NỘI DUNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ
và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là
tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền
thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là
niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là
đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của
nhân dân”.
1. Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” cần
quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng
nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “ đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm
châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
- Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để
chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao
tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm
của mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa,
bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng;
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý
của dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc của
nhân dân.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua
nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng
được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc,
đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước
mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu
hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.
- Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có
lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho
đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham
học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng
tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng
thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư
tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ
tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho
dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì
trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo,
không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân
2. Thực hiện đúng lời dạy: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư " nêu cao phẩm giá
con người Việt Nam trong thời kỳ mới
"Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ
"đối với mình", được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm
gương mẫu mực về "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Học tập và làm theo tấm gương của
Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là:
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không
xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà
nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
- Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng.
Đối với cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi
ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá
nhân , cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường
lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa
thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm
- Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng,
lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo
nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho
mình thì "hăng hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì không "kiếm chác" được cho riêng mình thì thờ
ơ, lãnh đạm. Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước và
của nhân dân. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực,
loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
3. Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu
mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm
đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người luôn luôn phê phán "óc lãnh tụ", phê phán thói
"quan cách mạng", phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập
thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá
nhân.
- Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong
tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi
dụng dân chủ để "kéo bè, kéo cánh", để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên
quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng , làm cho nhân dân bất bình, cần phải
lên án và loại bỏ.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ
cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm
của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn
phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân
phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi
hỏi cao ở cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Người dạy cán
bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ
không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến
khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu,
theo tư tưởng Hồ Chí Minh "phải nghiêm khắc với chính mình". Phê bình phải có mục đích là
xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan
hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích
nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ
lợi mà "đấu đá", nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
4. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu
nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong
điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con
người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng
Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc
của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn
kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những
thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách mạng thế giới.
- Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng
có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất
nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa,
đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế
giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển
- Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn
trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình,
phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế.
Khép lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây
dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.
- Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần nâng cao tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự
hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời
tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức.
Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức,
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục,
rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống
đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong
những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã
hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện
cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường
xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.
TB
Sự cần thiết phải học tập “Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” trong giai đoạn hiện nay.
Quán triệt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo
việc thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Thực tế, cho đến nay tình hình suy
thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ đảng viên,
công chức vẫn là mặt trận nóng bỏng. Nhiệm vụ chống tham ô, lãng phí, quan liêu là công việc
lâu dài, thường xuyên, liên tục, của các cấp, các ngành; là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên
và mỗi người chúng ta. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải thấy rằng, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu là hành động cách mạng. Phải làm cho mọi người hiểu rõ vì sao phải chống tham ô, lãng phí,
quan liêu? nó có hại cho nước, cho dân như thế nào? Đây là cuộc đấu tranh nội bộ lâu dài ngay
trong từng tổ chức do đó mọi cấp, mọi ngành, từng cán bộ đảng viên phải tự giác, nghiêm túc
học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí, quan liêu; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở; phải dựa vào lực lượng quần
chúng để chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
Ngày nay một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, đảng viên đã trượt ngã vào vũng bùn của chủ
nghĩa cá nhân, vi phạm đạo đức cách mạng, không thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đã trở thành những phần tử quan liêu, xa dân, ức hiếp quần chúng, tham nhũng, hối
lộ, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Cần luôn luôn ghi nhớ lời nhắc nhở cực kỳ
sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua
là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".
Hc tp v lm theo tm gng o c H Chớ Minh cng ng ngha vi vic lm nhng
phm cht chung, c bn nht ca o c cỏch mng l: Trung vi nc, hiu vi dõn; yờu
thng con ngi; cn, kim, liờm, chớnh, chớ cụng vụ t, l phm cht thng trc trong cuc
sng hng ngy, phi tr thnh giỏ tr bt bin trong mi mụi trng, mi hon cnh, mi c
ch kinh t ca ngi cỏn b, ng viờn. iu ú cng lý gii vỡ sao s suy thoỏi chớnh tr, t
tng, o c, li sng ca mt b phn cỏn b, ng viờn hin nay cú nguyờn nhõn ch yu t
s suy thoỏi phm cht ny. Do vy, hc tp v lm theo tm gng o c H Chớ Minh,
mi cỏn b, ng viờn ca ng phi khụng ngng tu dng o c sut i; phi nờu gng
v o c, tr thnh tm gng sỏng qun chỳng noi theo, qun chỳng tin yờu, mn phc.
