Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

vận dụng sáng tạo, linh hoạt một số phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài học khi dạy học phần lịch sử việt nam từ năm 1930 đến năm 1954, lớp 12 thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.34 KB, 69 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này cùng với nỗ lực của bản thân, tôi còn được
sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo Chu Mai Hương. Ngoài ra tôi cũng
đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Sử - Địa, các cán bộ
thư viện của trường đại học Tây Bắc cũng như của gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô Chu
Mai Hương – Giảng viên khoa Sử - Địa cũng như toàn thể thầy cô trong khoa Sử
- Địa trường đại học Tây Bắc.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng thư viện trường đại học
Tây Bắc, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này.

Sơn La, tháng 5 năm 2014
Tác giả
Lưu Thị Nguyệt










MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3


3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu và đóng góp của đề tài 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu 5
3.3. Mục đích nghiên cứu 5
3.4. Đóng góp của đề tài 5
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5
4.1. Cơ sở phương pháp luận 5
4.2. Phương pháp nghiên cứu 6
5. Cấu trúc khóa luận 6
NỘI DUNG 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 7
1.1. Cơ sở lý luận 7
1.1.1. Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông 7
1.1.1.1. Vị trí, vai trò của bộ môn 7
1.1.1.2. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông 7
1.1.2. Hệ thống phương pháp dạy học lịch sử 10
1.1.3. Hiệu quả bài học lịch sử 13
1.1.4. Nguyên tắc vận dụng sáng tạo, linh hoạt một số phương pháp dạy học 15
1.2. Cơ sở thực tiễn 18
CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG SÁNG TẠO, LINH HOẠT MỘT SỐ PHƢƠNG
PHÁP NHẰM NÂNG CAO HỆU QUẢ BÀI HỌC KHI DẠY HỌC PHẦN
LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1954, LỚP 12 THPT 24
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930
đến năm 1954 24
2.1.1. Vị trí 24
2.1.2. Mục tiêu 25
2.1.3. Nội dung 26
2.2. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo một số phương pháp dạy học lịch sử nhằm
nâng cao hiệu quả bài học bài học 28
2.2.1. Sử dụng nguyên tắc dạy học liên môn nhằm nâng cao hiệu quả bài học

lịch sử 28
2.2.2. Sử dụng nguyên tắc dạy học nêu vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả bài học
lịch sử 35
2.2.2.1. Giáo viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề 36
2.2.2.2. Nêu vấn đề 38
2.2.2.3. Tổ chức hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề 38
2.2.3. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để nâng cao hiệu quả bài học lịch
sử 42
2.2.3.1. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực 42
2.2.3.2. Ý nghĩa của phương pháp dạy học tích cực 43
2.2.3.3. Một số phương pháp dạy học tích cực 43
KẾT LUẬN 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong chiến lược phát triển đất nước Đảng và Nhà nước ta bắt đầu quan
tâm đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X đã xác định việc đầu tư cho giáo dục cũng có nghĩa là đầu
tư cho sự phát triển bền vững, là đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng cao
nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đội ngũ trí thức giữ vị trí rất quan trọng. Đây chính là yếu
tố then chốt, mang tính quyết định đưa đất nước đi lên như cha ông ta đã từng
nói: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh,
nguyên khí yếu thì nước suy”.
Nền giáo dục Việt Nam hiện nay, bên cạnh những thành tựu đạt được còn
khá nhiều điều bất cập, trong đó tồn tại lớn nhất tập trung vào chất lượng đào tạo

chưa cao. Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, phương pháp giảng dạy khoa học, phù
hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và người học phát huy hết khả năng của mình
trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy cho người học.
Nhiều chuyên gia, nhà khoa học, những người có tâm huyết với sự nghiệp giáo
dục đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn tới chất lượng đào tạo giảm sút đó là: Sự
yếu kém, bất hợp lí trong phương pháp dạy học; đội ngũ giáo viên chưa nhận
thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp nhận
cơ sở khoa học lí luận về phương pháp dạy học mà còn tiến hành giảng dạy theo
kinh nghiệm chủ nghĩa, hay do chương trình học, tài liệu học tập,…Để có một
phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và học
sinh phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và
phát triển tư duy. Một phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi vai trò
của người thầy, đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê sáng tạo của người học.
Bức tranh chung về phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông hiện nay
là tập trung vào kỹ năng tư duy phân tích, nghĩa là dạy cho người học cách hiểu

2
các khái niệm, thảo luận theo phương pháp định sẵn, loại bỏ những hướng di
không đúng, tìm ra câu trả lời đúng nhất. Thậm chí, nhiều nơi phương pháp
thuyết trình (thầy giảng - trò ghi) vẫn chiếm ưu thế, nhiều giáo viên chưa chú
trọng đến việc giới thiệu, yêu cầu, bắt buộc người học phải tham khảo nhiều tài
liệu, phương pháp giảng dạy này đã làm mất đi một hình thức khác của tư duy
đó là tư duy sáng tạo. Tư duy sáng tạo tập trung vào khám phá các ý tưởng phát
triển thành nhiều giải pháp, tìm ra nhiều phương án trả lời đúng thay vì chỉ có
một phương án.
Hậu quả của phương pháp giảng dạy cũ dẫn đến sự thụ động của người
học trong việc tiếp cận tri thức, sự thụ động này là nguyên nhân tạo cho người
học sự trì truệ, ngại đọc sách, ngại tranh luận, thiếu khả năng thuyết trình, lười
tư duy và thiếu tính sáng tạo trong tư duy khoa học. Người học còn quan niệm

rằng: “Chỉ cần học những gì giáo viên giảng trên lớp là đủ”. Ngoài ra, sự thụ
động của họ đối với bài giảng của giáo viên trên lớp là họ chấp nhận tất cả
những gì giáo viên trình bày, sự giao tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu
như chỉ mang tính một chiều.
Môn học lịch sử ở trường phổ thông cũng vậy không nằm lệch khỏi quỹ
đạo đó. Mặc dù phương pháp dạy học lịch sử đã được chú trọng đổi mới, cải tiến
nhiều nhưng nhìn chung vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp
ứng yêu cầu đào tạo, có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu này là một trong
những trở ngại của việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Yêu cầu thực tiễn
là phải đổi mới phương pháp để nâng cao trình độ hiểu biết của giáo viên, người
giáo viên có vai trò trở thành nhân tố kích thích trí tò mò của học sinh, mài sắc
thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến
thức và khả năng sáng tạo.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử nói
chung, nâng cao hiệu quả dạy học từng khóa trình, từng chương, từng bài cụ thể.
Đó chính là lý do chúng tôi chọn đề tài Vận dụng sáng tạo, linh hoạt một số
phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài học khi dạy học phần lịch sử Việt
Nam từ năm 1930 đến năm 1954, lớp 12 THPT.

