BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
LƢƠNG MỸ HẠNH
CON ĐƢỜNG TƠ LỤA VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ VĂN HÓA - XÃ HỘI
THỜI ĐƯỜNG (618 - 907) Ở TRUNG QUỐC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Sơn La, năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
LƢƠNG MỸ HẠNH
CON ĐƢỜNG TƠ LỤA VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ VĂN HÓA - XÃ HỘI
THỜI ĐƯỜNG (618 - 907) Ở TRUNG QUỐC
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Điêu Thị Vân Anh
Sơn La, năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo
Điêu Thị Vân Anh. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô - người
đã luôn quan tâm, chỉ bảo tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa
luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn thư viện Trường Đại Học Tây Bắc, toàn
thể các thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa và các bạn sinh viên trong lớp k51
ĐHSP Sử - Địa đã tạo mọi điều kiện và ủng hộ tôi hoàn thành khóa luận này.
Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp, phê bình của các thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận được
hoàn thiện hơn.
Sơn la, tháng 5 năm 2014
Tác giả:
Lƣơng Mỹ Hạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
3.3. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp của khóa luận 4
6. Bố cục của khóa luận 4
CHƢƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CON ĐƢỜNG
TƠ LỤA 5
1.1. Con đường tơ lụa trên bộ 5
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của con đường tơ lụa trên bộ. 5
1.1.2 Sự suy vong của con đường tơ lụa trên bộ. 10
1.2. Con đường tơ lụa trên biển 12
1.2.1 Sự hình thành và phát triển của con đường tơ lụa trên biển 12
1.2.2 Sự suy vong của con đường tơ lụa trên biển………………………… …17
CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA CON ĐƢỜNG TƠ LỤA ĐỐI VỚI CHÍNH
TRỊ, KINH TẾ VÀ VĂN HÓA - XÃ HỘI THỜI ĐƢỜNG (618-907) Ở
TRUNG QUỐC 20
2.1 Về chính trị 20
2.2. Về kinh tế 24
2.3. Về văn hóa – xã hội 32
KẾT LUẬN 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ xa xưa, những hoạt động giao lưu trao đổi buôn bán đã xuất hiện.
Cùng với thời gian, sản xuất ngày càng phát triển, thương mại trở nên phồn
thịnh. Tuy nhiên, hoạt động đó mới chỉ diễn ra cục bộ trong một vùng, một
thành bang, một trung tâm văn hóa chính trị hay chỉ bó hẹp trong trong phạm vi
của một đất nước. Trong bối cảnh ấy, sự hình thành con đường tơ lụa đánh dấu
một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử thương mại quốc tế. Nó được
coi là hệ thống những con đường thương mại lớn nhất thế giới cổ đại, là cầu nối
giữa những quốc gia với nhau thúc đẩy sự tiếp xúc giữa các nền văn minh.
Thời cổ đại, Trung Quốc là một trong những quốc gia đầu tiên tìm ra cách
trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Đồng thời cũng là cái nôi sản sinh ra tơ lụa
sớm nhất trên thế giới. Có lẽ vì vậy, tơ lụa thời đó chỉ dành riêng cho vua chúa
và quý tộc, chỉ có giới thượng lưu mới có đủ điều kiện sử dụng mặt hàng xa xỉ,
hiếm hoi này. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, do nhu cầu của con người tơ
lụa mới được đưa đi các vùng, các nơi trên thế giới. Đến thời nhà Đường, với
kinh đô Trường An được các nhà sử học coi là đỉnh cao trong văn minh Trung
Hoa, vai trò quan trọng của con đường tơ lụa càng thể hiện rõ nét. Cùng với sản
phẩm chính là tơ lụa, gốm sứ cũng được đưa tới những miền đất mới sang Tây
Á, vượt qua vạn dặm xa xôi đến với nền văn minh phương Tây.
Qua những chặng đường lịch sử, con đường tơ lụa không đơn giản chỉ là huyết
mạch thông thương, nó còn là hành trình giao lưu văn hóa, tôn giáo đa dạng giữa các
quốc gia, khu vực trên thế giới. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, xung quanh đề tài
“Con đường tơ lụa” có rất nhiều câu hỏi được đặt ra. Con đường tơ lụa là gì? Nó có
từ bao giờ? Vai trò của nó trong lịch sử thương mại quốc tế ra sao? Đặc biệt với nền
kinh tế xã hội thời Đường như thế nào? Vậy nên, việc tìm hiểu con đường này là
một vấn đề vô cùng hấp dẫn, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà văn hóa,
lịch sử và những học giả khắp nơi trên thế giới. Xuất phát từ những lí do trên, tôi
mạnh dạn chọn đề tài: “Con đường tơ lụa và vai trò của nó đối với chính trị, kinh tế
và văn hóa - xã hội thời Đường (618 - 907) ở Trung Quốc” để làm đề tài nghiên
2
cứu của mình, đồng thời nhằm tái hiện một cách cụ thể, tương đối đầy đủ,
chính xác và hệ thống về những ảnh hưởng của con đường tơ lụa tới lịch sử
phát triển của thế giới nói chung và Trung Quốc nói riêng. Đề tài hoàn thành
còn góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu tham khảo phục vụ cho học
tập và giảng dạy ở trường trung học phổ thông và chuyên nghiệp. Vì vậy đề
tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về con đường tơ lụa
huyền thoại. Nhà địa lí học người Đức Phécđinăng Vôn Richtophen (1833-1904)
chính là người đã khai sinh ra khái niệm “Con đường tơ lụa”. Vào giữa thế kỉ
XIX, ông đã xuất bản hàng loạt những cuốn sách và bài nghiên cứu về con
đường tơ lụa thương mại cổ đại này. Nhà Hán học người Pháp Pôn Penliô đã đề
cập đến con đường thương mại trên biển giữa Trung Hoa và Ấn Độ trong tác
phẩm “Deux itineraires de Chine en Inde au VIIIe siefcle” (Hai ghi chép lữ hành
giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong thế kỉ VIII).
Về sau, vấn đề về con đường tơ lụa được mở rộng và nghiên cứu sâu hơn
bởi nhiều học giả khắp nơi trên thế giới.
Tại Trung Quốc, người khởi xướng cho việc nghiên cứu về con đường
thương mại biển giữa Trung Quốc và các nước lại là một người Nhật – học giả
Tam Sang Long Mẫn. Năm 1967, tác phẩm “Nghiên cứu con đường tơ lụa trên
biển” của ông viết về quá trình hình thành phát triển của con đường tơ lụa trên
biển đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu.
Sau đó, giáo sư Trần Viên đã có hàng loạt bài báo, bài viết chuyên đề
đăng trên nhiều tạp chí khoa học. Theo sau ông là nhiều học giả khác, tiêu biểu
có tác giả Xa Mộ Kì với cuốn “Con đường tơ lụa” (Nguyễn Phố dịch – NXB
Trẻ, 2008), Cuốn sách này kể về cuộc hành trình của tác giả đi tìm lại những dấu
tích của con đường tơ lụa cổ đại.
