Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Kiềm chế tài chính- Tự so hóa tài chính ở các nước và bài học với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.09 KB, 23 trang )

Lời mở đầu
Việt Nam cũng nh các nớc đang phát triển khác đều vớng vào vòng luẩn quẩn của
sự đói nghèo đó là đầu t thấp dẫn đến năng suất lao động thấp kéo theo thu nhập và tiết
kiệm thấp nên đầu t lại thấp. Vì thế các nớc này luôn đi sau các nớc phát triển hàng
trăm năm. Để thoát khỏi vòng đói nghèo đó cần phải có một cú huých từ bên ngoài để
thu hút vốn. Tự do hoá tài chính sẽ giúp các nớc huy động đợc nguồn vốn nhàn rỗi
trong nớc và nớc ngoài, kích thích đầu t giúp tăng trởng kinh tế. Vì vậy việc xoá bỏ
kiềm chế tài chính tiến tới tự do hoá tài chính là một vấn đề cần thiết không chỉ riêng
đối với Việt Nam. Theo xu thế hội nhập toàn cầu thì tự do hoá tài chính là con đờng
phải qua. Nhng để tiến tới tự do hoá tài chính hoàn toàn không phải chỉ một sớm một
chiều là xong. Mà đó là cả một quá trình gian khó. Việc thực hiện ở mức độ nào và tiến
trình ra sao thì phải tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nớc.
Với đề tài này em muốn đề cập là "Kiềm chế tài chính - Tự do hoá tài chính, tự
do hoá tài chính ở các nớc và bài học đối với Việt Nam" để xem tiến trình đổi mới và
hội nhập của đất nớc đợc thực hiện nh thế nào. Quá trình tự do hoá đã đợc thực hiện ở
đâu, với cơ chế lãi suất, chế độ tỷ giá ra sao, và Việt Nam đã thực hiện đợc cha.
Với kiến thức hạn chế bài viết sẽ có nhiều sai sót mong thầy giúp đỡ và góp ý cho em.
Em chân thành cảm ơn !
1
Phần I
Tổng quan về kiềm chế tài chính
và tự do hoá tài chính
I. Kiềm chế tài chính
I.1. Kiềm chế tài chính
Theo nghiên cứu E.Shaw và MCKINNON thì kiềm chế tài chính là một cơ chế tài
chính đợc đặc trng bởi sự can thiệp quá mức của Nhà nớc vào các hoạt động và các quá
trình tài chính. Cụ thể là Nhà nớc ấn định mức lãi suất trần trực tiếp điều tiết quá trình
phân phối tín dụng, u tiên cho khu vực kinh tế quốc doanh và đặt ra tỷ lệ dự trữ bắt
buộc quá cao. Trong một chế độ bị kìm hãm nh vậy lãi suất tiền gửi thực của động sản,
tiền tệ thờng bị âm và khó mà dự đoán đợc khi nào xảy ra lạm phát cao và không ổn
định. Tỷ giá hối đoái cũng trở nên rất không chắc chắn, nó phá vỡ thị trờng trong nớc


