Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

thực trạng và giải pháp phát triển thị trường nội địa của tổng công ty dệt may việt nam vinatex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.17 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kì hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay, cần nhận thức rằng phát triển thị trường
nội địa trong thời kỳ hội nhập không có nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp thay thế nhập
khẩu, mà cần xem đó là điểm tựa để các doanh nghiệp Việt Nam vững tin đi ra biển lớn. Ngày
7/11/2006 Việt Nam trở thành thành thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) đánh dấu
bước tiến quan trọng của thời kì mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này tạo cơ hội to lớn
cho Việt Nam trong tiến trình cải cách trong nước, phát triển kinh tế xã hội cùng với những
thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của nước ta trên thị
trường quốc tế. Tuy nhiên điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ phải đối đầu với thách
thức không nhỏ. Trong điều kiện đó quan điểm phát triển thương mại của nước ta là phát triển
đồng bộ các loại thị trường hàng hoá dịch vụ, mở rộng thị trường ngoài nước phải gắn với việc
phát triển ổn định thị trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở.Vì vậy “phân tích
thị trường nội địa – phương hướng phát triển thương mại nội địa” là vấn đề đáng được quan
tâm hơn cả, cần có định hướng chính sách đúng đắn để phát triển thị trường nội địa trên cơ sở
đó nâng cao vai trò của thương mại nội địa trong việc định hướng và phát triển sản xuất, phục
vụ nhu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tạo cơ sở để kinh tế phát triển, góp phần chuyển
dịch cơ cấu, tạo tiền đề để chủ động hội nhập kinh tế – thương mại quốc tế một cách sâu rộng
và thành công. Vì điều kiện có hạn nên nhóm chỉ đề cập tới thương mại nội địa và thực phát
triển thị trường nội địa ngành dệt may Việt Nam, mong thầy và các bạn đóng góp ý kiến để
nhóm hoàn thiện hơn nữa !
MỤC LỤC:
Nội dung:
Mở đầu
A. Phần lý thuyết
Phần I. Lý thuyết những vấn đề chung về thương mại nội địa.
1. Khái quát về thương mại nội địa.
2. Đặc trưng của thị trường nội địa.
3. Vai trò của thị trường nội địa
Phần II. Phân tích thực trạng thị trường nội địa
1. Đặc điểm thị trường nội địa Việt Nam trong điều kiện hội nhập
2. Các loại hình thương mại chủ yếu trên thị trường nội địa


3.Thương mại nội địa Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Phần III : Phương hướng và biện pháp phát triển thương mại nội địa .
III.I. Phương hướng phát triển
1.Khu vực thành thị.
2.Khu vực nông thôn đồng bằng.
3. Khu vực nông thôn miền núi( vùng đặc biệt khó khăn).
III.II Giải pháp phát triển thương mại nội địa
1.Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa , triển khai xây dựng và phê duyệt quy
2.Ban hành một số chính sách khuyến khích hoạt động thương mại nội địa.
B. Phân tích thực trạng thị trường nội địa tập đoàn dệt may Việt Nam
1.Đặc điểm chung của thị trường dệt may nội địa
2.Thực trạng phát triển thị trường nội địa của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2.1Giới thiệu sơ lược về Tập Đoàn Dệt Mau Việt Nam (Vinatex)
2.2Tình hình phát triển trị trường nội địa của Vinatex
2.3.Đánh giá chung về phát triển thị trường nội địa của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam.
2.3.1 Kết quả đạt được
2.3.2 Hạn chế còn tồn tại
Phần IV. Giải pháp phát triển thị trường nội địa của Vinatex
4.1 Mục tiêu chiến lược của Vinatex tại thị trường nội địa
4.2 Phương hướng phát triển của thị trường của Vinaconex trong thời gian tới
4.3 Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường nội địa của Vinatex
Kết luận
Phần I. Lý thuyết những vấn đề chung về thương mại nội địa.
1. Khái quát về thương mại nội địa.
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán là nơi tập hợp các quan hệ hàng-tiền
cung-cầu và các điều kiện như kinh tế, kỹ thuật… để thị trường vận hành thông suốt, là nơi
chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai
bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất định theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ
số lượng và giá cả cần thiết của sản phẩm, dịch vụ. Thực chất, thị trường là tổng thể các khách
hàng tiềm năng cùng có cùng một nhu cầu cụ thể nhưng chưa được đáp ứng và có khả năng

tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu đó. Với nghĩa này, có thị trường gạo, thị trường cà phê,
thị trường dệt may, thị trường chứng khoán thị trường vốn, v.v Cũng có một nghĩa hẹp khác
của thị trường là một nơi nhất định nào đó, tại đó diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa và
dịch vụ. Với nghĩa này, có thị trường Hà Nội, thị trường miền Trung, miền Nam Trong kinh
tế học, thị trường được hiểu rộng hơn, là nơi có các quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vô
số những người bán và người mua có quan hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào,
thời gian nào.
2. Đặc trưng của thị trường nội địa.
Kinh tế thị trường có những đặc trưng sau : có một khối lượng hàng hoá, dịch vụ dồi dào phong
phú mà nền kinh tế tự nhiên, kinh tế chỉ huy chưa bao giờ đạt được; mọi hoạt động mua bán
đều theo giá cả thị trường ; tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế; sản xuất và bán hàng hoá theo
nhu cầu thị trường, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở; cạnh tranh là môi trường của kinh tế
thị trường. Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể dẫn đến không chỉ tiến bộ mà cả
suy thoái, khủng hoảng, xung đột xã hội nên cần có sự can thiệp của nhà nước. Kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước là nền kinh tế hỗn hợp vừa có cơ chế tự điều chỉnh của thị
trường, vừa có cơ chế quản lý điều tiết của nhà nước. Trong điều kiện như vậy thị trường nội
điạ ở nước ta có những đặc trưng cơ bản sau :
Một là, thị trường nội địa hàng hoá dịch vụ phát triển dựa trên cơ sở nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do nhiều hình thức sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế bao gồm : kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .
Hai là, thị trường nội địa phát triển theo định hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước . Sự
quản lý này được thực hiện bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển thị trường nội địa .
Ba là, thị trường nội địa tự do hay tự do lưu thông hàng hoá dịch vụ theo quy luật kinh tế thị
trường và theo pháp lụât. Thị trường nội địa làm cho sản xuất phù hợp với những biến đổi
không ngừng của thị trường trong nước và thế giới, đồng thời thông qua việc phục vụ tiêu dùng
làm nảy sinh nhưng nhu cầu mới mà kích thích sản xuất .
Bốn là, thị trường nội địa theo giá cả thị trường. Giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở
giá trị thị trường. Mua bán hàng hoá theo giá cả thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất

kinh doanh phát triển, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vươn lên làm giầu.
Năm là, tất cả các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đều được tiền tệ hoá
và được thiết lập một cách hợp lý theo định hướng kế hoạch của nhà nước, tuân theo các quy
luật của lưu thông hàng hoá và của kinh tế thị trường .
3. Vai trò của thị trường nội địa
Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế (GDP) thông qua thương mại và đầu tư, chuyển giao
công nghệ phân bổ vốn và nhân lực mang tính quốc tế.
Thúc đẩy lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông suốt là cầu nối gắn liền sản xuất với tiêu
dùng, thúc đẩy tái sản xuất xã hội phát triển
Tạo cơ hội phát triển các loại hình doanh nghiệp, hình thức kinh doanh mới tiến bộ bên cạnh
những loại hình hình thức thương mại truyền thống
Giải quyết nhiều quan hệ cân đối lớn của nền kinh tế và đời sống xã hội tạo việc làm và thu
nhập cho người lao động
Vừa là căn cứ vừa là đối tượng, tiền đề quan trọng của kế hoạch, quy hoạch và chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội, điểm tựa của xuất nhập khẩu và là nơi để các lực lượng thị trường cạnh
tranh, hội nhập và phát triển.
Phần II. Phân tích thực trạng thị trường nội địa
1. Đặc điểm thị trường nội địa Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Là thị trường thống nhất trình độ phát triển thấp và không đồng bộ
Đang từng bước chuyển mạnh và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Có sự tham gia của đầy đủ thành phần kinh tế cùng cạnh tranh có nhiều chủ sở hữu và hình
thức thương mại trong đó thương mại nội địa đóng vai trò chủ đạo.
Các loại hình giao dịch trên thị trường ngày càng đa dạng, đối tượng giao dịch ngày càng mở
rộng.
Đảm bảo tính thống nhất, sự gắn kết giữa các địa phương, các vùng với thị trường trong nước
và ngoài nước
Tiềm năng hấp dẫn và ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường quốc tế.
2. Các loại hình thương mại chủ yếu trên thị trường nội địa
Các loại hình thương mại truyền thống:
- Thương mại buôn bán, bán lẻ tại các cửa hàng, cửa hiệu

- Đại lý thương mại
- Thương mại chợ đô thị và nông thôn.
Các loại hình thương mại mới:
- Nhượng quyền thương mại
- Thương mại trong các siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ thương mại, sàn giao dịch
- Thương mại điện tử ( qua mạng internet) và các loại phi truyền thống khác
4. Thương mại nội địa Việt Nam từ năm 1986 đến nay:
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế nước ta mở đầu từ Đại Hội VI đến nay đã trải
qua 25 năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc, đánh dấu bước
ngoặt trong đổi mới cơ chế, chính sách và quản lý kinh tế nói chung, thị trường và thương mại
– dịch vụ nói riêng. Đảng và Nhà Nước đã ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính
trị, thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thành tựu đạt được
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục, không chỉ giải quyết đàu ra, tiêu thụ sản phẩm
cho các ngành sản xuất mà tự thân thương mại nội địa cũng góp phần gia tăng GDP chung cả
nước.
Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động,nhất là lao động phổ thông, góp phần giải quyết áp
lực về mặt xã hội của một quốc gia đông dân như Việt Nam. Đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu phong phú đa dạng của người tiêu dùng, chủ yếu chỉ có các doanh nghiệp thương mại nhà
nước đến nay đã có nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt
động thương mại nội địa với số lượng ngày một tăng. Kết cấu hạ tầng thương mại từng bước
được củng cố và phát triển xuất hiện nhiều loại hình tổ chức phân phối tiến bộ và hiện đại, nhất
là ở các thành phố lớn, làm thay đổi diện mạo tổ chức thị trường nội địa.
- Những khó khăn đang còn tồn tại
Tuy nhiên với vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của cả nước,
thương mại nội địa 10 năm qua cũng đã bộc lộ không ít tồn tại. Đó là:
Thứ 1: Hoạt động thương mại nội địa hoạt đọng thiếu tính bền vững, chưa tương xứng với vị trí
và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. Kết cấu hạ tầng thương mại tuy có bước cải thiện
đáng kể nhưng về tổng thể, các kênh phân phối vẫn còn yếu kém và lạc hậu.
Thứ 2: Lực lượng nhân dân đông nhưng chưa mạnh, đa số là có quy mô kinh doanh nhỏ và

