp khóa luận hình thành nên những nét khái quát về hoạt động
KTSTQ. Bên cạnh đó là đưa ra được một số mô hình KTSTQ của một số quốc gia tiêu
biểu trên thế giới. Tiếp theo, Chương 2 sẽ đề cập chi tiết về thực trạng hoạt động này

tại Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN
TẠI VIỆT NAM
2.1. Cơ sở thực tiễn và pháp lý của hoạt động KTSTQ
2.1.1. Cơ sở thực tiễn

×