Ở Việt Nam, con đường tơ lụa được Nguyễn Minh Mẫn và Hoàng Văn
Việt nghiên cứu khá đầu đủ và chi tiết trong cuốn “Con đường tơ lụa quá khứ và
tương lai”. Cuốn sách này đã đưa đến cho độc giả kiến thức cơ bản và khái quát
3
nhất về con đường tơ lụa trong một không gian và một thời gian rộng lớn, thể
hiện sự giao lưu văn minh Đông Tây diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Ngoài ra, đề tài về con đường tơ lụa có rất nhiều tài liệu khác đề cập đến như
cuốn “Lịch sử văn minh thế giới” NXB Giáo dục (2009); “Lịch sử Trung - Cận
Đông” NXB Giáo dục (2009); “Lịch sử thế giới trung đại” NXB Giáo dục
(2010); “Lịch sử Trung Quốc” NXB Giáo dục (2009)… Tuy nhiên, tất cả các
cuốn sách, bài viết trên đều tập trung về cuộc hành trình khai thông con đường
tơ lụa. Vấn đề vai trò, tầm quan trọng của con đường tơ lụa và vai trò cụ thể của
nó trong nền kinh tế xã hội thời Đường ở Trung Quốc tuy đã được đề cập nhưng
chưa sâu và đầy đủ. Trên cơ sở tiếp thu và chọn lọc các bài viết của các tác giả,
tôi quyết định tiếp tục phát triển đề tài một cách khái quát và hệ thống.
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Con đường tơ lụa
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm giải quyết các vấn đề sau đây:
- Quá trình con đường tơ lụa hình thành và phát triển.
- Đánh giá vai trò và ý nghĩa của con đường tơ lụa với chính trị, kinh tế và
văn hóa - xã hội thời nhà Đường (618-907) ở Trung Quốc.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu sự hình thành và phát triển con đường
tơ lụa trên không gian rộng lớn từ Đông sang Tây, từ đất liền ra biển đảo. Ưu
tiên nghiên cứu quãng đường xuất phát từ Trung Quốc tới các nước xung quanh.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu con đường tơ lụa thời kì cổ - trung đại
và tập trung nghiên cứu con đường tơ lụa trong thời nhà Đường (618-907) ở
Trung Quốc.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng hai phương pháp cơ
bản là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tôi còn sử dụng
phương pháp so sánh, thu thập thông tin lí thuyết,…thông qua các tài liệu có
4
sẵn, sách báo, tạp chí, báo cáo, website và các nguồn thông tin đáng tin cậy có
liên quan đến khóa luận.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận hoàn thành sẽ có ý nghĩa quan trọng sau đây:
- Tổng quan được những chặng đường lịch sử của con đường tơ lụa cũng
như đánh giá vai trò của nó tới nền kinh tế xã hội trong thời nhà Đường (618-
907) ở Trung Quốc. Đó cũng là nguồn tư liệu có giá trị cao cho những người
quan tâm đến con đường tơ lụa.
- Đề tài hoàn thành sẽ là nguồn tư liệu giúp các nhà giáo, nhà nghiên cứu
lịch sử hiểu thêm về con đương tơ lụa để có thể giảng dạy tốt hơn môn lịch sử.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục khóa luận gồm hai chương:
Chương 1 : Sự hình thành và phát triển của con đường tơ lụa
Chương 2 : Vai trò của con đường tơ lụa đối với chính trị, kinh tế và văn
hóa - xã hội thời Đường (618-907) ở Trung Quốc
5
CHƢƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CON ĐƢỜNG TƠ LỤA
1.1. Con đƣờng tơ lụa trên bộ
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của con đƣờng tơ lụa trên bộ.
*Sự hình thành của con đƣờng tơ lụa.
Bước qua thời kì xã hội nguyên thủy, lịch sử phát triển thế giới đã có một
bước ngoặt vĩ đại, đánh dấu bằng sự ra đời của những nền văn minh đầu tiên.
Ở phương Đông (châu Á và châu Phi) xuất hiện bốn trung tâm văn minh
lớn là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Mặc dù ra đời ở những vùng
lãnh thổ khác nhau nhưng các nền văn minh này đều có một đặc điểm chung là
hình thành trên lưu vực các con sông lớn mang đặc trưng kinh tế nông nghiệp
thủy nông. Nhờ những điều kiện tự nhiên thuận lợi, văn minh phương Đông đã
sớm hình thành và đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ. Từ sự phát triển
của nền kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng có điều kiện phát triển theo.
Trung Quốc theo dọc chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Bắc Á.
Trên lãnh thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua là Hoàng Hà (dài 5464
km) ở phía Bắc và Trường Giang (dài 6300 km) ở phía Nam. Hai con sông này
đã tạo nên những đồng bằng phù sa màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho nông
nghiệp phát triển khi công cụ lao động còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy, nơi
đây đã trở thành một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Trường
An, Lạc Dương là những trung tâm kinh tế - chính trị lớn, trở thành nơi giao lưu
kinh tế - văn hóa phồn thịnh bậc nhất Trung Hoa thời bấy giờ. Tuy nhiên, đặc
điểm của giao lưu buôn bán lúc này chỉ bó hẹp trong nội bộ trường thành hoặc
giữa những trường thành trong nước mà thôi.
Trung Quốc và các nước lân bang có mong muốn thiết lập quan hệ ngoại
giao, hòa hợp dân tộc trong điều kiện đất nước đã ổn định. Nên những chuyến đi
xứ của quan lại triều đình do vua chúa Trung Hoa cử đi các nước cũng như
những chuyến viếng thăm Trung Hoa của các nước lân cận ngày càng trở nên
phổ biến. Thông qua những chuyến ngoại giao, xứ giả các nước mang theo quốc
6
thư và nhiều vật phẩm là những đặc sản của nước mình để cống nạp, dâng tặng
cho vua chúa Trung Quốc. Ngược lại các xứ giả Trung Quốc khi đi xứ cũng
mang theo tơ lụa, gốm sứ, hương liệu… những sản vật có giá trị dâng tặng các
nước. Cho nên, gắn với mục đích chính trị, những chuyến đi xứ ban đầu còn
mang mục đích giao lưu kinh tế văn hóa giữa các quốc gia với nhau.
Cùng với thời gian các món đồ cống nạp, dâng tặng vua chúa được sử dụng
rộng rãi trong tầng lớp quý tộc. Trong đó, tơ lụa, hương liệu và gốm sứ trở thành
những sản phẩm quý giá phục vụ đời sống của vua chúa, quý tộc các nước với
nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều hơn. Đây là lý do để việc trao đổi buôn bán
giữa các nước, các nền văn hóa khác nhau diễn ra nhanh hơn, mạnh mẽ hơn.
Đến thế kỉ VIII TCN, trên bờ Bắc Địa Trung Hải xuất hiện các quốc gia cổ
đại phương Tây. Các quốc gia này ra đời trên vùng đất khô cằn, khí hậu ôn hòa
và đất đai kém màu mỡ hơn rất nhiều so với các quốc gia cổ đại phương Đông.
Việc canh tác nông nghiệp rất khó khăn, tài nguyên thiên nhiên không nhiều.