vừa, tăng trưởng chậm, thiếu những doanh nghiệp lớn với phương pháp qủn trị tiên tiến làm
“đầu tàu “ tiên phong để lôi kéo, dẫn dắt và liên kết các doanh nghiệp khác lại thành 1 hệ thống
phân phối theo hướng hiện đại.
Thứ 3: Quá trình tích tụ và tập trung nguồn lực của doanh nghiệp đều còn yếu. Phương thức
kinh doanh chậm chưa được đổi mới, chưa theo kịp xu thế chung của khu vực và thế giới. Hệ
thống phân phối phát triển còn mang nặng tính tự phát, thiếu ổn định và chưa bền vững.
Do vậy thị trường dễ bị tổn thương mỗi khi có biến động khách quan, văn minh thương
mại còn ở trình độ thấp, nguồn gốc, chất lượng, giá cả của hàng hoá lưu thông trên thị trường
thiếu minh bạch, chưa tạo được niềm tin cho người tiêu dùng. Doanh nghiệp thương mại hoạt
động thiếu tính chuyên nghiệp và sức cạnh tranh yếu. Thương mại nội địa chưa làm tốt vai trò
là cầu nối để định hướng và thúc đẩy sản xuất phát triển .
- Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại.
Quan điểm, nhận thức chung về vị trí, vai trò của hoạt động thương mại nội địa đối với nền
kinh tế quốc dân chưa rõ ràng và sâu sắc. Tư tưởng cho rằng thương mại là khâu trung gian,
không tạo sản phẩm hàng hoá, do đó không được khuyến khích ưu đãi đã kìm hãm sự phát triển
rất cần thiết và rất quan trọng của thị trường nội địa. Cũng chính vì vậy thời gian qua, thương
mại nội địa chưa thực sự trở thành cầu nối vững chắc giữa sản xuất và tiêu dùng, chưa thực sự
trở thành “ đòn xeo” để phát triển cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Hoạt động thương mại nội địa tuy
có phát triển nhưng mang nặng tính tự phát, chủ yếu là dựa vào sự giải phóng các năng lực nội
sinh cuả toàn xã hội được tạo ra bởi sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, khuyến
khích nhiều thành phần tham gia làm cho khối lượng sản phẩm làm ra gia tăng kéo theo nhu
cầu mua bán trong xã hội tăng lên mạnh mẽ. Các kênh phân phối, các hệ thống phân phối cũng
theo đó mà tự phát hình thành là chủ yếu.
Bên cạnh đó quản lý Nhà Nước về thị trường và hoạt động thương mại chưa đáp ứng và
giải quyết tốt các yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển. Trong đó có những vấn đề như tổ
chức và quản lý một số mặt hàng quan trọng, mặt hàng đặc thù, sử dụng các công cụ quản lý vĩ
mô để điều tiết quá trình lưu thông hàng hoá trong nước gắn với mở cửa cho các doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư phát triển hệ thống phân phối hiện đại, kiểm soát chất lượng hàng hoá, bảo
vệ người tiêu dùng, chống buôn lậu và bán hàng giả…
Phần III: Phương hướng và giải pháp phát triển thương mại nội địa .

III. Phương hướng phát triển
1.Khu vực thành thị.
a.Tại các thành phố loại 1 .
Phát triển nhanh hệ thống phân phối hiện đại gồm các trung tâm thương mại, trung tâm
mua sắm, siêu thị, các cửa hàng bán hàng tiến bộ( cửa hàng tịên lợi, cửa hàng chuyên doanh
…) thuộc nhiều loại hình doanh nghiệp phân phối với quy mô tương đối lớn.
Khuyến khích các doanh nghiệp phân phối phát triển hệ thống theo chuỗi. Từng bước liên
kết, lôi kéo các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống, các hộ kinh doanh cá thể vào
hệ thống chuỗi, cửa hàng tịên lợi kết hợp hài hoà giữa các loại hình thương mại truyền thống
với thương mại hiện đại.
Xây dựng hệ thống logicstics gồm các trung tâm kho vận, kho bán buôn, các trung tâm
phân phối với công nghệ và kỹ thuật hiện đại là “ cứ điểm” phát luồng cho mạng lưới bán lẻ
trong các thành phố và các vùng phụ cận tiến tới cho cả khu vực nông thôn .
Hạn chế xây dựng mới các chợ nội thành; nâng cấp, cải tạo các chợ thành một số chợ trung
tâm của thành phố, sắp xếp lại các chợ dân sinh (phường, liên phường) trong mối tương quan
với các loại hình phân phối hiện đại. Từng bước chuyển hoá các chợ dân sinh nhỏ thành siêu
thị, cửa hàng tịên lợi kết hợp với việc di chuyển ra ngoại thành để hình thành các chợ đầu mối
bán buôn.
b.Tại các thành phố loại 2 và loại 3,các thị xã và các khu công nghịêp lớn
Phát triển hệ thống phân phối hiện đại gồm các trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm,
siêu thị, các cửa hàng tiện lợi, kho hàng, trung tâm logicstics với quy mô phù hợp ( chủ yếu là
quy mô vừa và trung bình ), trong đó có cả các loại hình “chuỗi” kéo dài hoặc công ty con của
chính các nhà phân phối lớn tại các thành phố loại 1.
Cải tạo và xây dựng mới hệ thống chợ với các cấp độ, quy mô, tính chất và trình độ khác
nhau để đan xen giữa loại hình hiện đại với truyền thống. Tương tự như các thành phố loại 1,
mạng lưới chợ trên địa bàn này phát triển và chuyển dịch theo 3 hướng: nâng cấp thành các chợ
trung tâm khang trang và tương đối hiện đại phù hợp với quần thể kiến trúc các loại hình
thương mại xung quanh (trung tâm thương mại ,siêu thị ,cửa hàng tiện lợi), chuyển hoá thành
các siêu thị, cửa hàng tiện lợi và di chuyển ra ngoại vi để hình thành các chợ đầu mối bán buôn.
Thu hút các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống, các hộ kinh doanh các thể vào