3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tiến sĩ N. G. Đairi, trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?”
NXBGD, Hà Nội, 1973, nhà giáo dục Liên Xô cũ đã giành hẳn một mục lớn nói
về tính hiệu quả của một giờ học, một bài học lịch sử. Ông cho rằng: “Hiệu quả
bài học lịch sử là vấn đề mấu chốt, có thể coi là mục tiêu quan trọng của việc
dạy học”.
Tác giả T. A. Ilina trong cuốn “Giáo dục học” tập 2, NXBGD, Hà Nội,
1979 đã nêu ra quan niệm về tính hiệu quả trong dạy học nói chung “Khi học tập
mỗi môn, học sinh sẽ lĩnh hội được một số kiến thức và rèn luyện được một số
kỹ năng, kỹ xảo nhất định có liên quan đến lĩnh vực ấy”. Qua đó ông đã nêu ra

phương pháp luận về tính hiệu quả của một môn học.
Tác giả I. F. Kharlamop trong công trình “Phát triển tính tích cực học tập
của học sinh như thế nào?”, NXBGD, 1977 đã phần nào đề cập đến hiệu quả
bài học lịch sử. Ông khẳng định: “Để nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử, yêu cầu
đối với giáo viên là phải gây hứng thú học tập cho học sinh”.
Các nhà giáo dục lịch sử ở Việt Nam như Phan Ngọc Liên (chủ biên),
Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi trong cuốn “phương pháp dạy học lịch sử”
tập 1, NXB ĐHSP, 2009 xác định phương pháp dạy học theo hướng “khuyến
khích tự học”, “áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Tác giả đã đưa
phần III về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học từng bước vận
dụng linh hoạt các phương pháp vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và
thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.
Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi trong cuốn
“phương pháp dạy học lịch sử” tập 2, NXB ĐHSP, 2002 tác giả chỉ ra mối quan
hệ giữa phương pháp dạy học với con đường, biện pháp và thao tác sư phạm
trong dạy học lịch sử. Một phương pháp khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để
học sinh phát huy hết khả năng của mình trong việc lĩnh hội kiến thức, phát triển
tư duy góp phần nâng cao hiệu quả bài học.

4
Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Trần Quốc Tuấn, Trần Đức Minh trong
cuốn “Các hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở” (Giáo
trình Cao đẳng sư phạm), 2004 nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức
cơ bản về hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Các tác giả
đã dành phần chương I trình bày những yêu cầu đối với một bài học lịch sử,
đặc biệt đã dành hẳn mục VI đưa ra quan niệm về hiệu quả bài học lịch sử và
con đường nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Qua đó, giúp sinh viên hiểu rõ
việc đánh giá hiệu quả và vận dụng các phương pháp dạy học nhằm nâng cao

hiệu quả bài học lịch sử.
Phạm Ngọc Liên, Nguyễn Phúc trong cuốn “Phương pháp dạy môn Lịch
sử ở trường phổ thông cấp II”, NXBGD Hà Nội, 1973 đã nêu lên những hạn chế
của việc giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông trong thời gian qua. Qua
đó, các tác giả đi đến khẳng định: “Nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử về mặt lý
luận cũng như thực tiễn không phải là một vấn đề mới, nhưng không có nghĩa là
không còn những vấn đề phức tạp cần được tiếp tục nghiên cứu giải quyết”.
Nguyễn Anh Dũng, Trần Vĩnh Tường trong cuốn “Những vấn đề chung
về bộ môn phương pháp dạy học lịch sử ở Cao đẳng sư phạm”, NXB ĐHSP,
2003 đã giành phần lớn nội dung bài viết bàn về hiệu quả dạy học lịch sử, hiệu
quả bài học lịch sử trong học tập và giảng dạy bộ môn ở nhà trường phổ thông.
Các tác giả nêu lên một số phương pháp cho sinh viên áp dụng, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả dạy học lịch sử.
Ngoài ra vấn đề này còn được đề cập qua nhiều tài liệu khác đăng tải trên
các tạp chí nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch sử, thông tin khoa học, mạng
Internet, các luận văn cao học, khóa luận tốt nghiệp sinh viên,… Tất cả đều
khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng các phương pháp dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả bài học cho học sinh.
Tuy nhiên, những tài liệu trên mới chỉ đề cập một cách khái quát về lý
luận dạy học nói chung, khái quát, chưa có một tài liệu nào hướng dẫn cụ thể về
việc sử dụng các phương pháp trong dạy học để nâng cao chất lượng, hiệu quả
môn lịch sử ở trường phổ thông hoặc chưa giải quyết một cách thỏa đáng, đặc

5
biệt là vận dụng các phương pháp cụ thể để áp dụng vào từng bài, từng chương
hay cả một khóa trình. Đó cũng chính là nhiệm vụ mà đề tài này muốn góp một
phần nhỏ vào giải quyết một vấn đề quan trọng của lý luận dạy học, ứng dụng
vào thực tiễn dạy học ở các trường phổ thông.
3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu và đóng góp của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Quá trình dạy và học lịch sử ở trường phổ thông, đặc biệt là dạy học phần
lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1954, lớp 12 THPT
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện về mặt thời gian cũng như trình độ của bản thân có hạn, đề
tài chỉ giới hạn ở việc đề xuất vận dụng sáng tạo, linh hoạt một số phương pháp
dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ năm
1930 đến năm 1954, lớp 12 THPT.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lí luận phương pháp dạy học lịch sử, đề tài đi sâu vào nghiên
cứu một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học cho học sinh
khi dạy học phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1954.
3.4. Đóng góp của đề tài
Hoàn thành khóa luận góp phần.
+ Nâng cao nhận thức đúng về hiệu quả bài học lịch sử, biết vận dụng sáng
tạo, linh hoạt một số phương pháp trong dạy học lịch sử nói chung góp phần
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
+ Làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên, học sinh ở các trường
phổ thông.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và giáo dục
lịch sử.


6
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp khoa học chung: Nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng
hợp, so sánh, khái quát hóa,… Đề tài còn sử dụng hai phương pháp nghiên cứu
chủ đạo đó là phương pháp điều tra và phương pháp thực nghiệm.

5. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung khóa luận gồm hai chương:
Chương I : Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương II: Vận dụng sáng tạo, linh hoạt một số phương pháp trong dạy học
nhằm nâng cao hiệu quả bài học khi dạy học phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930
đến năm 1954, lớp 12 THPT










7
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN


1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông
1.1.1.1. Vị trí, vai trò của bộ môn
Lịch sử là một trong những môn khoa học cơ bản được đưa vào giảng dạy
ở nhà trường phổ thông. Về mặt lý luận và thực tiễn nó đã được thừa nhận là
môn khoa học góp phần quan trọng vào việc hoàn thành mục tiêu giáo dục phổ
thông, đặc biệt có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Tec Musiepxki từng nói:
“Có thể không biết, không say mê toán học, tiếng Hi Lạp hoặc chữ Latinh, hóa

học, có thể không biết hàng ngàn môn học khác, nhưng dù sao đã là người có
giáo dục mà lại không yêu thích lịch sử thì chỉ là một con người không phát
triển đầy đủ về mặt trí tuệ”.
Bộ môn Lịch sử nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản khái
quát về lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người cũng như của dân
tộc từ nguồn gốc đến nay, qua đó thực hiện vai trò giáo dục thế hệ trẻ, phát triển
các năng lực hoạt động hoàn thiện nhân cách con người mới.
Trải qua lịch sử phát triển lâu dài, bộ môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông
hiện nay về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đào tạo thế hệ trẻ trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đang không ngừng phát triển nhằm
đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn.
Ngoài ra, vai trò của bộ môn còn thể hiện ở việc bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; giáo dục tinh thần, thái độ lao
động đúng đắn; giáo dục lòng biết ơn đối với tổ tiên, đối với những người có
công với tổ quốc, đánh giá đúng đắn vai trò của cá nhân trong lịch sử.
1.1.1.2. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông được xây dựng trên cơ
sở lý luận và thực tiễn, thể hiện tập trung ở việc quán triệt mục tiêu chung của
giáo dục phổ thông, thông qua chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng môn học và tình

8
hình nhiệm vụ cụ thể của đất nước. Một cách cụ thể mục tiêu của môn lịch sử ở
nhà trường phổ thông bao gồm 3 phương diện.
Mục tiêu giáo dưỡng (nhận thức): cung cấp cho học sinh những sự kiện cơ
bản khái quát, toàn diện và có hệ thống về lịch sử phát triển của nhân loại cũng
như lịch sử dân tộc từ quá khứ đến nay.
Ví dụ: Thông qua việc học tập lịch sử học sinh hiểu rõ quá trình tiến hóa của
con người từ khi thoát thai khỏi giới động vật qua các giai đoạn khác nhau, quá
trình hình thành và phát triển của tổ chức xã hội từ bầy người, công xã thị tộc,
các mô hình nhà nước về quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của lịch

sử dân tộc các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm: Khởi nghĩa Hai Bà
Trưng, chiến thắng Bạch Đằng năm 938, các cuộc chiến tranh chống đế quốc
tiêu biểu như: chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mĩ; các vị anh hùng dân tộc
các cuộc chiến tranh thế giới.
Từ những sự kiện cơ bản, học sinh từng bước tiến sâu vào nắm vững bản
chất của lịch sử thông qua các biểu tượng, khái niệm, bài học lịch sử như: “Bầy
người nguyên thủy”, “Công xã thị tộc”, “Nhà nước”, “Cách mạng”, “Chủ nghĩa
Tư bản”, “Chủ nghĩa Xã hội”,… Quy luật về sự phát triển không ngừng của lịch
sử loài người, về sự phù hợp của quan hệ xã hội với tính chất và trình độ của
lịch sử sản xuất, về có áp bức có đấu tranh, về sự thay thế nhau của các hình thái
kinh tế xã hội…tạo điều kiện cho các em có thể vận dụng những hiểu biết của
mình trong hoạt động thực tiễn.
Học sinh có những nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về vai
trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, về đấu tranh giai cấp, ý
nghĩa của lao động đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, động lực
phát triển của xã hội loài người, tạo điều kiện cho học sinh tiếp tục học tập,
nghiên cứu ở những cấp cao hơn hoặc tham gia vào quá trình lao động.
Mục tiêu giáo dục (tư tưởng): Trên cơ sở giúp học sinh nắm vững tri thức
lịch sử, bộ môn còn thực hiện việc giáo dục học sinh, giúp các em có nhân sinh
quan, thế giới quan khoa học, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm đúng đắn
góp phần đào tạo hoàn thiện bản thân một cách toàn diện.

9
+ Lòng yêu nước Xã hội Chủ nghĩa, lòng yêu quê hương một biểu hiện của
lòng yêu nước, trong lao động sản xuất cũng như trong đấu tranh giành độc lập
dân tộc, bảo vệ tổ quốc.
+ Tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc đấu tranh cho
độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hòa bình, dân chủ.
+ Niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người và dân tộc,
dù trong tiến trình lịch sử có những bước quanh co, khúc khuỷu, tạm thời thụt

lùi hay dừng lại.
+ Có ý thức làm nghĩa vụ công dân, sẵn sàng làm nghĩa vụ quốc tế.
+ Những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng.
Ví dụ: Lịch sử giai đoạn 1930 – 1945, khi học chương này giáo viên bồi
dưỡng thêm cho học sinh lòng tự hào dân tộc, truyền thống đấu tranh anh hùng
của dân tộc ta: Dù bị đàn áp đẫm máu (phong trào 1930 – 1931), bị khủng bố tàn
sát (thời kì 1932 – 1935), nhưng phong trào không vì thế mà suy yếu, ngược lại
còn mạnh mẽ hơn: thời kì 1936 – 1939, 1939 – 1945 dẫn đến thắng lợi to lớn
của cuộc cách mạng tháng 8/1945.
Giáo dục các em niềm tin lí tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Trước những chính sách bóc lột
tàn ác của Đế quốc phát xít Pháp – Nhật, cảnh khốn cùng của nhân dân ta, nạn
đói năm 1945 làm hai triệu đồng bào ta chết,… hình thành sự đồng cảm sâu sắc
của các em với người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Mục tiêu phát triển (kĩ năng): Bộ môn góp phần quan trọng vào quá trình
hình thành và phát triển các năng lực hoạt động, năng lực tư duy cho học sinh
tinh thần làm việc độc lập và kĩ năng thực hành bộ môn.
Ví dụ: Cùng trong giai đoạn lịch sử 1930 – 1945, kết thúc chương này các
em rèn luyện được kĩ năng so sánh, nhận xét các phong trào đấu tranh qua các
thời kì, từ đó thấy được sự phát triển của các phong trào đấu tranh, giai đoạn sau
bao giờ cũng phát triển hơn so với giai đoạn trước 1936 -1939 so với 1930 –
1931, 1939 – 1945 so với 1936 – 1939.

