Tải bản đầy đủ (.doc) (185 trang)

Phân tích các tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.82 KB, 185 trang )

Phân tích các tác phẩm văn học
Tìm hiểu tác phẩm truyền kỳ mạn lục
Giới thiệu truyền kỳ mạn lục Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề văn
xuôi tự sự trong văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi có một số thu hoạch
nhỏ xoay quanh một tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn: tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục sáng tác vào khoảng đầu thế kỷ XVI của tác giả Nguyễn Tự - 阮
嶼 (căn cứ vào những cứ liệu xác đáng về tên tác giả, chúng tôi ủng hộ ý
kiến của PGS.TS Nguyễn Đăng Na và các nhà nghiên cứu đồng quan điểm
là phải trả lại đúng tên gọi cho tác giả, không theo thói quen lâu nay gọi tên
ông là Nguyễn Dữ!). Truyền kỳ mạn lục được mệnh danh là áng “thiên cổ
kỳ bút” trong truyện ngắn trung đại Việt Nam, và đây cũng là tác phẩm văn
xuôi chữ Hán thu hút được sự quan tâm của giới phê bình nghiên cứu văn
học trung đại. Việc đánh giá về giá trị của tác phẩm này cũng có nhiều xu
hướng khác nhau, nhiều phương pháp tiếp cận tổng thể cũng như phân tích
đánh giá sâu vào một tác phẩm. Tìm hiểu một loạt các tài liệu, chúng tôi đặc
biệt tâm đắc với ý kiến của tác giả Nguyễn Đăng Na về Truyền kỳ mạn lục,
khẳng định giá trị độc đáo riêng biệt của tác phẩm : “Nếu Lê Thánh Tông
hướng văn học vào việc phản ánh con người, lấy con người làm đối tượng và
trung tâm phản ánh thì Nguyễn Tự đi xa hơn một bước: phản ánh số phận
con người, chủ yếu là số phận mang tính chất bi kịch của người phụ nữ. Nhờ
đó mà Nguyễn Tự đã mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt
1
Phân tích các tác phẩm văn học
Nam thời trung đại. Thông qua số phận các nhân vật, Nguyễn Tự đi tìm giải
pháp xã hội: Con người phải sống ra sao để vươn tới hạnh phúc, để nắm bắt
được hạnh phúc? Hạnh phúc tồn tại ở đâu: trên trần gian này hay miền tiên
giới, cõi thiên tào hay nơi thủy cung…? Đối với người đàn ông, hạnh phúc
là gì và đối với người phụ nữ, như thế nào là hạnh phúc? Nguyễn Tự đưa ra
nhiều giả thiết bằng những cuộc thử nghiệm, nhưng tất cả đều bế tắc. Đó là
thông điệp cuối cùng ông để lại cho người đọc…” (Truyền kỳ mạn lục dưới
góc độ so sánh văn học – Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,


tr.216). Ý kiến ngắn gọn nhưng khá đầy đủ này đã gợi hứng và mang tính
chất định hướng đúng đắn với những người đang dạy phổ thông khi tiếp xúc
với tác phẩm này. Trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ xin nêu những
suy nghĩ của bản thân một hướng tiếp cận để giảng dạy tốt hơn phần Truyền
kỳ mạn lục trong trường phổ thông.
Với vai trò là “người mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt
Nam thời trung đại”, Nguyễn Tự cần được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và
nghiêm túc. Điều bức xúc nhất hiện nay là mặc dù tên gọi của ông đã được
minh chứng một cách khoa học từ hàng mấy chục năm nay nhưng thế hệ học
sinh thời phân ban, cải cách vẫn phải viết tên ông là Nguyễn Dữ. Đó là một
điểm bất hợp lý và thiếu khoa học. Mặc dù, ở phần chú thich sách giáo khoa
đã có chú thích nhưng xem ra không mấy giáo viên dũng cảm dám thừa
2
Phân tích các tác phẩm văn học
nhận tên gọi này, học sinh làm bài vẫn phải viết Nguyễn Dữ, do sợ bị trừ
điểm vì viết sai tên tác giả (!). Khoa học đòi hỏi một sự công bằng, dũng
cảm. Do vậy, cần phải có những người có thẩm quyền để điều chỉnh lại cách
gọi tên tác giả một cách kịp thời trong những năm học tới.
Vấn đề thứ hai là trong quá trình giảng dạy về Nguyễn Tự ở trường phổ
thông là cách hiểu yếu tố truyền kỳ của tác phẩm. Theo sách Ngữ văn 9, tập
1 và cả sách hướng dẫn giáo viên lớp 9, tên gọi của tác phẩm Truyền kỳ mạn
lục được dịch có nghĩa là “Ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ được lưu
truyền”. Bằng những luận cứ khoa học xác đáng, PGS.TS Nguyễn Đăng Na
cũng đã chỉ ra đặc điểm của thể loại văn xuôi tự sự là tên gọi của thể loại
thường đặt cuối tên của tác phẩm. Bởi vậy, truyền kỳ trong trường hợp này
không nên hiểu là thể loại như cách giải thích hiện hành, từ đó dẫn đến cách
tiếp cận tác phẩm sẽ sai lệch theo hướng nhấn mạnh vào yếu tố lạ kì đặc
biệt. Như tài liệu của tác giả Nguyễn Đăng Na đã chỉ rõ: “…đứng trong cụm
từ “truyền kỳ mạn lục” thì, truyền kỳ làm định ngữ, chỉ tính chất của thể
mạn lục - một thể tự sự viết tự do, tùy hứng theo ý đồ sáng tác của tác giả,

