Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tìm hiều lịch sử làng tam hiệp- xã cam thủy-huyện cam lộ- tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.44 KB, 18 trang )

TÌM HIỀU LỊCH SỬ LÀNG TAM HIỆP- XÃ CAM THỦY-
HUYỆN CAM LỘ- TỈNH QUẢNG TRỊ

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn cô giáo, PGS.TS Bùi Thị Tân;
nhân dân xã Cam Thủy và đặc biệt là bác Đào Tuấn; và bà con thôn Tam
Hiệp đã giúp đỡ tận tình trong chuyến đi thực tập vừa qua. Với sự cố gắng
của bản thân nhưng không tránh khỏi sai sót. Mong sự góp ý của cô và đại
diện Huyện, Xã, em xin chân thành cảm ơn các cơ quan đã rất nhiệt tình
giúp đỡ em để hoàn thành niên luận này.
Lời Nói Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Làng là một tổ chức xã hội tồn tại lâu đời và phổ biến trong xã hội
Việt Nam. Đây là sự bắt đầu tan rã của chế độ thị tộc trải qua hang ngàn năm
cho tới ngày nay, những năm đầu của thế kỷ XXI làng đã tồn tại như một
thực thể hiển nhiên điều đó cũng cho chúng ta thấy làng có một vai trò quan
trọng như thế nào đối với đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là
những người sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước.
Làng ở Việt Nam nó khác hơn so với các tổ chức xã hội và nó không
giống với bất cứ một làng nào trên thế giới, với tư cách là một tổ chức xã hội
làng có tính độc lập tương đối trong việc điều tiết và quản lý chung các hoạt
động của làng, đây là một đơn vị hành chính thấp nhất trong cơ cấu tổ chức
của nhà nước. Nhưng không có nghĩa là nó nhỏ bé mà đây chính là cái hồn,
cái chứa đựng bao nhân văn của Việt Nam thong qua các hương ước luật lệ
và phong tục tập quán của làng.
Vệ mặt kinh tế làng là một tổ chức mang tính hướng nội sản xuất
trong các làng chỉ mang tính riêng rẽ và nhỏ lẻ chỉ phục vụ cho cuộc sống tối
thiểu của từng người trong cộng đồng, tính độc lập đó nó tồn tại nên đã hạn
chế sự phát triển kinh tế của làng.
Trong thời kỳ chống giặc giữ nước làng là một tổ chức chặt chẽ. Là
nơi có tinh thần đoàn kết truyền thống và ý chí tự lực tự cường đặc biệt là sự


gắn bó với mảnh đất của mình “nơi chôn rau cắt rốn” và họ đã biến làng của
mình thành căn cứ cách mạng để che dấu bộ đội và có nhiều làng trở thành
làng chiến đấu. Và có nhiều bà mẹ đã cũng xuất phát từ làng quê nghèo khó,
đây cũng là thành lũy để chống lại quân giặc.
Bên cạnh làng xã có một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và
phát triển các đặc trưng văn hóa đây là nơi bảo lưu tốt các giá trị văn hóa cả
về vật chất cũng như tinh thần, truyền thống của dân tộc ta.
Với tất cả các yếu tố trên làng thực sự có yếu tố quan trọng trong lịch
sử Việt Nam. Việc nghiên cứu về làng Việt Nam là một đề tài quen thuộc,
tuy nhiên mỗi làng quê đều có một đặc trưng riêng của nó. Nó sẽ tạo cho ta
luôn có một cảm giác mới mẻ mỗi khi nghiên cứu về một làng quê nào đó
phần nào giúp chúng ta ngày càng hiểu sâu hơn bản sắc của dân tộc Việt
Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu
Việc nghiên cứu về làng xã là một trong những đề tài lịch sử nó mang
tính bao quát cả một tiến trình từ khi thành lập làng cho đến quá trình phát
triển. Các yếu tố kinh tế văn hóa xã hội của làng.
Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử làng để cho chúng ta thấy nét
đặc sắc của làng này so với làng khác ở Việt Nam và trên thế giới, phần nào
giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về sự đa dạng và phong phú của làng quê
Việt Nam đây là một nét đa dạng trong nghiên cứu khoa học.
3. Nguồn tư liệu và phương pháp thực hiện
Việc nghiên cứu đề tài này em dựa vào hai nguồn tư liệu chủ yếu: Đó
là các báo cáo. Các gia phả và sách báo, bên cạnh đó không thể thiếu là các
tài liệu tham khảo, các nhân chứng lịch sử được phỏng vấn.
Phương pháp thực hiện: đề tài này được thực hiện theo phương pháp
đi khảo sát thực tế về làng Tam Hiệp- xã Cam Thủy- huyện Cam Lộ- tỉnh
Quảng Trị. Được trực tiếp trao đổi qua các nhân chứng lịch sử để hiểu về
quá trình thành lập làng. Bên cạnh đó còn thu thập các tài liệu lien quan khác
để đối chiếu và cuối cùng kết hợp với sự kiến giải và suy nghĩ của bản thân

