Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

SKKN: Vận dụng tri thức lí luận về thể loại vào dạy học đọc hiểu các tác phẩm văn học Việt Nam sau năm 1975 ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 26 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG TRI THỨC LÍ LUẬN
VỀ THỂ LOẠI VĂN HỌC VÀO
DẠY ĐỌC HIỂU CÁC TÁC PHẨM
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU NĂM
1975 Ở TRƯỜNG THPT


I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng cho rằng: “Văn học, một hình thái ý
thức đặc biệt của xã hội, là nghệ thuật vận dụng ngơn ngữ một cách tài tình và
sáng tạo để nhận thức và phản ánh đời sống xã hội, để biểu hiện tâm tư con
người. Văn học đã trở thành công cụ để giáo dục con người, cải tạo xã hội rất
mạnh mẽ, nó là thứ vũ khí tư tưởng rất sắc bén có tác dụng to lớn, sâu rộng và
bền bỉ mà lịch sử loài người từ trước đến nay đã xác nhận”. Mơn văn ngồi “dạy
sống, dạy người, dạy mở mang trí tuệ”, cịn có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh
những hiểu biết một cách có hệ thống về lí luận văn học. Đây là những tri thức
khái quát rất quan trọng bởi lẽ dạy văn không chỉ dừng lại ở chỗ giúp người học
cảm thụ được vẻ đẹp của từng tác phẩm văn chương (TPVC) cụ thể, mặt khác
góp phần trang bị cho các em những kiến thức cơng cụ để có thể tự mình tiếp
nhận văn học một cách có lý luận, tiếp nhận văn học một cách văn học.
Dạy học khơng phải là rót kiến thức vào cái bình chứa, hay nhồi nhét cho
HS một mớ kiến thức hỗn độn mà điều quan trọng là phải làm sao trang bị cho
các em phương pháp nghiên cứu, học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề.
Để đọc hiểu TPVC, địi hỏi ở người đọc khơng chỉ là trực cảm thẩm mĩ, thưởng
thức rung cảm mà cịn ở khả năng phân tích, lí giải, đánh giá. Trong dạy học tác
phẩm, không thể đối lập giữa cảm và hiểu, giữa khả năng cảm thụ thẩm mĩ và tri
thức lí luận văn học. Muốn vậy, “khơng thể khơng vũ trang cho HS một vốn
liếng lí luận cần thiết”. Tri thức lí luận văn học là tri thức cơng cụ, tri thức
phương pháp, là kiến thức siêu kiến thức, giúp cho việc đọc văn có phương


pháp, phù hợp với bản chất đặc trưng của văn học, đồng thời giúp phân tích, lí
giải TPVC một cách đầy đủ và sâu sắc. Nếu khơng, những kiến thức mà HS có
được cũng chỉ là những kiến thức vụn vặt, cảm tính, mang tính tư liệu.
Mục đích cuối cùng và cao nhất của dạy học trong nhà trường hiện đại là
phát triển toàn diện HS. Mục đích của dạy đọc hiểu văn bản là rèn luyện và phát
triển khả năng tự học, tự đọc và tạo lập văn bản ở các em. Tri thức lí luận văn
học góp phần nâng cao trình độ “quan niệm” trong tiếp nhận văn học, củng cố
và mở rộng vốn văn hóa đọc cũng như phát triển năng lực, kĩ năng đọc văn cho
HS.
Như vậy, lí luận văn học trong nhà trường phổ thơng giữ một vị trí quan
trọng vì đó là những kiến thức cơ bản nhất về lí thuyết để cung cấp bước đầu
cho HS tìm hiểu, tiếp xúc với từng TPVC cụ thể. Nó được xem như là những
kiến thức nhập mơn có tính chất mở đường hướng dẫn cho học sinh đi sâu vào
bản thể từng tác phẩm và nâng cao cảm thụ thẩm mĩ.
Từ sau năm 1975, đặc biệt là từ năm 1986, văn học Việt Nam bước vào
thời kì đổi mới. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, đổi mới quan niệm
về nhà văn, về văn học, đưa ra những cái nhìn mới mẻ trong quan niệm nghệ
thuật về con người, phát huy cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của nhà
văn với những tìm tịi, thể nghiệm mới. Văn học khơng cịn chỉ là tiếng nói
chung của dân tộc, thời đại, cộng đồng mà cịn có thể và cần phải là phát ngôn
của mỗi cá nhân. Cho đến nay dẫu có nhiều ý kiến khác nhau nhưng khơng cịn


ai phủ nhận những thành tựu lớn của văn học giai đoạn này. Đây là một giai
đoạn rất quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Văn học giai
đoạn này đã đáp ứng yêu cầu của một đối tượng người đọc mới. Sự phát triển ý
thức và trình độ thẩm mỹ trong tiếp nhận văn học buộc văn học phải đổi mới
nhiều mặt. Sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài
và chủ đề mới, làm thay đổi cái nhìn của nhà văn về hiện thực, về con người.
Thế giới bên trong của con người được chú trọng hơn với những diễn biến phức