Vậy nên, trong con mắt người phương Tây, phương Đông được phác họa như
một xứ sở của tơ lụa, vàng bạc, hương liệu Vua chúa phương Tây thèm khát
những sản phẩm này của phương Đông. Đó cũng là một trong những nguyên
nhân thúc đẩy hoạt động giao lưu, buôn bán phát triển. Thương nhân các nước
cũng nô nức đến Trung Quốc, Ấn Độ buôn bán và trao đổi hàng hóa. Từ đó dẫn
đến sự ra đời của con đường thương mại đầu tiên trên thế giới – con đường tơ
lụa, nối liền phương Đông với phương Tây. Con đường tơ lụa trở thành đại diện
tiêu biểu và quan trọng nhất trong số hệ thống những tuyến giao thông thương
mại bấy giờ.
Con đường giao lưu buôn bán giữa các quốc gia trong khu vực phương
Đông nói riêng và giữa phương Đông với phương Tây nói chung đã được hình
thành, phát triển từ rất lâu, có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của
thương nghiệp, kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ XIX, khái niệm “con
đường tơ lụa” mới được ra đời. Fecđinăng Vôn Richtôphen, nhà địa lý học
người Đức là người khai sinh ra tên gọi con đường tơ lụa này. Sở dĩ mang tên
“con đường tơ lụa” vì đây là con đường mang ý nghĩa thương mại to lớn [2;35].
7
Nó đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người là hình ảnh những đàn súc vật chất
đầy hương liệu, hàng hóa, vàng bạc nhẫn nại hướng tới những miền đất lạ.
Trong số những mặt hàng chất trên lưng đàn gia súc ấy, tiêu biểu nhất là tơ lụa.
Vì vậy, Richtôphen đã đặt tên cho con đường này là con đường tơ lụa.
Con đường tơ lụa là con đường huyền thoại nối liền Trung Hoa rộng lớn
với Tây Á kỳ bí. Con đường tơ lụa gắn liền với hàng nghìn câu chuyện truyền
thuyết xa xưa, không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán, nó
còn là hành trình văn hóa tôn giáo đa dạng, hấp dẫn. Vào thời cổ đại, khi công
cụ, phương tiện chưa phát triển người xưa đã khai phá ra con đường tơ lụa dài
dằng dặc mà lộ trình trải qua vạn dặm sa mạc mênh mông, thảo nguyên rộng
lớn, núi cao hiểm trở hoàn toàn do người dắt lạc đà hoặc cưỡi ngựa đi lại họ
quả là những anh hùng đáng để người đời sau khâm phục. Đến đây, một câu
hỏi lớn được đặt ra, “Ai là người khai thông tìm ra con đường tơ lụa đầu tiên
trong lịch sử loài người?”
Trương Khiên là câu trả lời thực sự xác đáng. Ông chính là người đặt
những viên gạch đầu tiên xây nên nền móng của con đường tơ lụa huyền thoại.
Trương Khiên là người thành Thiểm Tây, thủa thiếu thời của ông lịch sử
không ghi chép nhiều. Trương Khiên thích đọc sách Nho giáo, là người văn
võ song toàn. Tên tuổi chàng trai ngày càng nhiều người biết tới. Đến thời
Hán Vũ Đế (khoảng năm 140 TCN) ông giữ chức quan lang, thân thể tráng
kiện, cá tính cứng cỏi, trung thực đáng tin, rộng rãi khoáng đạt và giàu suy
nghĩ. Nhờ vào tài năng và bản lĩnh của mình, Trương Khiên được vua giao
sứ mệnh đi thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia Tây Vực. Vào
chính thời điểm đó, Hán Vũ Đế đang ra kế sách đối phó với Hung Nô. Từ
một lời khai của tù binh Hung Nô, nhà Hán đã biết được ở Tây Vực có một
quốc gia tên Đại Nguyệt Thị đang là kẻ thù với Hung Nô. Hán Vũ Đế rất
thích thú khi biết tin này nên đã chủ động liên kết với Nguyệt Thị chống lại
Hung Nô, chắc chắn sẽ giành phần thắng. Trương Khiên là người dũng cảm,
tình nguyện đi sứ Tây Vực không quản đường xa, điều kiện khó khăn thực
hiện sứ mệnh lịch sử giao phó.
8
Tây Vực thời Hán vừa có nghĩa rộng lại vừa có nghĩa hẹp. Theo nghĩa
rộng, Tây Vực bao gồm suốt cả Trung Á, Tây Á và bán đảo Ấn Độ cho đến
Đông Âu, Bắc Phi ngày nay. Theo nghĩa hẹp, Tây Vực bao gồm khu vực Tân
Cương, Thanh Hải và Tây Tạng. Khu vực mà Trương Khiên có ý định đi sứ có
nghĩa rộng bởi cả Hán Vũ Đế khi ra lệnh cho Trương Khiên đi sứ đều chưa biết
được chính xác tộc Nguyệt Thị đang cư trú ở đâu, chỉ biết vùng này có nhiều
quốc gia vốn sống bằng nghề du mục và có vài nước có nền kinh tế nông
nghiệp phát đạt. Trước Hán Vũ Đế, Trung Nguyên và Tây Vực chưa hề có mối
quan hệ ngoại giao qua lại với nhau.
Trương khiên là người mở đầu cho công cuộc giao thông với Tây Vực. Ông
đi sứ hai lần, trải qua nhiều gian lao thử thách, và đầy dẫy những nguy hiểm.
Về mục đích hai lần đi sứ của Trương Khiên là phục vụ cho chính trị quân
sự. Tuy nhiên, trên thực tế hai lần Trương Khiên đi sứ Tây Vực đã khai thông
tuyến đường giao thông từ triều Hán thông qua Trung Á, Tây Á đến các vùng
phương Tây xa xôi, mở đầu cho giao lưu văn hóa Đông Tây.
Như vậy, Trương Khiên là người đầu tiên khai thông con đường Tây Vực
mà sau này lịch sử gọi là “Con đường tơ lụa”. Không quản ngại khó khăn, là
người đốt đuốc đi đêm, ngọn hải đăng dẫn lối cho thế hệ sau này.
* Sự phát triển của con đƣờng tơ lụa
Theo chân Trương Khiên rất nhiều thương nhân Trung Quốc sang buôn
bán ở Tây Vực. Đồng thời thương nhân La Mã, Ba Tư cũng qua lại trao đổi
hàng hóa với Trung Hoa. Con đường tơ lụa ngày càng được mở rộng. Tuy
nhiên, tiếp sau Trương Khiên phải kể đến hai nhân vật nổi tiếng trong lịch sử
Trung Quốc là pháp sư Huyền Trang và Khưu Xứ Cơ.