Câu hỏi: Phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam? Những
truyền thống đó đang đợc Đảng ta giữ gìn và phát huy ra sao ?.
Trả lời: Để trả lời câu hỏi này tôi xin đợc phép đề cập đến một số điểm cơ bản sau:
Trớc hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dới ánh sáng của thời đại mới; Là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin; Phong trào công nhân và Phong trào yêu nớc ở nớc ta
trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin
về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nớc thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nớc từ
ngàn năm.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã thật sự là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân
và của cả dân tộc Việt Nam. Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam đợc thành lập chứng tỏ giai cấp vô sản
Việt Nam đã trởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam không những là
đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là đại biểu chân chính cho lợi ích
của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ mang bản chất giai cấp công
nhân mà còn là lực lợng dẫn dắt phong trào dân tộc chân chính, một Đảng cách mạng vì nớc vì dân.
Chặng đờng vẻ vang hơn bảy thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dới sự lãnh đạo của Đảng
đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã đạt đợc những thành tựu kỳ
diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm của mình nhng
đã đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng đã công khai tự phê bình, nhận khuyết
điểm trớc nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn đợc nhân dân tin
cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị, ngời lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc. ở
nớc ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lợng nào có thể lãnh đạo cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng tôi luyện và trởng thành và đã xây
dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Trong những truyền
thống đó nổi bật nhất là 6 truyền thống cơ bản sau:
Thứ nhất là; Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tởng cách mạng.
Hai là; Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
Ba là; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bốn là; Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, phải gắn bó mật thiết với nhân dân.
Năm là; Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
Sáu là; Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế
Để thấy rõ những điểm nổi bật của sáu truyền thống trên ta thấy rằng: Từ khi ra đời đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi mà nhân dân, dân tộc ta đánh đổi
bằng cả xơng máu của các lớp thế hệ con Lạc cháu Hồng.
Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nớc Việt Nam dân
chủ Cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm
sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào cách mạng 1930 1931. Đặc biệt là phong trào Xô viết Nghệ
Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 1945. Nh ba
cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một
nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa Cách
mạng tháng Tám thành công trọn vẹn, đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nớc ta, mở ra kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thực hiện
thống nhất Tổ quốc, đa cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bớc đa đất nớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế
thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và
trong những năm đầu sau khi nớc nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi khảo nghiệm sáng kiến của
nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đờng lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với sự cố gắng của các tổ chức Đảng ở trong nớc và của các đồng chí hoạt động ở nớc ngoài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3/1935) đề ra chủ trơng đờng lối và tổ chức hoạt động của
Đảng. Đại hội đã đánh dấu sự khôi phục của tổ chức Đảng từ Trung ơng đến đại phơng, thống nhất
phong trào cách mạng dới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ơng mới, đem lại niềm tin cho đảng
viên và quần chúng.