tạp hơn, đa dạng hơn và nhân văn hơn mà trước đây văn học chưa có điều kiện
nói kĩ đến.
Thêm vào đó, trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay, có những tác
phẩm sau năm 1975 được đưa vào trong chương trình địi hỏi HS phải được
trang bị những hiểu biết về lí luận văn học hiện đại thì mới có thể giải mã, phát
hiện, khám phá những nét đặc sắc của nó. Vì thế, bản thân GV còn khá lúng
túng trong việc tiếp cận và tìm ra phương pháp thích hợp để tổ chức quá trình
cảm thụ, tiếp nhận cho HS. Bởi lẽ, để làm tốt công việc tổ chức cho HS chiếm
lĩnh được các văn bản văn học Việt Nam sau năm 1975 địi hỏi ở người GV
nhiều kiến thức về lí luận văn học cũng như bản lĩnh và tài năng sư phạm.
Chính vì những lẽ trên, tơi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Vận dụng tri thức
lí luận về thể loại vào dạy học đọc hiểu các tác phẩm văn học Việt Nam sau
năm 1975 ở trườngTHPT” với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học bộ phận văn học này ở nhà trường phổ thông.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
a. Cơ sở lí luận.
1.a.1. Tri thức lí luận văn học là tri thức phương pháp, là “chìa khóa” để
đọc hiểu tác phẩm văn chương.
Tri thức lí luận văn học là hệ thống tri thức về toàn bộ những phương diện
cơ bản nhất của đời sống văn học. Hệ thống tri thức cơ bản đó được trình bày
dưới dạng những khái niệm, thuật ngữ nhằm giải thích đúng đắn bản chất, chức
năng, đặc trưng và quy luật của văn học. Dạy học văn học cũng là một khoa học,
một nghệ thuật. Mà đã là khoa học thì nó sẽ có hệ thống quan điểm, hệ thống
phương pháp, hệ thống kiến thức công cụ. Nếu sáng tác văn học là một dịng
chảy liên tục thì lí luận văn học là những khoảnh khắc văn học dừng lại để tự ý
thức về chính mình. Khơng có sự tự ý thức đó thì khơng thể có điều kiện để đúc
rút kinh nghiệm nhằm tiến lên phía trước, để chọn lọc những giá trị quý báu bồi
đắp nên bề dày của văn hố. Nếu khơng có tri thức lí thuyết về văn học thì
khơng có cách gì để tiếp cận các hiện tượng văn học, khơng có cơng cụ để khám

phá, phát hiện bản chất, đặc trưng, quy luật và giá trị của nó.
Lí luận văn học là cơng cụ về lí thuyết để trang bị cho HS những hiểu biết
cơ bản về bản chất của văn học, cấu trúc loại hình của tác phẩm, đặc trưng của
các thể loại văn học. Từ những hiểu biết này, HS được trang bị lối tiếp cận tác
phẩm theo đúng đặc trưng thể loại của nó, tìm đúng kênh giao tiếp trong q
trình cảm thụ TPVC.


Những tri thức lí luận văn học cung cấp cho học sinh “chìa khố” để đọc
hiểu tác phẩm. Đọc hiểu là khái niệm bao trùm có nội dung quan trọng trong q
trình dạy học văn. Mục đích đào tạo của quá trình dạy học văn là hình thành và
phát triển văn hố đọc cho HS. Nói cách khác là đào tạo bạn đọc HS thực sự trở
thành những bạn đọc năng động và sáng tạo. Với các em học sinh THPT, dẫu
rằng giữa cảm tính và lý thuyết thì cái quan trọng trước nhất vẫn là cảm tính.
Điều đó có nghĩa, trong giảng dạy văn chương trước hết phải làm sao tạo nên ở
các em những rung động thẩm mỹ để các em biết yêu, ghét, biết “cúi xuống
trước nỗi đau của người khác”... Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ.
Bởi lẽ những cảm xúc ấy sẽ trở nên nông cạn, hời hợt, chợt loé sáng rồi chợt tắt
nếu các em không cảm nhận một cách có ý thức. TPVC là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Bức thông điệp thẩm mỹ- đứa con đẻ tinh thần của nhà
văn đã đi trọn vòng đời của mình khi đến với độc giả. Khi sáng tác, nhà văn ln
mong muốn sẽ tìm được tiếng nói tri âm ở người đọc. Không thể phủ nhận rằng,
kiến thức lí luận đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc giúp độc giả đọc,
cảm thụ, đánh giá và phê bình một tác phẩm văn chương cụ thể.
Với học sinh THPT, yêu cầu được đặt ra cho việc cung cấp kiến thức lí luận
văn học “khơng phải là để bồi duỡng tư duy lý luận mà là để tiếp nhận văn học
một cách có lý luận, tiếp nhận văn học một cách văn học”. Như vậy, có thể thấy
những kiến thức lí luận là những kiến thức cơ bản, giúp cho HS tìm hiểu, phân
tích những TPVC cụ thể. Có thể xem đây là kiến thức nhập mơn có tính chất mở
đường hướng dẫn HS tiếp cận tác phẩm một cách hiệu quả. Từ đó, HS mới

