Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Những rủi ro các ngân hàng thương mại có thể gặp phải trong hoạt động cho vay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.71 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
Đề tài:
NHỮNG RỦI RO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CÓ THỂ GẶP PHÁI TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY

GVHD :
SVTH :
1. Mai Lê Khánh Chi
2. Nguyễn Thị Ái Linh
3. Trương Ngọc Tín
4. Đoàn Công Thắng
5. Võ Thị Thu Trang
6. Cao Vệ
TP.Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2014
1 | P a g e
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
2 | P a g e
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 5
1.1Hoạt động cho vay của Ngân Hàng Thương Mại 5
1.2Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM 7
1.3 Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay 12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC NHTM
VIỆT NAM HIỆN NAY 14
2.1 Quy mô nợ xấu của hệ thống các TCTD 14
2.2 Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho vay tăng cao và chất lượng tín dụng suy giảm 16
2.2.1 Nhóm nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh 17
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC
NHTM 18
3.1 Chú trọng công tác thẩm định khách hàng và phương án vay vốn 18
3.2. Xem xét tính khả thi của phương án kinh doanh trước khi quyết định cho vay 19
3.3. Giám sát chặt chẽ các khoản cho vay 19

3.4. Thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay 19
3.5. Thực hiện phân tán rủi ro 19
3.6. Thường xuyên đào tạo cán bộ và nâng cao chất lượng nghiệp vụ 20
3.7. Áp dụng thành quả của khoa học công nghệ vào hoạt động, đưa vào các dịch vụ hiện đại 20
3.8. Chỉ mở rộng khối lượng tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng 20
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
PHỤ LỤC 23
3 | P a g e
LỜI MỞ ĐẦU
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ
năm 2008 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chịu tác động tiêu cực và kinh tế vĩ mô có nhiều
yếu tố không thuận lợi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn. Vì vậy, nợ xấu của hệ thống các Tổ chức tín dụng (TCTD) có chiều hướng gia
tăng nhanh. Sự yếu kém trong việc quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân
cho tình trạng nợ xấu gia tăng hiện nay.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và trong hoạt động cho vay nói riêng được
biết đến như một đặc thù, là yếu tố khách quan của kinh doanh tiền tệ trong hoạt động ngân
hàng. Rủi ro thường gây ra những tổn thất cho ngân hàng, tùy theo cấp độ rủi ro mà hoạt
động kinh doanh phải chịu tổn thất lớn hay nhỏ.
Ở góc độ đề tài: “Những rủi ro các Ngân hàng thương mại có thể gặp phải trong hoạt
động cho vay” sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về hoạt động cho vay, rủi ro cho vay và quản
trị rủi ro cho vay về mặt lý thuyết và liên hệ thực tiễn đến Việt Nam trong giai đoạn từ hiện
nay.
Bố cục đề tài gồm 03 phần chính:
4 | P a g e
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay và rủi ro cho vay trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng thương mại (NHTM)
- Chương 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động cho vay tại các NHTM Việt Nam hiện
nay.

- Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động cho vay của Ngân Hàng Thương Mại
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động cho vay
1.1.1.1 Khái niệm
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao cho khách hàng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận trên nguyên tắc
có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.1.1.2 Đặc điểm
- Tính pháp lý của nghiệp vụ cho vay: Cho vay của ngân hàng là một khái niệm kinh tế
hơn là pháp lý. Các hành vi cho vay của ngân hàng có cùng một logíc kinh tế, hứng chịu rủi ro
cho một người mà ngân hàng tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao
dịch pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh , cầm cố…).Luật ngân hàng các nước định nghĩa
tín dụng như sau: “Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ tác động nào, qua đó một người
đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này
nhưng đảm bảo, bảo trứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”.
- Các khoản vay đều phải theo một quy trình cho vay, thu nợ nhất định. Thông thường
gồm 5 bước: Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị vay; Bước 2: Phân tích tín dụng; Bước 3: Quyết định
cấp tín dụng cho vay; Bước 4: Giải ngân; Bước 5: Giám sát thu nợ và thanh lý hợp đồng cho
vay.
5 | P a g e
- Lãi suất trong hợp đồng cho vay theo thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng cho
vay. (Ví dụ: Lãi suất cố định, lãi suất thả nổi,…).
- Các khoản cho vay có hoặc không có tài sản đảm bảo tuỳ vào việc đánh giá và xếp
hạng khách hàng của ngân hàng cho vay.
- Khi kết thúc hợp đồng khách hàng có nghĩa vụ trả ngốc và lãi hoặc một số thoả thuận
khác nếu được ngân hàng cho vay chấp nhận. Trường hợp khách hàng không thực hiện hợp
đồng hay không có một điều khoản nào khác thì tài sản đảm bảo thuộc quyền quyết định của
ngân hàng cho vay.

1.1.2 Các loại hình cho vay.
Hoạt động cho vay có thể chia thành nhiều loại hình khác nhau và mỗi loại hình có quy
trình nghiệp vụ và khung lãi suất riêng. Có nhiều tiêu thức để phân loại cho vay, như sau:
1.1.2.1 Theo thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: các khoản vay có thời hạn nhỏ hơn 12 tháng, mục đích là tài trợ
cho tài sản lưu động, nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất
hoặc các nhu cầu chi tiêu, tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Với hình thức cho vay trực tiếp
hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức,…
- Cho vay trung hạn: các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. Cho vay
trung hạn tài trợ cho các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh như: Đầu tư mua
sắm tài sản cố đinh, cải tiên hoặc đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng,

- Cho vay dài hạn: các khoản vay có thời hạn từ 60 tháng trở lên, chủ yếu đáp ứng các
nhu cầu xây dựng nhà ở, mua sắm các thiết bị phương tiện vận tải có tải trọng lớn, và các công
trình xay dựng quy mô lớn.
1.1.2.2 Theo hình thức hoàn trả:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục
vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng.
- Cho vay nhiều lần (vay trả góp): Khi vay vốn tổ chức tín dụng và khách hàng xác định
và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ
hạn trong thời hạn cho vay.
1.1.2.3 Theo tài sản đảm bảo:
- Cho vay có tài sản đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên các đảm bảo như: thế chấp, cầm
cố những tài sản hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Cho vay có đảm bảo thường áp dụng
đối vời khách hàng mới, mức độ tin tưởng chưa cao, hoặc là các món vay có giá trị lớn, nhờ đó
đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo: hình thức cho vay này được thực hiện dựa trên cơ
sở uy tín, chỉ áp dụng với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài
chính mạnh, ngân hàng có thể cho vay dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần một tài
sản đảm bảo nào. Nhưng khi xảy ra rủi ro khách hàng không trả được nợ hoặc cố tình không