trên cơ sở hệ thống tư liệu nói về làng để hoàn thành niên luận này.
3. giới hạn vấn đề
4. Bố cục
Đề tài hoàn thành gồm có năm phần chính được phân bố như sau:
Lời nói đầu
Phần nội dung
I. Khái quát về thành lập làng, xã
II. Tình hình kinh tế
III. Văn hóa xã hội của làng trước năm 1945
IV. Truyền thống yêu nước cách mạng của làng Tam Hiệp từ 1945-
1975
V. Làng Tam Hiệp sau đổi mới từ năm 1986 đến nay
Dung Phần Nội
I. Khái quát về xã và quá trình thành lập và phát triển của làng
1. Khái quát về xã
1.1. Theo dòng lịch sử
Cam Thủy ngày xưa vốn là đất của bộ Việt Thường một trong 15 bộ
của nước Văn Lang tiếp đó là Âu Lạc đến khi Triệu Đà sang xâm lược nhà
Triệu chiếm lấy phần đất của An Dương Vương
Sau khi nhà Hán đánh bại các thế lực phong kiến khác ở Trung Quốc
năm 111 trcn thì vùng đất của nước Nam Việt lại về tay nhà Hán, với chính
sách cai trị chặt chẽ từ trung ương đến địa phương nhà Hán đã tiến hành
phân chia lãnh thổ của mình thống nhất bằng quận, huyện đối với lãnh thổ
của Văn Lang cũ nhà Hán chia làm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật
Nam.
Năm 192 Khu Liên lãnh tụ của bộ tộc Chàm đã nổi dậy đánh đổ nhà
Hán ra khỏi đất Nhât Nam và dựng nước Chămpa (hay gọi là Lâm Ấp) độc
lập từ Đèo Ngang đến Thuận Hải, Nhật Nam lại thuộc về nước Chămpa.
Vùng đất từ Quảng Trị đến đèo Hải Vân được chia thành hai châu Ô, Lý.
Năm 1306 sau đám cưới mang màu sắc chính trị giữa Huyền Trân

Công chúa và vua Chế Mân nhà vua của Chiêm Thành đã dâng trọn hai châu
Ô, Lý làm vật sính lễ. Hai châu này lại thuộc về Đại Việt. Từ đó dân tộc Việt
đã di cư vào làm ăn, khai khẩn dần dần làng mạc của người Việt được hình
thành và đứng vững trên đất này nhưng từ khi triều Trần cho đến triều Lê
dân Việt chỉ chiếm được vùng đồng bằng ven biển, còn ở vùng trung du
rừng núi phía tây chưa được khai thác.
Khi Nguyễn Hoàng trấn thủ xứ Thuận Hóa thì làn sóng di cư của
người Việt ngày càng mạnh mẽ. Các dân tộc ít người bị đẩy lùi nhường chỗ
cho cư dân Việt sinh sống ở các vùng núi hoang dã, ao dầm bao lách đã
được người Việt phục hóa. Và xây dựng nên làng mạc trù phú, vùng Cam
Thủy lúc này cũng được bắt đầy khai phá. Và thuộc huyện Đăng Xương
thuộc phủ Triệu Phong [1] (thời lê mạc là huyện Vũ Xương thuộc phủ Triệu
Phong)[2]
Thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc, các thôn trước gọi là Cam Đường
của xã Cam Thủy bây già năm trong tổng Cam Vũ huyện Cam Lộ tỉnh
Quảng Trị[3]
Xã Cam Lộ gồm ba thôn: Cam Vũ, Nhật Lệ và Phú Ngạn
Xã Tam Hiệp gồm ba thôn: Tân Đình, Tân Độ và Đại Độ
Xã Nhị Hiệp gồm hai thôn: Thọ Xuân, Thiện Chánh
Năm 1946 thì 4 xã này tiến hành hợp nhất lấy tên là Cam Thủy, riêng
Phú Ngạn thuộc xã Cam Thanh. Năm 1950 Cam Thủy nhập với Cam Mỹ
(bao gồm Cam Hiếu, Cam Tuyền) thành xã Thủy Mỹ, năm 1952 lại tách
thành 2 xã có tên gọi như trước. Cam Thủy lúc đó có 5 thôn Lâm Lang, Nhật
Lệ, Cam Vũ, Tam Hiệp và Thọ Xuân sau giải phóng 1972 thiện chánh (Cam
Mỹ) lại trở về Cam Thủy và Cam Thủy hợp nhất với Cam Hiếu thành một
xã gọi là xã Cam Thủy. Đến năm 1975 do chính sách của xã về vùng kinh tế
mới Tân Xuân được thành lập. Năm 1978 hai xã lấy sông Hiếu ra làm ranh
giới của mỗi xã.
Xã Cam Thủy gồm có 7 thôn: Lâm Lang, Cam Vũ, Nhật Lệ, Thọ
Xuân, Thiện Chánh, Tam Hiệp, Tân Xuân.