dẫn đến những hậu quả trái ngợc nhau đối với chất lợng và số lợng tích luỹ vốn. Đặc
biệt đối với các nớc mà nền kinh tế đợc quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung tài
chính kiềm chế thể hiện rõ nét ở chính sách bao cấp qua tín dụng mức lãi suất đặc biệt
thấp, thậm chí là lãi suất âm và khu vực kinh tế t nhân hầu nh không có cơ hội vay vốn
từ hệ thống tài chính chính thức việc theo đuổi tài chính kiềm chế có nguyên nhân chủ
yếu từ những đòi hỏi và mong muốn của Nhà nớc về nguồn tài chính để đảm bảo 1 tỷ
lệ tăng trởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng nh các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
khác. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao trong những nớc này là để bảo đảm khả năng tài trợ của
các ngân hàng đối với nhu cầu tài chính của Nhà nớc hơn là 1 cơ cấu quản lý lu thông
tiền tệ và các hoạt động cung cấp tín dụng.
I.2. Những đặc trng của kiềm chế tài chính.
Thứ nhất, Nhà nớc ấn định mức lãi suất trong nền kinh tế đa ra mức lãi suất trần,
lãi suất sàn.
Việc áp dụng lãi suất cứng nhắc nh vậy đã làm cho hiệu quả sử dụng vốn thấp,
việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn, nhiều dự án khả thi không đợc thực hiện do
thiếu vốn bởi lãi suất không đợc tự do biến động theo lợng cung/cầu vốn trên thị trờng.
Nh ở Côlombia lãi suất cho vay thơng mại chuẩn đối với bộ phận danh mục cho
vay "tự do" của ngân hàng thờng có trần lãi suất công khai là 14-16% và có thể lên tới
2
22% nếu các ngân hàng kiếm đợc vốn bằng cách bán chứng khoán ghi nợ cho các
doanh nghiệp và các hộ gia đình. Mặt khác các tổ chức tín dụng chuyên môn hoá đợc
yêu cầu cho vay đối với các mục đích sử dụng ổn định trớc với lãi suất thấp 2-4%.
Thứ hai, Các nớc này thờng theo đuổi chính sách tỷ giá cố định đó là chế độ tỷ
giá mà trong đó Nhà nớc cụ thể là Ngân hàng Trung ơng tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá hối
đoái giữa đồng tiền của quốc gia mình với một đồng tiền nào đó hoặc theo một rổ các
đồng tiền nào đó ở một mức cố định. Bằng cách thờng xuyên can thiệp vào thị trờng
ngoại tệ để thực hiện các hoạt động mua bán lợng d cung hay d cầu ngoại tệ. Việc áp
dụng chế độ tỷ giá cố định sẽ làm cho NHTW không điều chỉnh đợc lợng cung tiền
cho nên trong thời kỳ lạm phát cao sẽ làm cho đồng tiền nội địa lên giá thực tế. Tuy
nhiên các nớc này vẫn tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá cố định với t cách là mỏ neo danh

nghĩa trong chơng trình chống lạm phát của mình nh Chilê và Urugoay năm 1978
Achentina năm 1991,...
Thứ ba, Chính phủ can thiệp, phân bổ tín dụng:
Chính phủ thờng trợ cấp tín dụng cho các khu vực kinh tế Nhà nớc và các ngành
Chính phủ muốn khuyến khích phát triển. Nh năm 1986, Pakistan, 70% những khoản
cho vay mới là của ngân hàng quốc gia, và các ngân hàng chiếm u thế trong thế giới
ngân hàng tại Braxin, năm 1987 chơng trình tín dụng Chính phủ chiếm hơn 70% d nợ
tín dụng cho khu vực kinh tế công cộng và t nhân. Nh ở Nicaragua việc trợ cấp tín
dụng trực tiếp ngoài việc choán mất chỗ của các dự án đem lại mức hoàn vốn có tiềm
năng cao và kích thích sự bành trớng quan liêu của các tổ chức thu nhập tín dụng khác
nhau, còn mang lại nhiều hậu quả khác cho nền kinh tế nh vấn đề đầu t không thu lại
hiệu quả, nhu cầu tín dụng sẽ luôn luôn vợt trội nếu ngời ta không phải trả lại hoặc nếu
lãi suất cho vay thực là âm. Các khoản trợ cấp tín dụng vợt quá cho các ngành nông
nghiệp và một phần cho ngành công nghiệp đã duy trì rất nhiều hãng và trang trại
không có hiệu quả vẫn tiếp tục tồn tại. Thậm chí sự phát triển của các xí nghiệp có hiệu
quả tiềm tàng lại bị cản trở nghiêm trọng bởi vì tất cả các trang trại đã bóp méo bản
chất hoạt động của mình nhằm mục tiêu kiếm đợc các khoản trợ cấp tín dụng. Điều
này đã làm cho thâm hụt ngân sách tăng vì phải bù lỗ, tổng thu nhập quốc dân giảm,
xuất khẩu giảm, lạm phát tăng,...
Chính những đặc trng trên đã làm cho môi trờng cạnh tranh không bình đẳng. Nó
không kích thích đợc tự do cạnh tranh lành mạnh, bỏ qua sự điều chỉnh của các quy
luật cung cầu, quy luật kinh tế.
I.3. Ưu nhợc điểm của kiềm chế tài chính
Để đạt đợc mong muốn của Nhà nớc về nguồn tài chính, để đảm bảo một tỉ lệ
tăng trởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng nh các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
khác nên Nhà nớc thực hiện kiềm chế tài chính đã đa nền kinh tế phát triển theo đúng
hớng, đúng mục đích của mình nhng hậu quả cơ bản của việc theo đuổi chính sách tài
3
chính kiềm chế lại chính là những hạn chế về tăng trởng kinh tế, những mất ổn định
trong kinh tễ vĩ mô. Từ những đặc trng của kiềm chế tài chính dẫn đến hạn chế của nó