không bị câu thúc bởi bất kỳ một lý do gì cả” (sđd, tr.212). Điều này có ý
nghĩa đối với giáo viên phổ thông, những người chuyển tải thông điệp của
Nguyễn Tự đến các thế hệ học sinh, tránh những ngộ nhận khi cho rằng
Nguyễn Tự chịu ảnh hưởng của tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu ở
3
Phân tích các tác phẩm văn học
Trung Hoa, vừa có ý nghĩa định hướng đúng đắn hơn cho việc tìm hiểu vào
nội dung bức thông điệp của Nguyễn Tự, “lấy con người làm đối tượng và
trung tâm phản ánh”, hướng về các giá trị nhân bản.
Đi cụ thể vào nội dung tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Tự, chúng tôi nhận
thấy những nét thật thú vị khi các truyện của ông đã hết sức táo bạo khi đề
cập đến những đề tài cấm kỵ của văn chương phong kiến. Trong một xu
hướng văn chương hiện đại và hậu hiện đại hiện nay, người ta kêu gọi giải
phóng cá nhân, tìm đến sex như là một sự giải toả những ẩn ức, dục tính
được mổ xẻ một cách có phần thái quá thì chúng ta có thể tìm đến tác phẩm
của Nguyễn Tự để thấy ông cha ta đề cập đến yếu tố này một cách độc đáo
và nhân văn như thế nào. Nguyễn Tự đã không ngần ngại lý giải tình yêu
muôn mặt đời thường gắn liền với yếu tố nhục cảm. Tất nhiên đây là một
vấn đề tế nhị và dường như vẫn còn là đề tài “cấm kỵ” trong nhà trường
chúng ta hiện nay, nhưng có nên chăng giáo viên cũng cần tự trang bị cho
mình những kiến thức nền tảng này để có thể giải đáp những câu hỏi từ phía
học sinh mà không cảm thấy lúng túng khi các em hỏi về những vấn đề
“nhạy cảm” trong Truyền kỳ mạn lục. Hiện tại, ở chương trình lớp 9 chọn
lọc đưa vào tác phẩm quen thuộc Chuyện người con gái Nam Xương,
chương trình lớp 10 chuẩn và phân ban đều chọn tác phẩm Tản Viên phán sự
lục (Chức phán sự đền Tản Viên). Đây là những tác phẩm hay trong Truyền
4
Phân tích các tác phẩm văn học
kỳ mạn lục nhưng nhìn chung vẫn chưa thoả mãn những ai muốn hiểu một
cách tương đối khái quát về tư tưởng của Nguyễn Tự trong tác phẩm. Đặt tác

phẩm của Nguyễn Tự vào xu hướng thế tục hoá để nhận thấy vai trò của ông
trong việc hoàn chỉnh thể loại truyện ngắn trung đại Việt Nam. Nguyễn Tự
quan tâm đặc biệt đến số phận của người phụ nữ với những bất hạnh, bi kịch
điển hình cho những đau khổ của con người thời trung đại.Những bất hạnh,
bi kịch của con người được đề cập trong tác phẩm không chỉ gói gọn trong
câu chuyện của Vũ Nương với Trương Sinh (Chuyện người con gái Nam
Xương) mà còn là những bi kịch của tình yêu bị ngăn cấm, của duyên phận
hẩm hiu, của thói đời đen bạc…Có đề cập một cách khái quát thì mới có thể
phản ánh tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Tự một cách đúng đắn. Do vậy, nên
chăng có một sự khái quát về xu hướng thế tục hoá trong văn xuôi tự sự
trung đại và vai trò của Nguyễn Tự trong phạm vi số tiết cho phép của
chương trình văn học phổ thông. Những điểm nổi bật nhất có thể tiếp thu để
làm sáng tỏ ý nghĩa, giá trị của Truyền kỳ mạn lục có thể cô đúc từ những
phân tích các truyện cụ thể của tác phẩm trong giáo trình cao đẳng, đại học,
bảo đảm được sự liên thông giữa các cấp học. Đánh giá một cách khái quát
về nội dung hiện thực được phản chiếu trong các tác phẩm, mối quan hệ
giữa yếu tố hiện thực và yếu tố truyền kỳ trong tác phẩm, để tìm ra cốt lõi
của những câu chuyện.
5
Phân tích các tác phẩm văn học
Ngoài những truyện đề cao phẩm hạnh của người phụ nữ trong tác phẩm như
Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện nàng Thúy Tiêu, Chuyện nàng Lệ
Nương cùng một cảm hứng như Chuyện người con gái Nam Xương, người
viết xin trình bày những cảm nhận xung quanh một số truyện đặc sắc của
Truyền kỳ mạn lục xoay quanh số phận của người phụ nữ, trong đề tài tình
yêu tự do, nhằm góp phần minh hoạ một phương diện tư tưởng của Nguyễn
Tự trong Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Tự đã nhận ra ở những người phụ nữ
sống đạo đức tử tế những nỗi bất hạnh tột cùng, khi phẩm giá của họ không
được đền đáp mà lại bị vùi dập khinh khi, hầu như ai cũng phải tìm đến một
cái chết oan uổng, một thực tế phũ phàng. Bởi vậy, ông đã có một góc nhìn