1.2. Vị trí giới hạn, diện tích, dân số
Cam Thủy năm hai bên con đường 71 là một xã ở vùng biển của dãy
Trường Sơn, phía tây là rừng xung quanh gò đồi, đông giáp Cam Thanh, tây
giáp với xã Cam Tuyền, Cam Hiếu và bắc giáp xã Linh Hải (thuộc huyện
Gio Linh).
Tổng diện tích của xã Cam Thủy hiện nay có 2069ha trong đó đất
nông nghiệp là 870ha, lâm nghiệp 863ha, đất chuyên dùng 184ha, đất ở là
20ha chưa kể đất sử dụng 332ha.
Dân số của xã có 1053 hộ gồm có 4738 nhân khẩu.
Nằm ở một vị trí trải dọc trên tuyến đường 71 đây là con đường giao
thông quan trọng nối liền với quốc lộ 1 và đường 9 với cầu Đuối bắc qua
sông Hiếu. Chạy suốt con đường này phía nam của xã cách khoảng 1km có
con đường 9 nổi tiếng nối liền với Đông Hà- Cam Lộ-Khe Sanh- Hướng
Hóa và con đường huyết mạch đối với miền tây Quảng Trị mà còn đối với cả
nước (đã kiểm nghiệm qua thời kỳ lịch sử của dân tộc).
Với con đường giao thông quan trọng như vậy Cam Thủy ngày nay có
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế văn hóa, mở rộng và giao lưu với
văn hóa bên ngoài.
1.3. Điều kiện tự nhiên
1.3.1.Địa hình
Cam Thủy đồi núi chiếm 2/3 diện tích địa hình của xã nghiêng dần
theo hướng tây bắc- đông nam trong đó vùng cao thuộc các thôn Thiện
Chánh, thọ Xuân, Tân Xuân vùng tương đối bằng phẳng là các thôn Lâm
Lang, Cam Vũ, Nhật Lệ. Xen kẻ với các vùng gò đồi là dãi đồng bằng xanh
thẳm chủ yếu để trồng lúa địa hình Cam Thủy khá đa dạng vừa có rừng vừa
có núi vừa có gò đồi trong tương lai ta có thể thấy được thế mạnh phát triển
lâm nghiệp và gò đồi nếu được đầu tư đúng hướng .
1.3.2. Khí hậu
Cũng giống như ở Cam Lộ, thời tiết ở đây rất khắc nghiệt, nắng gắt
mưa nhiều và thường kéo dài gây ra lũ lụt vào tháng 9, 10 mùa Hè lại có gió

mùa Tây Nam thổi về từ tháng 5-7 làm nhiệt độ thời tiết trở nên nóng bức có
lúc nhiệt độ lên tới 40
0
C. Vào mùa Đông gió đông bắc thổi vào tháng 11-3
làm nhiệt độ xuống còn 10
0
C.
1.3.3. Sông ngòi ao hồ, bầu chứa nước
Dòng sông cò một vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân
Đông Hà –Cam Lộ nói chung và Cam Thủy nói riêng là dòng sông Hiếu,
con sông chảy dọc phía nam đó là ranh giới giữa Cam Thủy và Cam Hiếu.
Chiều dài của dòng song qua xã Cam Thủy 3km đây là nơi cung cấp nước
cho sản xuất nông nghiệp cũng là nơi khai thác thủy hải sản.
Ngoài song Hiếu còn có một số suối, ao, hồ, đàm và khe nhỏ lớn nhất
là Đã Lả nguyên trước đây là một khe suối và ngăn đập lại làm hồ chưa
nước phục vụ cho sản xuât, hệ thống kênh mương dọc ngang cũng khái
nhiều, bên cạnh đó Cam Thủy còn có nhiều bầu nước lớn nhìn chung song
suối ở Cam Thủy có một vai trò quan trọng đối với nhân dân trong vùng.
1.4. Tài nguyên thiên nhiên
Hệ động thực vật trước 1968 ở phía bắc xã Cam Thủy (các làng Thọ
Xuân, Thiện Chánh, Tân Xuân) đã tồn tại rừng nguyên sinh với thảm thực
vật phong phú bao gồm nhiều loại gỗ quý như Lim, gỗ Kiền Kiền,… có
đóng góp rất lớn vào việc xây dựng nhà cửa, làm đồ gia dụng và chế thuốc.
Tuy vậy năm 1968-1972 nhằm mục đích triệt phá căn cứ cách mạng
Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn đã tàn phá hoàn toàn khu vục này, biến đây
thành vành đai trắng.
Thực vật, cây lương thực, lúa, sắn, ngô, cây họ đậu và cây ăn quả.
1.5. Ưu thế về môi trường tự nhiên
Nằm ỏ lãnh thổ Việt Nam nói chung và địa vàn Quảng Trị nói riêng
Cam Lộ có khí hậu nhiệt đới ẩm giáo mùa. Tuy vậy điều kiện địa lý phức tạp