khám phá được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm cũng như tài năng của nhà văn.
Việc giúp HS vận dụng tri thức lí luận sẽ tạo cho các em tiếp cận giải mã tác
phẩm một cách khoa học.
1. a. 2. Khái niệm.
1.a. 2.1. Thể loại văn học.
a. Khái niệm 1: Thể loại của tác phẩm văn học là sự thống nhất trọn vẹn
của các yếu tố đề tài, chủ đề, tư tưởng, nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời văn.
Nhưng sự thống nhất ấy lại được thực hiện theo những quy luật nhất định. Thể
loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó
ứng với một loại hình nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo
cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể. (Lí luận văn học – Phương Lựu
(chủ biên) – NXB Giáo Dục)
b. Khái niệm 2: Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, được
hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn
học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của
các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của
nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy … Thể loại văn học trong bản chất
phản ánh những khuynh hướng phát triển vững bền, vĩnh hằng của văn học và
các thể loại văn học tồn tại để giữ gìn, đổi mới thường xuyên các khuynh hướng
ấy. Do đó mà thể loại văn học ln ln vừa mới vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn
định. (Từ điển Thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (đồng chủ biên) – NXB Giáo Dục).
1.a.2.2. Khái niệm Chủ nghĩa siêu thực:


Là khuynh hướng văn nghệ tiền phong chủ nghĩa ra đời ở Pháp vào những
thập niên đầu của thế kỷ XX và được giới văn nghệ sĩ ở một số nước khác như:
Bỉ, Tiệp, Nam Tư, Mĩ … hưởng ứng.
Cơ sở triết học của chủ nghĩa siêu thực là học thuyết trực giác của Béc
Xông và phân tâm học của Phrớt. Những nguyên tắc mĩ học của trường phái

siêu thực là:
- Hướng về thế giới vô thức của con người mà họ là một lĩnh vực vô hạn
đối với sự khám phá sáng tạo nghệ thuật.
- Đề cao cái ngẫu hứng, chú trọng việc ghi chép những cái xuất hiện lướt
qua trong đầu khơng qua sự kiểm sốt của lí trí.
- Vứt bỏ sự phân tích lơ gic, đập tan các gơng cùm của lí trí, đạo đức, tơn
giáo và chỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng và
sự tiên tri.
- Dựa theo lý thuyết “tự động tâm linh” của Brơ tông họ kêu gọi hướng tới
sự hồn nhiên không suy nghĩ của trẻ thơ, tới trạng thái mê sảng, tới những ảo
giác mộc mạc của những bộ lạc nguyên thủy và nền nghệ thuật cổ sơ của họ.
Vì thế Chủ nghĩa siêu thực chủ trương thơ ca phải được tuôn trào tự do,
không cần sử dụng các dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự ngữ pháp, đề
cao sự liên tưởng tự do cá nhân. (Từ điển Thuật ngữ văn học).
1.a.2.3. Khái niệm Thơ trữ tình:
Thuật ngữ dùng chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình trong đó, những
cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng
của đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. Tính chất cái thể hóa của cảm
nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của
thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những
biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc của tác phẩm cho tới
những chính kiến, những tư tưởng triết học. (Từ điển Thuật ngữ văn học).
1.a.2.4. Khái niệm Truyện:
Truyện – tự sự là phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương
thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại các tác phẩm văn
học.
Truyện là phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành
vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về
cái gì đó. Cho nên tác ophaamr tự sự bao giờ cũng có cốt truyện… cốt truyện
được khắc họa nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng, bao

gồm chi tiết, sự kiện, xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết
tính cách… đời sống, văn hóa, lịch sử, lại cịn có cả những chi tiết liên tưởng,
tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật nào tái hiện được…(Từ điển
Thuật ngữ văn học).
1.a.2.5. Khái niệm Kí:
Kí là một loại hình văn học trung gian nằm giữa báo chí và văn học, gồm
nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự.
Tính xác thực là đặc trưng cơ bản của thể kí, Kí phản ánh hiện thực khách
quan. Những sự kiện, con người đều mang tính xác thực. Kí cũng có khả năng
hư cấu nhưng liều lượng hư cấu có giới hạn và không thể xa rời thực tiễn.