trả nợ thì tổn thất xảy ra là rất lớn, ngân hàng sẽ mất hoàn toàn vốn và lãi của khoản cho vay
đó.
6 | P a g e
1.1.2.4 Theo hình thức tín dụng:
- Cho vay mua tài sản cố định.
- Cho vay đầu tư tài sản lưu động.
- Cho vay phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1.2.5 Theo mục đích vay:
- Cho vay phục vụ sản xuất.
- Cho vay phục vụ tiêu dùng.
1.1.3 Vai trò của hoạt động cho vay
- Đối với ngân hàng:
Vai trò quan trọng nhất của hoạt động cho vay đối với ngân hàng là tạo nguồn lợi nhuận
lâu dài, giúp duy trì và phát triển hệ thống ngân hàng. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Sự mở rộng hoạt động cho vay có vai trò tạo
nền móng vững chắc cho sự phát triển của ngân hàng cả về quy mô và chất lượng hoạt động.
- Đối với chủ thể đi vay:
Thông qua việc đi vay khách hàng có được nguồn vốn cần thiết để phục vụ cho các mục
đích kinh doanh của mình. Việc cung cấp kịp thời nguồn vốn giúp hoạt động kinh doanh diễn
ra đúng dự định, nắm bắt được các cơ hội kinh doanh mang lại lợi nhuận.
Để có nguồn vốn kinh doanh, khách hàng có thể có nhiều cách như đi vay người thân, đi
vay các nhân tổ chức khác, hùn vốn, góp vốn với cá nhân tổ chức khác,… Nhưng khách hàng
thường tìm đến ngân hàng để vay vốn vì ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng
nhanh, khoản cho vay có tính ổn định cao, chi phí phù hợp và khách hàng có thể chủ động
trong việc trả nợ.
- Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng đóng vai trò như cầu nối giữa người có vốn nhàn rỗi và người thiếu vốn, do
vậy ngân hàng giúp sinh lời đối với nguồn vốn nhàn rỗi, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của
những người có phương án sản xuất kinh doanh tốt.
1.2 Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM

1.2.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay
Rủi ro trong hoạt động cho vay là những biến cố phát sinh ngoài ý muốn, sự hiểu biết và
dự tính của chủ thế tổ chức tài chính trong suốt quá trình cho vay từ khâu thẩm định hồ sơ, cho
vay và thu hồi nợ; và cuối cùng chúng dẫn đến tổn thất tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết.
Hoạt động cho vay là một hoạt động kinh doanh có tính đa dạng và phức tạp dựa trên quan
hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người cho vay và người đi vay.
Trong mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, người cho vay chuyển giao quyền sử
dụng tiền cho người đi vay, và nhận lại cam kết được hoàn trả vốn và lãi, cũng như một số
ràng buộc đi kèm khác đối với người đi vay. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm cam kết trả nợ xảy
ra một cách khá phổ biến do nhiều nguyên nhân sẽ được đề cập trong phần sau của đề tài.
7 | P a g e
Mặc khác rủi ro cho vay bên cạnh rủi ro liên quan đến việc thanh toán nợ gốc và lãi, thì người
cho vay còn chịu một loại rủi ro khác liên quan đến biến động lãi suất cho vay, lãi vay thu lại
không bù đắp chi phí sử dụng vốn.
Còn nhiều loại rủi ro khác trong quá trình cho vay, và các ngân hàng, tổ chức tài chính
cần có cái nhìn cẩn trọng hơn, áp dụng những giải pháp quản trị rủi ro hiệu quả để phòng ngừa,
ngăn chặn ảnh hưởng của các rủi ro. Phần tiếp theo của đề tài sẽ trình bày cụ thể hơn về phân
loại các rủi ro trong hoạt động cho vay.
1.2.2 Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay.
Rủi ro ngân hàng là một vấn đề chung của hệ thống ngân hàng thế giới nói chung, và hệ
thống ngân hàng Việt Nam nói riêng trong bối cảnh trình độ quản trị rủi ro còn khá hạn chế
của hệ thống ngân hàng nước nhà. Có thể phân loại rủi ro hoạt động cho vay theo hai cách sau:
các rủi ro tài chính; các rủi ro phát sinh trong từng giai đoạn cho vay
1.2.2.1 Phân loại theo rủi ro tài chính
- Rủi ro thanh toán tiền vay: Rủi ro này phát sinh khi người đi vay không thanh toán
hoặc không thanh toán đầy đủ tiền vay (cả gốc, lẫn lãi) khi đến thời hạn thanh toán do người đi
vay mất khả năng thanh toán hoặc có ý chiếm dụng vốn hoặc lừa đảo. Rủi ro thanh toán tiền
vay có thể phát sinh ngay cả khi việc trả nợ trước thời hạn, điều này khiến ngân hàng phải cân

đối lại nguồn vốn.
- Rủi ro về chi phí sử dụng vốn:Rủi ro này phát sinh khi số tiền thu về (gốc và lãi) không
bù đắp đủ chi phí ngân hàng bỏ ra để cho vay
- Rủi ro khi có sự thay đổi tỷ giá hối đoái:Rủi ro này phát sinh khi hợp đồng cho vay có
yếu tố ngoại tệ. Sự biến động giá trị của đồng nội tệ so với ngoại tệ (hay ngược lại) theo hướng
ngược với kỳ vọng của người cho vay sẽ đẩy người cho vay đến những rủi ro liên quan đến tỷ
giá.
- Rủi ro khi có sự thay đổi lãi suất bình quân liên ngân hàng:Lãi suất cho vay cũng như
lãi suất tiền gửi của ngân hàng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng bởi biến động trên thị trường và chính
sách lãi suất của các ngân hàng thương mại, cũng như ngân hàng nhà nước. Trong bối cảnh thị
trường lãi suất có những biến động lớn và hợp đồng cho vay cố định lãi suất thì ngân hàng
đứng trước rủi ro về lãi suất rất cao. đồng thời, biến động thị trường còn ảnh hướng đến tính
cạnh tranh của ngân hàng
1.2.2.2 Phân loại theo giai đoạn phát sinh
- Giai đoạn thẩm đinh
Rủi ro trong giai đoạn này phát sinh khi người đi vay cung cấp những bằng chứng pháp
lý, thông tin hoạt động doanh nghiệp không đúng cho người cho vay. Đồng thời, rủi ro còn
phát sinh khi cán bộ thẩm định do hạn chế về năng lực, hoặc cố tình thẩm định sai hồ sơ người
đi vay. Điều này dẫn đến việc đưa ra mức lãi suất cho vay không phù hợp, và đặc biệt tài sản
đảm bảo có khả năng không đủ đáp ứng nghĩa vụ khi phát sinh tình huống người đi vay không
còn khả năng chi trả.
- Rủi ro khi cho vay
8 | P a g e
Rủi ro khi cho vay phát sinh như đề cập trong phần rủi ro tài chính ở trên bao gồm rủi ro
liên quan đến biến động lãi suất, thay đổi tỷ giá hối đoái
- Rủi ro khi thu hồi nợ
Rủi ro phát sinh khi đến thời hạn thanh toán nhưng người đi vay không thể hoặc cố tình
không thực hiện các đợt thanh toán theo cam kết
1.2.3 Các chỉ tiêu cơ bản đo lường rủi ro trong hoạt động cho vay
1.2.3.1 Kết cấu dư nợ cho vay