10
Việc học tập lịch sử, học sinh luôn luôn phải nghe, nói, thực hành, làm
việc với sách giáo khoa, tài liệu, tham quan thực tế, quan sát hiện vật, phân tích
tổng hợp, so sánh,… Qua đó, các năng lực tri giác, tư duy, tưởng tượng, ghi nhớ,
năng lực phân tích và diễn đạt ngôn ngữ không ngừng phát triển.
1.1.2. Hệ thống phương pháp dạy học lịch sử
Xuất phát từ những thành tựu của lý luận dạy học và đặc trưng của môn

học chúng ta có thể xác định hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử như sau:
Thứ nhất, Nhóm phương pháp thông tin – tái hiện lịch sử là trình bày tài
liệu mới, nhắc lại những kiến thức đã học có liên quan đến việc tiếp thu kiến
thức mới… Giáo viên chủ yếu trình bày các sự kiện chính xác, được quy định
trong chương trình, sách giáo khoa nhằm giúp học sinh ghi nhớ thông qua các
hoạt động về quá trình tâm lí trong nhận thức và trong số trường hợp có thể trình
bày những tài liệu mới do giáo viên hướng dẫn tìm ra. Mục đích của việc thông
tin tái hiện lịch sử là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, điển hình,
cụ thể và sinh động, nhằm tái tạo lại hình ảnh của quá khứ. Việc tái hiện lịch sử
phải đạt được đến mức làm cho học sinh như đang tham dự, chứng kiến sự kiện
hay các sự kiện đang diễn ra trước mắt mình. Đây là việc phát triển trí tưởng
tượng tái tạo cho học sinh, rất cần cho việc học lịch sử. Nếu không hình dung
đúng quá khứ khách quan thì không thể hiện được bản chất của lịch sử và dễ rơi
vào tình trạng “hiện đại hóa lịch sử”. Mặt khác, nếu học sinh tái hiện được hình
ảnh của sự kiện lịch sử, các em sẽ nhớ lâu các sự kiện đó.
Việc thông tin tái hiện lịch sử được thực hiện bằng trình bày miệng với hệ
thống dạy học tương ứng: tường thuật, miêu tả, kể chuyện, giải thích,…và sử
dụng đồ dùng trực quan, sử dụng tài liệu văn bản,…
Ví dụ: Khi dạy bài 16 “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng
Tám (1939 – 1945), nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời”. Phần II, 2, a.
Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) giáo viên sử dụng hình 35 kết hợp với tường
thuật diễn biến giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản, điển hình, tái
tạo lại hình ảnh của quá khứ.

11
Diễn biến: Tối ngày 26/9/1940 tại đình làng Nông Lục (xã Hưng Vũ) chi
bộ xã Hưng Vũ đã tổ chức cuộc họp với sự tham gia của những thành viên châu
ủy Bắc Sơn: Hoàng Đình Ruệ, Nông Văn Cún, Đường Văn Thức để thảo luận,
phân tích tình hình và quyết định phương hướng, hành động đánh đồn Mỏ Nhài
và thành lập Ban chỉ huy khởi nghĩa.

Sau khi thảo luận, sáng ngày 27/9/1940 các tổ chức Đảng Bắc Sơn và các
chiến sĩ cộng sản từ Lạng Sơn đã thông qua chủ trương khởi nghĩa và quyết định
phát động đấu tranh vũ trang ngay trong ngày. Giờ khởi nghĩa đã được chọn vào
khoảng 19 giờ 30 phút đến 20 giờ, mục tiêu là đánh chiếm đồn Mỏ Nhài. Đúng
20giờ người dân các xã Hưng Vũ, Bắc Sơn, Chiêu Vũ, Trấn Yên và Ngự Viên
đã có mặt tại địa điểm tập trung với trang bị vũ khí thô sơ như: súng kíp, giáo
mác, gậy gộc chia làm 3 bộ phận đánh chiếm đồn Mỏ Nhài theo 3 hướng đã
định. Đoàn quân khởi nghĩa vừa nổ súng, vừa kêu gọi binh lính trong đồn về
theo cách mạng. Dười sự chỉ đạo của chi bộ Hưng Vũ, người dân các làng xung
quanh đồn Mỏ Nhài tập hợp lực lượng cùng nhau khua chiêng, gõ mõ… hậu
thuẫn cho lực lượng khởi nghĩa trên các hướng tấn công góp phần hạ đồn Mỏ
Nhài, chiếm châu lỵ Bắc Sơn. Sau cuộc tấn công chớp nhoáng lực lượng khởi
nghĩa đã chiếm đồn Mỏ Nhài, binh lính quân đội Pháp hoảng sợ bỏ chạy, chính
quyền cai trị bị tan dã cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn kết thúc thắng lợi.
Qua ví dụ trên giáo viên đã lựa chọn phương pháp tường thuật kết hợp với
đồ dùng trực quan là phương pháp chủ đạo nhất trong nhóm phương pháp thông
tin tái hiện.
Thứ hai, Nhóm phương pháp nhận thức lịch sử là trình bày sự kiện, hiện
tượng trong hình thức tổng quát, trong những mối liên hệ bản chất của nó, giúp
học sinh từ hiểu biết đến hiểu sâu sắc các sự kiện và quá trình lịch sử. Việc nhận
thức lịch sử phải thông qua hoạt động tư duy của học sinh, không phải là sự áp
đặt chủ quan, công thức. Vì vậy, giáo viên phải đặt vấn đề và hướng dẫn học
sinh giải quyết. Học sinh phải tự mình nhận thức bản chất của sự kiên lịch sử,
vận dụng những tri thức đã học để giải thích lịch sử và tùy trình độ mà nêu khái

12
quát sự kiện, quá trình lịch sử. Phương pháp nhận thức lịch sử chủ yếu được tiến
hành thông qua dạy học nêu vấn đề, nêu câu hỏi có tính chất bài tập nhận thức.
Ví dụ: Khi dạy bài 20: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
kết thúc (1953-1954), giáo viên đưa ra câu hỏi: “Những nguyên nhân nào dẫn