Những năm 1936 1939, tình hình trong nớc và thế giới có nhiều thay đổi, các Hội nghị
Ban chấp hành Trung ơng Đảng năm 1936, 1937 và 1939 đã có những quyết định kịp thời về chuyển
hớng hình thức tổ chức và sử dụng những hình thức đấu tranh phù hợp, dấy lên cuộc vận động dân
chủ rộng lớn một hiện tợng hiếm có xảy ra ở một nớc thuộc địa. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ (1/9/1939), thực dân Pháp tăng cờng đàn áp phong trào cách mạng, phát xít Nhật đánh chiếm Việt
Nam và Đông Dơng, Nhật Pháp câu kết thống trị dân tộc ta, loàm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và phát xít Nhật phát triển gay gắt. Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng Đảng
(11/1939) đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng (11/1940) tiếp
tục chủ trơng đó. Tháng 1/1941, sau gần 30 năm hoạt động ở nớc ngoài lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về n-
ớc cùng với Trung ơng Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Trong lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc, hoạt động bí mật không có điều kiện họp Đại hội đại biểu toàn quốc định
kỳ, các Hội nghị Trung ơng, Hội nghị Ban thờng vụ Trung ơng và Hội nghị cán bộ Đảng có vai trò
quan trọng. Cụ thể hoá Nghị quyết Trung ơng 5/1941. Hội nghị Ban Thờng vụ Trung ơng mở rộng
3/1945 và bản Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta . Trên cơng vị là Ngời
đứng đầu Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh đã cùng Ban Thờng vụ Trung ơng Đảng đã chèo lái con
thuyền cách mạng chiến thắng giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Sau tháng lợi của Cách mạng
tháng Tám năm 1945 Đảng đã nắm chính quyền toàn quốc nhng do hoàn cảnh lịch sử khó khăn, phức
tạp Đảng phải rút vào bí mật để thực hiện sự lãnh đạo kín đáo và khôn khéo. Các Hội nghị Ban Thờng
vụ Trung ơng Đảng đã trực tiếp quyết định những vấn đề về chiến lợc và sách lợc của Đảng và Nhà n-
ớc cách mạng về xây dựng chế độ mới và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lợc. Hội nghị Ban
thờng vụ Trung ơng Đảng 11/1945 với bản chỉ thị Kháng chiến kiến quốc ; Hội nghị BCH TW
Đảng mở rộng 3/1946 với chủ trơng Hoà để tiến ; Hội nghị Ban Thờng vụ Trung ơng Đảng mở
rộng 12/1946 với bản chỉ thị Toàn dân kháng chiến .
Trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Ban Chấp hành Trung ơng Đảng khoá
III đã có nhiều Hội nghị với những Nghị quyết quan trọng, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ Năm (1961) bàn về phát triển nông
nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ bảy (1962) bàn về phơng hớng, xây dựng và phát
triển công nghiệp. Hội nghị lần thứ Tám (1963) bàn về phát triển kinh tế quốc dân. Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ Mời (1964) tập trung bàn về thơng nghiệp và giá cả. Các Hội nghị
Trung ơng lần thứ mời chín (1971), lần thứ Hai mơi (1972) và lần thứ Hai mơi hai (1973) về phát
triển kinh tế quốc dân ở miền Bắc.
đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam và chống Mĩ cứu nớc, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành
Trung ơng đã giành nhiều Hội nghị với những nghị quyết quan trọng để lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời.
Hội nghị Bộ Chính trị (1/1961) ra Chỉ thị Về ph ơng hớng và nhiệm vụ công tác trớc mắt của cách
mạng miền Nam . Tháng 2/1962 Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về công tác cách mạng miền Nam .
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ chín (12/1963) bàn về Ph ơng hớng và nhiệm vụ
cách mạng miền Nam và đờng lối quốc tế của Đảng trong tình hình mới. Các Hội nghị Trung -
ơng lần thứ mời một (3/1965) và lần thứ mời hai (12/1965); Hội nghị Trung ơng lần thứ 13 (1967) về
đẩy mạnh đấu tranh công tác ngoại giao. Chủ trơng mở cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm
1968 đợc đề ra tại Hội nghị Trung ơng lần thứ 14; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ 18
(1970) với chủ trơng Đánh bại chiến l ợc Việt Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ . Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 19 (1971) là Kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n ớc. Sau khi
ký Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai vẫn ngoan cố tiếp tục chiến tranh, vi phạm
Hiệp định. Trớc tình hình đó Hội ghị Ban Chấp hành Trung ơng đảng lần thứ 21 (1973) đã có Nghị
quyết quan trọng khẳng định Con đ ờng cách mạng miền Nam vẫn là con đờng bạo lực cách
mạng, phát triển lực lợng về mọi mặt để giành thắng lợi hoàn toàn. Những quyết định về phơng án
giải phóng miền Nam đã đợc Hội nghị Bộ Chính trị họp ngày 30/9 đến 8/10/1974 và từ 18/12/1974
đến 8/1/1975 thông qua trực tiếp đa đến thắng lợi hoàn toàn của Đại thắng mùa Xuân 1975, giải
phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nớc.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc đất nớc thống nhất và đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã họp tháng 12/1976 tại Hà Nội. Đại hội đã
tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc và của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân Việt Nam. Đại hội đề ra đờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đờng lối xây dựng phát triển
kinh tế trên cả nớc. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhân dân cả nớc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đó là khó khăn và cũng là thách thức mới. Các Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ơng Đảng đã đề ra những chủ trơng, biện pháp để kết hợp chặt chẽ hai nhiệm
vụ chiến lợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng đã cụ thể hoá đờng lối