nên có những đặc điểm riềng biệt là sự giao thoa giữa các khối khí nóng.
Đây là cái rốn của gió nóng Tây Nam khắc nghiệt một trong những tỉnh có
khí hậu nhất cả nước.
Với môi trường khí hậu như vậy đã làm cho người dân nơi đay thường
xuyên phải chịu những thử thách của thiên nhiên ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân, với tất cả các yếu tố đó đã chi phối và ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình thành lập làng xã và sinh hoạt văn hóa của xã
Cam Thủy.
2. Khái quát về Quá trình thành lập làng
Tam Hiệp nằm ở phía tây nam của xã đây là một thôn rộng lớn, phía
bắc giáp với xã Cam Tuyền, nam giáp với Cam Hiếu lấy con song Hiếu làm
ranh giới. Đông giáp với Lâm Lang, Cam Vũ, địa hình chủ yếu là đồi núi
chiếm 80% đất canh tác đa số là gò nương và đất trồng rừng.
Về mặt giao thông thì Tam Hiệp tương đối thuận lợi do nằm ở hai bên
đường 71 nên nơi đây trở thành cầu nối giữa các thôn các làng phía đông với
chợ phiên và huyện lị Cam Lộ. So với các làng trong xã Cam Thủy quá trình
thành lập làng Tam Hiệp tương đối phức tạp hơn, tiền thần của làng Tam
Hiệp do ba làng Đại Độ, Tân Độ và Tân Đình hợp thành trong đó Đại Độ
được hình thành sớm nhất. Ông tổ sớm nhất của làng có nguồn gốc từ Đại
Độ (thuộc xã Cam Giang) sau này do nhu cầu cuả cuộc sống cho nên có
nhiều người ở làng này đã đi lập nghiệp ở các vùng đất phía tây lập nên làng
Đại Độ Thượng Nguyên (để phân biệt với làng cũ) theo gia phả của họ
Hoàng một trong những họ sáng lập làng thì dòng họ này sống ở Đại Độ
Thượng Nguyên, và tính đến nay đã được 8 đời tương truyền khoảng 200
năm (vào khoảng thế kỉ XVIII-XIX). Trước cách mạng tháng Tám năm
1945 đây được coi là đơn vị hành chính nhưng do đất hẹp, dân số ít nên
không được đặt tên là xã mà đặt tên là phường thuộc tổng Cam Vũ huyện
Cam Lộ.
Đặc biệt là giống như Đại Độ và Tân Đình ngày xưa là vùng đất
hoang vu cây cối rậm rạp thú rừng rất nhiều, từ khoảng giữa thế kỉ XIX

những người làng Đình Tổ thuộc Cam Giang đã lên đây khai thác gỗ, củi săn
muông thú họ không ở hẳn tại đây mà chỉ lập nên những lều quán chòi trong
thời gian đi rừng. Mặc dù đến trước nhưng người Đình Tổ không phải là
người khai canh lập làng này mà chỉ sử dụng với mục đích kinh tế của mình.
Vào khoảng giữa thế kỉ XIX những cư dân mới từ miền bắc vào đây
lập nghiệp lâu dài tương truyền đầu tiên có 12 người thuộc 12 họ có nguồn g
gốc ở Thanh Nghệ Tĩnh và Quảng Bình đặt chân đến Tân Đình, ở đây họ
gặp người Đình Tổ do thế yếu nên lúc đầu họ bị người Đình Tổ đánh đuổi về
sau được phép nhập cư và phải làm những công việc khổ sai, phục dịch vất
vả. Người Đình Tổ đối xử với họ rất ngang ngược và gọi nơi cư trú của họ là
làng Cái Hạ (làng Phục Dịch) sự đối xử bất công, phi lý của người Đình Tổ
đối với những người mới đến khiến cho nhân dân các làng Đại Độ và Tân
Độ hết sức bất bình và động lòng thương xót những người dân làng Cái Hạ,
họ muốn ra tay cứu giúp nhưng không có cơ hội.
Thế rồi do một sự tình cờ ông Hoàng Khúc. Người Đại Độ vốn là rể
của làng Đình Tổ trong một lần xem gia phả của nhà bố vợ mới biết vùng
đất Cái Hạ không thuộc địa phận của làng Đình Tổ mà chỉ đất hoang chưa
có chủ, sau đó ông mach cho người dân Cái Hạ và bày cho họ đưa kiện với
quan trên để chiếm lấy vùng đất này mọi chi phí kiện đều do ông Nguyễn
Ngọc Huy một người giàu đảm nhận với điều kiện là nếu như thắng kiện ông
chỉ xin được làm người hậu khai canh của làng. Kết quả là những người Cái
Hạ được thắng kiện quan đã xác nhận vùng đất này không phải là đất của
người Đình Tổ và cho phép lập làng mới, mang tên là Tân Độ (tức Đình Tổ
mới) bao gồm những người Cái Hạ và một số người Đình Tổ. Người làng
Đình Tổ đã quyết định lập làng mới ở đây.
Về sau ông Hoàng Ủy (con trai ông Hoàng Khúc) do có nhiều công
đức với làng được phong là ông tổ của Tân Đình hàng năm vào tháng 4 và
tháng 7 âm lịch (kể từ khi ông mất) dân làng lại tổ chức hương khói tế ông
và góp công xây dựng một miếu thờ ngài tổ vì vậy hiện nay con cháu của
ông đaều tuyết thế.