Huyền Trang (602- 664) mồ côi cả cha lẫn mẹ, hoàn cành đã xô đẩy ông và
hai anh trai phải tới nương nhờ của phật, trong lúc nhà Đường trọng thị Phật
giáo và xây chùa chiền khắp nơi. Bởi tài năng và căn duyên của mình chỉ trong
vòng vài năm Huyền Trang đã trở nên nổi tiếng trong giới phật tử. Ông bắt đầu
đi nhiều nơi gặp những vị pháp sư tài giỏi để tầm sư học đạo. Lúc này, Phật
giáo đang rất thịnh hành ở Trung Quốc nhưng lại phát triển theo nhiều tông
9
phái điều này đã làm cho người tu học phải luống cuống. Đúng lúc ấy, Huyền
Trang xuất hiện. Ông vốn là người ham học, ham hiểu biết và mong ước tìm về
nguyên bản phật pháp. Cho nên cũng từ đây Huyền Trang đã nuôi ước nguyện
tới Tây Phương cầu phật pháp và thỉnh chân kinh. Ước nguyện đó của Huyền
Trang ngày càng được nung nấu khi nghe các vị cao tăng uy tín nói có con
đường tơ lụa để đến Ấn Độ tu học. Huyền Trang chuẩn bị mọi thứ lên đường
mặc dù không được nhà Đường chấp nhận nhưng Huyền Trang vẫn lặng lẽ
chuẩn bị tư trang và rời khỏi Trường An. Huyền Trang bắt đầu cuộc hành trình
của mình khi đặt chân đến Lương Châu, Tấn Châu và ở lại đây hơn một tháng
giảng kinh cho các phật tử. Với tài năng thuyết phục của mình Huyền Trang đã
chiếm được nhiều tình cảm của cả các phật tử ngoại quốc cũng khâm phục và
ca tụng ông. Ông được nhiều phật tử thành tâm dâng vàng, bạc và nhiều sản vật
quý hiếm.
Lộ trình thỉnh chân kinh của Huyền Trang trải qua nhiều gian nan vất vả.
Nhà Đường bấy giờ vì những lý do xác đáng để bảo vệ anh ninh quốc gia nên
kiểm soát ra vào Tây Vực nghiêm ngặt. Để làm được điều này, nhà Đường cho
xây dựng hệ thống phong hỏa đài, mỗi phong hoả đài cách nhau một trăm dặm
là điểm tiếp tế nước ngọt duy nhất trên sa mạc, giúp bảo vệ biên cương, Huyền
Trang vượt qua hệ thống phong hỏa đài quả thực rất khó khăn mất nhiều thời
gian có lúc nguy hiểm tới cả tính mạng của mình. Với lòng kiên định quyết tâm
hướng tới chân lý có thời điểm ông một mình vượt qua sa mạc cũng không nản
lòng. Rồi cuối cùng Huyền Trang đã đến được các quốc gia Tây Vực, Huyền
Trang qua Y Ngô đến Cao Xương, Yên Xá, Quy Tư - những quốc gia sùng bái
Phật giáo.
Chính nhờ vậy, Huyền Trang được coi trọng, đi đến đâu cũng được giảng
kinh Niết Bàn và Bát Nhã phổ độ chúng sinh. Huyền Trang đến với Phạn ngữ
như một lẽ tự nhiên. Dời những tiểu quốc đó ông đến với Thiên trúc - đất Phật,
bắt đầu mười năm học ông đã đi nhiều nơi học tập được nhiều điều từ các phật
gia bậc thầy, Huyền Trang tu học dưới sự chỉ bảo của pháp sư Giới Hiền -
10
người tinh thông tam tạng kinh điển. Sau thời gian này tên tuổi của Huyền
Trang đã nổi tiếng khắp giới tăng ni Phật tử Ấn Độ.
Sau khi đã tinh thông phật pháp, Huyền Trang đã hồi hương khi ông 39
tuổi bắt tay vào dịch kinh điển phật giáo từ Phạn ngữ ra Hán tự rồi phổ biến
trong dân chúng. Đồng thời, thuật lại những gì tai nghe mắt thấy trên đường đi
từ địa lý, lịch sử tôn giáo và văn hóa Tây Vực trong vòng 18 năm, ra sách lịch
sử đầu tiên của các quốc gia Tây Vực mang tên “Đại Đường Tây Vực Ký”.
Huyền Trang đã làm tốt bổn phận của một pháp sư sùng đạo. Hơn nữa, ông là
người khẳng định lần nữa sự tồn tại của con đường tơ lụa.
Sau Huyền Trang là Khưu Xứ Cơ(1148-1227), ông sinh ra trong một gia
đình có hoàn cảnh khó khăn nhưng có ước mơ trở thành đạo sỹ. Từ thời thơ ấu
ông đã tự tìm hướng đi riêng cho bản thân mình. Ông đến ẩn cư 13 năm tại
Thiểm Tây sau thời gian này ông đến Yên Kinh được phong tước Cao Công
pháp sư. Trong thời gian đó nhà Nguyên đã thôn tính lần lượt các quốc gia
trung nguyên, Khưu Sứ Cơ miễn cưỡng nhận lời hội kiến Thành Cát Tư Hãn.
Tại đây hành trình mới bắt đầu, ông bắt đầu từ Oa Nhĩ Đóa cho xây dựng Hòa
An giảng đạo lý toàn ân giáo, mở đạo quán cho những vùng đất đã đi qua,
những mảnh đất Trung Á. Khưu Sứ Cơ đã được chứng kiến cảnh buôn bán
nhộn nhịp phong tục tập quán của cư dân Trung Á, ông đã quan sát rất tỉ mỉ và
những quan sát đó được thể hiện trong tác phẩm “Trường Xuân Chân Nhân
Tây Du Ký”. Cuối cùng, Khưu Xứ Cơ đã gặp Thành Cát Tư Hãn và kết thúc
chuyến viễn du ba năm ở Tây Á của mình.
Như vậy, sau khi Trương Khiên khai thông con đường tơ lụa, con đường lại
được Huyền Trang và Khưu Xứ Cơ cùng các thương nhân sau này phát triển.
1.1.2 Sự suy vong của con đƣờng tơ lụa trên bộ.
Sau một thời gian phát triển cường thịnh, đến thời Trung Đường con đường
tơ lụa trên bộ đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của sự suy thoái, hạn chế
ngày càng nhiều và không thể khắc phục.
Trước hết, con đường tơ lụa chỉ đi qua một số quốc gia nhất định. Nói cách
khác là nó phụ thuộc vào các quốc gia mà nó đi qua rất nhiều. Nếu một trong
11
những quốc gia, dân tộc mà nó đi qua xảy ra loạn lạc sẽ dẫn tới ngừng trệ hệ
thống giao thương. Trên thực tế, ở Trung và Tây Á là nơi con đường tơ lụa đi
qua dài nhất thường xuyên xảy ra biến loạn chiến tranh nên dẫn đến hạn chế
của con đường tơ lụa trên bộ. Những nước có con đường tơ lụa đi qua thường
khống chế các thương đoàn bằng cách đánh thuế nặng vào các mặt hàng. Đây
là một trong những nguyên nhân thúc đẩy tìm kiếm con đường tơ lụa khác.
Một lí do khác nữa là con đường tơ lụa nằm ở phía tây Trung Quốc cách xa
nội địa trong khi hàng hóa chủ yếu xuất phát từ phía đông. Việc vận chuyển
chính vì vậy mà trở nên bất tiện, hiệu quả kinh tế không cao, hàng hóa trở nên
đắt đỏ. Trong khi đó lộ trình con đường tơ lụa phải trải qua rất nhiều nguy hiểm
mà phương tiện vận chuyển lại chỉ có lạc đà với khối lượng hàng không nhiều
làm mất thời gian nên khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng thì chi phí, giá
thành cao là điều dễ hiểu.