của Đại hội IV thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, xác lập quan hệ sản xuất
mới, đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội theo những chỉ tiêu chủ yếu mà Đại hội đã đề ra. Tình hình
kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân có nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và cũng do sự trì
trệ, kém hiệu quả của cơ chế quản lý cũ Từ trong khó khăn đó Đảng và nhân dân ta đã bắt đầu có
những khảo nghiệm thực tế và tìm tòi cách thức, cơ chế quản lý mới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung -
ơng Đảng lần thứ sáu khoá IV (9/1979) đã mở đầu cho quá trình tìm tòi, đổi mới chủ trơng khuyến
khích mọi lực lợng và năng lực sản xuất làm cho sản xuất bung ra làm ra nhiều của cải vật chất cho
xã hội. Các Hội nghị Trung ơng tiếp theo và những quyết dịnh của Bộ Chính trị, Ban Bí th đã hớng
vào sự tìm tòi, đổi mới cơ chế quản lý Trong cuộc tr ờng chinh để giành lại độc lập, tự do cho
dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó
khăn. Đảng gắn bó với nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nớc.
Trong giai đoạn mới, Đảng quyết làm tất cả vì phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân
(1)
Trải qua mời năm lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam họp đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đã nêu bật những thành tựu của 10 năm đổi mới về nhịp
độ phát triển kinh tế, những chuyển biến tích cực về mặt xã hội; giữ vững ổn định chính trị, củng cố
quốc phòng an ninh; thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị và phát
triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh nớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội; đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng đờng đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền
đề cho công nghiệp hoá, đất nớc chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá; con
đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta ngày càng đợc xác định rõ hơn.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ Năm (7/1998) đã thông qua Nghị quyết về
Xây dựng và phát triển nên văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc , nêu rõ 5
quan điểm chỉ đạo. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ sáu (10/1998) thảo luận và
quyết định những vấn đề kinh tế xã hội để khắc phục những khó khăn yếu kém, v ợt qua những
thách thức do ảnh hởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ các nớc trong khu vực. Hội nghị Trung ơng
sáu (lần 2) họp tháng 1-2/1999 đã thảo luận và ra Nghị quyết Về một số vấn đề cơ bản và cấp
bách trong xây dựng Đảng hiện nay mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự
phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm
70 năm thành lập Đảng
Có thể thấy rằng sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn non trẻ qua các kỳ Đại
hội nhng vẫn giữ vững đợc những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là giữ vững
Cơng lĩnh, đờng lối đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tởng cách mạng;
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh suyên suốt cuộc kháng chiến trờng kỳ của
dân tộc, nhân dân ta. Tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết, tạo sự thống
nhất trong toàn Đảng về chính trị, t tởng và tổ chức luôn đợc đặt lên hàng đầu điều đó đợc thể hiện
qua các cuộc Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng; Thể hiện trên con đờng phát triển của cách mạng
Việt Nam, nhất là trong những bớc ngoặt lịch sử phải đơng đầu với mọi thử thách dù hiểm nghèo tởng
không thể vợt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của
thực tiễn nhng dới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng đã đa con thuyền cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngời viết: Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc. Các đồng chí từ Trung ơng đến các
chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng nh con ngơi của mắt mình Đảng ta không
chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát
triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Và chính là kết quả của quá trình
phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân
tộc và quốc tế sâu sắc thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng đợc nâng cao
của Đảng ta. Đây là kết quả tất yếu của sự chuẩn bị công phu, gian khổ với những bớc đi phù hợp thể
hiện năng lực tổ chức tài tình của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc; Là sự thắng thế của t tởng vô sản đối với
đờng lối chính trị của giai cấp t sản
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ đơn độc, biệt lập của phong trào dân tộc
Việt Nam. Từ đây gắn chặt phong trào cách mạng nớc ta gắn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng
thế giới, kết hợp sức mạnh thời đại và sức mạnh trong nớc, kết hợp chủ nghĩa yêu nớc chân chính với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng. Đảng lãnh đạo cách mạng không phải là một đặc quyền, đặc lợi mà là sứ mệnh
lịch sử, là trách nhiệm nặng nề, vẻ vang của Đảng với giai cấp, với dân tộc đợc nhân dân giao
phó
(2)
. Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng vững trên nền
tảng t tởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh. Đảng ta không chỉ
nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát
triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta mà còn tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Trong bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm thành
lập Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Đảng ta vĩ đại nh biển rộng núi cao,
Ba mơi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no.