đến sự thắng lợi của quân dân ta ở Điện Biên Phủ và trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp?”, học sinh vận dụng toàn bộ kiến thức đã học của chương,
bài để rút ra câu trả lời.
Giáo viên trên cơ sở sách giáo khoa và sách giáo viên nêu ra các nguyên
nhân chính: Nguyên nhân chủ quan, đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta;
truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân ta; hậu
phương vững chắc. Nguyên nhân khách quan, đó là đoàn kết chiến đấu của nhân
dân ba nước Đông Dương; sự giúp đỡ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và
sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới đối với cuộc kháng chiến của ta.
Với ví dụ cụ thể trên giáo viên đã lựa chọn hình thức nêu câu hỏi có tính chất
bài học nhận thức là phương pháp chủ đạo để giúp học sinh hiểu rõ vấn đề hơn.
Thứ ba, Nhóm phương pháp tìm tòi nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ
của học sinh trong việc biến kiến thức lịch sử đã học thành kiến thức của mình,
chủ động sử dụng những tri thức đó có hiệu quả trong học tập và đời sống.
Nhóm phương pháp tìm tòi nghiên cứu được tiến hành thông qua các hình thức
từ thấp đến cao của những công việc học tập như sử dụng sách giáo khoa và tài
liệu tham khảo để trả lời các câu hỏi, hoàn thành các bài tập thực hành, rèn
luyện việc tìm tòi từng phần và bước đầu tập dược nghiên cứu khoa học một số
vấn đề lịch sử, phù hợp với trình độ và yêu cầu học tập của học sinh…
Ví dụ: Khi dạy bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 – 1954)” ở mục Chiến dịch Biên giới thu – đông
năm 1950, giáo viên sử dụng câu hỏi “Tại sao ta chọn Đông Khê làm điểm mở
đầu chiến dịch mà không phải Cao Bằng hay Thất Khê?”. Để trả lời được câu
hỏi này học sinh đọc sách giáo khoa, xem các tài liệu ở nhà, chú ý theo dõi, quan
sát bản đồ để thấy được vị trí chiến lược của Đông Khê. Giáo viên hướng dẫn
học sinh bằng cách đưa ra câu gợi ý về vị trí của Đông Khê, sau khi các em đưa

13
ra câu trả lời giáo viên chốt ý: Giữa Đông Khê và Cao Bằng, nếu đánh Cao Bằng
thì sẽ đụng đầu với lực lượng mạnh của địch, hệ thống phòng ngự vững chắc,

muốn đánh thắng phải tốn nhiều xương máu. Đồng thời nếu đánh Cao Bằng,
địch sẽ rút tất cả các cứ điểm từ Đông Khê đến Lạng Sơn, như vậy sẽ tạo điều
kiện cho ta đánh quân rút chạy. Đông Khê là một cứ điểm địch tương đối yếu
nhưng lại là vị trí trọng yếu, mất Đông Khê, địch phải cho quân ứng cứu, Cao
Bằng phải rút chạy… Ta có cơ hội tiêu diệt quân tiếp viện và quân rút chạy của
địch. Hơn nữa Đông Khê ở xa Hà Nội, nếu địch tiếp viện cũng mất nhiều thời
gian.Vì vậy ta quyết định đánh Đông Khê.
Trong ví dụ này phương pháp tìm tòi nghiên cứu được tiến hành thông
qua những công việc học tập như sử dụng sách giáo khoa, tài liệu tham khảo để
trả lời câu hỏi giúp học sinh có khả năng tìm tòi nghiên cứu một cách chủ động.
Như vậy, các phương pháp này kết hợp với nhau thành một hệ thống hoàn
chỉnh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Chúng hỗ trợ cho nhau.Trong
quá trình dạy học, không thể chỉ sử dụng một phương pháp đơn nhất, song ở mỗi
khâu của quá trình dạy học lại có một phương pháp trọng tâm kết hợp với các
phương pháp khác. Mặt khác, mỗi một phương pháp nêu trên lại là sự tổng hợp
của nhiều phương pháp khác nhau nhằm thực hiện chức năng của nó.Việc sử
dụng các phương pháp dạy học lịch sử không chỉ là việc nắm vững lí luận và cần
phải rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm, thói quen thực hành để nâng cao hiệu
quả và chất lượng dạy học.
1.1.3. Hiệu quả bài học lịch sử
Hiệu quả bài học lịch sử là vấn đề mấu chốt, có thể nói là một mục tiêu
quan trọng của việc dạy học. Vậy thế nào là hiệu quả bài học lịch sử? Vấn đề
này được nhà nghiên cứu và giáo viên thảo luận sôi nổi, có một số điều nhất trí,
nhưng không phải là không có ý kiến khác biệt. Hiện nay vẫn còn tồn tại quan
niệm phiến diện, xem xét hiệu quả bài học chỉ thể hiện ở mức độ hình thành kiến
thức khoa học của học sinh trong giờ học. Trên quan điểm “dạy chữ để dạy
người”, chúng ta nhất trí rằng, hiệu quả của bài học được xác định không chỉ

14
bằng việc hình thành các kiến thức, mà còn là kết quả của việc giáo dục và phát

triển tư duy, kỹ năng, kỹ xảo, tính tích cực học tập của học sinh trong học tập và
cuộc sống. Vì vậy, cần nhận đúng và có những biện pháp sư phạm tốt trong dạy
học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông. Nói một cách cụ thể, hiệu quả bài học
thể hiện ở những mặt sau đây:
Trước hết, bài học phải giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản
của bài, tức là làm cho các em ghi nhớ những sự kiện lịch sử chủ yếu, biết đánh
giá các sự kiện, rút ra bài học, nêu quy luật (nếu có) và hình thành khái niệm
lịch sử. Điều này giúp các em trả lời được các câu hỏi “Như thế nào?” và “Vì
sao?” trong giờ học (tiếp nhận kiến thức mới, kiểm tra bài cũ…)
Thứ hai, bài học phải đặt được mục tiêu, kết quả giáo dục đề ra. Đây là
vấn đề quan trọng, nhưng rất khó khăn, phức tạp. Việc giáo dục phải phù hợp
với nội dung bài học, trình độ, yêu cầu học sinh, nó không phải cung cấp cho
các em những công thức có sẵn, những khẩu hiệu sáo rỗng mà không có tác
dụng gì đối với việc giáo dục. Muốn đánh giá kết quả giáo dục mà bài học đạt
được trước tiên cần xem xét thái độ, tình cảm của học sinh đối với các sự kiện
nghiên cứu, những phản ứng tự nhiên, những suy nghĩ của các em đối với hiện
tượng và những nhân vật lịch sử. Tiếp đó, xem xét kỹ năng của học sinh trong
việc đánh giá đúng những hiện tượng, vai trò của các nhân vật, kỹ năng sử dụng
các kiến thức lý luận đã học để tự mình phân tích các hiện tượng xã hội của quá
khứ và hiện tại. Những công việc này không chỉ giúp học sinh nắm vững hơn
kiến thức lịch sử, mà còn góp phần giáo dục đạo đức tư tưởng, chính trị cho các
em trong quá trình học tập lịch sử.
Thứ ba, hiệu quả của bài học còn được thể hiện ở việc phát triển toàn diện
cho học sinh, đặc biệt là năng lực nhận thức, như tri giác, trí tưởng tượng, trí
nhớ, tư duy… Việc phát triển các năng lực nhận thức không tách rời các yếu tố
của tính tích cực trong học tập nhân cách của các em, như chú ý, xúc cảm lịch
sử, suy nghĩ hứng thú học tập, ý chí… Ngoài ra, giáo viên cũng không quên hình
thành cho các em lòng mong muốn và khả năng tham gia tích cực, có hiệu quả
các hoạt động xã hội chính trị và lao động sản xuất. Như vậy, trong giờ học lịch