Kí là thể loại in đậm dấu ấn hình tượng tác giả. Người viết kí khơng ẩn
mình mà trực tiếp viết ra những gì mình chứng kiến, quan sát. Cái tôi tác giả kể,
thông tin, miêu tả hoặc dẫn dắt người đọc tiếp cận cuộc sống, con người
Ngơn ngữ kí chủ yếu là ngôn ngữ của tác giả. Là thể loại nhanh nhạy, kí
phản ánh kịp thời những vấn đề sơi bỏng của đời sống, nên ngơn ngữ kí gần với
ngơn ngữ đời thường.
Cấu trúc tác phẩm kí thường theo trục tuyến thời gian, cảm xúc, sự kiện.
Thể loại kí có những thể cơ bản sau: bút kí, sử kí, phóng sự, tuỳ bút, kí sự,
hồi kí, nhật kí. (Từ điển Thuật ngữ văn học).
b. Cơ sở thực tiễn.
1.b.1. Khảo sát các tác phẩm văn học sau năm 1975 trong SGK Ngữ
văn 12 (Ban cơ bản).
- Về thơ, có tác phẩm: Đàn ghita của Lorca của Thanh Thảo.
- Về kí, có tác phẩm: Ai đã đặt tên cho dịng sơng của Hồng Phủ Ngọc
Tường.
- Về truyện, có tác phẩm: Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu.
- Về kịch, có tác phẩm: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của lưu Quang Vũ.
Như vậy, văn học Việt Nam sau năm 1975 ở chương trình Ngữ văn 12

THPT có sự xuất hiện của nhiều tác phẩm với nhiều thể loại mà việc tổ chức q
trình đọc hiểu khơng hề đơn giản. Nhiều tác phẩm có nhiều hướng tiếp cận, khai
thác khác nhau. Văn học thời kì này phát triển theo tinh thần dân chủ hoá. Giữa
tác phẩm và người đọc là một cuộc đối thoại. Vì thế, bản thân GV cũng như HS
cần được trang bị những tri thức về lí luận văn học và biết cách vận dụng những
tri thức này vào q trình tiếp nhận thì mới có thể lĩnh hội được cái hay, cái đẹp
của tác phẩm. Việc phân tích các tác phẩm này sẽ có ý nghĩa mở ra hướng tiếp
cận, khám phá cho HS trong quá trình đọc hiểu các văn bản khác. Từ đó, trang
bị cho HS những kiến thức cơng cụ nhằm hồn thiện nâng cao phương pháp đọc
hiểu tác phẩm ở các em. Điều đó có nghĩa là cần tích cực hình thành cho HS một
cách đọc đối thoại, đọc đồng sáng tạo để HS có thể cảm nhận và phân tích tác
phẩm một cách chủ động. Để các em đến với văn học và tìm hiểu giá trị của các
TPVC khơng chỉ đơn thuần bằng những rung động cảm tính mà thực sự khám
phá tác phẩm một cách có khoa học, có lý luận. Đây là một địi hỏi mang tính
chất bắt buộc trong yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đọc văn ở nhà trường
phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
1.b.2. Thực trạng dạy và học môn Ngữ văn của giáo viên và học sinh
lớp 12 ở trường THPT Sông Ray
* Về phía GV:
Qua kết quả dự giờ của một số giáo viên dạy khối 12 ở tổ Văn, tôi nhận
thấy ở một bộ phận GV, việc đổi mới phương pháp dạy học đơi khi chỉ đơn
thuần mang tính hình thức. Do đó, hiệu quả các giờ học chưa cao. Giờ văn nhiều
khi vẫn “thiên về rung cảm xúc động trong HS mà coi nhẹ khái quát...”. Thêm
vào đó, nhiều GV vẫn chưa ý thức đúng mức về tầm quan trọng của tri thức lí
luận văn học trong q trình dạy học tác phẩm văn chương. Vì thế, vấn đề làm
thế nào để hình thành kiến thức lí luận cho HS, giúp các em vận dụng những


kiến thức công cụ này vào khám phá tác phẩm cũng không được chú ý đến. Rất
nhiều GV chưa thực sự chú trọng trang bị, hình thành cho HS những kiến thức lí