chuỗi cửa hàng tịên lợi.
Triển khai bước đầu các loại hình giao dịch thương mại điện tử ở khu vực này với quy mô
và trình độ vừa phải, tạo tiền đề để phát triển nhanh và cao hơn ở các giai đoạn tiếp theo.
2.Khu vực nông thôn đồng bằng.
Hệ thống chợ và cửa hàng mua bán truyền thống vẫn là kênh lưu thông hàng hoá chủ yếu
ở khu vực nông thôn trong suốt cả thời kì 2006 – 2020. Thực hiện chương trình phát triển các
loại hình chợ nông thôn : cải tạo, nâng cấp, di dời và xây mới để đảm bảo có đủ chợ dân sinh
các cụm xã phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân; nâng cấp xây mới các chợ
trung tâm huyện; hình thành các chợ đầu mối bán buôn tại những nơi có sản xuất hàng hoá tập
trung và đủ lớn, có vị trí và điều kiện giao thông tiện lợi gần các trung tâm tiêu thụ hoặc ở
ngoại vi các thành phố, thị xã (mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có 2 đến 3 chợ đầu
mối bán buôn cấp tỉnh, cả nước có 5 chợ đầu mối bán buôn lớn cấp vùng). Trong số các chợ
đầu mối bán buôn này, tự chọn để tiếp tục đầu tư phát triển thành một số sàn giao dịch, một số
trung tâm đấu giá hoạt động theo hướng ứng dụng các phương thức mua bán hiện đại .
Từng bước liên kết một số cửa hàng bán lẻ độc lập và thu hút các hộ kinh doanh các thể ở
các thị trấn, thị tứ vào chuỗi kéo dài các cửa hàng tiện lợi từ các khu vực thành thị có tầm ảnh
hưởng lớn. Tuỳ thuộc vào quy mô, tốc độ phát triển của lưu thông hàng hoá của nhu cầu bán
buôn và bán lẻ trong và ngoài khu vực để xây dựng các kho hàng, các trung tâm phân phối cho
phù hợp.

3. Khu vực nông thôn miền núi( vùng đặc biệt khó khăn).
Trong quá trình xây dựng và khai thác chợ cần kết hợp yếu tố kinh tế với tập quán sinh hoạt
vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đồng thời kết hợp lồng ghép các chương trình
phát triển kinh tế xã hội với viêc nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới hệ thống chợ ở khu vực
này, tổng hợp lại định hướng tổ chức thương mại nội địa theo không gian kinh tế gắn với khu
vực thị trường gồm có :
Phát triển các loại hình chợ:
Đảm bảo có đủ chợ dân sinh, trước hết và chủ yếu là chợ xã và cụm xã phục vụ nhu cầu sản
xuất và đời sống của nhân dân nông thôn và miền núi.
Cải tạo, nâng cấp các chợ trung tâm huyện, thị xã và thành phố. Các chợ phường, liên

phường ở các thành phố, thị xã từng bước được chuyển hoá thành các siêu thị, cửa hàng tịên lợi
và di chuyển ra ngoại vi để hình thành chợ đầu mối bán buôn.
Xây dựng các chợ đầu mối bán buôn cấp tỉnh và cấp vùng trong đó chọn ra một số chợ để
tiếp tục phát triển thành các sàn giao dịch, các trung tâm đấu giá.
Phát triển các loại hình trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, siêu thị, cửa hàng tiện lợi,
kho hàng, trung tâm logicstics và các loại hình thương mại điện tử.
Ưu tiên phát triển các loại hình thương mại hiện đại tại các khu vực thành thị trong đó quy
mô và trình độ tổ chức sẽ giảm dần từ các thành phố loại 1 đến loại 2, loại 3, các thị xã, các khu
công nghịêp tập trung, các khu kinh tế lớn và khu vực nông thôn ( thị trấn, thị tứ).
Đồng thời với việc phát trỉên các loại hình thương mại hiện đại là tăng cường ứng dụng các
phương thức kinh doanh tiên tiến và hiện đại như : liên kết chuỗi nhượng quyền thương
mại ,mua bán qua mạng ( nhà phân phối trung gian trên mạng, chợ ảo trên mạng …)
III. II. Giải pháp phát triển thương mại nội địa
1. Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa, triển khai xây dựng và phê duyệt quy
hoạch và phát triển tổng thể các hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại.
Trên cơ sở chiến lược phát triển, triển khai xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển
tổng thể các kết cấu hạ tầng thương mại trong phạm vi cả nước và từng vùng kinh tế trọng
điểm, từng tỉnh, từng thành phố trực thuộc trung Ương. Quy hoạch đã được các cấp có thẩm
quyền phê duyệt phải trở thành căn cứ pháp lý để quyết định các dự án đầu tư xây dựng kết câu
hạ tầng thương mại của Trung Ương cũng như địa phương. Kiên quyết không được đầu tư
phát triển các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại không nằm trong quy hoạch hoặc trái với
quy hoạch. Quy hoạch phát triển tổng thể các hệ thống kết cấu hạ tầng gồm có : hệ thống các
loại hình chợ, hệ thống các trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, siêu thị … các hệ thống
các kho hàng trung tâm logicstics, hệ thống trung tâm các hội chợ – triển lãm.
2. Ban hành một số chính sách khuyến khích hoạt động thương mại nội địa.
Trên cơ sở đổi mới tư duy, chuyển đổi từ chỗ coi thương mại là một ngành phi sản xuất
và do đó các doanh nghiệp đầu tư vào thương mại không được ưu đãi như các doanh nghiệp
đầu tư vào sản xuất sang chỗ thấy được thương mại nội địa có một vai trò, vị trí quan trọng với
sự phát triển kinh tế xã hội nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Cần ban hành các
chính sách khuyến khích phát triển thương mại nội địa.