Họ Nguyễn được phong là họ nhất và ông Nguyễn Huy có công lao
đối với làng tiếp đó là các dòng họ Lê, Đào, Trần, Phạm, Tăng, Lê (Viết),
Trần (Viết)…
Tam Hiệp hình thành tương đối muộn nhưng trong làng Tân Độ hiện
nay vẫn không để lại một tài liệu thành văn nào đề cập đến năm tháng cụ thể
của thành lập làng. Theo gia phả họ Đào (một trong 12 họ đến trước) dòng
họ đã truyền được 6 đời 150 năm vào khoảng giữa thế kỉ XIX [4].
Như vậy đến giữa thế kỉ XIX ở vùng Tam Hiệp ngày nay đã xuất hiện
3 làng nhỏ Đại Độ, Tân Độ và Tân Đình. Do điều kiện cụ thể quy định sự
hình thành mỗi làng đều mang một nét riếng biệt, tuy nhiên tât cả đều gắn
liền công cuộc khai hoang lấn rừng, định canh, định cư đầy gian khổ của cư
dân từ nhiều vùng khác nhau về quy tụ tại vùng đất này.
Trước cách mạng tháng Tám tuy có mối lien hệ khá mật thiết nhưng
3 làng nói trên vẫn tồn tại độc lập với 3 đơn vị hành chính thuộc tổng Cam
Vũ. Về sau do yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cả 3 làng đều hợp nhất
thành một xã lấy tên là Tam Hiệp (vào năm 1943) sau cách mạng, xã Tam
Hiệp được đổi tên thành thôn Tam Hiệp thuộc xã Cam Thủy.
Như vậy quá trình hình thành làng Tam Hiệp nó diễn ra hết sức phức
tạp, lâu dài để thống nhất thành thôn Tam Hiệp như hiện nay.
II. Tình hình kinh tế
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu khi để cập đến vấn đề kinh tế làng xã
Việt Nam đã nêu ra được 2 quan điểm đáng lưu ý, đấy là sản xuất nhỏ lẻ và
tiểu nông dựa vào cơ sở nông nghiệp thương nghiệp và kinh tế hàng hóa của
tiểu nông. Làng xã với các chợ làng đặc biệt là các phường hội thủ công
nghiệp [5]. Tuy thế không nhất thiết kinh tế làng xã ở việt nam thì một lúc
đều mang hai đặc điểm nói trên mà tùy từng tình hình cụ thể của từng vùng,
từng địa phương như thế nào để phát triển kinh tế, và có thể đặc điểm này
đậm nét hơn đặc điểm kia và ngược lại.
Trước năm 1945 khác với nhiều làng lân cận hoạt động kinh tế nông
nghiệp lẫn thủ công nghiệp của làng Tam Hiệp phát triển còn rất hạn chế

chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lúa nước, hoa màu chiếm vai trò chủ yếu các
nghề thủ công hầu như không có điều kiện hình thành kinh tế của làng chủ
yếu còn mang kết cấu đơn giản mang tính nguyên đơn trong đó thủ công
nghiệp và thương nghiệp chưa làm được vai trò bổ sung cho nông nghiệp,
chính vì vậy trước cách mạng cuộc sống của người dân Tam Hiệp rất cơ cực
kham khổ và không có lối thoát.
2.1. Tình hình lúa nước và kinh tế nông nghiệp làng Tam Hiệp trước
năm 1945
2.1.1. Tình hình ruộng đất làng Tam Hiệp
Xã Cam Thủy nói chung làng ta nói riêng từ bao đời nay kinh tế nông
nghiệp hoa màu vẫn là chủ yếu chính vì thế mà vấn đề ruộng đất giữ một vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử về làng Tam Hiệp. Một
vùng đất từ bao đời nay nông nghiệp vẫn là kinh tế chủ yế và tình hình
ruộng đất ở Tam Hiệp cũng có những nét giống như các làng trong vùng
ruộng đất ở Tam Hiệp chủ yếu dùng vào trồng lúa và hoa màu. Tổng số diện
tích của Tam Hiệp khoảng 27 mẫu bao gồm cả hoa màu và trồng lúa.
2.1.2 Ruộng đất công
Vấn đề chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất của các nhà nghiên cứu
đã thống nhất với nhau rằng, sự tồn tại của ruộng đất công làng xã Việt Nam
đây là một trong những vấn đề quan trọng.
Chế độ ruộng đất công làng xã là một hình thức chủ yếu dưới thời
phong kiến. Tuy nhiên ruộng đất công hay ruộng đất tư ở Tam Hiệp nhiều
hay ít một phần cũng do quá trình khai hoang lập làng việc chia ruộng đất
cho dân của làng ở Việt Nam có từ rất sớm nhưng theo định kỳ thì đến thời
Lê Thánh Tông (thế kỉ XV) mới được quan tâm và thực hiện chế độ bình
điền. Với chế độ quân điền đó nhằm ràng buộc người dân của làng gắn bó
với mảnh đất của mình làm cho kinh tế ngày càng phát triển. Về sau người
dân có sự gắn bó tình cảm các phong tục tập quán và nếp suy nghĩ .
Việc nghiên cứu ruộng đất công ở Tam Hiệp nói riêng, xã Cam Thủy
nói chung chúng ta thấy ruộng đất công ở thời kì này chiếm một bộ phận rất