Kết cấu dư nợ cho vay phản ánh cơ cấu khách hàng, và cơ cấu thời hạn cho vay. Dựa vào
kết cấu dư nợ cho vay mà ta có thể xác định rủi ro của ngân hàng cho vay cao hay thấp. Nếu
kết cấu dư nợ quá tập trung vào một số doanh nghiệp hoặc thành phần kinh tế chuyên sản xuất
kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định hoặc cho vay tiêu dùng quá nhiều, sẽ có
rủi ro lớn do mức đọ tập chung vốn cho vay cao.
1.2.3.2 Tỷ lệ nợ quá hạn /tổng dư nợ cho vay
Các ngân hàng cho vay và khách hàng vay đều muốn tránh tình trạng nợ quá hạn. Về phía
khách hàng đi vay, nếu quá hạn không trả được sẽ mất uy tín, phải chịu một lãi xuất quá hạn
cao hơn lãi xuất trong hạn, đối với ngân hàng cho vay, nợ quá hạn sẽ làm tăng tỷ lệ nợ quá
hạn/dư nợ cho vay. Tỷ lệ này gián tiếp cho ta thấy quy mô của các khoản cho vay có vấn đề
của ngân hàng thương mại. Nếu tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ chất lượng các hợp đồng cho vay
là kém, ngân hàng công thương phải xem xét lại khả năng, đánh giá lại quy trình, thủ tục cho
vay, đặc biệt là xem xét lại khả năng thực hiện nhiệm vụ của cán bộ cho vay.
Tuy nhiên, nợ quá hạn chưa phải là tổn thất của ngân hàng thương mại, đây vẫn là chỉ tiêu
gián tiếp, bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn này đều dẫn đến tổn thất.
1.2.3.3 Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/dư nợ quá hạn là một chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi
ro. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng bị tổn thất. Nói cách khác,
chỉ tiêu này phản ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng cho vay.
Nợ quá hạn có khả năng tổn thất thường bao gồm những khoản nợ quá hạn có thời gian quá
hạn lớn (từ 6 tháng trở lên). Đối với ngân hàng cho vay việc duy trì các chỉ tiêu này với tỷ lệ
cao trong báo cáo tài chính là điều khó chấp nhận. Ngân hàng cho vay luôn tìm cách giảm chỉ
tiêu này xuống và biện pháp duy nhất là tích cực truy thu các khoản vay này. Những khoản này
thực sự không thu hồi được phải hạch toán vào chi phí hoạt động và lấy quỹ dự phòng rủi ro để
bù đắp tổn thất.
1.2.3.4 Tổn thất tín dụng cho vay
Tổn thất tín dụng cho vay = giá trị mất trong hoạt động cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị bằng tiền bị tổn thất trong kỳ do hoạt động cho vay gây nên,
đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô, giá trị tuyệt đối của tổn thất.
1.2.3.5 Tỷ lệ tổn thất tín dụng cho vay

9 | P a g e
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng cho vay trong kỳ thì có bao nhiêu giá trị bị tổn thất trong
kỳ, nó mang tính thời kỳ thuận tiện việc khi sử dụng nó để so sánh, phản ánh giữa các kỳ.
1.2.4 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động cho vay:
1.2.4.1 Nguyên nhân bất khả kháng
Đây là những nguyên nhân gây nên rủi ro co hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho
vay không xuất phát từ cán bộ cho vay hay ý thức trả nợ của khách hàng mà do môi trường bên
ngoài tác động vào. Nguyên nhân này xuất hiện đột ngột, khó đoán, khó kiểm soát, nó thường
gây ra những thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng cho vay. Bao gồm các nguyên nhan cụ
thể sau:
- Sự thay đổi chính sách của chính phủ
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nền kinh tế, chỉnh phủ sử dụng các công cụ điều hành như
ban hành các chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách đầu tư phát triển. Trong nhiều trường
hợp, các chính sách ban hành của chính phủ gây ra tác động tiêu cực đối với hệ thống ngân
hàng như quy định về thắt chặt tín dụng, mặc dù về cơ bản các chính sách này có thể tốt cho
nền kinh tế nói chung nhưng gây ra khó khăn cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt, đối với Việt
Nam, việc chính phủ thiếu tính định hướng lâu dài, và thường ban hành các chính sách theo
kiểu chữa cháy ngắn hạn, và “bất ngờ” khiến các ngân hàng trở tay không kịp
- Môi trường pháp lý:
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực của
nền kinh tế, mang tính xã hội cao, khi hệ thống pháp luật ổn định và lành mạnh thì môi trường
kinh doanh của ngân hàng thương mại sẽ có nhiều thuận lợi. Ngược lại nếu môi trường pháp lý
thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất rể bị lợi dụng gây ra tình trạng tham ô, chiếm đoạt tài
sản… Kinh tế xã hội kém ổn định dẫn đến kinh doanh gập nhiều khó khăn, ngân hàng cho vay
gặp rủi ro.
- Môi trường tự nhiên:
Trong điều kiện nước ta thường xuyên xảy ra các thiên tai như bão, lũ thì việc người đi
vay bị ảnh hưởng trong các thiên tai này là điều không thể kiểm soát được và có ảnh hưởng
đến khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho người cho vay.
- Môi trường kinh tế xã hội:

Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng tốt tạo điều kiện để các thành phần kinh tế
phát triển, kinh doanh có lãi, góp phần nâng cao khả năng trả nợ cho người đi vay. Điều ngược
lại xảy ra khi môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn. Đồng thời, tập quán kinh doanh, tiêu dùng của
người dân trong nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay.
1.2.4.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng
Các yếu tố chủ quan từ phía bên đi vay chính như: rủi ro kinh doanh của người đi vay hay
bên đi vay có hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật.
Rủi ro kinh doanh của người đi vay đến từ nhiều nguyên nhân như khả năng quản trị kinh
doanh kém, sự đi xuống của ngành hàng mà người đi vay đang kinh doanh, rủi ro thu hồi công
nợ của chính người đi vay đối với khách hàng của mình.
10 | P a g e
Ngoài ra, như đã đề cập, rủi ro còn xuất phát từ hành vi lừa đảo, cố tình cung cấp những
thông tin sai về tư cách pháp nhân, tình hình kinh doanh để chiếm đoạt tài sản của người cho
vay. Đồng thời, trong một số trường hợp người đi vay cố tình chây ỳ việc trả nợ mặc dù vẫn có
khả năng tài chính thể hiện rủi ro về mặt đạo đức của người đi vay.
1.2.4.3 Nguyên nhân từ phía Ngân hàng.
- Thiếu quy trình kiểm soát rủi ro chặt chẽ.
Điều này dẫn đến những kẻ hở trong các giai đoạn từ khâu thẩm định, cho vay, và thu hồi
vốn. Việc dự đoán trước những rủi ro có thể phát sinh, và cách phòng ngừa bằng các quy trình,
quy định chặt chẽ về các thủ tục, các cấp quản lý theo dõi, chịu trách nhiệm là điều cần thiết và
tối quan trọng trong việc hạn chế rủi ro.
- Năng lực, đạo đức của cán bộ cho vay, cán bộ phân tích, quản lý
Cán bộ cho vay đóng vai trò quan trọng trong các khâu về thẩm định hồ sơ; cán bộ phân
tích chịu trách nhiệm phân tích dự báo các chính sách nhà nước, các rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ
giá, và cán bộ quản lý chịu trách nhiệm theo dõi, ra quyết sách trong các hoạt động quản trị
doanh nghiệp. Nếu trình độ của cán bộ ngân hàng thấp thì tương ứng với đó sẽ là rủi ro cao, và
ngược lại. Đồng thời, rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng cũng là vấn đề cần xem xét.
1.2.5 Tác động của rủi ro trong hoạt động cho vay đến tình hình hoạt động chung
của NHTM
- Rủi ro làm phát sinh tăng chi phí giảm lợi nhuận.