Về đất đai, cần quy hoạch bố trí đủ quỹ đất cho hạ tầng thương mại. Cùng một vị trí đất
với giá bán, thuê như nhau, nếu doanh nghiệp có cùng nhu cầu quan tâm ưu tiên giải quyết cho
doanh nghiệp kinh doanh thương mại.
Về tài chính – tín dụng, các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có dự án xây dựng hạ
tầng được quỳên tiếp cận các nguồn vốn bình đẳng như doanh nghiệp sản xuất .
Về thuế, với thuế nhập khẩu các trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh được
miễn thuế như nhà đầu tư nước ngoài cùng với lĩnh vực hoặc như các doanh nghiệp sản xuất có
dự án thuộc dạng khuyến khích đầu tư.
Với các doanh nghiệp phát triển theo “chuỗi “, kinh doanh qua mạng ….cần có thêm chính
sách ưu tiên về thuế thu nhập để hỗ trợ họ tích tụ vốn phục vụ cho quá trình phát triển.
Cho phép doanh nghiệp thương mại( nhất là các doanh nghiệp có vốn sở hữu Nhà Nước )
được điều chuyển, hoán đổi sang nhượng ….các cơ sở không phù hợp với điều kiện kinh doanh
mới để tối đa nguồn lực hiện có cho quá trình hiện có cho quá trình hiện đại hoá hạ tầng thương
mại.
B. Phân tích thực trạng thị trường nội địa tập đoàn dệt may Việt Nam
1. Đặc điểm chung của thị trường dệt may nội địa
Thị trường Việt Nam được đánh giá là rất hấp dẫn, với quy mô dân số đông 90 triệu người
trong đó có tới 60% là dân số trẻ. Với một lượng lớn là dân số như vậy được coi là một thị
trường tiềm năng. Mức tiêu dùng bán lẻ hàng may mặc của thị trường Việt Nam đạt tới con số
tương đối lớn, khoảng 2 tỷ USD, trong đó trên một nửa là quần áo phụ nữ, tiếp đến là quần áo
nam giới, số còn lại là quần áo trẻ em và quần áo chuyên dụng khác. Đa số những người tiêu
dùng hàng may mặc nhiều là những người có thu nhập trung bình trở lên và những người trẻ,
những người này thị hiếu rất đa dạng, chiếm phần lớn doanh số bán ra của hàng may mặc.
Hiện tại hàng may mặc Việt Nam chưa có tiêu chuẩn nào về mặt chất lượng, hầu hết các sản
phẩm may mặc là những hàng phổ thong chủ yếu là hàng Trung Quốc, một số hàng may mặc
có chất lượng thì bán ở các trung tâm thương mại hoặc các siêu thị hàng may mặc ở các thành
phố lớn như Hà Nội, TP. HCM
Người tiêu dùng đại bộ phận là có mức trung bình nên việc thay đổi giá sản phẩm thì tác động
rất lớn đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Một điểm đáng chú ý nữa là từ trước tới nay
người tiêu dùng quen hàng ngoại có tâm lý sính ngoại, xem thường hàng nội địa. Tuy nhiên xu

hướng mua sắm của mọi người ngày càng thay đổi, người dân hướng đến các trung tâm thương
mại lớn, các siêu thị hàng dệt may, các cửa hàng, đại lý hàng may mặc ngày càng nhiều nhưng
tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, đô thị.
2. Thực trạng phát triển thị trường nội địa của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2.1 Giới thiệu sơ lược về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex)
Được thành lập ngày 2-12-2005 của thủ tướng chính phủ, đến năm 2007 Tập đoàn Dệt May
Việt Nam có tài sản khoảng 10.000 tỷ đồng và là chủ sở hữu 100% vốn điều lệ tại tám công ty
TNHH một thành viên là các tổng công ty Phong Phú, Dệt-May Hà Nội, Dệt 8-3. Dệt Nam
Định, Dệt kim Đông Xuân, Dệt Kim Đông Phương, Công ty tài chính, Công ty Kinh doanh
hàng thời trang.
Tập đoàn có vốn chi phối tại hơn 20 đơn vị cổ phần có quy mô lớn là các công ty cổ phần may
Việt Tiến, Dệt may Hòa Thọ, Dệt may Nam Định, May 10, Dệt Vĩnh Phú…
Vinatex ( Tập Đoàn Dệt May Việt Nam ) là một trong những tập đoàn dệt may có quy mô và
sức cạnh tranh hàng đầu châu á.
Hoạt động chính của công ty là đầu tư, sản xuất, phân phối, nhập khẩu trên lĩnh vực dệt may.
Phát triên và mở rộng thị trường trong và ngoài nước cũng như thâm nhập các thị trường tiềm
năng.
2.2 Tình hình phát triển trị trường nội địa của Vinatex
- Thực trạng thị trường nội địa
Thị trường dệt may nội địa Việt Nam có xu hướng mở rộng nhanh chóng trong những năm trở
lại đây do một mặt các sản phẩm dệt may được xếp vào loại sản phẩm không thể thay thế được
( tức là nếu không mặc loại quần áo này thì phải mặc loại quần áo khác chứ không thể không
mặc gì), mặt khác do thị trường trong nước với dân số 90 triệu người thì các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam có thể đáp ứng được 80% nhu cầu nội địa, khoảng 10% được phép nhập khẩu
nhằm thỏa mãn nhu cầu của tầng lớp có thu nhập cao như thời trang của Mỹ, Anh, Pháp Tuy
nhiên vấn đề là trên 10% còn lại đang bị các nguồn hàng ngoại nhập áp đảo, nghiêm trọng nhất
là tình trạng hàng hóa của Trung Quốc được nhập khẩu trốn thuế, giá bán rất thấp làm khuynh
đảo các hàng nội địa ngay tại nước nhà.
- Thị trường nội địa bộc lộ một số hạn chế
Nguồn hàng không rõ gốc tràn lan. Do xu hướng tự dó hóa thương mại nên hàng vải sợi may