lớn so với các hình thức sở hữu khác, hình thức ruộng đất công giữa các làng
đều mang một nét riêng. Hình thức ruộng đất công là sau khi khai khẩn và
sử dụng ruộng đất đó trích các khoản cho chùa để đưa vào việc hương khói
trong làng và đặc biệt là làm bổng lộc cho các vị chức sắc trong làng phần
còn lại đưa cho dân cày cấy. Ruộng đất này cứ ba năm chia lại một lần bắt
đầu từ thời Gia Long trong ruộng đất công được chia làm ba hạng nhất đẳng
điền, nhị đẳng điền và tam đẳng điền [6]. Theo quy định của dân trong làng
xã từ 18 tuổi trở lên đều được chia thông thường những ruộng đất dành ưu
tiên cho những người có vai vế, nhân viên hành chính và những người lớn
tuổi, người dân bình thường chỉ được nhận các thửa ruộng xấu, bạc màu và
năng suất thấp số lượng ruộng đất nhiều hay ít là tùy thuộc vào tình hình
ruộng đất của làng, nhưng cao nhất không quá một mẫu chỉ được nhận 2 sào
hoặc ít hơn khi được chia và nhận ruộng thì dân phải chịu các khoản chi phí
như chi phí việc làng phải đi phu khi có lệnh của quan trên điều dộng nếu
trường hợp người nhận ruộng chết thì phần ruộng đó vấn do người nhà canh
tác hết định kỳ là 3 năm sau đấy tiếp tục làm thêm năm nữa nhưng dân đinh
phải đi lính họ vẫn được nhận ruộng và ruộng đất này do thân nhân của họ
trực tiếp quản lý, trường hợp người bỏ làng đi nơi khác thì phần ruộng của
họ bị thu hồi làm công quỹ của làng.
Còn đối với người phụ nữ không được quyền lợi gì về ruộng họ
không được cấp ruộng mà chỉ ăn theo suất đinh trong gia đình. Vị trí của họ
do vậy cũng không được bình đẳng như những người đàn ông trong gia đình
và rộng hơn là trong cộng đồng làng xã.
2.1.3 Ruộng đất tư
Ruộng đất tư hữu bắt đầu từ thời Lý, Trần do ban cấp, mua bán hoặc
chấp chiếm. Thời các chúa Nguyễn ruộng tư có điều kiện phát triển mạnh
nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long sang thời Nguyễn ruộng đất tư có phần
lấn át ruộng đất công rất nhiều khu vực vào những năm 1852 Hà Duy Phiện
đã đấu với vua Tự Đức rằng “Thừa Thiên, Quảng Trị thì ruộng đất công
nhiều hơn ruộng đất tư ở Quảng Bình ruộng đất công ít hơn [7].

Tam Hiệp là một trong số làng khác ở Cam Thủy đất làng do chính tư
nhân khai thác, tạo dựng và làng cũng do tư nhân thành lập nó chỉ chịu trách
nhiệm đối với nhà nước nhưng ruộng đất tư vẫn phát triển được. có thể nói
rằng sang đến thời Nguyễn nhà nước muốn duy trì một số lượng ruộng đất
công lớn nhằm thâu tóm quyền quản lý ruộng đất về mình trong đó Quảng
Trị và Thừa Thiên là những tỉnh năm gần hoặc ngay kinh đô thực hiện chính
sách ruộng đất nên nó đều mang nét riêng của nhà nước có thể nhanh hơn
trực tiệp hơn. Mặt khác Tam Hiệp nói riêng và Cam Thủy nói chung nó đều
mang một tính chất của làng xã Việt Nam tạo nên sự đóng kín về kinh tế
mang tính bình quân chủ nghĩa, về phương diện sản xuất do chế độ công hữu
chiếm ưu thế nhằm để quản lý tốt tình hình làng xã bảo vệ tính công bằng
cho các thành viên của làng và do đặc điểm cụ thể của từng vùng của mình,
các nguyên nhân đưa đến tình trạng ruộng đất tư cũng có một phần do vua
ban cấp đất cho công thần và những người có thế và được vua sùng ái đặc
biệt là các cuộc tranh chấp chính vì thế mà ruộng đất tư ít phát triển ở đây so
với các nơi khác.
Xã Cam Thủy nói chung Tam Hiệp nói riêng ruộng đất tư ở đây còn
nhiều hạn chế theo số liệu chưa đầy đủ ở Tam Hiệp có 12 mẫu, Cam Vũ 23
mẫu, Lâm Lang 35 mẫu do vậy ruộng đất tư còn rât ít và nó chỉ tồn tại ở các
dạng sau:
Ruộng họ: có tất cả các làng, các vùng và các loại hình chủ yếu ở
Tam Hiệp thì có ở các họ có tiếng trong làng được sử dụng một số lượng
nhất định để làm công quỹ cho họ các phần ruộng đất này do trưởng nam,
các nhánh chính của dòng họ chịu trách nhiệm quản lý phân chia cho những
người trong họ canh tác để góp tiền quỹ hoặc lúa gạo lo việc hương khói
trong họ. Tuy nhiên ruộng đất này vẫn còn hạn chế về các đối tượng sử dụng
diện tích canh tác của các họ không quá 2 mẫu.
Ruộng hương hỏa: cũng giống như ruộng họ người sở hữu có trách
nhiệm sử dụng hoa lợi để lo việc thờ cúng, giỗ của họ hàng. Đặc biệt ruộng
đất tư có thể do bố mẹ để lại (ruộng thừa kế) loại ruộng này chủ yếu có từ