khác vào những người phụ nữ vượt lên sự cương toả của lễ giáo, tìm đến
tình yêu tự do. Ông đã không ngần ngại miêu tả tình yêu với tất cả sự mê
đắm của những nho sinh với ma nữ, lật tung những giá trị đạo đức khi để
cho các nhân vật sống với con người bản năng của mình. Tình yêu trong các
câu chuyện được dựng nên với một ranh giới ảo và thật hết sức mong manh,
mộng mà thực, thực mà mộng, tạo nên một sức hấp dẫn riêng. Cũng như bao
mối tình nam nữ, các nhân vật cũng trải qua đầy đủ mọi cảm giác khi bước
chân vào thế giới luyến ái. Truyện Cây gạo là một truyện hết sức táo bạo kể
về mối tình của Nhị Khanh và Trình Trung Ngộ, đắm chìm trong bể dục, đời
sống hoan lạc ân ái. Một câu chuyện có thể nói đã đưa ra một triết lý hiện
6
Phân tích các tác phẩm văn học
sinh như sự phản kháng lại mọi qui tắc lễ giáo đương thời: Nhị Khanh hiện
ra là một trang “giai nhân tuyệt sắc”, mang một “mối tình u uất trong lòng”.
Nàng nói với Trung Ngộ những lời hết sức táo bạo trong lần gặp gỡ đầu tiên:
“Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn chương thời có làm gì,
chẳng qua rồi cũng nắm đất vàng là hết chuyện. Đời trước những người hay
chữ như Ban Cơ, Sái Nữ (7) nay còn gì nữa đâu. Sao bằng ngay trước mắt,
tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt. ”. Tất nhiên, mối
tình Người – Ma mang màu sắc vô luân ngược đạo lý xã hội này phải bị
ngăn cản quyết liệt. Thế nhưng khát vọng tự do yêu đương bị cấm cản đã tạo
thành phản ứng quyết liệt của đôi tình nhân ma này. Mọi sự phản ứng ấy bắt
đầu đến khi Trung Ngộ hoá thành ma, họ đã thành đôi yêu quái trong mắt
mọi người, một đôi ma “dắt tay nhau đi đôi, khi khóc, khi hát”. Bi kịch trong
thời đại ấy chính là ở chỗ không cho con người được tự do yêu đương, nên
cả khi đôi tình nhân này đã hoá ma thì họ cũng bị truy cùng diệt tận, “đào
mả phá quan tài”, nhập vào cây gạo thì bị đạo nhân tiêu diệt, huy động cả
sáu bảy trăm đầu trâu áp giải đi. Tội lỗi của họ chỉ là yêu nhau, bất chấp mọi
sự cấm cản. Có thể thấy trong lời bình, tác giả không một lời phê phán cá
nhân Nhị Khanh, còn Trình Trung Ngộ chỉ có một lời bình là hạng “thất phu

đa dục”, “không đáng trách”.
Chuyện tình trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây còn táo bạo hơn khi đưa ra mối
7
Phân tích các tác phẩm văn học
tình tay ba, miêu tả say sưa cảnh tự do luyến ái giữa Hà Nhân với Liễu Nhu,
Đào Hồng. Tình cảm ấy không chỉ là sự say mê giữa giai nhân tài tử mà còn
là một thách thức với xã hội khi tình dục được thăng hoa trong cảm xúc văn
chương, thành những bài thơ miêu tả cảnh ân ái táo bạo. Phải chăng từ cảm
hứng này mà sau này Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du mới có sự kế thừa.
Chính Nguyễn Tự là “cha đẻ của dòng thơ sexy Việt Nam” (Giáo trình Văn
học trung đại Việt Nam, t.2, NXBĐHSP, 2007, tr.51). Qua đó, cũng bày tỏ
được khát vọng trần thế vượt ra những ngăn cấm khắc nghiệt của xã hội
đương thời, dẫu cho những con đường tìm kiếm hạnh phúc mà Nguyễn Tự
vạch ra cuối cùng đều bế tắc, thế nhưng cũng phần nào phản ánh tâm lý con
người trong thời đại muốn phá tung những rào cản cấm đoán vô lý.
Không chỉ miêu tả những mối tình của người phàm, Nguyễn Tự còn chỉ ra
cho chúng ta những tình duyên hết sức éo le. Một nhà sư hiệu Vô Kỷ mà
cũng mắc lưới tình với nàng Hàn Than, vì “Cõi dục đã gần, máy thiền dễ
chạm,(…). Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng khác nào con
bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa”
(Nghiệp oan của Đào Thị), tiên nữ Giáng Hương cũng lụy tình với kẻ phàm
trần Từ Thức, cũng vì “bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía
nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục” (Từ
Thức lấy vợ tiên). Những câu chuyện tình thắm thiết ấy có khi phải trả giá
8
Phân tích các tác phẩm văn học
như một nghiệp chướng khó thoát, bản thân Nguyễn Tự cũng phải đứng từ
phía luân lý xã hội mà để nhân vật của mình phải gánh chịu hậu quả từ lòng
dục vượt những giới hạn đạo lý: Hàn Than và Vô Kỷ không thể có niềm vui
hạnh phúc vì đứa con chính là oan nghiệt, Giáng Hương và Từ Thức phải