Vì lí do trên mà ngành kinh tế thương nghiệp trung gian không phát triển
tương xứng trong khi nhu cầu tiêu thụ sản phẩm ngày càng cao, sản xuất ngày
càng phát triển.
Nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái của con đường tơ lụa trên bộ chính là
dấu gạch nối, chuyển tiếp đưa đến sự ra đời của con đường tơ lụa trên biển. Sự
khủng hoảng của nền chính trị Trung Quốc từ thế kỉ VIII, thậm chí là trước đó
nữa đã trở thành chướng ngại vật làm gián đoạn không nhỏ con đường tơ lụa
trên bộ.
Sự chuyển hướng từ đường bộ sang đường biển không phải diễn ra một
sớm một chiều mà nó là cả quá trình lâu dài. Cuối và sau nhà Đường, con
đường tơ lụa trên bộ vẫn tồn tại mặc dù gặp nhiều trở ngại do yếu tố khách
quan. Cũng trong khoảng thời gian này đánh dấu sự ra đời và phát triển của của
một con đường mới, con đường thương mại bằng đường biển với những ưu thế
vượt trội. Con đường này có tên là “Con đường tơ lụa trên biển”, đã thích ứng
được với nhu cầu phát triển của lịch sử kinh tế thương mại đương thời.
Con đường tơ lụa đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử. Tuy nhiên,
tiến trình của nó lại không hề đơn giản. Trương Khiên đã mất cả tuổi thanh
12
xuân hi sinh cho công cuộc khai thông con đường tơ lụa đầu tiên trong lịch sử.
Theo chân Trương Khiên đã có những con người tiếp tục phát quang, mở
đường phát triển con đường tơ lụa trên bộ, đưa con đường này trở thành một
trong những con đường lớn nhất mang ý nghĩa thương mại quốc tế đầu tiên trên
thế giới. Không dừng lại ở vai trò thương mại con đường tơ lụa là cầu nối giữa
các nền văn minh khác nhau, làm cho văn hóa Đông - Tây được hòa trộn, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong khi phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2. Con đƣờng tơ lụa trên biển
1.2.1 Sự hình thành và phát triển của con đƣờng tơ lụa trên biển
*Sự hình thành của con đƣờng tơ lụa trên biển
Trung Quốc là nước có đường bờ biển kéo dài hơn 14.500km. Ngay từ thời
cổ - trung đại đã xuất hiện những thành thị, cảng biển ở duyên hải phía Đông.
Đây là điều kiện tiên quyết để con đường tơ lụa trên biển được hình thành.
Vùng biển phía Đông Trung Quốc là khu vực có kĩ thuật đóng tàu và đi biển
phát triển. Lợi thế của việc sử dụng thuyền vận chuyển hàng hóa trên biển thay
cho lạc đà trên bộ là đảm bảo được tính an toàn và ổn định cao hơn, quá trình
vận chuyển thì chi phí thấp hơn.
Mặt khác, các chủng loại hàng hóa như: tơ lụa, gốm sứ, đồ đồng, đồ sơn
trà,… cũng rất phong phú, tập trung một lượng lớn ở duyên hải Đông Nam
Trung Quốc, nơi mà con đường tơ lụa trên bộ khởi nguồn. Từ rất sớm, ở Trung
Quốc đã có khá nhiều thành thị sầm uất như: Minh Châu (Triết Giang), Tuyền
Châu (Phúc Kiến), Quảng Châu (Quảng Đông), Tô Châu (Giang Tô),… Những
thành thị này chính là nơi tập kết hàng hóa phục vụ cho trao đổi, chuyên chở
giữa các thương lái, người dân. Đồng thời các thành thị này còn bị nhà nước
quản lí chặt chẽ nên đôi khi vai trò của nó bị hạn chế và chưa được phát huy hết
tác dụng.
Tuy rằng con đường tơ lụa trên bộ xuất hiện từ khoảng thế kỉ II - III TCN
nhưng thực chất, con đường tơ lụa trên biển có lịch sử lâu đời hơn. Thời nhà
Hán, các hoạt động hàng hải đầu tiên đã xuất hiện. Con đường tơ lụa trên biển
thời Hán là tuyến đường thương mại biển sớm nhất của Trung Quốc. Đến thời
13
Tây Hán, Trung Quốc đã hoàn toàn thống nhất về mặt chính trị, nền kinh tế
vững mạnh, đó là tiền đề quan trọng cho việc giao lưu phát triển kinh tế - văn
hóa với các nước. Cùng với sự hình thành của con đường tơ lụa qua Tây Vực,
nhà Hán nỗ lực khai thông tuyến đường biển nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng của
vương triều Hán ra bên ngoài. Vậy nên tơ lụa Trung Quốc đã được vận chuyển
ra nước ngoài bằng đường biển từ thời nhà Hán, song đó mới chỉ là hoạt động
“tư doanh”, mang tính chất dân gian, triều đình chưa chỉ đạo trực tiếp và kiểm
soát gắt gao. Do đó hàng tơ lụa tuyệt đẹp của Trung Quốc ngày càng trở nên
hấp dẫn đối với nước ngoài. Các nước từ khu vực Đông Nam Á, Nam Á cho
đến Tây Á, châu Âu lần lượt phái sứ đoàn vượt biển đến bang giao với Trung
Quốc. Thực tế con đường tơ lụa trên biển thời Hán phát triển thành “Con
đường sứ giả”, “Con đường hữu nghị”.