Những rắc rối liên quan đến các khoản nợ, đặc biệt là các khoản nợ quá hạn làm ngân
hàng phải tốn nhiều thời gian, công sức, và đặc biệt là tốn thời gian cho các thủ tục truy thu,
kiện tụng pháp lý. Đây là những chi phí trước mắt mà các ngân hàng cho vay phải bỏ ra. Bên
cạnh đó các ngân hàng cho vay phải bỏ ra chi phí cơ hội rất lớn: Các khoản nợ quá hạn làm
chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản đầu tư khác của mình, đó là chưa kể
đến sự ảnh hưởng lớn của nợ qúa hạn với tâm lý cuả cán bộ cho vay. Nợ quá hạn phát sinh làm
cho cán bộ tín dụng phải mất thời gian xử lý nợ, không tiếp cận được những món vay mới
đồng thời còn làm cho cán bộ cho vay ngần ngại mở rộng hoạt động cho vay… Tất cả những
vấn đề này làm giảm thu nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các ngân hàng cho vay, từ đó
làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho vay.
- Rủi ro làm giảm uy tín của các ngân hàng cho vay.
Các ngân hàng cho vay khi gặp rủi ro, kinh doanh kém hiệu quả, uy tín sẽ bị giảm sút trên
thị trường. Đây là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường được giá trị.
- Rủi ro trong hoạt động cho vay còn gây ra tổn thất gián tiếp cho các ngân hàng khác.
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó liên quan đến mọi
ngành, mọi thành phần kinh tế, là khâu cốt yếu cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, ngân
hàng có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nếu
có sự thất thoát lớn trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một ngân hàng cho vay trực thuộc,
không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên “phản ứng dây truyền” đe doạ đến an toàn và ổn
định của toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
11 | P a g e
Hiện nay ở Việt Nam, dư nợ cho vay chiếm phần lớn trong dư nợ tín dụng của ngân hàng
thương mại và phi ngân hàng, đây sẽ là hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng thương mại
là điều kiện cần phát triển trong cho nền kinh tế, việc các ngân hàng thương mại gặp rủi ro, bị
tổn thất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
1.3 Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
1.3.1. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
1.3.1.1 Khái niệm
Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược,
chính sách quản lý và kinh doanh cho vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro

có thể chấp nhận. Kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho vay ở mức có thể chấp nhận là việc
NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong
kinh doanh cho vay, nhằm tăng doanh thu cho vay, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt
được hiệu quả trong kinh doanh cho vay cả trong ngắn hạn và dài hạn. Kiểm soát quản trị rủi
ro trong hoạt động cho vay là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và
được coi là đóng vai trò cốt tử cho sự thành công của ngân hàng trong dài hạn.
1.3.1.2 Sự cần thiết phải thực hiện công tác quản trị rủi ro trong cho vay
- Quản trị rủi ro trong cho vay bảo đảm sự tồn tại và phát triển bền vững của NHTM.
Quá trình xây dựng khung lý thuyết cho quản trị hoạt động của NHTM đa phần được đúc
kết từ thực tiễn hoạt động của NHTM, vì vậy trong lịch sử hoạt động ngân hàng, thì rủi ro
trong hoạt động cho vay là loại rủi ro được đề cập sớm nhất và cũng là nhiều nhất. Điều này
xuất phát từ bản chất của hoạt động ngân hàng với vai tròcủa một trung gian tài chính, huy
động vốn để cho vay. Hoạt động cho vay là chức năng chính của NHTM với việc trao quyền
sử dụng vốn cho người khác sử dụng và nhận được lời cam kết sẽ hoàn trả đủ gốc và lăi sau
một thời gian nhất định. Như vậy, bản thân khi khoản tiền vay xuất ra khỏi ngân hàng đă tiềm
ẩn rủi ro không có khả năng thu hồi, một khi kinh doanh của khách hàng vay vốn gặp rủi ro thì
ngay lập tức khoản vốn cho vay của NHTM cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, giống như bảo hiểm,
hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động kinh doanh rủi ro. Hoạt động cho vay vẫn là
hoạt động chính của ngân hàng, nó chiếm tới trên 1/2 đến 2/3 bảng cân đối và mang lại thu
nhập chính cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, nhưng đi liền bên cạnh là Rủi ro trong
hoạt động cho vay cũng mang lại hậu quả thiệt hại thu nhập, thậm chí có thể phá sản một
NHTM, và ở mức cao có thể gây khủng hoảng cả hệ thống tài chính ngân hàng. Vấn đề là để
chấp nhận một mức rủi ro và đạt được lợi nhuận tối đa NHTM cần phải tổ chức quản trị tốt rủi
ro trong hoạt động cho vay. Hay nói cách khác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay chính là
chốt hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng.
- Mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng gia tăng
Tính cấp thiết của quản trị Rủi ro trong hoạt động cho vay không chỉ xuất phát từ tính chất
phức tạp và nguy cơ rất lớn của Rủi ro trong hoạt động cho vay mà còn do xu hướng kinh
doanh của ngân hàng ngày nay càng trở nên rủi ro hơn. Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho
rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng gia tăng:

12 | P a g e
Thứ nhất, do quá trình tự do hoá, nới lỏng qui định trong hoạt động ngân hàng trên phạm
vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn cầu hoá, tự do hoá kinh tế, đề
cao cạnh tranh đă trở thành phổ biến. Khi gia tăng cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và
phá sản gia tăng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa năng phức tạp,
với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng
thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới. Trong lĩnh vực cho vay các sản phẩm cho vay có
bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản phẩm cho vay truyền thống. Các sản phẩm cho
vay dựa trên cơ sở của sự phát triển công nghệ như thẻ cho vay, cho vay cá thể…luôn chứa
dựng rủi ro mới. Với sự đa dạng phức tạp của sản phẩm cho vay cũng như Rủi ro trong hoạt
động cho vay càng đ̣i hỏi quản trị Rủi ro trong hoạt động cho vay phải được chú trọng nâng
cấp tương xứng.
Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển
đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế không ổn định, hệ thống pháp luật đang xây dựng,
mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động ngân hàng càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy
việc bắt tay ngay từ đầu thực hiện tốt công tác quản trị Rủi ro trong hoạt động cho vay là một
công việc tối quan trọng.
1.3.2. Công cụ quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay
Trên thực tế, công tác quản trị Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng được thể
hiện cụ thể qua chính sách quản trị Rủi ro trong hoạt động cho vay và bộ máy thực hiện các
biện pháp quản trị Rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
1.3.2.1. Chính sách quản trị Rủi ro trong hoạt động cho vay:
a. Xây dựng các giới hạn cho vay nhằm giảm Rủi ro trong hoạt động cho vay
Chính sách này được xây dựng đề cập vào ba giới hạn cơ bản đó là: Giới hạn dư nợ cho
vay khách hàng lớn; Giới hạn dư nợ cho vay nhóm khách hàng có liên quan; Giới hạn dư nợ
theo ngành, lĩnh vực hay khu vực địa lý.
- Giới hạn cho vay một khách hàng lớn:
Luật pháp các nước đều đưa ra qui định rơ về giới hạn này nhằm ngăn chặn các NHTM
tập trung quá lớn vào một khách hàng. Giới hạn này được thiết lập trên cơ sở vốn của ngân

hàng, thông thường mức dư nợ cho vay vào một khách hàng không quá 10 –25% vốn của
NHTM. Thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, NHTM thường thiết lập mức
thấp hơn so qui định của pháp luật.
- Giới hạn cho vay nhóm khách hàng có liên quan:
Theo thông lệ chung thì giới hạn cho vay vào nhóm khách hàng có liên quan không vượt
quá 50% vốn tự có của ngân hàng và 60% nếu tính cả số dư bảo lănh; hoặc ở mức khống chế
chặt đối với nhóm khách hàng có liên quan đều do hội đồng quản trị xem xét, quyết định.
- Giới hạn cho vay theo ngành hoặc lĩnh vực:
Chính sách này nhằm khống chế dư nợ tối đa cho vay vào một ngành kinh doanh hay lĩnh
vực, thậm chí theo khu vực địa lý (vùng, quốc gia). Chính sách nhằm ngăn chặn tổn thất cho
13 | P a g e
vay do hàng loạt khách hàng gặp khó khăn với cùng một lý do, ví dụ lĩnh vực kinh doanh bất
động sản với rủi ro lớn khi thị trường đóng băng, có thể dẫn tới loạt khách hàng vay vốn kinh
doanh trong lĩnh vực này phá sản, không trả được nợ ngân hàng.
b. Chính sách phân loại nợ
Chính sách phân loại nợ là chính sách mà các NHTM đưa ra các tiêu chí xếp hạng các
khoản dư nợ hiện tại theo tiêu chuẩn cụ thể vào các nhóm nợ để từ đó thực hiện trích lập dự
phòng rủi ro bù đắp rủi ro trong hoạt động cho vay theo tỷ lệ tương ứng cho mỗi nhóm nợ,
nhằm chủ động bù đắp tổn thất cho vay khi có rủi ro xảy ra. Đây là chính sách cốt lơi của công
tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay. Về nguyên tắc phân loại phải được tiến hành ngay
khi cấp cho vay và thông thường được đánh giá lại vài lần trong năm.
c. Trích lập dự phòng Rủi ro trong hoạt động cho vay
Việc trích lập dự phòng bù đắp rủi ro là nhằm giúp ngân hàng chủ động đối phó với các
tổn thất dự kiến. Phân loại nợ là cơ sở cho chính sách trích lập dự phòng rủi ro, bên cạnh đó
các yếu tố như kinh nghiệm thu hồi nợ vay trong quá khứ, mức tăng trưởng cho vay, sự thay
đổi của các điều kiện kinh tế cũng cần được cập nhật trong khi xây dựng chính sách trích lập
dự phòng tổn thất cho vay.
1.3.2.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức thực hiện đánh giá Rủi ro trong hoạt động cho vay:
Bộ máy tổ chức thực hiện đánh giá Rủi ro trong hoạt động cho vay phải được thực hiện
theo hướng phân tách rõ rệt giữa các chức năng tiếp xúc khách hàng, thẩm định, ra quyết định

và theo dõi kiểm soát khoản vay. Trong đó vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ và quản lý tín
dụng là rất quan trong trong việc nhận diện, kiểm soát và phòng ngừa khắc phục rủi ro.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC
NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quy mô nợ xấu của hệ thống các TCTD
Kể từ năm 2005, Ngân hàng Nhà nước ban hành nhiều quy định mới về quản trị rủi ro, an
toàn hoạt động ngân hàng và quản lý tín dụng, đặc biệt là quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng rủi ro (DPRR) tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế. Bản chất của nợ xấu
ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu quả, và nó thường phát sinh
sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Nợ xấu hiện nay của các tổ chức tín
dụng (TCTD) được tích lũy từ trước đây do môi trường kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008,
khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt động, vì vậy, nợ xấu của hệ thống các
TCTD có chiều hướng gia tăng nhanh trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng
không tăng từ đầu năm 2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản
tín dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh.
Đến ngày 31/5/2012, nợ xấu theo các TCTD báo cáo là hơn 117 ngàn tỷ đồng, chiếm
4,47% so với tổng dư nợ tín dụng. Theo Thống đốc NHNN tính đến thời điểm tháng 06 năm
2012, tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng của Việt Nam đã lên đến 10%GDP, tăng so với mức 6%
14 | P a g e
cuối năm ngoái (Biểu đồ 1 – Phụ lục). Đây là mức tương đương với các dự báo của tổ chức
nước ngoài về nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Theo báo cáo tài chính quý II công ty mẹ của 8 ngân hàng niêm yết, tổng nợ xấu các đơn
vị này đang gánh lên tới 20.726 tỷ đồng (Biểu đồ 2 – Phụ lục). Trong đó, nợ nhóm 5 - có khả
năng mất vốn - chiếm tới 40%.
Trong số 8 nhà băng niêm yết, nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn - nhóm có nguy cơ
rủi ro cao nhất - của Vietcombank và Eximbank đều chiếm quá nửa tổng nợ xấu. Trong khi đó,
cơ cấu nợ xấu cho hay, nợ có khả năng mất vốn của 8 ngân hàng đều chiếm ít nhất một phần
ba "cục máu đông" nợ xấu. Vietinbank và Sacombank là 2 ngân hàng có tốc độ gia tăng nợ xấu
cao nhất so với thời điểm đầu năm 2012. Nợ xấu của Vietinbank tăng hơn 3 lần đầu năm, từ
hơn 2.000 tỷ lên gần 7.000 tỷ đồng. Còn Sacombank, nợ xấu của ngân hàng này tăng hơn 2