các cuộc khai hoang rồi truyền lại cho con cháu thành di chúc. Nhìn chung ở
Tam Hiệp và Cam Thủy ruộng đất này còn ít, chưa phổ biến, nó không đáng
kể. Với ruộng đất tư ít như vậy nên ở Tam Hiệp chủ sở hữu tự sản xuất theo
lối tiểu nông tự canh, tình trạng thuê mướn nhân công hoặc tá điền hầu như
không phổ biến.
2.1.4 Tình hình khai hoang
Vấn đề khai hoang ơ Tam Hiệp nó chỉ mang tính chất chung của toàn
xã. Cũng như các làng trong xã quá trình thành lập làng và mở mang đất đai
nó diễn ra rất nhiều đợt nhưng nhìn chung nó còn mang tính cá nhân khai
hoang để lấy các đất chưa dùng để làm hoa màu và trồng các cây công
nghiệp, nhưng hiện nay không có một số liệu cụ thể về vấn đề này mà đây
chỉ là hình thức để mở thêm các bờ ruộng và bờ thửa phục vụ cho việc trồng
trọt và phát triển.
2.2. Vấn đề nông nghiệp
Như đã nghiên cứu kết cấu kinh tế xã Cam Thủy nói chung và làng
Tam Hiệp nói riêng trước cách mạng tháng Tám kết cấu kinh tế còn đơn
giản trong đó sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng lúc bấy giờ cho
nên khi tìm hiểu kinh tế làng Tam Hiệp chủ yếu là kinh tế tiểu nông ở đây
chúng ta đề cập đến việc trồng lúa và cây hoa màu là nổi trội hơn cả.
Về trồng lúa: hàng năm người dân Tam Hiệp làm được một vụ lúa
khác với một số làng trong xã làm một đến hai vụ, các công đoạn cũng giống
như các thao tác như đổ giống, gieo mạ, cấy và thu hoạch vào tháng4 và
tháng 5 sau đó người dân chỉ làm đất để trồng màu như lạc, đậu ớt… do điều
kiện tự nhiên khá khắc nghiệt, thiên tai, hạn hán, lũ lụt thường xuyên đe dọa
các phương tiện sản xuất còn rất lạc hậu nên năng suất lúa ở Tam Hiệp trước
đây rất thấp bình quân mỗi ruộng đẹp nhất chỉ khoảng 14-15 thúng/sào/vụ
mỗi thúng tương đương 10kg và còn có nhiềuloại ruộng còn kém hơn rất
nhiều. Vào thời kỳ này người dân Tam Hiệp cũng trồng các giống lúa như
lúa ngự, lúa vàng, nếp luộc,… và có nhiều giống lúa vẫn được lai truyền đến
nay.

Cây hoa màu: do điều kiện tự nhiên và thời tiết hết sức khó khăn cho
nên Tam Hiệp chỉ trồng lúa duy nhất được một vụ còn lại người dân ở đây
tiến hành trồng các loại cây màu. Ở đây một phần giáp với đồi núi nên đồng
bằng rất là hẹp để đảm bảo đời sống của dân làng Tam Hiệp chú trọng trồng
các loại cây lương thực như Sắn, Khoai, Ngô và các loại cây ăn quả.
Đối với cây Khoai là loại hoa màu rất quan trọng hàng năm có hai vụ
chính tháng 8 và tháng 9, tháng 12 đến tháng 1 (âm lịch) cây Khoai dễ trồng
và dễ phát triển do vậy ngoài vụ chính có thể trồng quanh năm bổ sung thêm
nguồn lương thực. Ngoài ra khoai là loại dễ trồng, dễ thích hợp với vùng đất
khô cằn ở gò đồi do điều kiện phát triển của địa hình Tam Hiệp. Nhưng năng
suất của nó không được cao, bên cạnh đó cây Sắn cũng là một loại cây được
người dân chú trọng và phát triển ngoài ra còn trồng thêm các loại ngô, đậu
và lạc trên các dãi nương ven đầm, còn các loại cây ăn quả như Mít, Xoài,
Ổi cũng được trồng để cải thiện đời sống trong gia đình.
Chăn nuôi: Cam Thủy nói chung, Tam Hiệp nói riêng do địa hình và
khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi nhất là nguồn thức ăn,
những năm trước cách mạng tháng Tám do hạn chế nhiều về dịch bệnh và
các kĩ thuật về chăn nuôi, đặc biệt là người dân chưa nắm bắt được các kĩ
thuật chăn nuôi cho nên chăn nuôi ở đây tuy có thế mạnh nhưng chưa được
phát triển chăn nuôi hầu như gia đình nào cũng có nhưng chủ yếu là lợn, gà,
vịt nhưng số lượng chưa nhiều mà nó chỉ đáp được phần nào kinh tế gia đình
chứ chưa đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Việc chăn nuôi trâu bò cũng chỉ là mục đích là để cày kéo và để ăn
thịt. Việc chăn nuôi không theo một mục đích nào cả mà chỉ mang tính chất
tự nhiên, hàng ngày người dân thả trâu bò lên núi, đến trưa và chiều tối lại
cho về trong làng chỉ có những người khá giả thì trâu bò có khoảng 1 đến 4
con, nhìn chung chăn nuôi ở Tam Hiệp chưa phát triển, nó chưa đóng vai trò
hỗ trợ khó khăn mà nhược điểm lớn nhất của chăn nuôi hiện nay là chưa
nắm bắt được kỉ thuật nên chưa trở thành thế mạnh của vùng. Ngòai ra còn
có các hoạt động như trồng rừng và khai thác rừng.