vĩnh biệt nhau vì sự khác biệt tiên phàm, cõi tiên không dung nạp tấm lòng
trần thế.
Trong 11 truyện viết về những thân phận phụ nữ, tác giả cũng thể hiện khá
rõ lập trường đạo đức Khổng Mạnh của mình. Nhưng bên cạnh đó, ông cũng
gửi vào trong từng câu chuyện tấm lòng thương cảm của con người với con
người. Những chuyện phong tình bị lên án bởi những giáo điều, những quan
niệm xã hội, bởi thế những oan khổ trong kiếp đàn bà vẫn không ngừng đeo
đuổi họ cho đến chết. Mượn yếu tố truyền kỳ, nhà văn muốn an ủi cho
những số phận bất hạnh. Nếu như hiện thực là ly biệt, là mất mát, đổ vỡ, là
sự oan ức thiệt thòi, là sự ruồng rẫy rẻ khinh thì yếu tố truyền kỳ đem lại
khoảnh khắc châu về Hợp Phố, sum họp đoàn viên, giải oan, bất tử hoá nhân
vật… Tuy nhiên cũng cần thấy rằng bản thân nhà văn cũng không thể tìm lời
giải đáp cho nhân vật rằng đâu là hạnh phúc thật sự của con người. Những
cảm nhận về một thời đại loạn ly hiện hình trong từng số phận phụ nữ, đàng
sau bức màn huyền ảo là nỗi đau nhân sinh phản chiếu niềm thương cảm của
nhà văn.
9
Phân tích các tác phẩm văn học
Hiểu Nguyễn Tự và tinh thần cơ bản của Truyền kỳ mạn lục, chúng ta có thể
tìm thấy một hướng khai thác vào vẻ đẹp của tinh thần nhân bản thế kỷ XVI,
một tiền đề cho sự nở rộ của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong sáng tác ở
các giai đoạn sau. Sự tổng hoà các xu hướng dân gian, xu hướng lịch sử và
xu hướng thế tục đã khiến cho những câu chuyện của Nguyễn Tự thật sự có
một diện mạo riêng, đạt đến chuẩn mực của truyện ngắn trung đại Việt Nam.
Những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo ẩn sau lớp vỏ truyền kỳ cần được
tiếp nhận một cách đúng đắn để hiểu rõ thời đại của Nguyễn Tự, khám phá
những uẩn khúc những chiều sâu tâm hồn con người thời trung đại. Ngoài
ra, cũng từ cái mốc Truyền kỳ mạn lục, chúng ta cũng có thể thấy được
những sáng tạo mang đậm dấu ấn tác giả, sự tiếp thu có chọn lọc tinh thần
văn chương thời đại trước, mối quan hệ với văn chương khu vực và ảnh

hưởng của Nguyễn Tự đối với văn học giai đoạn sau này. Từ đó, trong việc
giảng dạy, hướng dẫn đọc thêm cho học sinh, chúng ta sẽ chọn lọc được
những truyện có tính giáo dục cao, có giá trị thẩm mỹ, giúp các em hiểu sâu
hơn vẻ đẹp của tác phẩm nói riêng và của văn xuôi trung đại nói chung.
10
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Mùa xuân nho nhỏ
I. Nhà thơ Thanh Hải
- Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn quê ở Phong Điền, Thừa Thiên
Huế.
- Hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp
11
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
-Tham gia hai cuộc kháng chiến, bám trụ quê hơng trong những năm kháng
chiến ác liệt nhất của cách mạng.
- Là nhà thơ có công xây dựng nền văn nghệ cách mạng miền Nam từ
những ngày đầu.
- Thơ Thanh Hải nhỏ nhẹ, chân thành, đằm thắm, giàu nhạc điệu, hình
ảnh ngôn ngữ chọn lọc, bình dị.
- Bị bệnh hiểm nghèo, ông vẫn sống lạc quan.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ đợc sáng tác vào tháng 11 1980, khi
đó nhà thơ đang ốm nặng trên giờng bệnh. Ngày 15/12/1980, ông
qua đời.
2. Giá trị nghệ thuật:
- Thể thơ 5 chữ, gần với âm hởng thơ ca, tạo âm hởng nhẹ nhàng tha
thiết
- Cách gieo vần liền, tạo sự liền mạch về cảm xúc.
- Kết hợp các hình ảnh giản dị của tự nhiên với các hình ảnh mang ý
nghĩa biểu trng tạo nên sự phát triển, nâng cao và đổi mới ( Hình t-