luận văn học một cách trực tiếp bên cạnh việc bồi dưỡng tri thức lí luận cho HS
thơng qua việc dạy tác phẩm.
Văn học Việt Nam sau năm 1975 với sự nở rộ của các phong cách, bút
pháp, bộc lộ hết mình các cá tính sáng tạo của nhà văn cùng với việc ra sức tìm
kiếm, thể nghiệm nhiều hình thức và thủ pháp mới thực sự là những “thách
thức” đối với GV trong việc tổ chức quá trình đọc hiểu ở HS. Để giờ học đạt
hiệu quả như mong muốn, GV cần phải nhận thức được vai trị quan trọng của
tri thức lí luận văn học đối với việc đọc hiểu tác phẩm. Trên cơ sở đó, có những
định hướng giúp HS vận dụng những tri thức mang tính cơng cụ này vào q
trình tiếp nhận tác phẩm. Thông qua từng bài học cụ thể, giúp HS tích luỹ, củng
cố và khắc sâu tri thức lí luận văn học. Có như vậy, mới khắc phục nguy cơ
những tri thức lí luận văn học đang biến thành những tri thức thuần lí.
Việc nhận diện, nắm chắc thể loại và vận dụng tri thức về thể loại vào dạy
học các tác phẩm văn học Việt Nam sau năm 1975 cũng là một hướng đi góp
phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ phận văn học này. Bởi lẽ, trong chương trình
Ngữ văn lớp 12, phần văn học sau 1975 xuất hiện nhiều thể loại khác nhau. Nếu
như GV không có trong tay những tri thức cần thiết về thể loại thì việc định
hướng và tổ chức cho HS chiếm lĩnh tác phẩm sẽ không hề đơn giản. Phải làm
sao để HS thực sự đến với văn chương bằng cả trái tim và trí tuệ. Có như vậy,
giờ văn mới thực sự được trả về đúng với bản chất của nó.
Phần văn học Việt Nam sau 1975 có nhiều tác phẩm mới với hướng tiếp
cận mở, GV gặp khơng ít khó khăn trong q trình tổ chức cho HS đọc hiểu văn
bản. Bản thân một bộ phận GV còn lúng túng trong việc hướng dẫn HS tìm ra
hướng phân tích tác phẩm. Rõ ràng GV muốn tiếp cận, giải mã những tác phẩm
trong giai đoạn này thì phải biết tự tìm tịi đổi mới trong phương pháp tiếp cận
văn chương đương đại. Những tri thức lí luận thực sự phải trở thành tri thức
phương pháp, chìa khố để giải mã tác phẩm. Có như vậy, GV mới có thể tổ
chức, định hướng quá trình tiếp nhận tác phẩm ở HS một cách có hiệu quả.
* Về phía HS:
Hầu hết HS ý thức về tầm quan trọng của tri thức lí luận trong quá trình đọc

hiểu tác phẩm. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn khơng ít HS chưa nhận thức được
điều này. Tình trạng HS chưa biết cách vận dụng những tri thức lí luận văn học
vào q trình tiếp nhận tác phẩm văn chương là một thực tế khá phổ biến ở nhà
trường phổ thơng hiện nay. Điều đó khiến cho các em tiếp thu các tác phẩm một
cách thụ động, mất dần kĩ năng đọc hiểu văn bản, thiếu năng lực đọc một cách
sáng tạo.
Khi học các tác phẩm văn học Việt Nam sau năm 1975, HS còn gặp nhiều
khó khăn: khó khăn về tài liệu tham khảo, có kiến thức nhưng khó vận
dụng...Để có thể cảm và hiểu được những tác phẩm sau năm 1975, đòi hỏi ở HS
những tri thức về lí luận văn học và sự hướng dẫn của GV để HS có thể vận
dụng được những tri thức ấy vào tiếp nhận tác phẩm. Trong quá trình giảng dạy,
GV phải định hướng cho HS những tri thức cần thiết bổ trợ cho việc phân tích
tác phẩm. Có làm được như vậy, HS mới có thể khám phá các lớp ý nghĩa của


những tác phẩm văn học Việt Nam sau năm 1975 ở chương trình Ngữ văn lớp
12 THPT.
Khơng thể phủ nhận vai trị quan trọng của tri thức lí luận văn học trong
dạy học đọc hiểu TPVC. Đặc biệt, bộ phận văn học Việt Nam sau năm 1975 với
nhiều tác phẩm mới, nhiều hướng tiếp cận, nếu như không vận dụng những tri
thức mang tính cơng cụ vào việc tổ chức quá trình đọc hiểu để khám phá tác
phẩm là điều khó khăn. Vận dụng tri thức về thể loại văn học vào quá trình dạy
học đọc hiểu văn bản là nhằm góp phần nâng cao trình độ quan niệm trong tiếp
nhận văn học, phát triển năng lực, kĩ năng đọc văn cho HS.
2. VẬN DỤNG TRI THỨC LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI VĂN HỌC VÀO
DẠY HỌC ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM SAU NĂM
1975 Ở TRƯỜNG THPT
2.1. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm Đàn ghi ta của Lorca –
Thanh Thảo theo hướng vận dụng tri thức lí luận về thể loại thơ hiện đại.
a. Thơ:

Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm
trạng, những xúc cảm mạnh mẽ bằng ngơn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất
là có nhịp điệu. Bàn về thơ, Sóng Hồng viết: Thơ là một hình thái nghệ thuật
cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng
cháy trong lịng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn
và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn tả bằng những hình tượng đẹp
đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường. (Từ điển
Thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ
biên) – NXB Giáo Dục).
b. Đặc điểm của thơ hiện đại:
* Về cơ bản, thơ thuộc loại trữ tình, dù trong thơ có thể chứa đựng những
yếu tố của tự sự. Đi vào thế giới của thơ, người đọc bắt gặp ở đó những biểu
hiện trực tiếp cảm xúc, cả những suy tư của chủ thể trữ tình. Chính vì tập trung
vào thể hiện những cảm xúc, tâm trạng, nỗi niềm thầm kín, chủ quan của chủ thể
trữ tình nên thơ có khả năng biểu hiện những vấn đề và chân lý phổ quát của tồn
tại con người như sự sống, cái chết, tình yêu, niềm tin, lý tưởng...Ở thơ, bao giờ
cũng là một cách tổ chức ngôn ngữ khác thường, trong đó, đặc biệt chú trọng
đến nhịp điệu và sự hàm súc, khả năng biểu đạt đặc biệt của từ ngữ ở phương
diện âm thanh và phương diện tạo hình. Có thể khẳng định: thơ là tiếng nói của
tình cảm, cảm xúc, là tiếng nói, khúc hát của tâm hồn. Vì vậy, đến với thơ là tìm
đến với những tâm hồn đồng điệu, để bắt gặp tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng
nói đồng chí.
*Ở trường phổ thơng hiện nay, hiện tượng HS ít hiểu biết về thơ, ít u
thơ khơng phải là điều hiếm gặp. Thậm chí với nhiều em, thế giới thơ hồn tồn
là một thế giới xa lạ. Bản thân các em hiểu biết rất ít về thơ hiện đại. Để tìm
được con đường đưa thơ đến với HS, thiết nghĩ bản thân mỗi GV chỉ giảng được
thơ trên trang sách khi nắm được thơ của cuộc đời và tấm lòng người giảng cũng
là một tấm lòng thơ. Bởi lẽ, dù là thơ cổ điển hay hiện đại, dù người làm thơ có
muốn đổi mới gì đi chăng nữa thì thơ ca mn đời vẫn là tiếng nói hồn nhiên



nhất, nguyên sơ nhất và giàu tính nhân bản nhất của con người về cuộc sống, về
sự cao đẹp của con người.
Giảng thơ chủ yếu là giảng hình tượng thơ, là qua hình thức để giảng nội
dung, là thơng qua việc phân tích các yếu tố về loại thể, kết cấu, ngơn ngữ để
làm sống dậy hình tượng với tất cả vẻ đẹp, chiều sâu của nó. Vì thơ là hình
tượng trong ngơn ngữ lắng đọng và ngân vang, nên khi dạy thơ, GV cần lưu ý
đến khâu đọc diễn cảm. “Khi đọc thơ, phải làm cho mỗi tiếng trong thơ sáng hết
hình và ngân hết nhạc”. Khi tổ chức quá trình dạy đọc hiểu các tác phẩm thơ
hiện đại, GV cần hướng dẫn HS tìm hiểu về hình tượng cái tơi trữ tình trong thơ.
Nếu trong thơ trung đại, thường khơng có sự hiện diện trực tiếp của cái tơi chủ
thể trữ tình thì trong thơ hiện đại, cái tơi của chủ thể trữ tình thường cơng khai
và có ý thức mạnh mẽ tự biểu hiện, không chỉ xúc cảm, quan niệm về thế giới
mà còn cả những điều thầm kín riêng tư nhất.
Tìm hiểu nội dung của bài thơ nhất thiết phải hướng dẫn HS tìm ra được
mạch diễn biến, triển khai của tâm trạng, cảm xúc, suy tư của chủ thể trữ tình.
Điều này có nghĩa là phải tìm cho được cách kết cấu của bài thơ. “Mỗi tác phẩm
là một cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận, thành phần phức tạp. Toàn
bộ những yếu tố, thành phần đó sắp xếp, gắn với nhau theo một kiểu gọi là kết
cấu của tác phẩm”. Kết cấu chi phối việc tổ chức mọi yếu tố của bài thơ như:
ngơn từ, chất liệu, hình ảnh, hình tượng, giọng điệu, cảm xúc, ý tưởng, nhưng
yếu tố cơ bản quy định nên kết cấu của bài thơ chính là mạch diễn biến của cảm
xúc và ý tưởng. Kết cấu bộc lộ tài năng và tính sáng tạo của người nghệ sĩ, đồng
thời phản ánh được quy luật vận động và phát triển của đời sống. Đời sống thì
đa dạng, ln vận động tiến hố, điều đó dẫn đến sự đa dạng và ln biến hố
của hình thức kết cấu.
M.Gorki từng nói: “Ngơn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”. Ngôn ngữ
là chất liệu để người nghệ sĩ vẽ nên bức tranh đời sống và truyền đạt những
thông điệp tư tưởng – thẩm mĩ đến người đọc. Ngôn từ tác phẩm chính là chiếc
cầu nối giữa nhà văn và người đọc. Như vậy, ngơn ngữ chính là cơng cụ, chất