là:
Thứ nhất, Dòng ngân quỹ cho vay của cả hệ thống ngân hàng có tổ chức bị giảm
sút, buộc những ngời vay tiềm năng phải dựa nhiều hơn vào từ tài trợ.
Thứ hai, Lãi suất cho vay của ngân hàng khác nhau giữa các loại ngời vay, giữa
nhóm ngời vay không đợc a chuộng và nhóm ngời vay đợc a chuộng.
Thứ ba, Quá trình tự tài trợ của các doanh nghiệp và hộ gia đình bị tàn lụi dần.
Nếu lãi suất thực của khoản tiền gửi cũng nh của tiền mặt âm các doanh nghiệp sẽ
không dễ tích luỹ các tài sản động (tức là các tài sản dễ chuyển sang thành phơng tiện
thanh toán) trong khi chuẩn bị thực hiện các dự án đầu t khác nhau. Các hàng rào
chống lạm phát tốn kém về mặt xã hội có vẻ nh hấp dẫn hơn với t cách là các công cụ
tài chính trong nớc.
Thứ t , Không thể mở rộng đáng kể tài chính bên ngoài hệ thống ngân hàng đang
bị kìm hãm trong điều kiện các doanh nghiệp rất khó đổi tài sản thành tiền mặt hoặc
khi lạm phát cao và không ổn định. Việc khuyến khích các tập đoàn và các công ty bảo
hiểm mở thị trờng cổ phiếu và chứng khoán và trung gian cần có sự ổn định tiền tệ.
Thứ năm, Dòng vốn tài chính nớc ngoài đổ vào có thể sẽ không sinh lợi khi thị tr-
ờng vốn nội địa lộn xộn và không thể lờng trớc tỷ giá hối đoái.
Về thực tế theo logic thông thờng lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu t do đó mà
thúc đẩy sự tăng trởng. Diễn biến kinh tế ở Nhật Bản, các nớc Đông Âu và một số nớc
khác đã chứng tỏ điều đó vào những năm 1960 đến đầu 1980 kinh tế các nớc này rất
phát triển. Song việc duy trì tài chính kiềm chế ở các nớc này trong giai đoạn sau đã
cho thấy với mức lãi suất quá thấp, công chúng không muốn để khoản tiết kiệm của
mình dới dạng tài sản tài chính trái lại họ hiện vật hoá dới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ
mạnh, thậm chí tất cả các loại hàng hoá tiêu dùng mà họ có thể mua và dự trữ đợc.
Tiềm năng tài chính trong dân c không đợc huy động và sử dụng đầu t vào sản xuất.
Điều này không những chỉ gây ra tình trạng thiếu vốn đầu t cho tăng trởng kinh tế mà
còn gây ra tình trạng khan hiếm giả tạo về hàng hoá và những mất cân đối nghiêm
trọng trên thị trờng hàng hoá. Các doanh nghiệp Nhà nớc luôn đợc u tiên vay vốn với
lãi suất bao cấp do vậy mà ỷ lại không sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả dẫn
tới Ngân sách Nhà nớc luôn là giới hạn mềm. Lạm phát và sự biến động của tỷ giá là