ợng mùa xuân )
12
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
- Câu từ thơ chặt chẽ, từ hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên đất trời
đến mùa xuân của đất nớc, của cách mạng và mùa xuân do con ngời
tạo ra.
3. Giá trị nội dung :
- Bài thơ đã vẻ lên bức tranh thiên nhiên, đất trời xứ Huế thơ mộng
ngập tràn sức sống. Đồng thời là tiếng lòng tha thiết yêu mến và
gắn bó với đất nớc, với cuộc đời, thể hiện ớc nguyện chân thành đ-
ợc hoà nhập, đợc cống hiến cho đất nớc, góp một mùa xuân nho nhỏ
vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Đề 1. Phân tích khổ thơ thứ nhất của bài
1. Mở bài :- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác.
- Giới thiệu khái quát bài thơ, đoạn thơ : Mùa xuân nho nhỏ là bài
tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông. Với giọng thơ trầm lắng
và những nét chấm phá đặc sắc, bài thơ đã dựng lên bức tranh mùa
xuân tơi đẹp, thơ mộng và ngập tràn sức sống:
( Chép lại khổ thơ)
2. Thân bài :
*Phân tích : Bức tranh mùa xuân ấy mở đầu bằng hình ảnh:
Mọc giữa dòng sông xanh
13
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Tác giả đã khéo léo khi đảo động từ mọc lên đầu câu. Nó không
chỉ tạo ngời đọc ấn tợng đột ngột, bất ngờ mà còn làm cho sự vật sống
động nh đang diễn ra trớc mắt.Tởng nh bông hoa kia đang từ từ, lồ lộ mọc
lên, vơn lên xoè nở trên mặt nớc xanh biếc của dòng sông xuân.
Ba tiếng dòng sông xanh đa ngời đọc liên tởng đến dòng sông H-
ơng Giang con sông huyền thoại của xứ Huế, con sông với màu xanh

biếc đặc trng. Con sông ấy nh biểu tởng của sức sống màu xuân tơi trẻ.
Dòng sông chảy đến đâu, sức xuân lan toả đến đó. Hình ảnh bông
hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh gợi liên tởng đến sức sống
mãnh liệt của mùa xuân đang từ từ trỗi dậy.
Hai câu thơ đã bộc lộ cảm nhận tinh tế và sự phối hợp màu khéo léo
của tác giả. Dòng sông xanh hoa tím biếc, hai gam màu vừa tơng phản lại
vừa hài hoà cho bức tranh phản chiếu trên phản chiếu trên mặt nớc trong
tạo nên bảy sắc cầu vồng rực rỡ. Đó là vẻ đẹp dịu dàng, thanh mát và đằm
thắm của thiên nhiên ban tặng cho con ngời. Hơn nữa cách lựa chọn gam
màu của tác giả cũng rất tinh tế. Nói đến mùa xuân là ngời ta thờng nói
đến hoa mai và hoa đào, còn mùa xuân trong thơ Thanh Hải lại là hình
ảnh bông hoa tím biếc .Màu tím là màu đặc trng của ngời dân xứ Huế.
Chỉ có màu tím mới diễn tả hết đợc vẻ đẹp kín đáo, đằm thắm của các
cô gái Huế.
14
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Giữa dòng sông ấy, tác giả lắng nghe :
ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang lừng
Tiếng ơi và hót chi cất lên vừa ngọt ngào, vừa mang giọng điệu
thân thơng của ngời dân xứ Huế. Tiếng chim chiền chiện là âm thanh
quen thuộc báo hiệu mùa xuân về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất
trời, đem đến bao niềm vui. Ngắm dòng sông xanh, hoa tím biếc, lắng
nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi cảm giác bâng khuâng, xao xuyến :
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đa tay tôi hứng
Hình ảnh thơ đẹp, giàu chất tạo hình góp phần bộc lộ cảm xúc vui
tơi, hồn nhiên, trong trẻo của nhà thơ trớc mùa xuân của thiên nhiên đất trời.
Đa tay hứng là cử chỉ bình dị, trân trọng thể hiện sự xúc động sâu
xa. Hình ảnh giọt long lanh là cử chỉ tởng đầy chất thơ. Trong sự cảm