Công ơn Đảng thật là to,
Ba mơi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng .
Thật vậy, kể từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân, cùng nhân
dân mình viết nên những trang sử chói lọi, trong đó mỗi kỳ Đại hội Đảng, mỗi thời đoạn của cách
mạng Việt Nam là một dấu son không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc./.
Câu 2: Cần làm gì và phấn đấu nh thế nào để trở thành đảng viên ? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ
vào Đảng đúng đắn đợc đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với một đảng viên ? Điều lệ
Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên nh thế nào ?.
Trả lời: Đối với mỗi cá nhân muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải tự
mình trả lời những câu hỏi: Tại sao ta vào Đảng ? Vào Đảng để làm gì ?, Mục tiêu lý tởng của Đảng
ta là gì ?.
Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: Vì sao chúng ta vào Đảng ? Phải chăng để thăng quan, phát
tài ? Không phải ! Chúng ta vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, làm trọn nhiệm vụ của ngời đảng viên. Cũng trong Di chúc của mình, Ngời viết Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô t. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là ngời lãnh đạo, là ngời đầy tớ
thật trung thành của nhân dân Những ngời muốn vào Đảng phải xây dựng cho mình đợc động
cơ đúng đắn bởi nó có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên, nó sẽ là động lực
lớn thúc đẩy mọi hành động, việc làm của chúng ta sau này. Để trở thành một đảng viên mỗi chúng ta
cần thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Bản lĩnh
chính trị đợc thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lý tởng đã lựa chọn trong bất kỳ tình huống khó khăn
nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu, trung thành với lợi ích của Đảng, với
lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, suốt đời tận tâm trung thành phục vụ cho Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, thấy sai phải biết phê phán Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao
động giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của ngời cách mạng là giàu sang không quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục. Đây chính là nét nổi bật của ngời đảng
viên.
Hai là, Không ngừng nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ đợc giao, thờng xuyên trau
dồi đạo đức cách mạng. Là một ngời đảng viên chân chính, mẫu mực không chỉ hoàn thành nhiệm vụ
mà phải gơng mẫu hoàn thành tốt, đảm bảo chất lợng công việc cũng nh đem lại hiệu quả cao. Để làm
đợc điều đó đòi hỏi ngời đảng viên không chỉ nâng cao về năng lực mà còn cả năng lực về trí tuệ và
năng lực thực tiễn, không ngừng học hỏi trau dồi để đủ kiến thức đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.
Ba là, ngời đảng viên phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn
thể cũng nh các công tác xã hội. Điều đó đợc thể hiện ở ngay chính nơi ở, nơi làm việc cũng nh các
mối quan hệ với các quần chúng khác, biết lắng nghe, hiểu đợc tâm t nguyện vọng của quần chúng,
biết chăm lo đến lợi ích, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vận động nhân dân sống và làm việc
theo đờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nớc. Những hoạt động chính là cơ hội tốt
giúp cho chúng ta tiến bộ, trởng thành về chính trị, tạo dựng sự tín nhiệm của nhân dân tạo đà cho
mỗi quần chúng phấn đấu trở thành đảng viên.