15
sử cùng với việc phát triển các năng lực nhận thức của học sinh, giáo viên phát
triển các kỹ năng tư duy, như phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát…và kỹ
năng thực hành bộ môn, cũng hứng thú, say mê nghiên cứu và học tập lịch sử,
biết đem những kiến thức đã học vận dụng vào cuộc sống.
Ba mặt cung cấp kiến thức, giáo dục tư tưởng, đạo đức và phát triển năng
lực tư duy và năng lực thực hành trong dạy học lịch sử có mối quan hệ chặt chẽ,
có tác động biện chứng với nhau. Nhiệm vụ giáo dục và phát triển của bài học
chỉ có thể thực hiện trên cơ sở hình thành kiến thức. Mặt khác việc hoàn thành
nhiệm vụ giáo dục và phát triển trong giờ học sẽ làm cho việc nắm kiến thức của
học sinh vững chắc, sâu sắc hơn.
1.1.4. Nguyên tắc vận dụng sáng tạo, linh hoạt một số phƣơng pháp dạy học
Việc dạy học nói chung được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc của
lý luận dạy học, tức là những quan điểm cơ bản chỉ đạo mọi hoạt động của giáo
viên và học sinh, theo các quy luật cơ bản của quá trình dạy học. Tính nguyên
tắc bảo đảm việc dạy học được thể hiện theo những quy trình khoa học, nhằm
thực hiện mục tiêu giáo dục. Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, về lịch sử, xuất phát từ tình hình nhiệm vụ cách
mạng của nước ta, Đảng đã đề ra phương châm, nguyên lí giáo dục được tập
trung ở ba điểm: “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý
luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và giáo dục
xã hội”. Những phương châm, nguyên lí giáo dục này chỉ đạo việc xây dựng một
hệ thống nguyên tắc dạy học ở nước ta.
Nguyên tắc bảo đảm tính khoa học, tính tư tưởng trong dạy học lịch sử.
Lịch sử là bản thân cuộc sống mà loài người, dân tộc đã trải qua. Hiện thực lịch
sử là khách quan, chỉ có một, nhưng nhận thức lịch sử lại có nhiều, tùy theo
quyền lợi, quyền lợi giai cấp, con người tìm hiểu lịch sử. Trong nhiều nhận thức
khác nhau về lịch sử, chỉ có một nhận thức đúng; đó là nhận thức phản ánh lịch
sử khách quan, đúng như nó tồn tại. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản tạo cơ sở cho chúng ta nhận


16
thức đúng lịch sử. Tính tư tưởng thống nhất với tính khoa học trong nghiên
cứu cũng như dạy học lịch sử đòi hỏi chúng ta phải bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ, rèn luyện quan điểm tư tưởng, phẩm chất đạo đức của người
giáo viên.
Bảo đảm tính trực quan trong dạy học lịch sử. Trực quan là yêu cầu
quan trọng, cần thiết đối với dạy học nói chung, xuất phát từ quy luật của nhận
thức mà V.I. Lênin đã đề ra: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và
từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn”.
Nguyên tắc về tính vừa sức. Dạy học lịch sử theo chương trình và sách
giáo khoa đã được ban hành và biên soạn, phù hợp với yêu cầu và trình độ học
sinh mỗi lớp, mỗi cấp. Bảo đảm tính vừa sức không chỉ thể hiện việc thực hiện
nghiêm túc, sáng tạo chương trình và sách giáo khoa mà còn đảm bảo chất
lượng, kết quả, mục tiêu giáo dục. Thực hiện nguyên tắc về tính vừa sức sẽ khắc
phục được tình trạng “quá tải” hoặc “hạ thấp” trong dạy học lịch sử, giúp học
sinh đạt được trình độ chương trình. Bảo đảm tính vừa sức làm cho học sinh
hứng thú với học tập, học tập có kết quả cao.
Nguyên tắc về tính hệ thống. Hiện thực lịch sử phát triển trong sự thống
nhất, song đa dạng, đầy mâu thuẫn và phù hợp với quy luật. Việc học tập (nhận
thức) lịch sử cũng phải tuân theo logic sự phát triển lịch sử khách quan, phải tìm
hiểu từ lịch sử nguyên thủy, cổ đại, trung đại đến cận, hiện đại, chứ không thể
nhận thức ngược lại.
Nguyên tắc về tính vững chắc của việc nhận thức lịch sử. Trong học tập
nói chung, việc nắm vững kiến thức là yêu cầu không thể thiếu được. Tính vững
chắc trong học tập thể hiện ở việc nắm kiến thức có hệ thống, nhớ lâu, hiểu sâu,
biết vận dụng kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới vào đời sống.
Trong học tập lịch sử, học sinh thường không nhớ được chính xác, hay
nhầm lẫn các sự kiện, không hiểu được lịch sử, không biết vận dụng kiến thức
đã biết vào học tập và cuộc sống. Vì vậy, để học sinh hiểu biết lịch sử cần phải

hướng dẫn các em nắm vững kiến thức cơ bản với những biện pháp sư phạm có
hiệu quả.