nhận của nhà thơ,tiếng chim vốn vô hình đợc cảm nhận bằng thính giác
trở nên có hình khối đợc cảm nhận bằng thị giác, rồi có ánh sáng với màu
sắc cụ thể mà nhà thơ có thể cảm nhận bằmg xúc giác qua bàn tay đa
hứng của mình. Những giọt long lanh ấy có thể là giọt tiếng chim? Giọt
sơng, Giọt ma xuân ?Giọt nắng Giọt hạnh phúc mà thiên nhiên ban tặng
15
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
cho con ngời . Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác góp phần tâm trạng say s-
a, ngây ngất của nhà thơ trớc mùa xuân tơi đẹp của thiên nhiên, đất trời.
Đánh giá, nâng cao: Chỉ vài ba nét chấm phá đơn sơ, giản dị, Thanh
Hải đã vẻ lên bức tranh xứ Huế tơi đẹp, trang nhã, thơ mộng và ngập tràn
sức sống. Đó là bức tranh mùa xuân với không gian cao rộng, màu sắc tơi
tắn, âm thanh rộn rã và dòng sông hoa cỏ, có tiếng chim hót, có bầu trời,
có sơng mai và con ngời ngập tràn niềm vui. Một niềm vui ấm áp dạt dào.
Trớc bức tranh thơ này, ngời đọc khó hình dung nổi, tác giả những vần
thơ vui tơi, rộn rã ấy lại nằm trên giờng bệnh, sống những ngày cuối cùng
của cuộc đời. Ông đã cảm nhận mùa xuân bằng chính trái tim yêu đời
thiết tha của mình.
3. Kết bài : Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng tha thiết và
yêu mến, gắn bó với con ngời và cuộc đời. Mùa xuân nho nhỏ mà
không nhỏ chút nào. Nó nói lên đợc nhiều ý nghĩa. Vì đó là lời tâm
niệm thiết tha chân thành, sâu lắng nhất của một tâm hồn trớc lúc
đi xa. Bài thơ đã góp vào bản hợp xớng một nột trầm làm xao xuyến
lòng ngời để gần ba mơi năm qua đi mà d âm của nó vẫn còn sâu
lắng
2 Phân tích đoạn thơ:
Mùa xuân ngời cầm súng
16
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc


Cứ đi lên phía trớc
1. Mở bài : Giới thiệu tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác :
-Thơ Thanh Hải nhỏ nhẹ, chân thành, đằm thắm.
- Bài thơ đợc sáng tác năm 1980, những năm đất nớc vừa thống nhất và bắt
tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Bài thơ không chỉ là lời tâm niệm thiết tha chân thành, là ớc nguyện
đợc cống hiến cho đời mà còn là bản hoà ca về không khí rộn rã, vui tơi
của đất nớc và dân tộc trong cuộc đời đổi mới. Không khí náo nớc ấy đợc
tác giả ghi lại trong khổ thơ( Chép lại khổ thơ)
2. Thân bài:
* Khái quát: Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, cảm hứng thơ của Thanh
Hải chuyển sang cảm hứng của mùa xuân đất nớc, của cách mạng một cách
tự nhiên.
*Phân tích:
Mùa xuân ngời cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lng
Mùa xuân ngời ra đồng
Lộc trải dài nơng mạ
17
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Trong số hàng nghìn, hàng vạn những con ngời đang hăng say lao
động, tác giả chọn hai đối phơng: Ngời cầm súng và ngời ra đồng. Bởi họ
chính là những con ngời đại diện cho hai nhiệm vụ quan trọng, cơ bản
của đất nớc: Chiến đấu - bảo vệ tổ quốc và lao động xây dựng đất nớc.
Cấu trúc thơ song hành đã góp phần thể hiện rõ hai nhiệm vụ cơ bản đó.
Tất cả những ngời cầm súng và ngời ra đồng đều đem theo một
hình ảnh quen thuộc: lộc. Đó là hình ảnh mang nhiều tầng ý nghĩa.
Lộc là chồi non, cành biếc đâm những điều may mắn, hạnh phúc. Ng-
ời lính khoác trên lng màu lá nguỵ trang xanh biếc mang theo sức sống màu
xuân, sức mạnh của dân tộc để ra trận. Ngời nông dân đem mồ hôi và sự