Bốn là, tích cực tham gia xây dựng Đảng cơ sở. Để đợc đứng trong hàng ngũ của Đảng chúng
ta không những tự giác thừa nhận, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng mà còn cần tích cực tham gia xây
dựng Đảng, giúp Đảng phát hiện những quần chúng mất t cách đạo đức, phát hiện những đảng viên
tha hoá về đạo đức, lối sống, chống tham nhũng trong Đảng
Năm là, mỗi ngời chúng ta không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, đi
ngợc với chủ trơng chính sách của Đảng và Nhà nớc, vận động quần chúng nhân dân sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực góp phần xây dựng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
thực hiện mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh
Động cơ thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự nguyện của
những ngời cùng chung một chí hớng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân giàu, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, vững bớc đi lên CNXH. Mỗi ngời chúng ta nguyện phấn đấu vào Đảng
chính là tự nguyện dấn thân theo lý tởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, không sợ khó, sợ khổ, quyết
tâm theo đuổi đến cùng con đờng dẫn đến mục tiêu CNXH. Mỗi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn của
công cuộc đổi mới hiện nay, ra sức nắm bắt để vận dụng vào nhiệm vụ của mình; phải tích cực tham
gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đờng lối, chủ trơng, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà n-
ớc, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng, bảo đảm toàn thể thống nhất trong nội bộ làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, tích cực
làm công tác phát triển đảng viên mới.
Cái đợc lớn nhất khi vào Đảng là có cơ hội đợc phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân trong
cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Động cơ vào Đảng đúng đắn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết quyết định. Bởi, chỉ có động
cơ đúng đắn mới có thể đáp ứng đợc những yêu cầu của Đảng và Đảng cũng chỉ kết nạp những ngời
giác ngộ về mục đích, lý tởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những ngời có
động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc, càng không để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ
vào Đảng đúng đắn chúng ta ta cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng bằng chính việc làm
hàng ngày của mình, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân góp phần thực hiện có hiệu quả mục
tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, thờng xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân, kiêu căng, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của ngời chiến sĩ cách
mạng. Lúc sinh thời Bác Hồ đã căn dặn Nếu không phục vụ đ ợc nhân dân, phục vụ đợc cách
mạng thì đừng vào Đảng. Bởi Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh
đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội chứ không phải là nơi để tìm kiếm
danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là niềm tin, lẽ sống,
là động lực tinh thần to lớn của mỗi chúng ta.
Qua quá trình nghiên cứu và học tập về Đảng tôi nhận thấy rằng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lợng duy nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi. Trong thời đại ngày nay, với mục
tiêu và lý tởng cao đẹp mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn và xây dựng. Tôi tha thiết và mong
muốn đợc đứng trong hàng ngũ của Đảng để góp sức nhỏ bé của mình cho sự nghiệp chung của dân
tộc và xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Tuyệt
đối trung thành với Đảng, với lý tởng cách mạng, nguyện đi theo con đờng mà Đảng, Bác cùng toàn
thể nhân dân đã lựa chọn. Mong rằng, Chi uỷ, Đảng uỷ giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi đợc đứng trong
hàng ngũ của Đảng./.