17
Nguyên tắc kết hợp việc học tập của tập thể với mỗi học sinh, giáo dục
cho học sinh đoàn kết, giúp đỡ nhau để tiến bộ trên tất cả các mặt. Muốn thực
hiện tốt các nguyên tắc này cần phát huy cao nhất tính tích cực của tập thể và
mỗi cá nhân, chú ý học sinh cá biệt. Việc trao đổi, thảo luận trên lớp, tham gia
tích cực vào những hoạt động ngoại khóa, kiểm tra, đánh giá, … là những điều
kiện để học sinh giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử.
Việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch
sử nói riêng xuất phát từ mục tiêu đào tạo, trong đó nổi bật một điểm quan
trọng là đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà. Để thành
công dân, chủ nhân xã hội, học sinh phải được rèn luyện trong quá trình được
đào tạo và tự đào tạo. Việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập
đòi hỏi phải khắc phục cách dạy học theo kiểu giáo điều, nhồi sọ, biến giáo
viên thành người thuyết trình giảng giải và học sinh thụ động tiếp nhận những
điều đã nghe, đã đọc.
Ngoài những nguyên tắc trên, trong dạy học lịch sử cần thực hiện một số
nguyên tắc khác như: Nguyên tắc dạy học nêu vấn đề, nguyên tắc dạy học liên
môn để nhằm nâng cao hiệu quả bài học.
Nguyên tắc dạy học nêu vấn đề. Là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành của
nhiều phương pháp dạy học liên kết nhau, trong đó giáo viên tạo ra tình huống có
vấn đề, nêu vấn đề và tổ chức, thúc đẩy hoạt động tìm tòi sáng tạo của học sinh giải
quyết vấn đề. “Vấn đề” nêu ra thể hiện việc học sinh biết điều mình chưa biết và
tìm cách biết để việc nhận thức (học tập) được sâu sắc, vững chắc hơn.
Nguyên tắc dạy học liên môn. Là sự kết hợp một cách sáng tạo với các
môn học khoa học xã hôi và nhân văn kể cả các môn khoa học tự nhiên để đi
sâu, nắm vững các kiến thức lịch sử, hiểu sâu sắc hơn các sự kiện đang học.

Điều này khắc phục được tình trạng nắm kiến thức rời rạc, tản mạn, giúp học
sinh nắm được mối liên hệ giữa kiến thức của các môn có liên quan, tính hệ
thống của tri thức lịch sử, khả năng phân tích các sự kiện, tìm ra bản chất, quy
luật chi phối sự phát triển của lịch sử.

18
Trên cơ sở những nguyên tắc trong dạy học lịch sử, chúng tôi từng bước
đưa ra cách vận dụng sáng tạo, linh hoạt một số phương pháp nhằm nâng cao
hiệu quả bài học khi dạy học phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1954,
lớp 12 THPT.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là
mục tiêu phấn đấu của giáo viên trong nhà trường hiện nay. Nó là kết quả của sự
suy nghĩ, tìm tòi lớn về sư phạm, là kết quả của những nguyên lý khoa học và
nghệ thuật sư phạm. Việc dạy học môn Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đã
và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, một phần xuất phát từ
tầm quan trọng đặc biệt của bộ môn đối với tương lai phát triển của đất nước;
một phần bởi thực trạng của việc dạy học Lịch sử ở trường phổ thông trong thời
gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định:
- Mặc dù số tiết Lịch sử ở trường phổ thông không nhiều (1 đến 2
tiết/tuần) nhưng bộ môn Lịch sử đã có những đóng góp không nhỏ vào những
thành tựu chung của giáo dục Việt Nam: Góp phần nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành phẩm chất con người Việt Nam Xã hội
chủ nghĩa trong thời kì mới.
- Thời gian qua, do nhận thức đúng vai trò của bộ môn Lịch sử, đã thu hút
được sự quan tâm của các ngành, các cấp nên đã có sự kết hợp giữa các ngành,
các bộ. Sự kết hợp này tạo điều kiện thuận lợi cho sự giải quyết các vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là đối với sự phát triển của giáo dục về nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức giảng dạy.
- Trong những năm qua, những nhà giáo dục Việt Nam không ngừng bổ

sung, hoàn thiện về nội dung, đổi mới về phương pháp dạy học. Trước hết là
những bổ sung, điều chỉnh về mặt nội dung chương trình, cập nhật kiến thức,
hoàn thiện nội dung chương trình sách giáo khoa đảm bảo cung cấp cho học sinh
những tri thức lịch sử đầy đủ, chính xác, hệ thống. Về phương pháp giảng dạy,
trong những năm qua, phương pháp giảng dạy bộ môn có nhiều đổi mới và đã có
những chuyển biến quan trọng. Nhiều giáo viên không ngừng cố gắng tìm tòi,

19
nghiên cứu và áp dụng nhiều phương pháp dạy học mới nên đã nâng cao đáng
kể chất lượng dạy học bộ môn, gây hứng thú cho học sinh.
Những thành tựu đã đạt được như trên là do những nguyên nhân sau:
- Đảng ta coi sự nghiệp giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Do
vậy, Đảng và Nhà nước đã đầu tư rất lớn cho sự nghiệp giáo dục, trong đó đầu
tư cho đội ngũ nhân lực là yếu tố tiên phong.
- Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh sự nghiệp “xã hội hóa giáo
dục”, coi sự nghiệp giáo dục là của toàn dân và toàn xã hội. Sự đóng góp và ủng
hộ của toàn dân là sức mạnh to lớn, bảo đảm sự phát triển lâu dài, bền vững và
mạnh mẽ.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chất lượng dạy học lịch sử cũng
như nhiều môn học khác giảm sút đáng lo ngại. Tình trạng “mù lịch sử” không
chỉ thể hiện trong thi cử, đánh giá kết quả học tập mà cả trong sinh hoạt văn hóa,
xã hội:
- Dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông chưa khắc phục được tình trạng
nặng về nội dung, chưa khoa học về mặt hình thức, nhiều giáo viên vẫn nặng về
trình bày, cung cấp các sự kiện, chưa áp dụng phương pháp dạy học mới, tích
cực, vẫn nặng về lối truyền thụ một chiều đọc – chép, làm các em trở nên thụ
động khi tiếp thu kiến thức. Không phát huy được các năng lực tự học, sáng tạo,
đào sâu suy nghĩ, phát huy khả năng làm việc độc lập và hợp tác của người học
để giải quyết các vấn đề, các tình huống học tập và hàng loạt các hiện tượng tiêu
cực trong học tập, thi cử, kiểm tra đánh giá, làm chất lượng dạy học bộ môn

chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ môn giảm sút, trong đó có
một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Giáo viên chưa đánh giá đúng vị trí, vai trò của phương pháp dạy học
đối với việc giáo dục, do đó chưa khắc phục được những sai lầm yếu kém trong
dạy học, vẫn “đường mòn” kinh nghiệm chủ nghĩa trong truyền thụ kiến thức.
- Do quan niệm sai lầm về “môn chính”, “môn phụ”, nên ở một số trường
phổ thông chưa chăm lo đúng mức về cải tiến phương pháp dạy học.