cần cù của mình để làm nên màu xanh cho ruộng đồng. Có thể nói, con
ngời đi đến đâu thì mùa xuân, sức xuân trải dài đến đó. ý thơ vô cùng
sâu sắc: Máu và mồ hôi của con ngời đã tô điểm cho mùa xuân, để giữ
lấy mùa xuân mãi mãi. Những con ngời lao động và chiến đấu ấy đã
mang cả mùa xuân ra mặt trận của mình để gặt hái mùa xuân cho đất
nớc.
Cả dân tộc tộc bớc vào xuân với khí thế khẩn trơng, rộn ràng náo
nức:
Tất cả nh hối hả
Tất cả nh xôn xao
18
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Hối hả có nghĩa là khẩn trơng, vội vã và gấp gáp. Xôn xao gợi đến
nhiều âm thanh đan xen nhau làm cho không khí náo động. Cặp từ láy
hối hả, xôn xao cùng với điệp từ Tất cả làm cho câu thơ vang lên
nhịp điệu gấp gáp, rộn rã, vui tơi. Đó là hành khúc của đất nớc khi bớc vào
xuân, bớc vào cuộc sống mới. Có hiểu hoàn cảnh khó khăn của đất nớc ta
thời điểm bài thơ ra đời, mới hiểu và trân trọng tình cảm, niềm tin, sự
hăng say nhiệt tình của những con ngời xã hội chủ nghĩa đó. Từ sự cảm
nhận của không khí chiến đấu, lao động của đất nớc, giọng thơ nh lắng
sâu hơn khi nhà thơ suy t về đất nớc:
Đất nớc bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nớc Việt Nam thân yêu của chúng ta đã qua bốn nghìn năm dựng nớc
và giữ nớc. Trong suốt chiều dài lịch sự ấy, đất nớc đã phải trải qua bao
vất vả, gian lao. Vất vả, gian lao vì chống giặc ngoại xâm, vất vả gian lao
vì phải đơng dầu với thiên tai dịch hoạ. Nhng dù có vất vả, gian lao đến
đâu thì ngời dân VN vẫn nguyện đem mồ hôi. xơng máu, lòng yêu nớc
và tinh thần quả cảm của mình để bảo vệ và xây dựng đất nớc. Dân ta
tài trí và nhân nghĩ, suốt bốn ngàn năm dựng nớc và giữ nớc đã toả sáng

nền văn hiến Đại Việt, đã khẳng định sức mạnh Việt Nam:
Đất nớc nh vì sao
19
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Vẫn đi lên phía trớc.
Câu thơ Đất nớc nh vì sao là hình ảnh so sánh đẹp, đầy ý
nghĩa. Sao nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp bầu trời vĩnh hằng trong
không gian và thời gian. So sánh đất nớc với vì sao là bộc lộ niềm tự hào
vào đất nớc Việt Nam giàu đẹp, kiên cờng. Đất nớc Việt Nam của chúng
ta có nguy cơ xoá tên khỏi bản đồ thế giới đang vợt đêm đen và từng bớc toả
sáng, khẳng định mình.
Hành trình đi tới tơng lai của đất nớc không một thế lực nào ngăn
cản đợc. Động từ cứ đợc đặt lên đầu câu thể hiện ý chí quyết tâm
và niềm vui sắt đá của dân tộc để xây dựng Việt Nam dân giàu, nớc
mạnh.
Đánh giá nâng cao: Trong khổ thơ này, nhà thơ đã nói lên mùa xuân
của đất nớc của cách mạng. Một mùa xuân ấm áp, đầy sinh lực, mới mẻ, tinh
khôi. Mùa xuân trên trận địa và mùa xuân trên cánh đồng, mùa xuân đợc
làm nên bởi con ngời Việt Nam bình dị mà vĩ đại. Hối hả và xôn xao,
khí thế và quyết tâm, ào ạt và mãnh liệt Tất cả đã góp phần dệt nên
một màu toàn thắng cho mùa xuân lớn cảu đất nớc, của dân tộc.
3.Kết bài

*Đề 3. Phân tích đoạn thơ:
20
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Ta làm con chim hót
. . . .
Dù là khi tóc bạc
1. Mở bài

- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác.
- Bài thơ thể hiện tình cảm thiết tha và niềm tin vững chắc của nhà
thơ với đất nớc và tâm niệm đợc hiến dâng cuộc đời mình cho
dân tộc. ớc nguyện chân thành ấy làm xúc động biết bao bạn đọc
suốt 30 năm qua.
( Chép lại khổ thơ)
2. Thân bài :
Khái quát : Mùa xuân của thiên nhiên, đất nớc thờng gợi lên ở mỗi ngời
niềm khao khát và hi vọng. Với Thanh Hải, đây là thời điểm nhà thơ
nhìn lại cuộc đời mình và bộc bạch những điều tâm niệm tha thiết của
ngời chiến sĩ cách mạng, một nhà thơ gắn bó trọn đời mình cho đất nớ,
cho nhân dân.
Phân tích : Trong sức xuân mạnh mẽ của đất trời, trong khi thế
bừng bừng của đất nớc vào xuân, nhà thơ cảm nhận mùa xuân dâng lên từ
đáy tâm hồn mình. Đó là mùa xuân của lòng ngời, mùa xuân của sức sống
tuổi trẻ, mùa xuân của cống hiến và hi sinh.
21
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Thật đáng yêu, bởi ớc nguyện của nhà thơ nhỏ bé khiêm nhờng quá:
Ta làm xao xuyến
Nhà thơ chỉ mong mình làm một cành hoa trong muôn ngàn cành
cành hoa, làm tiếng chim trong muôn ngàn tiếng chim để tô điểm cho
mùa xuân tơi đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ chỉ mong mình là một nốt
nhạc trầm trong bản đàn mùa xuân rộn rã, vui tơi. Tuy không cao lắm nhng
làm xao xuyến lòng ngời.
Nếu ở khổ thơ đầu, mùa xuân của thiên nhiên đất trời đợc tạo nên
bởi một cành hoa, một tiếng chim thì trong khổ thơ này, hình ảnh thơ đợc
lặp lại. Nhà thơ đã mợn để nói lên ớc nguyện của mình : Đem cuộc đời
mình hoà nhập, cống hiến để làm lên mùa xuân lớn cho đất nớc. Hình
ảnh thơ giản dị kết hợp với một số từ một diễn tả ớc nguyện khiêm nhờng