mặc ở nước ta có từ rất nhiều nguồn : hàng do các cơ sở tư nhân, hộ gia đình, hàng hóa của
doanh nghiệp dệt may, hàng trốn thuế, hàng cũ của các nước trong đó chủ yếu là hàng không
rõ nguồn gốc, chất lượng thấp, hàng nái với đủ loại mẫu mã, màu sắc.
Giá không theo quy chuẩn. Sự tràn ngập hàng dệt may làm tăng tính cạnh tranh. Hàng xuất
khẩu trong nước có chất lượng tốt nhưng giá lại cao, trong khi hàng hóa không rõ nguồn gốc
gia cả lại rất linh hoạt tùy vào kinh nghiệm của người bán hàng và người mua. Nhiều khi cùng
loại sản phẩm nhưng giá cả lại chênh nhau rất nhiều lần.
Chất lượng hàng hóa rất khó nhận biết và không đảm bảo. Do đó hàng hóa tràn ngập thị trường
nên chất lượng không được kiểm định và cũng không đảm bảo. Quyền lợi của khách hàng do
đó cũng không được bảo vệ.
Không ít doanh nghiệp do tập trung vào mục tiêu xuất khẩu nên có thái độ thờ ơ với thị trường
nội địa.
2.3 Đánh giá chung về phát triển thị trường nội địa của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam.
Theo số liệu nghiên cứu của Vinatex thi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chỉ chiếm được
khoảng 30% thị phần nội địa, phần còn lại thuộc về hàng ngoại nhập và các nhà may nhỏ trong
cả nước. Dệt may Việt Nam cần một chiến lược phát triển toàn diện và dài hạn. Hàng ngoại
nhập chiếm 30% thị phần, trong đó khoảng 20% là hàng dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc.
2.3.1 Kết quả đạt được
Quy mô và tốc độ tăng trưởng của thương mại nội địa trong 5 năm qua liên tục tăng trưởng với
tốc độ caokhoảng 30%, là nhân tố quan trọng thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, góp phần tạo động
lực cho tăng trưởng của Tập Đoàn.
- Thị trường của công ty không ngừng mở rộng.
Trong những năm qua thị trường sản phẩm của Tập Đoàn không ngừng được mở rộng, sản
phẩm của Tập Đoàn được tiêu thụ nhiều. Khách hàng đến với sản phẩm của các doanh nghiệp
trong Tập Đoàn ngày một nhiều, nhiêu công ty đã tạo được uy tín mạnh trên thị trường, đảm
bảo đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã, thời gian giao hàng. Nhiều doanh nghiệp
đã xây dựng cho mình chỗ đứng vững chắc trên thị trường với những thương hiệu khá là quen
thuộc như Việt Tiến, May 10, May Nhà Bè…
- Cơ cấu bộ máy tổ chức hợp lý.
Vinatex và các công ty thành viên đã xắp xếp lại cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý cho phù hợp

với từng loại hình quản lý kinh doanh của mình, từ đó đó tạo sự chuyển biến tronng công tác
quản lý điều hành trên phạm vi toàn Tập Đoàn. Tập Đoàn và các công ty thành viên đã xây
dựng và ban hành những qui chế, qui định về khoán cho các phân xưởng, xí nghiệp, khoán quỹ
lương cho các đơn vị, quản lý vật tư từ đó từng bước nâng cao hiệu quả kinh tế của các hoạt
động, phát huy tính sáng tạo, chủ động trong các công việc được giao.
- Xây dựng được mạng lưới các siêu thị quấn áo rộng khắp và hệ thống các cửa hàng bán hàng
của các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, thị trường trong nước với sức mua của hơn
90 triệu dân đã và đang được các DN của Tập đoàn dệt may Việt Nam chú trọng khai thác
thông qua phát triển hệ thống phân phối. Mức tăng trưởng hằng năm đạt từ 30 đến 35%, trong
đó Vinatex đã xây dựng được hệ thống 58 siêu thị, chưa kể đến hệ thống cửa hàng của các DN.
Tổng công ty CP may Việt Tiến, một thương hiệu hàng đầu của tập đoàn, đã xây dựng được hệ
thống 2.000 cửa hàng và đại lý bán lẻ trong cả nước, doanh thu bán lẻ ở thị trường nội địa năm
2008 đạt 420 tỷ đồng, đứng đầu toàn ngành may.
2.3.2 Hạn chế còn tồn tại
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng kể như trên song có thể thấy rằng doanh nghiệp vẫn
còn một số những hạn chế cần phải giải quyết.
- Vai trò của thị trường trong nước trong nhiều trường hợp và thời điểm còn chưa được nhận
thức và đánh giá một cách đúng mức, tạo nên những hạn chế nhất định trong việc khai thác và
phát triển tiềm năng của khu vực thị trường này, không những để cùng với hoạt động xuất khẩu
đóng góp vào sự tăng trưởng chung của Tập đoàn mà còn hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu được
tiến hành một cách hiệu quả hơn.
- Còn rất nhiều doanh nghiệp trong Tập đoàn có quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về vốn kinh
doanh, cơ sở vật chất – kỹ thuật nhỏ bé cũ kỹ, công nghệ quản lý và công nghệ kinh doanh
còn lạc hậu, nên khả năng hình thành và mở rộng hiện đại hóa hệ thống phân phối bị hạn chế
dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu. Quá trình liên kết và tích tụ trong các doanh nghiệp diễn ra
chậm, do đó không tạo được sức mạnh cạnh tranh trước yêu cầu hội nhập cũng như chưa khẳng
định được vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa
- Các mô hình tổ chức thị trường và các kênh lưu thông chưa đảm bảo sự gắn kết ổn định giữa
người mua và người bán giữa sản xuất và thương mại chậm được phát triển. Hạn chế chủ yếu
và bao trùm của thị trường nội địa hiện nay là mạng lưới kinh doanh của các doanh nghiệp còn