không thể kiểm soát nổi. Hệ thống tài chính không đợc phát triển và không thể thực
hiện đợc vai trò và chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế. Thị trờng tài chính hoặc là không có hoặc là hết sức manh mún, phân tán
và đầy rủi ro.
Qua những hạn chế trên đây thì việc xoá bỏ kiềm chế tài chính tiến tới tự do hoá
tài chính là con đờng phải qua, là việc nên làm để thúc đẩy việc huy động những nguồn
4
vốn nhàn rỗi kích thích đầu t, tăng trởng kinh tế tham gia vào quá trình hội nhập, toàn
cầu hoá.
II. Tự do hoá tài chính
II.1. Tự do hoá tài chính
Trong 3 xu hớng tự do hoá cơ bản (tự do hoá giá cả, tự do hoá thơng mại và tự do
hoá tài chính) thì tự do hoá tài chính thờng là bớc cuối cùng khó khăn nhất, lâu dài
nhất và cũng nguy hiểm nhất. Hiện nay IMF cũng nh WB lấy học thuyết tự do hoá tài
chính làm kim chỉ nam đổi mới tài chính trên toàn cầu. Họ nhận định "Tự do hoá tài
chính thành công là bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lợc tăng trởng kinh tế
của mỗi nớc".
Vậy tự do hoá tài chính là gì? Đó là giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nớc vào các
giao dịch tài chính. Các hoạt động tài chính đợc tự do thực hiện theo tín hiệu thị trờng.
Bản chất của tự do hoá tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế thị trờng. Các dòng
vốn đợc tự do lu chuyển đến bất cứ đâu tuỳ thuộc ý muốn của nhà đầu t mà không gặp
bất cứ sự ngăn cản phi kinh tế nào. Điều này hoàn toàn phù hợp với trọng tâm đổi mới
là nâng cao hiệu quả đầu t mà chúng ta đã lựa chọn. Các dòng vốn ở đây bao gồm cả
vốn đầu t của khu vực quốc doanh và t nhân, vốn trong nớc và vốn nớc ngoài, đầu t
gián tiếp và đầu t trực tiếp. Kết quả của tự do hoá tài chính đợc thể hiện bằng tỷ số giữa
tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống Ngân hàng thơng mại) trên thu nhập
quốc dân, tỷ lệ này của các nớc Châu á trung bình là 60% của Châu Phi chỉ có 20%.
Tự do hoá tài chính đợc phân làm hai cấp độ:
1. Tự do hoá tài chính nội địa: xoá bỏ kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng.
2. Tự do hoá tài chính quốc tế: loại bỏ sự kiểm soát vốn và hạn chế trong quản lý

ngoại hối.
Vì vậy khi tiến hành tự do hoá tài chính thì hạt nhân của nó là tự do hoá lãi suất
và thờng gắn liền với việc tự do hoá lãi suất tự do hoá tỷ giá hối đoái.
II.2. Ưu nhợc điểm của tự do hoá tài chính
Trái với kiềm chế tài chính khi nghiên cứu về tự do hoá tài chính các nhà kinh tế
đã rút ra đợc những u điểm của nó là:
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực
dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn đồng thời giúp các tổ chức tài
chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
Thứ hai: Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lợng các dịch vụ tài chính đợc
cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Ngời tiêu dùng có thể đợc hởng những sản
phẩm dịch vụ mới đa dạng tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
5
Thứ ba: Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển
giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
Thứ t : Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính
sách kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế
mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai
thác tối đa lợi thế kinh tế trong nớc và thế giới. Kết quả của nhiều nghiên cứu đó cho
thấy những lợi ích đề cập trên đây là thực tế. Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học
thuộc ban th ký của WTO năm 1997 đã kết luận rằng: việc mở cửa thị trờng dịch vụ tài
chính ở các nớc theo đuổi chính sách mở cửa đã có tác dụng đáng kể trong việc thúc
đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Do đó chi phí dịch vụ giảm đi đáng kể, chất lợng
dịch vụ đợc nâng cao, các loại dịch vụ đợc đa dạng hoá và khách hàng đợc tiếp cận với
các loại hình dịch vụ một cách nhanh nhất. Việc mở cửa thị trờng tài chính tại các nớc
này cũng đồng thời góp phần củng cố lại các tổ chức trung gian tài chính và tạo nhiều
cơ hội hơn cho các nhà đầu t thông qua việc nâng cao hiệu quả quản lý và giảm thiểu
rủi ro. Việc mở cửa thị trờng dịch vụ tài chính ở hầu hết các nớc cũng góp phần thúc
đẩy Chính phủ các nớc chủ nhà cải tiến phơng pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay
đổi cách thức can thiệp vào thị trờng đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hành lang