Cho đến cuối thế kỉ VIII, con đường tơ lụa trên biển có những đột phá mới
trở thành ưu thế của con đường này: Thứ nhất, với những lợi thế về đường bờ
biển thành thị ven biển, hàng hóa đa dạng, thương thuyền lớn nhỏ,…Thứ hai,
ngay từ thời cổ đại, các hoạt động giao thương ở các cảng biển và thành thị
Trung Quốc diễn ra để lại hệ quả là nhiều thương nhân Ba Tư, Ả Rập di chuyển
đến làm ăn, sinh sống ở vùng duyên hải phía Đông này. Hơn nữa, Hoa Kiều
cũng di dân đến sinh sống và làm ăn ở nước ngoài ngày càng nhiều, đông nhất
là ở Mã Lai, Inđônêxia (Đông Nam Á). Thứ ba, Con đường tơ lụa trên bộ
không còn hoạt động như trước được nữa. Sau nhiều năm chiến tranh tàn phá
thì kinh tế lưu vực Hoàng Hà giảm sút nghiêm trọng. Thay vào đó thì lưu vực
Trường Giang lại phát triển không ngừng. Nền kinh tế Trung Quốc dần chuyển
dịch từ phía Bắc xuống phía Nam, chính là vùng mà Trung Quốc tiếp xúc với
khu vực Đông Nam Á, gần với Nam Á, thuận lợi hơn trong việc di chuyển
hàng hóa, các hoạt động trao đổi đường biển diễn ra tiện lợi hơn. Thứ tư, sự đa
dạng về chủng loại các mặt hàng buôn bán ở con đường tơ lụa trên biển. Ngoài
tơ lụa thì gốm sứ, hương liệu và gia vị là những mặt hàng có số lượng lớn được
trao đổi buôn bán. Nếu như trước kia khi vận chuyển gốm sứ bằng con đường
tơ lụa trên bộ với lộ trình rừng núi, sa mạc hiểm trở làm cho đồ gốm sứ dễ vỡ
14
và hư hỏng. Nay vận chuyển bằng thuyền, đi dưới sóng nước bồng bềnh đã hạn
chế sự va chạm giữa các sản phẩm, bảo đảm được chất lượng sản phẩm. Vì lẽ
đó mà có không ít học giả cho rằng nên gọi “Con đường tơ lụa” trên biển là
“Con đường tơ gốm”, “Con đường hương liệu gia vị”,… Thứ năm, quan hệ
ngoại giao của Trung Quốc với các nước ngày càng được đẩy mạnh, tăng
cường chính nhờ sự xuất hiện của con đường tơ lụa trên biển này. Trong đó,
giao lưu kinh tế - văn hóa giữa Trung Quốc và các nước gần gũi về mặt địa lí
càng có điều kiện phát triển, ví dụ như Triều Tiên, Nhật Bản ở Đông Á; Việt
Nam, Thái Lan, Inđônêxia,… ở Đông Nam Á; Ấn Độ, XriLanca ở Nam Á,
thậm chí con đường giao lưu kinh tế - văn hóa của Trung Quốc còn tới tận bờ
Đông của lục địa Phi, đến tận châu lục xa xôi là châu Âu.
Những ưu thế vượt trội của tuyến đường biển đã tạo điều kiện cho Trung
Quốc có thể giao lưu và dung hợp kinh tế văn hóa với nhiều quốc gia trên thế giới.
Con đường trở thành “cây cầu” kết nối văn minh phương Đông với văn minh
phương Tây, trở thành “cánh cửa” mở rộng, liên kết văn minh, văn hóa toàn cầu.
Thời Đông Tấn (thế kỉ V ), nhà sư Pháp Hiển từ Ấn Độ đến XriLanca, sau
đó trở về nước (Trung Quốc) bằng đường biển. Những ghi chép sinh động của
ông trong “Phật quốc kí” (còn gọi là Pháp Hiển truyện) đã miêu tả chi tiết tuyến
hàng hải từ XriLanca qua Giava và cuối cùng là qua vùng Sơn Đông (Trung
Quốc). “Đây là chuyến đi mang tính lịch sử” vì đã khai thông con đường giao
thông biển từ biển Đông đến Ấn Độ Dương qua các eo biển ở khu vực Đông Nam
Á hải đảo. Do đó cột mốc đánh dấu sự hình thành con đường tơ lụa trên biển là
sau chuyến trở về bằng đường biển của nhà sư Pháp Hiển” [3;125].
Hơn nửa đời người, nhà sư Pháp Hiển đã sống cùng với đạo Phật, tu thân ở
thành Trường An, nơi Phật giáo phát triển mạnh mẽ. Năm 65 tuổi, ông quyết
định đến Ấn Độ - quê hương Phật giáo với mục đích tu học và cầu chân kinh.
Thực tế khi đó cho thấy, các Phật tử ở Trung Quốc cần có những bộ kinh có
tính chất giáo lí sâu sắc để tu hành, song trong “Tam Tạng Kinh” cơ bản của
Phật giáo Luật Tạng còn thiếu nhiều. Do đó ông quyết tâm sang Ấn Độ để điền
khuyết phần còn lại của Luật Tạng ấy.
15
Theo dấu chân của thương nhân các nước trên con đường tơ lụa, nhà sư
Pháp Hiển đã tìm đường đến Ấn Độ. Đây là một chuyến đi nhiều khó khăn, thử
thách, nguy hiểm. Ông cùng với những nhà sư khác đã đi qua sa mạc, núi cao,
hẻm vực, những nơi đi qua đều khắc nghiệt về khí hậu và rất ít bóng người.
Bằng sự nỗ lực thì cuối cùng ông và những người đồng hành đã tới được nơi
cần tới. Ở Ấn Độ, tại đây ông tu học hơn 10 năm, kết hợp việc sưu tập các kinh
điển về Luật tạng. Sau đó ông tới Tích Lan XriLanca và quyết định trở về quê
hương theo dấu chân của các thương nhân những không phải trên bộ mà là
bằng đường biển. Khoảng thời gian lênh đênh trên biển với các tàu buôn, cũng
là khoảng thời gian khá dài đối với nhà sư Pháp Hiển. Phải đối mặt với bão
biển, sóng gió, con đường biển mà ông lựa chọn cũng không hề dễ dàng so với
con đường bộ mà em đã đi qua. Từ Ấn Độ, ông xuôi xuống phía Nam tới
XriLanca rồi từ đó đi chếch hướng Đông Nam, vòng qua eo biển thuộc khu vực
Inđônêxia ngày nay. Quãng đường thứ ba được tiếp tục từ eo biển đó nhằm
thẳng hướng Đông Bắc và kết thúc ở Sơn Đông (Trung Quốc) vào năm 415.
Lúc đó ông 80 tuổi.
Chuyến đi xuất phát từ nguyện vọng thỉnh chân kinh, nhà sư Pháp Hiển đã
vượt qua bao khó khăn nguy hiểm tới được Ấn Độ. Sau khi tu học, ông đã trở
về quê hương, chuyến đi của ông không chỉ thành công về mặt tôn giáo, ước
mong thỉnh kinh và sau đó là phổ độ chúng sinh được toại nguyện và chuyến đi
của ông còn mở đường cho con đường thương mại trên biển từ Ấn Độ đến
Trung Quốc. Với thành công trên con đường biển trở về quê hương, nhà sư
Pháp Hiển đã tạo hi vọng cho sự phát triển của con đường tơ lụa trên biển.
Đánh giá về chuyến đi này thì “nó không đơn giản mang lại ánh sáng Phật
pháp cho chúng sinh ở Trung Quốc mà nó còn là chuyến đi mang ý nghĩa mở
đường cho sự giao lưu, mở rộng quan hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia
trong khu vực bằng đường biển” [3;132].
* Sự phát triển của con đƣờng tơ lụa trên biển
Vào thời nhà Minh, ngành hàng hải và thương mại biển Trung Quốc đã
được mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Người có công lớn trong việc thúc đẩy sự
16
phát triển của ngành thương mại biển Trung Quốc cũng như thúc đẩy con đường
tơ lụa trên biển phát triển đến mức cực thịnh chính là Tam Bảo thái giám Trịnh
Hòa.
Trịnh Hòa (1371-1433) là người dân tộc Hồi, quê ở huyện Côn Dương, tỉnh
Vân Nam (nay thuộc huyện Phổ Ninh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc). Ông là một
tín đồ Hồi giáo vốn mang họ Mã. Năm lên 10 tuổi được tướng quân họ Phổ đưa
vào quân đội, sau đó ông bị “tịnh thân” được đưa vào làm gia nô trong phủ Yến
Vương. Yến Vương Chu Đệ rất hài lòng về Trịnh Hòa vì ông thông minh lại
chăm chỉ làm việc.