yếu kém, phương thức hoạt động còn lúng túng và thiếu ổn định, ít có sự liên kết bền vững
giữa các khâu nấc, công đoạn lưu thông với nhau và giữa các doanh nghiệp với nhau để tạo
thành hệ thống phân phối và hệ thống tiêu thụ.
Phần IV. Giải pháp phát triển thị trường nội địa của Vinatex
4.1 Mục tiêu chiến lược của Vinatex tại thị trường nội địa
Mục tiêu tăng trưởng
Trong thời gian tới do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính kế hoạch tăng trưởng của Tập
đoàn trong giai đoạn 2005-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân là 30-35%. Vinatex và các
doanh nghiệp phấn đâu đến năm 2015 trồng được 40.000 ha trồng bông có nước tưới. Và phối
hợp với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đến năm 2011 cho vào hoạt động nhà máy sản
xuất xơ polyeste với công suất 400 tấn xơ thông thường, 50 tấn xơ đặc biệt, và 50 tấn hạt chip/
ngày. Đạt tỷ lệ nội địa hóa lên 50% năm 2010 so với mức hiện nay là 30%, và 60% năm 2015.
Hiện tại Vinatex có mạng lưới 58 siêu thị hàng may mặc tập chung chủ yếu ở các thành phố,
trung tâm, khu vực có đông dân cư ở 16 tỉnh thành trong cả nước. Trong thời gian tới Vinatex
phấn đấu mở rộng mạng lưới siêu thị lên toàn quốc phấn đấu đứng top 3 của hệ thống bán lẻ
của Việt Nam đồng thời phấn đầu trở thành doanh nghiệp đứng đầu trong kinh doanh hàng dệt
may.
4.2 Phương hướng phát triển của thị trường của Vinaconex trong thời gian tới
Đối với sản xuất: Đẩy mạnh tốc độ phát triển vùng nguyên liệu từng bước khắc phục những
mặt cân đối khác (như: vốn, trình độ quản lý ) để nhanh chóng đáp ứng nguyên liệu kịp thời
cho sản xuất giảm tới mức tối đa phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
Đẩy mạnh đầu tư mới theo nguyên tắc đảm bảo cân đối đồng bộ các điều kiện tối thiểu (về
nguyên liệu, vốn, cán bộ ) trên cơ sở xác định, định hướng lâu dài để tiến hành đầu tư từng
bước phù hợp, đảm bảo đầu tư đến đâu phát huy hiệu quả đến đấy, đầu tư bước trước phải làm
nền và tạo đà cho đầu tư bước sau thuận lợi và hiệu quả hơn.
Đi tắt đón đầu trước hết trong công tác nghiên cứu và phát triển. Đầu tư những thiết bị công
nghệ hiện đại nhất đối với những khâu có tính chất quyết định đến chất lượng sản phẩm, nâng
cao năng suất lao động, giảm chi phí, đảm bảo sản phẩm sản xuất ra cạnh tranh được với các
mặt hàng nhập khẩu.
4.3 Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường nội địa của Vinatex

Vinatex cũng như hầu hết các doanh nghiệp trong tập đoàn vẫn chưa có chiến lược kinh doanh,
chiến lược phát triển thị trường nội địa riêng cho mình, mà chỉ có kế hoạch của từng năm. Tuy
nhiên cũng có một số doanh nghiệp cũng đã xây dựng cho mình chiến lược phát triển thị
trường nội địa của mình như Tổng công ty May Việt Tiến, May 10 …Mặc dù Vinatex đã nỗ
lực trong việc xây dựng cho ngành những định hướng cụ thể trong chiến lược quốc gia, nhưng
những định hướng đó lại mang tầm vĩ mô cho toàn ngành, nó vừa mang tính chất phục vụ vừa
mang tính chất kinh doanh, nó chỉ mang tính chất pháp lý định hướng cho tất cả các doanh
nghiệp trong ngành chứ không thể vận dụng cho từng doanh nghiệp.
Xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa đúng hướng.
Một thực tế cho thấy, nếu xét trên góc độ phẩm cấp của sản phẩm, có thể thấy trong thời gian
qua chúng ta bán ở thị trường nội địa các sản phẩm có phẩm cấp trung bình, số lượng các sản
phẩm cao cấp còn rất ít. Mặc dù, các sản phẩm như áo sơ mi các loại có chất lượng vải cao hơn
hàng nhập khẩu của Trung Quốc, nhưng lại thua kém về kiểu dáng mẫu mã. Đối với thị trường
trong nước công ty cần quan tâm nghiên cứu đến xu hướng thẩm mỹ của người tiêu dùng. Bởi
vì sự giao lưu hội nhập của các nền văn hoá, đời sống vật chất tinh thần ngày càng được nâng
cao, trình độ dân trí ảnh hưởng đến thị hiếu lối sống của người dân.
Các doanh nghiệp có thể thông qua hội nghị khách hàng lấy ý kiến của khách hàng đây là cách
tìm ra biện pháp giải quyết khó khăn thắc mắc xảy ra với khách hàng và chứng tỏ sự quan tâm
của công ty tới lợi ích của khách hàng
Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ
Hiện nay thì còn rất nhiều các doanh nghiệp thuộc tập đoàn vẫn đang dùng những thiết bị công
nghệ mà đã được coi là lạc hậu, năng suất lao động thấp chất lượng sản phẩm tạo ra chưa cao.
Mà vai trò của công nghệ thì doanh nghiệp nào cũng biết, nó quyết định tới chất lượng sản
phẩm, năng suất lao động, chi phí sản xuất. Tuy nhiên việc đầu tư công nghệ mới cho việc phát
triển sản xuất, kinh doanh đòi hỏi chi phí ban đầu cao, mà không phải doanh nghiệp nào cũng
đủ năng lực tài chính để đầu tư cho việc phát triển.
Đầu tư mạnh vào việc quảng bá sản phẩm, quảng bá thương hiệu
Xây dựng một thương hiệu mạnh mang đến cho doanh nghiệp lợi thế rất to lớn, không chỉ vì nó
tạo ra hình ảnh của sản phẩm và doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo uy
tín cho sản phẩm, thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá và là vũ khí sắc bén trong cạnh tranh. Việc