lần.
Tính đến hết ngày 30/6, nợ xấu của Vietcombank lẫn Vietinbank tăng thêm hàng nghìn
tỷ. Vietcombank tăng từ hơn 4.000 tỷ lên gần 7.500 tỷ trong khi Vietinbank tăng gấp 3 lần từ
2.000 tỷ lên gần 7.000 tỷ đồng (Biểu đồ 3 – Phụ lục) . Nếu xét riêng 8 nhà băng đang niêm yết
trên sàn, nợ xấu của hai ngân hàng lớn Vietcombank, Vietinbank chiếm 70% tổng nợ xấu của
các ngân hàng.
Theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đối với gần 1,01 triệu
khách hàng vay được chọn mẫu của 57 TCTD của Việt Nam chiếm tới 90,1% tổng dư nợ tín
dụng của các TCTD này, đến ngày 31/3/2012 nợ xấu
1
của các TCTD là hơn 202 ngàn tỷ đồng,
chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng
2
. Nguyên nhân nợ xấu theo kết quả giám sát cao hơn nợ
xấu theo báo cáo của các TCTD tại thời điểm tháng 3/2012 là do:
Thứ nhất, các tiêu chí xác định nợ xấu theo quy định hiện hành có bao gồm tiêu chí định
lượng (như: thời gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ,…) và tiêu chí định tính (chấm
điểm, xếp hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng). Việc bao gồm các tiêu
chí định tính và định lượng trong phân loại nợ là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, do
khoản nợ rủi ro và năng lực quản trị rủi ro của các TCTD là khác nhau, nên việc sử dụng các
tiêu chí định tính trong phân loại nợ dễ dẫn đến sự thiếu minh bạch trong xác định và ghi nhận
nợ xấu của TCTD.
Thứ hai, một số TCTD không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận nợ xấu
thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập DPRR.
Thứ ba, do thiếu thông tin về phân loại nợ của khách hàng tại các TCTD, nên dẫn đến có
sự khác nhau về nhóm nợ của 1 khách hàng quan hệ tại nhiều TCTD.
Do các nguyên nhân trên, nợ xấu do TCTD báo cáo thường thấp hơn nợ xấu theo kết quả
giám sát TCTD và còn thấp hơn nữa so với nợ xấu theo kết quả thanh tra tại chỗ của NHNN.
Kết quả thanh tra tại chỗ vừa qua đối với một số NHTMCP yếu kém thuộc diện phải cơ cấu lại
cho thấy nợ xấu thực tế của các TCTD cao hơn nhiều số hiện báo cáo của TCTD.

1
Bao gồm nợ xấu hạch toán nội bảng, nợ xấu đã xử lý bằng DPRR đang theo dõi ngoại bảng và nợ xấu cam kết ngoại
bảng
2
Bao gồm dư nợ cho vay hạch toán nội bảng, nợ xấu đã xử lý bằng DPRR đang hạch toán ngoại bảng và dư nợ cam
kết ngoại bảng
15 | P a g e
Phân loại nợ khác nhau, kết quả nợ xấu không giống nhau
Mặc dù, quy định hiện hành của Việt Nam về phân loại nợ về cơ bản là phù hợp với
nguyên tắc phân loại nợ của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, một số tổ
chức quốc tế đánh giá nợ xấu của Việt Nam trên 10% tổng dư nợ tín dụng. Chẳng hạn, Tổ
chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings cho rằng nợ xấu của các TCTD Việt Nam là khoảng
13% tổng dư nợ tín dụng. Các tổ chức quốc tế đưa ra kết quả ước đoán nợ xấu toàn hệ thống
TCTD có thể dựa vào hệ thống tiêu chí phân loại nợ riêng có hoặc trên kết quả đánh giá của
một số ngân hàng được chọn mẫu hoặc ngoại suy có tính đến xếp loại tín nhiệm quốc gia.
Trên thực tế không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ. Việc sử dụng các hệ thống tiêu
chí phân loại nợ khác nhau sẽ cho kết quả nợ xấu không giống nhau. Do có sự khác biệt giữa
các hệ thống phân loại nợ và trích lập DPRR, vì vậy khi xác định, đo lường, phân tích, đánh
giá nợ xấu phải xem xét, hiểu được hệ thống phân loại nợ và trích lập DPRR được sử dụng.
Việc so sánh số liệu nợ xấu dựa trên các tiêu chí phân loại nợ khác nhau không có nhiều ý
nghĩa và có thể dẫn đến nhận định không hợp lý. Mọi sự so sánh nợ xấu phải bảo đảm tính
đồng nhất về hệ thống tiêu chí phân loại nợ. Sự khác nhau về phương pháp phân loại nợ và
trích lập DPRR làm cho việc so sánh mức độ yếu kém hay mức độ lành mạnh giữa các ngân
hàng hay các hệ thống ngân hàng trở lên khó khăn hơn.
Do không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ và trích lập DPRR, vì vậy các cơ quan
quản lý, cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng thường ban hành quy định khung về phân loại nợ
và trích lập DPRR phù hợp với đặc điểm cụ thể của quốc gia.
Tình trạng tồn tại nhiều con số về nợ xấu không phải là vấn đề riêng có ở Việt Nam vì
những nguyên nhân nói trên. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chính thức của toàn hệ thống ngân
hàng do cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng công bố và được chấp nhận do được giải thích rõ

ràng và pháp luật quy định cụ thể về phương pháp phân loại nợ.
Để các TCTD thực hiện đúng quy định phân loại nợ và báo cáo cho NHNN số liệu nợ
xấu chính xác hơn, hiện nay NHNN đang triển khai các giải pháp tăng cường hiệu quả công
tác thanh tra, giám sát hoạt động cấp tín dụng và phát triển mạnh cơ sở dữ liệu chung về khách
hàng có quan hệ tín dụng với các TCTD, đồng thời có biện pháp yêu cầu TCTD điều chỉnh số
liệu nợ xấu phù hợp với số liệu nợ xấu và bằng chứng qua thanh tra, giám sát.
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng và an toàn hoạt động tín dụng.
Điều quan trọng nhất là nợ xấu phải được phân loại, ghi nhận và trích lập DPRR đầy đủ theo
mức độ rủi ro, đồng thời có biện pháp bảo đảm tiền vay (tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh,…).
Không nên tuyệt đối hoá tỷ lệ nợ xấu cao hay thấp hoặc chỉ dựa vào mức DPRR đã trích lập
trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng và xác định khả năng tổn thất tín dụng. Tỷ lệ nợ
xấu thấp nhưng không được trích lập DPRR đầy đủ và thiếu tài sản bảo đảm thì có thể nguy
hiểm hơn là tỷ lệ nợ xấu cao hơn nhưng được trích lập DPRR và có tài sản bảo đảm đầy đủ.
2.2 Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho vay tăng cao và chất lượng tín dụng suy giảm
16 | P a g e
2.2.1 Nhóm nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao và hiện nay là suy giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong nước, do đó môi trường kinh doanh và hoạt động ngân hàng gặp nhiều
khó khăn làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng
tín dụng. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân 26,56%
nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng từ năm
2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012 dư nợ tín dụng không tăng nhưng nợ
xấu tăng tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại từ năm 2011: Năm 2011, tăng trưởng
kinh tế 5,89%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt 4,38% so với
cùng kỳ năm 2011 (cùng kỳ năm 2011 tăng 5,57%).
- Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm, thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước: Chỉ số
sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010. Tính chung 06 tháng đầu năm
2012, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, chỉ bằng 45% mức