Năm 1398, Minh Thái Tổ băng hà, cháu đích tôn là Chu Duẩn Văn lên
ngôi, Yến Vương Chu Đệ khi đó đã dấy binh chống lại triều đình. Năm 1402,
Chu Đệ chiếm được Nam Kinh - kinh đô nhà Minh rồi lên ngôi Hoàng đế, đặt
niên hiệu là Vĩnh Lạc (tức vua Minh Thành Tổ - vị vua nổi tiếng nhà Minh
trong lịch sử phong kiến Trung Quốc). Nhờ những đóng góp và có công phù tá
nên Trịnh Hòa (Mã Hòa) được đề bạt làm thái giám, được ban họ Trịnh và
được gọi là Tam Bảo thái giám. Trịnh Hòa là người thân cận nhất mà Minh
Thành Tổ tin tưởng giao phó trọng trách lớn sau này.
Từ năm 1405-1433, Trịnh Hòa vâng lệnh triều đình nhà Minh bảy lần xuất
dương với hải đoàn hùng hậu gồm 200 bảo thuyền lớn nhỏ, 27000 người, đi từ
Đông sang Tây, từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, đi qua hơn 30 quốc
gia trên suốt hải trình. “Chuyến đi lịch sử này của Trịnh Hòa đã đưa lịch sử
hàng hải Trung Quốc sang một trang mới, đồng thời thúc đẩy con đường biển
phát triển đến cực thịnh” [3;175]. Nhưng để tiến hành những chuyến đi dài
ngày với lực lượng lớn như vậy thì cần có điều kiện khách quan thuận lợi, yêu
cầu tiên quyết là phải có tiềm lực về kinh tế. Sau khi Minh Thái Tổ (Chu
Nguyên Chương) thống nhất đất nước lên ngôi Hoàng đế, ông đã ban hành
những biện pháp khôi phục kinh tế, trong đó lấy phát triển kinh tế nông nghiệp
làm trọng điểm. Nhờ vậy mà xã hội đương thời Trung Quốc no đủ, thái bình và
vươn đến cực thịnh vào thời Minh Thành Tổ trị vì. Hàng hóa dồi dào thì nhu
cầu trao đổi, mậu dịch cũng tăng, phạm vi buôn bán trong nước và ngoài nước
17
mở rộng. Thứ nữa là kĩ thuật hàng hải và bản đồ hàng hải của Trịnh Hòa xuất
hiện những tuyến hàng hải được ghi chép, đánh dấu, tấm hải đồ này đã sử dụng
phép vẽ đồ thị và nhiều kí hiệu khác nhau để thế hiện hình thế bờ biển. Được
biết các chuyến hàng hải của Trịnh Hòa đã bắt đầu sử dụng các kĩ thuật quan
sát thiên văn để xác định phương hướng: “Thiên Tinh bản” (bản đồ các vì sao)
được dùng để đo độ cao các thiên thể. Khi điều kiện kinh tế cho phép, chuyến
đi của Trịnh Hòa được khởi hành và được tính toán hải lộ rõ ràng.
Sau bảy chuyến xuất dương , Trịnh Hòa mang trọng bệnh và vì tuổi cao
nên không lâu sau ông qua đời. Những gì Trịnh Hòa đã làm được, lịch sử hàng
hải Trung Quốc nói riêng và lịch sử hàng hải nhân loại nói chung đều đã công
nhận. Tài năng và công sức của ông được thừa nhận, công lao lớn nhất mà
Trịnh Hòa đã làm được là thúc đẩy sự phát triển của con đường tơ lụa trên biển,
trên nhiều lĩnh vực.
1.2.2 Sự suy vong của con đƣờng tơ lụa trên biển
Những nghiên cứu nêu trên đã chỉ ra rằng: cột mốc đánh dấu sự hình thành
của con đường tơ lụa trên biển là sau chuyến trở về quê hương bằng đường
biển của nhà sư Pháp Hiển. Có giả thuyết lại cho rằng con đường này có lịch sử
tồn tại trước đó rất lâu, từ thời nhà Chu (thế kỉ XI TCN) hay từ thời nhà Tần,
khi Tần Thủy Hoàng cho người sang Triều Tiên, Nhật Bản truyền bá kĩ thuật
dệt tơ lụa. Theo Hán thư, Địa lí chí hạ thì thời Tây Hán đã có thuyền bè Trung
Quốc lui xuống phía Nam, tới Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia và cả
Miến Điện, Ấn Độ, những thuyền bè lúc bấy giờ vẫn còn lệ thuộc vào eo đất
Kra (Mã Lai). Đến thời Tam Quốc, các địa phương vùng ven biển phía Đông
đã có kĩ thuật đóng tàu và đi biển rất phong phú, những chuyến đi sứ tới Đông
Nam Á của nhiều quan lại Trung Quốc bằng đường biển càng làm tuyến đường
này có giá trị và trở nên gần gũi hơn. Tuy vậy, tất cả những giả thuyết, những
biểu hiện trên chỉ cho ta thấy nét định hình của con đường tơ lụa trên biển mà
thôi; mọi hoạt động giao thương vẫn chưa liền mạch trên biển, việc mua bán
trên con đường tơ lụa trên bộ vẫn chiếm phần đa. Điều kiện tiên quyết cho
những chuyến đi biển là tàu thuyền. Kĩ thuật đóng tàu tuy phát triển mạnh mẽ
18
nhưng chủ yếu phục vụ trong chiến tranh (sản xuất thuyền chiến) nên các
thương thuyền vẫn chưa được trang bị hoàn hảo. Hải trình từ Trung Quốc đã
đến với nhiều vùng đất hơn: lên hướng Đông Bắc là Triều Tiên, Nhật Bản,
xuống phương Nam là Đông Nam Á, Nam Á rộng lớn.
Sự hình thành con đường tơ lụa trên biển thực đã mang nhiều yếu tố (chính
trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa); nó có cả một quá trình dài định hình từ thế kỉ
V đến thế kỉ VII cho tới khi nhà sư Pháp Hiển thực hiện chuyến đi mang tính
lịch sử từ Ấn Độ về Trung Quốc mới chính thức khai thông con đường thương
mại, giao thông biển Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương.
Con đường tơ lụa trên biển từ khi hình thành và phát triển có những thay
đổi qua các triều đại Trung Quốc.
Qua mỗi triều đại, mỗi chặng đường lịch sử, con đường tơ lụa lại có
bước phát triển vượt bậc. Xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa, phạm vi
hoạt động thương mại của Trung Quốc ngày càng mở rộng, hai tuyến hàng
hải chính đó là:
“ Tuyến hàng hải phía Đông Bắc: các cảng quan trọng là Đăng Châu,
Thái Châu, Dương Châu, Sở Châu, Tô Châu, Minh Châu - hướng đi đến Triều
Tiên và Nhật Bản.