20
- Trong tổ chức thi cử, phương pháp, cách thức ra đề, tổ chức bồi dưỡng
giáo viên nặng về nội dung và hình thức, coi nhẹ phương pháp; việc đánh giá kết
quả giảng dạy của giáo viên, kết quả học tập của học sinh không khuyến khích
cách học tập chủ động, sáng tạo, độc lập,
- Tình trạng “thực dụng” trong dạy học lịch sử còn khá nặng nề, thể hiện ở
việc “học gì thi nấy”, bên cạnh đó tình trạng “dạy thêm”, “học thêm” tràn lan, vô
bổ, vô tổ chức, dẫn tới việc “quá tải” vượt chương trình so với một số “môn chính”.
Từ thực trạng của việc giảng dạy và học tập bộ môn Lịch sử ở trường phổ
thông đã nêu ở trên, hiện nay vấn đề hiệu quả bài học lịch sử và vận dụng các
phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử đã thu được sự quan tâm
của các nhà giáo dục, các nhà sư phạm và có nhiều quan niệm khác nhau được
đưa ra về vấn đề trên. Trong đó có không ít quan niệm phiến diện cho rằng hiệu
quả bài học chính là cung cấp cho học sinh nhiều sự kiện, không quan tâm đến
mức độ nhận thức, giáo dục và kĩ năng. Do đó, đã dẫn đến tình trạng dạy học
nhồi nhét kiến thức, trong khi đó mức độ nhận thức của học sinh lại không theo
kịp. Từ nhận thức sai lầm về quan niệm hiệu quả bài học lịch sử mà việc vận
dụng một số phương pháp vào giảng dạy bộ môn còn nhiều hạn chế. Vì vậy,
chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn trong thời gian qua chưa được cải thiện
là mấy, hiệu quả bài học còn rất hạn chế. Đa phần giáo viên chưa chịu đổi mới
phương pháp, vẫn “đường mòn” kinh nghiệm chủ nghĩa theo lối truyền thụ một

chiều. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do những khó khăn về cơ sở vật
chất chưa cho phép áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, những bất cập
về nội dung chương trình, trong đó nguyên nhân cơ bản nhất là giáo viên chưa
chịu đổi mới tư duy trong quá trình tác nghiệp.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, để kiểm chứng thực tiễn đã trình bày
ở trên về quá trình dạy - học lịch sử ở nhà trường phổ thông hiện nay, chúng tôi
đã tiến hành điều tra thực tiễn thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh ở một số
trường thuộc tỉnh Điện Biên về vấn đề lựa chọn các phương pháp để truyền thụ
kiến thức cơ bản cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở
nhà trường phổ thông.

21
Đối với giáo viên: Đa phần giáo viên lịch sử ở trường phổ thông hiện nay
đã có nhiều cố gắng, nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ của nhà giáo dục. Đã có
nhiều trăn trở, băn khoăn, đổi mới phương pháp để làm sao chất lượng giáo dục
của bộ môn được phát huy tác dụng cao nhất, để học sinh yêu thích hơn môn
lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số giáo viên chưa biết xác định kiến
thức cơ bản nói chung và áp dụng một số phương pháp cổ truyền, lạc hậu. Điều
này khiến học sinh “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, chỉ thấy việc học lịch sử
là phải nhớ các sự kiện lịch sử một cách khô khan, nặng nề, thụ động. Không
chịu đổi mới, áp dụng các phương pháp truyền thụ thì giáo viên khó có thể khắc
sâu được kiến thức cơ bản cho giáo viên mà dàn trải theo kiểu đọc – chép một
cách máy móc, hoặc dạy học theo cách “thông báo”, chỉ truyền thụ nội dung có
trong sách giáo khoa, nặng nề chi tiết, liệt kê sự kiện, ít đi sâu vào vấn đề cốt lõi
để phân tích cho học sinh hiểu.
Thông qua việc điều tra 12 giáo viên ở 3 trường phổ thông kết quả thu
được qua phiếu điều tra sau:
Stt
Nội dung
Phần trăm

1
Theo thầy (cô) chất lượng dạy học lịch sử ở trường
phổ thông hiện nay như thế nào?
A. Rất tốt
B. Bình thường
C. Rất thấp


Chọn A: 18%
Chọn B: 52%
Chọn C: 30%
2
Trong các tiết học trên lớp, thầy (cô) thấy thái độ học
tập môn Lịch sử như thế nào?
A. Rất tích cực xây dựng bài
B. Chỉ hoạt động khi có yêu cầu
C. Học thụ động, đối phó và lười suy nghĩ


Chọn A: 9%
Chọn B: 67%
Chọn C: 24%
3
Theo thầy (cô) quan niệm hiệu quả bài học Lịch sử
trong trường phổ thông là:
A. Cung cấp cho học sinh nhiều kiến thức
B. Giáo dục, phát triển kĩ năng học sinh
C. Nhận thức, giáo dục và kĩ năng



Chọn A: 73%
Chọn B: 4%
Chọn C:23%

22
4
Trong thực tế thầy (cô) thường vận dụng những
phương pháp dạy học nào nhằm nâng cao hiệu quả bài
học lịch sử?
A. Đọc – chép
B. Hướng dẫn học sinh tự học
C. Kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp



Chọn A: 0%
Chọn B: 0%
Chọn C: 100%

Thông qua kết quả điều tra trên cho ta thấy đa số giáo viên đã nhận thức
được thực trạng của việc dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông hiện nay. Tuy
nhiên, khi được hỏi về việc tại sao không vận dụng linh hoạt, sáng tạo một số
phương pháp vào quá trình dạy học thì nhiều ý kiến đưa ra như: do không có
nhiều thời gian trên lớp, do thiếu tài liệu tham khảo, do sợ không đảm bảo kiến
thức cơ bản cho học sinh Do vậy phương pháp dạy học vẫn theo lối truyền
thống đọc – chép, không phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh. Chính
vì lối dạy đó mà khi điều tra từ phía học sinh cho ta kết quả sau.
Đối với học sinh: Chúng tôi tiến hành điều tra 165 học sinh kết quả thu
được là:
Stt

Nội dung điều tra
Phần trăm
1
Em có hứng thú với bộ môn Lịch sử hay không?
A. Rất hứng thú
B. Bình thường
C. Không thích học

Chọn A: 15%
Chọn B: 54%
Chọn C: 31%
2
Trong các tiết học phương pháp mà thầy (cô)
thường áp dụng là gì?
A. Đọc – chép
B. Tóm tắt nội dung sách giáo khoa
C. Kết hợp nhiều phương pháp


Chọn A: 10%
Chọn B: 4%
Chọn C: 86%

×