liệu cơ bản của văn học, được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của
người nghệ sĩ. Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện các tính
sáng tạo, phong cách, tài năng của người cầm bút. Đặc biệt trong thơ, mọi khả
năng biểu đạt, sức mạnh và vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học được thể hiện đầy đủ
hơn cả. Ngôn ngữ thơ gắn chặt với đặc điểm ngôn ngữ của mỗi dân tộc, đồng
thời mang đậm dấu ấn cá tính phong cách của nhà thơ. Nếu trong thơ trung đại,
do sự chi phối của cảm quan thời trung đại về vũ trụ và nhân sinh, do quan niệm
mỹ học thiên về tính cân xứng, tính sùng cổ, mà ngơn ngữ thơ đậm tính ước lệ,
tượng trưng thì trong thơ hiện đại, ngơn ngữ thơ thốt khỏi tình trạng nặng về
tính trang nhã, ước lệ, dày đặc điển cố trong từ chương sách vở để gần hơn với
tình cảm, cảm xúc tự nhiên của con người do chủ thể trữ tình được giải phóng
thốt khỏi những ràng buộc con người cá nhân. Chính sự đa dạng về tư duy nghệ
thuật và sự phong phú về giọng điệu đã khiến cho ngôn ngữ thơ có sự phân hố
và phân cực về cả bề nổi và về cả tầng sâu: bên cạnh thứ ngôn ngữ gần gũi với
đời thường là loại ngôn ngữ mờ nhoè, đậm chất tượng trưng, siêu thực, bên cạnh


thứ ngơn ngữ bình dị là những văn bản thơ ngôn ngữ chắp vá một cách cố ý
nhằm tạo nên sự lạ hoá…
c. Cách thực hiện.
c.1. Về tác giả: GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự đổi mới trong thơ
Thanh Thảo. Đàn ghi ta của Lorca rất tiêu biểu cho nỗ lực cách tân thơ Việt
Nam của Thanh Thảo, bài thơ có phần khó hiểu vì nó nhuốm màu sắc tượng
trưng và siêu thực mà ông chịu ảnh hưởng ít nhiều ở chính nhà thơ hiện đại Tây
Ban Nha Gar-xi-a Lorca mà ơng hết lịng ngợi ca. Cho nên khi dạy bài thơ này
giáo viên phải cung cấp và giảng giải cho học sinh khái niệm thơ tượng trưng
và siêu thực, được thể hiện cụ thể trong bài thơ như thế nào?
c.2. Về bài thơ: Gv phải giảng cho học sinh hiểu được giá trị của bút
pháp siêu thực trong Đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo.
Trước hết, thơ hiện đại dòng tượng trưng, siêu thực tạo nên sự khác biệt với

thơ cổ điển và lãng mạn ở việc thể hiện vai trị “cái tơi”. Nếu trong thơ cổ điển,
cái tôi bị phủ định, trong thơ lãng mạn, cái tơi lại được đưa lên vị trí độc tơn thì
đối với các nhà thơ tượng trưng và siêu thực, cái tơi đã mất vị trí độc tơn, bị lu
mờ, thậm chí trở thành cái tơi đa ngã. Chủ nghĩa siêu thực đề ra một hệ thống
quan điểm mỹ học, gồm: Đề cao và chú trọng khai thác cái ngẫu hứng, cái bất
ngờ trong thế giới vô thức; đề cao vai trò của cái hỗn độn, phi logic, phi luận lí;
phá vỡ sự ngăn cách giữa chủ thể và khách thể.
Bản thân HS sẽ khó hiểu những lí thuyết mà GV cung cấp. Vì vậy, những
kiến thức trừu tượng này cần được chứng minh cụ thể qua từng hình ảnh, chi tiết
trong tác phẩm. GV có thể gợi ý để HS hiểu những ảnh hưởng của dòng thơ
tượng trưng, siêu thực thể hiện trong văn bản này. Hình ảnh đầu tiên được
Thanh Thảo gợi ra là “những tiếng đàn bọt nước”. Người đọc có thể hiểu tiếng
đàn đó khơng chỉ có chức năng tạo ra âm thanh, thành bản nhạc mà nó cịn
mang tính tạo hình qua hình ảnh “bọt nước”. Đây là hình ảnh đem lại sự thụ cảm
vừa bằng thính giác vừa bằng thị giác, mà sáng tạo ra các hình ảnh thị giác là
điều mà các nhà thơ siêu thực thường quan tâm. Hình ảnh “Tây Ban Nha áo
chồng đỏ gắt” lại có sự kết hợp giữa cái thực là truyền thống đấu bị tót của Tây
Ban Nha và ám chỉ tình hình chính trị với những cuộc đàn áp khốc liệt của chính
quyền độc tài nơi đây. Như vậy, có thể hiểu cả Tây Ban Nha đang trở thành một
đấu trường, không phải giữa người đấu với bò mà giữa người với người, giữa
dân chủ và độc tài, giữa tự do bị bóp nghẹt và thể chế chính trị hà khắc.
Bài thơ dẫu có chịu ảnh hưởng của bút pháp ấn tượng, tượng trưng nhưng
kĩ thuật siêu thực mới thực sự quyết định giá trị nội dung, nghệ thuật của tác
phẩm.
Nghệ thuật siêu thực tập trung ở cái nhìn, một cái nhìn đặc biệt, khơng
phân biệt sự vật hiện tượng trong không gian thời gian, không phân biệt yếu tố
trừu tượng hay cụ thể. Chiếc áo chồng đỏ gắt gợi vẻ ngang tàng, khí phách của
Lorca và của nền văn hóa đấu bị Tây Ban Nha, đồng thời gợi cái chết bi thảm
của người nghệ sĩ khao khát tự do, khao khát cách tân nghệ thuật.
Từ cái nhìn này, GV phải giảng giải cho học sinh hiểu được: thơ siêu

thực tạo nên những kết nối ngẫu nhiên (tiếng ghi ta nâu/ bầu trời cô gái ấy). Kĩ
thuật liền kề này thực chất là đả phá trật tự tuyến tính trong tư duy thơ trước đó.