pháp lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của Chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ
này.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng sở dĩ tự do hoá tài chính có tác động tích cực
đến nền kinh tế chính là nhờ tác động lợi thế của kinh tế quy mô do vậy các tổ chức tài
chính có thể hạ giá thành phục vụ. Bên cạnh đó việc loại bỏ yếu tố độc quyền tăng c-
ờng sự cạnh tranh là nhân tố có tính quyết định trong việc nâng cao chất lợng dịch vụ,
đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn cho ngời tiêu dùng
phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn.
Một nghiên cứu ở Mỹ nhằm xem xét tác động của cải cách trong lĩnh vực ngân
hàng theo hớng mở của thị trờng vào những năm 1970 và 1980 cho thấy việc cải cách
đó đã góp phần làm tăng trởng khoảng 0,5 đến 1,2% tổng sản phẩm quốc nội trong
khoảng thời gian 10 năm sau khi cải cách đợc thực hiện.
Năm 1997 Bộ trởng ngân khố Mỹ - Rober E. Rubin đa ra kế hoạch nhằm hiện đại
hoá hệ thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi ích của kế hoạch dựa trên
những tính toán thực tế nh sau:
Thời gian trớc đây khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn trong lĩnh vực
dịch vụ tài chính, ngời tiêu dùng đã đợc hởng những lợi ích đáng kể. Năm 1995 giới
tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đô la vào các hoạt động bảo hiểm, dịch vụ
ngân hàng và môi giới chứng khoán. Giả sử rằng do kết quả cạnh tranh của kế hoạch
hiện đại hoá hoạt động dịch vụ tài chính mà chi phí dịch vụ đối với ngời tiêu dùng có
thể giảm đi 1% thì cũng đã tiết kiệm đợc khoảng 3 tỷ đô la một năm. Tuy nhiên dựa
6
trên những cơ sở thực tế tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn có thể đạt đến mức 5%, tức là
vào khoảng 15 tỷ đô la một năm - một con số hoàn toàn không nhỏ đối với nền kinh tế.
Ngời ta tiến hành nghiên cứu tơng tự nh vậy đối với Châu Âu và Châu Mỹ cũng
chỉ ra rằng ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí nâng cao lợi nhuận khoảng từ 20
đến 50% thông qua việc nâng cao hiệu quả của các loại dịch vụ đợc cung cấp. Các cơ
quan quản lý và kiểm soát ngân hàng quốc gia cũng có thể nâng cao hiệu quả với mức
độ tơng tự do phát huy lợi thế của kinh tế quy mô trong hoạt động chi trả và thanh
toán.

Tóm lại u điểm lớn nhất của tự do hoá tài chính là tạo ra một môi trờng cạnh
tranh lành mạnh trong mọi thị trờng. Đó là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí,
nâng cao chất lợng phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy
mô, tăng cờng chuyển giao công nghệ và tạo môi trờng thay đổi chính sách quản lý vĩ
mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó tăng cờng năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với
những bất thờng có thể xảy ra trên bình diện quốc tế tạo đà thúc đẩy sự phát triển kinh
tế. Bên cạnh những u điểm của tự do hoá tài chính thì nó còn tồn tại một số nhợc điểm
nhỏ:
Một là, tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài
chính nếu tiến trình tự do hoá tài chính đợc thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự
hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế
hoặc có thể không đủ điều kiện tiên quyết. Khủng hoảng nợ Mexico cùng với một số n-
ớc kém phát triển đầu thập kỷ 80 và cơn bão khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực
Đông Nam á hiện nay đã đặt ra những thách thức to lớn cho hệ thống tài chính thế
giới. Sự vỡ nợ của một loạt các ngân hàng trong quá khứ và mới đây đã dẫn đến một sự
sụp đổ lòng tin đối với hệ thống ngân hàng quốc tế. Nó trở thành nỗi ám ảnh đối với
các nớc. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã
cho thấy 18 trong 25 trờng hợp đợc nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo
sau việc tự do hoá tài chính khoảng 5 năm. Do vậy nhiều ngời cho rằng khủng hoảng
ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài chính theo hớng mở cửa. Thậm
chí nhiều Chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả của tự do hoá tài chính. Trớ trêu
thay nhận định này dờng nh đợc minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn
ra ở Argentina, Barazil, Chile trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mexico năm
1994-1995, và Thái Lan năm 1997. Những cuộc khủng hoảng nh vậy đà làm cho Chính
phủ các nớc Đông Nam á tỏ ra thận trọng khi cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự
do hoá tài khoản vốn. Tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu thì việc mở cửa thị trờng
tài chính bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng
hoảng tài chính ngân hàng. Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá tài chính có
chăng chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính
sách tài chính vĩ mô vón dĩ đã tiềm ẩn và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn dắt

đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hớng mở cửa đã diễn ra ở
7
những nớc này thực chất không gây cản trở hoặc làm phơng hại đến lợi ích thực thụ mà
chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trớc những điều
kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi.
Các nhà nghiên cứu đã xác định nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính
ngân hàng trên thế giới là: sự không ổn định có tính vĩ mô nh sự thất thờng của hoạt
động thơng mại, tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất, sự bùng nổ của hoạt
động cho vay, sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt sự chuẩn bị cha kỹ để
tiến hành mở cửa và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của những cải cách tài
chính.
Vậy tự do hoá tài chính chỉ làm tăng thêm khả năng gây khủng hoảng tài chính
còn nguyên nhân sâu sa của cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu kém
tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ
mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đ-
ờng lối cải cách.
Hai là, Làm phơng hại mục tiêu chiến lợc của quốc gia vì tài chính thờng coi là
công cụ quản lý chiến lợc và lĩnh vực đặc biệt vẫn đợc nắm giữ bởi Nhà nớc để tập
trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trờng tài
chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để
thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức doanh nghiệp nớc ngoài sẽ không quan tâm
đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt trong điều kiện hệ
thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống
trị bởi các tổ chức doanh nghiệp tài chính nớc ngoài thì quyền lực kiểm soát khống chế
và điều chỉnh thị trờng tài chính của Nhà nớc sẽ dần bị thu hẹp lại. Hơn nữa việc mở
cửa thị trờng tài chính nếu không đợc chuẩn bị kỹ lỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện t-
ợng tiêu cực, thiếu lành mạnh nh: lừa đảo, phá sản, đổ vỡ,... gây thiệt hại đến lợi ích
tiêu dùng ngăn cản sự phát triển lành mạnh của một quốc gia.
Tuy nhiên theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu sự thâm nhập của các tổ chức
tài chính nớc ngoài có thể đa đến những lợi ích đáng kể (nh đã đề cập ở trên). Hơn nữa

những nhợc điểm của tự do hoá tài chính có thể khống chế hoặc hạn chế ở mức thấp
nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính nội địa đợc cải thiện đáng kể trớc
khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu nó đợc trợ giúp bởi một chế độ
giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một trình tự mở cửa hợp lý. Nh vậy việc có
tận dụng đợc những lợi ích tiềm năng đó với một chi phí thấp hay không hoàn toàn phụ
thuộc vào đờng lối cải tổ của chính các nớc theo đuổi tự do hoá tài chính.
Trên thực tế có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt của tổ chức
tài chính nớc ngoài làm phơng hại và phá huỷ sự an toàn của hệ thống tài chính của
một nớc. Sự có mặt của tổ chức tài chính nớc ngoài thực chất lại làm tăng thêm sự đa
dạng của hệ thống tài chính và do đó làm tăng thêm tính ổn định cần có. Hơn nữa sự
8
hiệu quả của chính sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào chính sách tỷ giá và
chính sách di chuyển vốn của nớc chủ nhà chứ không phụ thuộc vào sự có mặt hay
không của các tổ chức tài chính nớc ngoài.
Tuy tự do hoá tài chính cũng có những nhợc điểm nhng tiến tới tự do hoá tài
chính vẫn là con đờng phải đi và là một cách lựa chọn có khoa học bởi cái gì cũng có
mặt trái và mặt phải. ở đây tự do hoá tài chính có rất nhiều u điểm và những nhợc điểm
thì có thể khắc phục đợc (nh đã phân tích ở trên). Nh vậy tiến tới tự do hoá tài chính là
xu thế chung của hầu hết các nớc trên thế giới.
9

×