của nhà thơ.
Trong bức tranh xuân ấy lại xuất hiện một nhân vật trữ tình. Đến
khổ thơ này, đại từ Tôi chuyển sang đại từ Ta một cách tự nhiên. Ta
vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều, vừa chỉ nhà thơ, và cũng là tất cả mọi
ngời. Có thể nói Thanh Hải đã nói lên ớc nguyện cống hiến của biết bao
ngời dân Việt Nam.
22
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Điệp ngữ Ta làm, ta nhập đợc đặt ở đầu câu góp phần khẳng
định khát vọng đợc hoà nhập cái tôi nhỏ bé vào cái ta chung rộng lớn,
để cống hiến cho đời.
ớc nguyện cống hiến của nhà thơ không chỉ nhỏ bé khiêm nhờng
mà nhà thơ còn mong cống hiến âm thầm, lặng lẽ.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời.
Đến đây, nhà thơ lại ớc mình làm Một mùa xuân nho nhỏ hoà
chung vào mùa xuân lớn của đất nớc của dân tộc. Mùa xuân nho nhỏ là
một ẩn dụ sáng tạo, độc đáo. Nó đợc tạo nên bởi sự hi sinh và cống hiến.
Nhng sự cống hiến đó không ồn ào, phô trơng mà lặng lẽ, âm thầm. Từ
Lặng lẽ đợc đặt lên đầu câu góp phần diễn tả sự âm thầm cống
hiến đó. Nhà thơ còn dâng mùa xuân nho nhỏ của mình cho đất nớc
bằmg thái độ thành kính,thiên liêng. Mùa xuân nho nhỏ nhng ý nghĩa
không hề nhỏ, bởi tấm lòng nhà thơ luôn hớng tới sự cống hiến cao đẹp.
Nét đẹp nữa trong sự cống hiến là nhà thơ nguyện cống hiến bền
bỉ, suốt cả cuộc đời:
Dù là tuổi hai mơi
Dù là khi tóc bạc
23
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Lời có ý nghĩa khái quát cao: Tuổi trẻ cống hiến hi sinh, tuổi già

cũng âm thầm cống hiến. Cụm từ Tuổi hai mơi- khi tóc bạc mang ý
nghĩa khái quát suốt chiều dài của đời ngời. Thanh Hải quan niệm rằng:
Hãy cống hiến những gì nhỏ bé nhất nhng có ích. Cống hiến âm thầm
và suốt cả cuộc đời. ý thức trách nhiệm với quê hơng đất nớc, khát vọng
cống hiến đã trở thành ý thức bất diệt trong tâm hồn khán giả. Còn sống là
còn cống hiến. Tuổi hai mơi căng tràn nhựa sống hay tuổi già khi tóc bạc
thì ý thức trách nhiệm với đất nớc vẫn không hề thay đổi. Điệp từ dù là
nh một lời hứa, một lời tự nhủ với lơng tâm sẽ mãi làm một mùa xuân nho
nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hơng, đất nớc.
Quan niệm sống của Thanh Hải chính là quan niệm sống cao đẹp
của một ngời chiến sĩ cách mạng. Quan niệm này có sự kế thừa, phát huy
quan niệm sống của cha ông và thay đổi để phù hợp với cuộc sống hiện
đại.
Cổ nhân xa từng quan niệm :
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Và Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi, rợu bầu.
24
Phõn tớch cỏc tỏc phm vn hc
Còn với ngời chiến sĩ cách mạng thì cống hiến tất cả những gì nhỏ
bé nhất, cống hiến trong lặng lẽ, âm thầm và bền bỉ suốt cả cuộc đời.
Đánh giá nâng cao: Hai khổ thơ ngắn gọn nhng chứa đựng một triết
lí, một nhân sinh quan sâu sắc:Vấn đề sống đẹp và sống ý nghĩa.
Triết lí sống ấy đợc gửi gắm trong lời thơ nhỏ nhẹ nh lời tâm niệm
chân thành, qua hình ảnh thơ đơn sơ mà mang nhiều cảm xúc. Chính vì
vậy hình ảnh Mùa xuân nho nhỏ cuối bài thơ nh ánh lên, toả sáng. Đó là
ánh sáng của một tâm hồn muốn sống một cuộc đời đẹp nh những xuân.
2. Kết bài : Khẳng định giá trị bài thơ: Mùa xuân nho nhỏ nhng ý
nghĩa không nhỏ. Đó là bài thơ hay mà Thanh Hải để lại cho đời trớc lúc

đi xa
25

×