Tuyến hàng hải phía Nam xuất phát từ Tuyền Châu (Phúc Kiến), Quản
Châu đi từ Trung Quốc tới khu vực Đông Nam Á, Nam Á, Tây Nam Á và Đông
Phi” [3;130]. Như vậy, “giai đoạn phát triển” của con đường tơ lụa trên biển là
từ thời nhà Tùy, nhà Đường đến thời nhà Tống, nhà Minh đã “phát triển đỉnh
cao”. Sự phát triển đó hợp với quy luật chung của lịch sử, hợp với tiến trình
phát triển của xã hội loài người.
Trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển, con đường tơ lụa
trên biển đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển kinh tế thế
giới. Không chỉ là huyết mạch giao thông Đông - Tây, con đường này còn là
sợi dây kết nối văn hóa của các quốc gia, khu vực lại với nhau. Đến thế kỉ XVI,
xuất hiện mầm mống tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc; nền kinh tế hàng hóa
phát triển nhưng chính sách “bế quan tỏa cảng” của triều đình phong kiến
19
Trung Quốc đã khống chế sự phát triển này và khiến tuyến đường biển Đông -
Tây không còn hoạt động thông suốt nữa. Dù vậy, con đường tơ lụa trên biển
vẫn là một bộ phận của con đường tơ lụa nổi tiếng thế giới, sự hình thành trong
điều kiện con đường tơ lụa trên bộ đi vào bế tắc, sự suy vong khi các cuộc phát
kiến địa lí của các nhà hàng hải phương Tây xuất hiện là một xu thế lịch sử.
Nhìn nhận một cách tổng quan sẽ thấy rằng, con đường tơ lụa trên biển có
nhiều điểm tích cực và có nhiều đóng góp lớn cho kinh tế, văn hóa thế giới.
Con đường tơ lụa trên biển mãi là con đường giao thương truyền thống, có lịch
sử lâu đời và ý nghĩa quan trọng đã được chính lịch sử chứng minh, thừa nhận.
20
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA
ĐỐI VỚI CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ VĂN HÓA - XÃ HỘI
THỜI ĐƢỜNG (618-907) Ở TRUNG QUỐC
2.1 Về chính trị
Con đường tơ lụa hình thành đã có những đóng to lớn cho sự phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội trên thế giới. Một trong những vai trò quan trọng trước
tiên là vai trò chính trị. Chính trị là lĩnh vực quan trọng song hành với kinh tế -
văn hóa
trong sự tồn tại của một quốc gia hay nói cách khác là để thể hiện vị thế quốc gia
đó, nó là khía cạnh không thể đánh giá thấp.
Trước khi con đường tơ lụa hình thành, vì điều kiện địa lí mà chưa có sự
liên lạc một cách hệ thống giữa các quốc gia với nhau. Sau này, con đường tơ
lụa trở thành con đường liên lạc chủ yếu giữa các quốc gia trên lộ trình mà nó
đi qua. Vậy nên, chế độ chính trị của các quốc gia này đã bị chi phối bởi con
đường tơ lụa. Cụ thể là khi hình thành nền chính trị của nước mình, các quốc
gia trên con đường tơ lụa đều có sự học hỏi lẫn nhau.
Con đường tơ lụa từ khi hình thành đã chi phối mạnh mẽ đến từng quốc gia
mà nó đã đi qua và nền chính trị thế giới sau này.
Đối với Trung Quốc, con đường tơ lụa hình thành đã giúp Trung Quốc đặt
quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, trước hết là ở khu vực Tây Á, Trung Á,
Đông Nam Á, Đông Á, Nam Á, sau đến Đông Phi và tận Châu Âu. Qua những
chuyến đi sứ của các nhà ngoại giao (Trương Khiên, Trịnh Hòa…), con đường
tơ lụa không chỉ giúp Trung Quốc mở mang những hiểu biết về các nước trong
khu vực và trên thế giới mà còn thiết lập mối quan hệ hữu hảo với các nước.
Nhờ sự giao lưu kinh tế trên con đường tơ lụa mà Trung Quốc đã trở nên hùng
mạnh, dần dần có tham vọng thôn tính các nước xung quanh nhằm mở rộng
lãnh thổ. Nếu như thời cổ đại, lãnh thổ Trung Quốc chỉ giới hạn ở lưu vực sông
Hoàng Hà ở phía Bắc thì giờ đây, khi con đường tơ lụa trên bộ và trên biển
hình thành và phát triển, người Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp để
21
mở rộng hơn nữa đường biên giới xuống phía Nam và sang phía Tây. Đặc biệt
là thôn tính nhiều tiểu quốc ở Tây Vực. Bấy giờ, Trung Quốc đã có hệ thống các
nước chư hầu thuần phục. Hằng năm, các nước chư hầu cử đoàn sứ giả mang
theo lượng vật phẩm đáng kể là các sản vật quý hiếm, ngọc ngà, châu báu của
địa phương mình đến cống nạp cho triều đình phong kiến Trung Quốc, làm
Trung Quốc ngày càng có vị thế cao. Nhờ con đường tơ lụa, Trung Quốc đã
trở thành quốc gia có lãnh thổ rộng lớn, nền chính trị hùng mạnh. Chế độ
phong kiến Trung Hoa là chế độ chính trị phong kiến tiêu biểu đại diện cho
phương Đông.
Ở thời Đường, nền chính trị không rời khỏi những quy luật đó mà còn là
thời kì lịch sử thể hiện rõ ràng vai trò của con đường tơ lụa trong lĩnh vực này.
Trước tiên là thống nhất lãnh thổ lập nên triều đại mới, sau khi Tùy Dưỡng
Đế dời kinh đô, năm 617, một viên quan của triều Tùy là Lý Uyên cùng con
mình là Lý Thế Dân khởi binh ở Thái Nguyên (Sơn Tây). Cuối năm đó Lý
Uyên đem quân tiến vào Trường An, lập cháu của Dưỡng Đế là Dương Hựu
làm vua bù nhìn, Lý Uyên làm Thừa tướng. Năm 618, Lý Uyên buộc Dương
Hựu phải thoái vị, tự mình lên làm Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đường. Tiếp đó
triều Đường cũng như các triều đại từ trước tập trung tiêu diệt lực lượng còn lại
của triều Tùy các lực lượng của quần chúng nhân dân. Lúc bấy giờ ở Lạc
Dương, triều Tùy còn lực lượng do Vương Thế Sung cầm đầu. Lực lượng của
nông dân của Lý Mật và Đậu Kiến Đức biến thành những thành những tập
đoàn quân phiệt. Năm 620 Lý Thế Dân đem quân tấn công Vương Thế Sung
sau đó quy hàng những thế lực phản loạn đến năm 628 triều Đường tiêu diệt
nốt các thế lực cát cứ của Lương Sử Đô ở Thiểm Tây, Trung Quốc hoàn toàn
thống nhất.
Đến đời Đường Thái Tông, Trung Quốc bước vào thời kì thống nhất ổn
định. Với những hiểu biết khách quan từ trước về địa lí lịch sử theo chân con
đường hình thành từ trước mà nhà Đường tiến hành nhiều cuộc tấn công xâm
lược các nước xung quanh.