tăng 6 tháng đầu năm 2011 (9,7%). Giá trị sản xuất xây dựng trong 6 tháng đầu năm 2012 theo
giá so sánh năm 1994 chỉ bằng 99,6% so với cùng kỳ năm 2011. Ngành xây dựng gặp nhiều
khó khăn do hoạt động đầu tư tăng chậm, thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài. Nhiều
công trình, dự án xây dựng giãn tiến độ hoặc dừng khởi công làm cho nhu cầu nguyên vật liệu
xây dựng không tăng cao, nhiều sản phẩm tiêu thụ khó khăn (như xi măng, sắt thép,…).
- Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp: Chỉ số tiêu thụ ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 6,2% so với năm 2010. Trong 5 tháng đầu năm
2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm
trước.
- Tiêu dùng cá nhân tăng chậm: Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2011
tăng 24,2% so với năm 2010 và chỉ tăng 4,7% nếu loại trừ đi yếu tố giá. Tính chung 06 tháng
đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tăng 19,5%
so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 6,5%, thấp hơn nhiều so với cùng
kỳ các năm trước.
- Chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước. Cuối năm 2011,
chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với cùng kỳ năm 2010. Tại
thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến tăng 26% so với
cùng kỳ năm trước. Điều này phản ánh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như sức cầu tiêu dùng
của nền kinh tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh và làm tăng
nợ xấu của các TCTD.
- Khách hàng vay của TCTD có tình hình tài chính suy giảm, kém lành mạnh hoặc kinh
doanh thua lỗ. Sản xuất kinh doanh phải đối mặt với vấn đề chi phí cao, lãi suất ngân hàng cao,
thiếu vốn, đồng thời tiêu thụ hàng hoá khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính, kết
quả kinh doanh và khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động tăng nhanh: Năm 2011
17 | P a g e
có 79.014 doanh nghiệp và tính từ đầu năm đến ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250 doanh
nghiệp, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011 (23.358 doanh nghiệp bị phá sản trong 6 tháng
đầu năm 2011).
- Nhiều doanh nghiệp hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa vào vốn vay ngân

hàng, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn
chế. Vì vậy, khi môi trường kinh doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng
thì các doanh nghiệp dễ gặp khó khăn về khả năng trả nợ. Theo kết quả giám sát của Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng, đến cuối tháng 3/2012 trong hơn 1 triệu khách hàng được chọn
mẫu khảo sát tại 57 TCTD của Việt Nam có 10.782 khách hàng có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ
3 lần trở lên.
Nhóm nguyên nhân chủ quan
Hầu hết các TCTD theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi năng lực
quản trị rủi ro của TCTD còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là các NHTMCP
chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn đến nợ xấu tăng nhanh hơn dư nợ tín dụng. Một bộ
phận không nhỏ vốn tín dụng và nhiều TCTD tập trung đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều
rủi ro, chẳng hạn bất động sản. Khi các lĩnh vực này, đặc biệt là thị trường bất động sản đóng
băng và giá bất động sản giảm sâu kéo theo nợ xấu cho vay lĩnh vực này tăng nhanh.
Ngoài ra, công tác thanh tra, giám sát ngân hàng trong một thời gian dài chưa phát huy
hiệu quả cao trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm, rủi ro trong hoạt
động cấp tín dụng của các TCTD, nhất là các vi phạm quy định hạn chế cấp tín dụng và đầu tư
quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA CÁC NHTM
3.1 Chú trọng công tác thẩm định khách hàng và phương án vay vốn
Đây là khấu quan trọng trong quá trình cho vay, qua đó cán bộ ngân hàng có được thông
tin cần thiết giúp cho việc ra quyết định cho vay hay không cho vay. Để thực hiện tốt công tác
này ngân hàng cần chú ý:
- Chấm điểm khách hàng và nhận định khách hàng, ngân hàng có thể có những phán
đoán bước đẩu trong việc quyết định có quan hệ tín dụng với khách hàng hay không, liệu quan
hệ tín dụng với khách hàng đó có tiềm ẩn nguy cơ rủi ro nao đối với ngân hàng không? Nhờ
việc phân tích tình hình, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính
sòng phẳng của khách hàng vay có trả đúng hạn gốc và lãi các lần vay trước hay không. Thêm
vào đó việc đánh giá khách hàng vay có đủ năng lực pháp lý và đảm bảo các nguyên tắc xây
dựng phương án dự phòng nợ vay ngân hàng. Ngân hàng tiến hành lập hồ sơ về khách hàng,

xếp loại và cho điểm khách.
- Hoàn thiện quy trình thẩm định và giám sát chặt chẽ quy trình thẩm định.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong phân tích khách hàng.
- Tăng cường tiếp xúc khách hàng, khảo sát thực tế hình kinh doanh của khách hàng và
thẩm định kĩ giá trị tài sản đảm bảo.
18 | P a g e
- Thực hiện tốt công tác tổ chức và thường xuyên kiểm tra nghiệp vụ của các cán bộ
thẩm định.
- Đội ngũ lãnh đạo cần có những ưu tiên nhất định đối với cán bộ thẩm định như công tác
đào tạo, tạo điều kiện khi đi tìm hiểu thực tế.
3.2. Xem xét tính khả thi của phương án kinh doanh trước khi quyết định cho vay
Một khách hàng lâu năm, có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng cũng có thể là nguyên
nhân khiến ngân hàng gặp rủi ro cho vay. Đó là bởi vì bản thân khách hàng khi vay ngân hàng
để đầu tư đã đầu tư vào một dự án không thể thực hiện được hoặc thực hiện được nhưng không
hiệu quảlàm ảnh hưởng tới tình hình tài chính của chính bản thân khách hàng, do đó việc trả
nợ cho ngân hàng là khó khăn, gián tiếp gây tổn thất cho ngân hàng. Như vậy tính khả thi của
phương án kinh doanh là một trong những yếu tố quyết định đến khả nằng hoàn trả vốn và lãi
đúng thời hạn của ngân hàng hay không. Ngân hàng cần xem xét tới phương án kinh doanh của
người vay có hiệu quả không, các sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ như thế nào, có mang lại lợi
nhuận hay không. Nếu phương án sản xuất kinh doanh không đem lại hiệu quả sẽ dẫn tới tình
trạng làm ăn mất vốn, không có lãi dẫn tới các khoản vay không được hàon trả đúng hạn. Vậy
để giảm thiểu rủi ro cho vay, trước khi quyết định cho, vay ngân hàng pahỉ đánh giá kỹ lưỡng
về tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh của người vay.
3.3. Giám sát chặt chẽ các khoản cho vay
Sau khi thực hiện cho vay một món tiền, ngân hàng và cán bộ tín dụng phải thường
xuyên theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng để xem khách hàng có sử dụng
khoản vay đó đúng mục đích như đã cam kết với ngân hàng hay không. Từ đó để hạn chế được
rủi ro đạo đức trong hoạt động cho vay và ngân hàng sẽ có biện pháp xử lý kịp thời với những
khách hàng có hành vi cố tình lừa đảo.
3.4. Thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay

Một nguyên tắc cho vay của ngân hàng là mọi khoản vay đều phải có tài sản đảm bảo.
Trong những trường lợp xấu nhất mà khách hàng vay không có khả năng hoàn trả cả gốc và lãi
của khoản vay thì những tài sản đảm bảo đó được bàn hoặc thanh lý để hoàn trả cho ngân
hàng. Nghĩa là khi rủi ro xảy ra, việc xử lý tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng thu hồi một
phần vốn và do đó giảm thiểu tổn thất rủi ro mang lại. Đảm bảo tiền vay là giải pháp tối ưư để
hạn chế rủi ro xảy ra, bởi vì khi khách hàng đem tài sản đảm bảo cho khoản vay của mình , họ
sẽ có ý thức kinh doanh tốt hơn, nếu không họ sẽ bị mất tài sản đó.
3.5. Thực hiện phân tán rủi ro
Khi có một dự án lớn, các ngân hàng bắt tay với nhau nhằm tránh việc rủi ro tập trung hết
vào một ngân hàng, có thể khiến ngân hàng đó phá sản, việc phân tán rủi ro được thực hiện
thông qua phân tán dư nợ và đồng tài trợ. Quy định một ngân hàng không được cho vay đối
với một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Còn những dự án lớn cần huy
động nhiều vốn thì ngân hàng tham gia đồng tài trợ và quản lý vốn cho vay sẽ hạn chế và phân
tán rủi ro.
19 | P a g e
3.6. Thường xuyên đào tạo cán bộ và nâng cao chất lượng nghiệp vụ
Nâng cao trình độ của cán bộ ngân hàng sẽ góp phần nâng cao chất lượng của khoản cho
vay, giảm thiểu được rủi ro cho vay.
Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển, khoa học - kỹ thuật - công nghệ
đổi mới từng ngày, đào tạo cán bộ nhằm mục đích nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho mỗi cán
bộ là điều không thể thiếu. Cũng như bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào, với kinh
doanh trong lĩnh vực ngân hàng, nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự
thành bại của ngân hàng. Các quyết định cũng như hành động của con người có thể mang lại
nguồn lợi nhuận lớn, cũng có thể gây tổn thất lớn cho doanh nghiệp. Đặc biệt đối với lĩnh vực
ngân hàng – lĩnh vực có mức độ rủi ro cao – các quyết định đúng đắn có thể giúp ngân hàng
ngày càng vững mạnh và phát triển, những quyết định sai lầm có thể gây thiệt hại, có thể dẫn
đến phá sản và sụp đổ ngân hàng hoặc toàn hệ thống ngân hàng.
3.7. Áp dụng thành quả của khoa học công nghệ vào hoạt động, đưa vào các dịch vụ hiện
đại
Nhờ đó mà hoạt động của ngân hàng được linh hoạt hơn, khả năng nắm bắt thông tin và

xử lý thông tin được nhanh nhạy hơn, phát hiện những khách hàng cho vay có nguy cơ rủi ro
cao từ đó hạn chế cho vay hoặc không cho vay với những khách hàng đó để tránh những rủi ro
tiềm ẩn cho ngân hàng.Và chất lượng hoạt động ngân hàng cũng được tăng lên nhờ áp dụng
các máy móc công nghệ hiện đại, nâng cao uy tín của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng
muốn tạo quan hệ tốt với ngân hàng. Trên cơ sở quan hệ đó, người vay phải chú ý sử dụng
khoản vay cho hợp lý hơn, hạn chế rủi ro xảy ra, tránh nguy cơ không trả được nợ cho ngân
hàng. Từ đó rủi ro cho vay cũng ít xảy ra hơn.
3.8. Chỉ mở rộng khối lượng tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng
Hoạt động tín dụng đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng, do đó mở rộng khối lượng
tín dụng là hoạt động cần thiết đối với ngân hàng để tối đa hoá lợị nhuận. Tuy nhiên khi xem
xét việc mở rộng khối lượng tín dụng các ngân hàng cần chú trọng đến vấn đề chất lượng tín
dụng. Chất lượng tín dụng đóng vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng càng cao thì ngân hàng càng ít gặp phải rủi ro. Nếu
ngân hàng chỉ chú trọng tới mở rộng khối lượng tín dụng mà không quan tâm tới việc nâng cao
chất lượng tín dụng thì nguy cơ rủi ro xảy ra là rất có thể.
20 | P a g e
KẾT LUẬN
Tốc độ gia tăng chóng mặt của nợ xấu trong những năm gần đây trở thành chủ đề tiêu
biểu trên các diễn đàn, trên các phương tiện thông tin đại chúng và là vẫn đề bức thiết đặt
ra cho Nhà nước nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Việc gia tăng nợ xấu như phân
tích ở trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó nguyên nhân chủ yếu là từ hoạt
động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại. Hầu hết các NHTM hiện nay đều
theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi năng lực quản trị rủi ro của NHTM
còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện. Vấn đề quản trị rủi ro hiệu quả trong hoạt động cho
vay luôn là nhiệm vụ lớn mà các NHTM luôn cần phái đặt ra trong suốt chu trình hoạt động
của mình.
Như đã phân tích trong bài, có nhiều giải pháp có thể giúp ngân hàng hạn chế và
phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng thương mại đã
quan tâm đến vấn đề này, song trên thực tế vẫn còn nhiều tồn tại làm cho hiệu quả kinh
21 | P a g e

doanh của ngân hàng chưa cao. Để đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong nền kinh tế thì
việc sử dụng tổng hợp và linh hoạt các biện pháp phòng chống rủi ro, nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng là cách tốt nhất để hạn chế rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng
thương mại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. PGS.TS Trần Huy Hoàng, Giáo trình Quản trị Ngân hàng (2011), NXB. Lao động xã
hội.
[2]. ThS. Nguyễn Hữu Nghĩa, Thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện
nay, www.sbv.gov.vn
[3]. Các văn bản pháp luật có liên quan.
[4]. Các trang web:
- www.sbv.gov.vn
- www.ebank.vnexpress.net
- www.vietstock.vn
- www.dddn.com.vn
22 | P a g e
PHỤ LỤC
Biểu đồ 1: Tỷ lệ nợ xấu so với GDP (Nguồn: vietstock)
23 | P a g e
Biểu đồ 2: tỷ lệ nợ xấu của 08 Ngân hàng niêm yết (Đvt: tỷ đồng)
(Nguồn: ebank.vnexpress.net)
Biểu dồ 3: Nợ xấu tại thời điểm 30/06 và 01/01/2012 (Đvt: tỷ đồng)
(Nguồn: ebank.vnexpress.net)
24 | P a g e

×