2.3. Hoạt động thương nghiệp
Đi đôi với các hoạt động nông nghiệp thì thương nghiệp ở Tam Hiệp
trước cách mạng tháng Tám hầu như không phát triển và không có gì đặc sắc
như một số làng ở Cam Lộ tiêu biểu là ở xã Cam Thành đã hình thành rất
nhiều chợ, bên cạnh đó ở Tam Hiệp chỉ có một chợ trước cách mạng tháng
Tám gọi là chợ Cây Xoài và ở đây còn gần chợ phiên của Cam Lộ. Nói
chung chợ ở đây rất nghèo nàn, việc trao đổi hàng hóa chỉ mang tính chất
riêng rẽ, mua bán trao đổi những thứ phẩm thiết yếu phục vụ cho đời sống
gia đình chứ nó chưa mang được tính chất của một ngành thương nghiệp, chỉ
với điều đó nó cũng hạn chế sự phát triển của làng.
Người dân Cam Thủy nói chung và Tam Hiệp nói chung thường đi
chợ phiên vào các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23, 28 âm lịch. Đây là những
ngày mà chợ đông nhất còn ngày thường hầu như và ít người và không có
người họp chợ như vậy nên thương nghiệp hầu như không phát triển ở mảnh
đất này.
Bên cạnh những hoạt động thương nghiệp các ngành nghề thủ công
nghiệp ở đây phát triển tương đối. Chỉ có các nghề đan lát làm mộc và làm
ngói do ở Tam hiệp quá trình thành lập làng rất phức tạp người dân ở đây
chủ yếu là từ nơi khác đến cho nên các ngành nghề ở đây được người ta
mang theo khi vào sinh sống ở đây nên ở đây các ngành nghề truyền thống
hầu như không có trước cách mạng tháng Tám.
III. Văn hóa xã hội của làng trước năm 1945
Tam Hiệp ở một vị trí hết sức quan trọng ở xã Cam Thủy có đường 71
nối liền với quốc lộ 1 và đường 9, cầu nối bắc qua con sông Hiếu chạy suốt
con đường này. Tam Hiệp gần như tiếp giáp với đường 9 nổi tiếng đây là
con đường giao thong quan trọng ở miên tây Quảng Trị và cả nước.
3.1. Tổ chức quản lý làng
Làng là một đơn vị hành chính thấp nhất của nhà nước phong kiến để
kiểm soát được những thần dân nó đã cột chặt nhân dân vào các quan hệ
dân- nước bằng các hình thức như sưu dịch, thuế khóa và các chế độ lính

tráng tương ứng với mỗi triều đại phong kiến là một tổ chức làng xã tương
đồng và dị hợp kế thừa sự phát triển của các triều đại trước.
Làng Việt Nam ngoài phép vua và phép nước còn có lệ làng, ở mỗi
làng đều có lệ làng và có quy định và luật lệ riêng và mỗi thành viên đều
phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Chính vì vậy khi nằm trong vùng
cương tỏa của chính quyền trung ương thì làng vẫn tồn tại với tư cách độc
lập nhăm cùng với chính quyền trung ương khống chế các việc trong làng,
trong lịch sử Việt Nam chúng ta thường hay nghe “phép vua thua lệ làng” là
vậy điều đó không có nghĩa là nhà nước mất đi quyền điều khiển của nó.
Tam Hiệp cũng như nhiều làng khác ở Việt Nam tổ chức quản lý làng
Tam Hiệp trước cách mạng tháng Tam, nó có hai bộ phận quan trọng đó là
tổ chức chính quyền, là tổ chức nhà nước theo hệ thống nhà nước và tổ chức
tự trị của làng và xã.
3.1.1 Tổ chức chính quyền.
Làng là đơn vị chính quyền cấp cơ sở trước cách mạng tháng Tám
năm 1945 làng được gọi là xã cũng giống như các làng khác Tam Hiệp cũng
bước vào giai đoạn như vậy. Thời Pháp thuộc các cấp chính quyền từ trên
xuống tỉnh, phủ, huyện, tổng, xã trong mỗi xã đều do lý trưởng và phó lý
trưởng, ban ngũ hương và hội đồng đại hào nói chung bộ máy tổ chức làng
xã trước cách mạng tháng Tám nó mang một đặc tính khá chặt chẽ. Để nhằm
tổ chức và kiểm soát khống chế, quản lý của chính quyền trung ương.
Về lý trưởng (thời các chúa Nguyễn trở về trước) gọi là

×