Phõn tớch y nguyờn taộc tp trung dõn ch
Tp trung dõn ch l mt trong nhng nguyờn tc c bn trong t chc v hot ng ca cỏc
c quan nh nc nc Cng hũa xó hi ch ngha Vit Nam. Nguyờn tc ny ó c ghi
nhn ti iu 4 Hin phỏp 1959, iu 6 Hin phỏp 1980 v iu 6 Hin phỏp 1992 Quc
hi, Hi ng nhõn dõn v cỏc c quan khỏc ca Nh nc u t chc v hot ng theo
nguyờn tc tp trung dõn ch. Khụng nhng nc ta, cỏc nc xó hi ch ngha cng ghi
nhn nguyờn tc ny trong Hin phỏp v cng xỏc nh l nguyờn tc c bn trong t chc v
hot ng ca b mỏy nh nc
Tp trung l mt thuc tớnh qun lý quan trng ca bt k nh nc no, song nh nc xó hi
ch ngha núi chung v nh nc ta núi riờng khụng ỏp dng s tp trung c oỏn hay tp
trung quan liờu m l tp trung trờn c s dõn ch chõn chớnh. S tp trung ú rt xa l vi tp
trung quan liờu, tỏch ri b mỏy nh nc vi nhõn dõn. ỳng nh V.I.Lờnin ó nhn mnh
rng, nguyờn tc tp trung dõn ch ngha chung nht l: tp trung c hiu ngha dõn ch
thc s. Tp trung trong t chc v hot ng ca cỏc c quan nh nc phi mang tớnh dõn
ch ch khụng phi tp trung c oỏn, tp trung quan liờu. Ngoi ra, cng cn lu ý rng
nguyờn tc ny c Lờnin nờu ra trc Cỏch mng thỏng 10 Nga trong bi cnh ni b ng
Cng sn Nga xut hin nhiu t tng cú khuynh hng cn tr vic thng nht ng li,
thng nht hnh ng cỏch mng. Ni dung ca nguyờn tc ny, theo Lờnin l thng nht nhn
thc, thng nht hnh ng gi vng ng li cỏch mng v tin hnh cỏch mng thng
li. T ú, nguyờn tc tp trung dõn ch c xỏc nh l nguyờn tc c bn trong t chc v
hot ng ca ng Cng sn Nga
Ở nước ta, nguyên tắc này không những được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước mà tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam và một số các tổ chức chính trị – xã
hội cũng vận dụng nguyên tắc này
Trên bình diện toàn bộ bộ máy nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện ở một
số nội dung cơ bản:
- Toàn bộ các cơ quan nhà nước phải có một trung tâm quyền lực chỉ đạo một cách mạnh mẽ
và thống nhất, mỗi cơ quan nhà nước đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất
định. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
- Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp phải do nhân
dân bầu ra theo bốn nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín trên cơ sở dân
chủ. Các đại biểu dân cử thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước phải liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, nói lên tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát chặt chẽ
của nhân dân. Nếu không còn được sự tín nhiệm của nhân dân thì đại biểu dân cử có thể bị bãi
nhiệm.
- Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo qui định của Hiến
pháp và pháp luật, nhưng những vấn đề quan trọng nhất của đất nước trước khi quyết định
phải lấy ý kiến của nhân dân hoặc phải do nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc trưng
cầu ý kiến của nhân dân. Ở địa phương, những vấn đề quan trọng ở địa phương cần tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến hoặc trực tiếp quyết định.
- Trên cơ sở qui định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của mình và căn cứ vào đặc điểm,
tình hình, lợi ích hợp lý của điạ phương (và cấp dưới), các cơ quan nhà nước trung ương (và
cấp trên) có quyền quyết định đối với địa phương (và cấp dưới). Các cơ quan nhà nước địa
phương (và cấp dưới) có quyền chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện quyết định của cơ
quan nhà nước trung ương (và cấp trên) hoặc những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, phù
hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương hoặc đơn vị mình, nhưng không được trái với các qui
định của trung ương (và cấp trên ).
- Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải phân định những vấn đề thuộc thẩm quyền
tập thể, những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của người đứng đầu. Những vấn đề
thuộc thẩm quyền tập thể thì thiểu số phục tùng đa số nhưng thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến,
đa số cũng cần xem xét, tham khảo ý kiến của thiểu số để kiểm tra tính đúng đắn trong quyết
định của mình. Những vấn đề cá nhân có quyền quyết định thì cá nhân phải chịu trách nhiệm
về quyết định của mình.
- Ủy ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra (và do cấp trên phê chuẩn)
và phải thực hiện các quyết nghị của cơ quan quyền lực, chịu sự giám sát của cơ quan quyền
lực cùng cấp.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng trong tổ chức và hoạt động trong các cơ quan
nhà nước khác nhau thì khác nhau. Có thể phác họa hình thức thể hiện của nguyên tắc này
trong từng loại cơ quan nhà nước như sau:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Các
đại biểu dân cử có thể bị nhân dân bãi nhiệm