chưa nhận thức và hình ảnh thương hiệu cũng như phát triển thương hiệu, thiếu chiến lược,
thiếu sự đầu tư chuyên sâu cũng như thiếu tính chuyên nghiệp trong công tác marketing nói
chung và xây dựng uy tín thương hiệu nói riêng.
Đầu tư cho việc thiết kế mẫu mã sản phẩm
Với đặc điểm đặc thù của nó, các sản phẩm may mặc thường xuyên được người tiêu dùng thay
đổi, do vậy nhu cầu với các sản phẩm mới luôn luôn thay đổi. Một thực tế cho thấy các doanh
nghiệp dệt may thuộc tập đoàn sản xuất và bán rất nhiều loại sản phẩm, nhưng chủ yếu vẫn làm
gia công cho nước ngoài theo mẫu hàng có sẵn của nước ngoài. Các doanh nghiệp cần tập trung
nghiên cứu các đối tượng khách hàng, đặc điểm tiêu dùng của từng vùng, từng mùa, để từ đó
tập trung nghiên cứu, thiết kế mẫu mã cho phù hợp.
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp cần rà soát và đánh giá lại hoạt động của bộ phận đào tạo nguồn nhân lực,
đánh giá lại năng lực của cán bộ làm công tác đào tạo của doanh nghiệp. Tiến hành đào tạo lại
cho đội ngũ cán bộ phụ trách hoạt động đào tạo theo những lý thuyết mới của quản trị nguồn
nhân lực.
Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng với từng loại cán bộ, mở rộng điện đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trong hệ thống quản lý điều hành của Tập đoàn. Đặc biệt chú trọng phát hiện đào tạo,
bồi dưỡng nhân tài, lao động quản lý, đội ngũ nhân viên Marketing, đội ngũ thiết kế thời trang.
Lựa chọn phương pháp đào tạo thích hợp cho từng đối tượng, mở rộng hợp tác với nước ngoài,
nâng cao các trường dạy nghề cải tiến các phương pháp đào tạo cho sát thực tế.
Xây dựng và phát triển hệ thống phân phối mạnh cả trong bán lẻ và bán buôn.
Do đa số các doanh nghiệp hướng tới thị trường nội địa chưa lâu, phần lớn các sản phẩm xuất
khẩu lại là may gia công, không phải quan tâm tới vấn đề tiêu thụ nên các doanh nghiệp ít có
kinh nghiệm trong việc phân phối sản phẩm. Việc đầu tư thiết lập một mạng lưới phân phối
rộng rãi đòi hỏi chi phí đầu tư lớn về hệ thống cửa hàng, kho bãi , vận chuyển, bảo quản liên
các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể chịu nổi. Đối với loại sản phẩm có vòng đời ngắn như
quần áo, vải vóc sự chậm trễ trong việc phân phối cũng gây ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ
sản phẩm.

Kết luận

Để xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa, Nhà nước cần có các chính sách định
hướng đúng đắn để xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa một cách bền vững, tạo
điều kiện để các doanh nghiệp trong nước giành lại thị tường nội địa vẫn còn rất nhiều tiềm
năng. Kết hợp với nỗ lực của các doanh nghiệp trong nước trong việc nhìn nhận lại các cơ hội
và khả năng khai thác thị trường nội địa, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng các hoạt
động kinh doanh, phục vụ hết mình vì lợi ích người dân Việt. Có như vậy, khả năng phục hồi
lại sức mạnh kinh tế đến từ chính thị trường nội địa mới được xác lập và dần trở thành hiện
thực. Tuy nhiên, có một vấn đê đặt ra là nếu các doanh nghiệp chỉ hướng vào chiếm lĩnh thị
trường nội địa mà không còn chú trọng đến xuất khẩu, tình trạng nhập siêu sẽ ngày càng tăng,
dự trữ ngoại tệ quốc gia ngày càng cạn, thiếu ngoại tệ để làm nguồn vốn cho phát triển kinh tế
sau này. Do vậy, với đặc thù của Việt Nam, cần có những giải pháp đồng bộ từ khâu sản xuất
nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm đến khâu xây dựng hệ thống phân phối
sản phẩm, thay đổi tâm lý và thói quen của người tiêu dùng.

×