Người viết đề cao lối tư duy đồng hiện. Nghệ thuật ngôn từ lúc này không diễn
ra trong thời gian, nơi màu sắc, bố cục của màu sắc, của âm thanh được chú
trọng: giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong đáy giếng. Những câu thơ này
thiên về gợi hình. Chúng chiếm lĩnh không gian và tạo ra các không gian tiếp
nối. Vì lẽ này, thơ siêu thực hấp dẫn người đọc theo lối một bức tranh.
Bài thơ có sự kết hợp độc đáo giữa màu sắc, hình khối và âm thanh. Đấy
là nghệ thuật tổng hợp các loại hình nghệ thuật hội họa, điêu khắc, âm nhạc và
dĩ nhiên là cả văn học. Nhà thơ “nói” mọi thứ bằng chất liệu ngôn từ trên nền kĩ
thuật đặc trưng của các loại hình nghệ thuật. Vậy nên, khi tiếp xúc với bài thơ,
người đọc cần huy động tối đa các giác quan để cảm nhận. Bởi mỗi câu thơ là
một gián đoạn: tiếng ghi ta xanh (màu sắc), tiếng ghi ta trịn (hình khối), tiếng
ghi ta chảy máu (kết hợp màu sắc và sự chuyển động). Những kết hợp đầy sáng
tạo, người đọc khó có thể hình dung được những biểu hiện ấy của ghi ta khi
chưa đọc bài thơ.
Bút pháp siêu thực cịn có sự kết hợp giữa những yếu tố hiện thực với các
yếu tố tưởng tượng, hoang đường và cả những yếu tố tôn giáo (thông thường là
những yếu tố lấy từ giấc mơ): đường chỉ tay, lá bùa, dịng sơng (gợi triết lí siêu
thốt của nhà Phật). Trong trường hợp này, kĩ thuật siêu thực chính là sự tổng
hợp nhiều mơ thức văn hóa của nhân loại.
Tất cả những dụng công nghệ thuật trên nhằm để bày tỏ nỗi xót xa trước
cái chết của Lorca. Khẳng định tầm vóc thiên tài và sự bất tử của nghệ sĩ, khẳng
định sứ mạng nghệ thuật, và đề cao khả năng nhận thức và tái tạo vô hạn của
nghệ sĩ, của ngôn từ trên cuộc đời.
Rõ ràng kiến thức lí luận văn học thuần túy sẽ trở nên dễ hiểu thông qua sự
vận dụng những kiến thức ấy vào những chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm. Nói
cách khác, những khái niệm lí luận cũng sẽ trở nên sinh động hơn, dễ hiểu hơn,

dễ nhận diện hơn từ những dẫn chứng cụ thể. Từ những tri thức lí thuyết văn học
được cung cấp, HS sẽ vận dụng để chiếm lĩnh những tác phẩm mới. Như vậy,
khi vận dụng tri thức lí luận văn học vào dạy học đọc hiểu tác phẩm, GV cần
phải biết cách làm “mềm” kiến thức lí luận vốn khơ khan, trừu tượng ấy bằng
những chi tiết cụ thể trong bài học. Có làm được như thế thì HS mới có một vốn
tri thức tồn diện, giúp các em sử dụng và phát huy tốt những đơn vị kiến thức
đã được học cũng như tạo cho các em tâm thế chủ động, tích cực, nhanh nhạy
trong việc tiếp thu những đơn vị kiến thức mới.
Thơ ngày nay khó nhớ, khó thuộc hơn so với thơ ca giai đoạn trước. Điều
này là một thực tế. Nó cho thấy sự vận động khá rõ trong tư duy thơ. Trước đây,
các nhà thơ chủ yếu tập trung xây dựng những câu thơ ám ảnh, cấu trúc thơ chủ
yếu xoay quanh nghệ thuật lập tứ và nghệ thuật dùng từ, xây dựng tính nhạc
nhằm tạo nên sức mê hoặc khiến cho thơ dễ ru người đọc. Hiện nay, các nhà thơ
lại tập trung vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi biểu tượng và
các biểu tượng ấy nhiều khi không dễ nhận ra bằng sự cảm nhận thơng thường.
Nó địi hỏi người tiếp nhận vừa giàu trải nghiệm vừa phải có khả năng tiếp nhận
cái siêu nghiệm trong thơ. Đọc thơ, suy cho cùng cũng là một cách tiếp cận kinh
nghiệm sống, tiếp cận những giá trị tinh thần do nhà thơ sáng tạo nên. Nhưng
mỗi nhà thơ đều phải sống trong một thời đại cụ thể, trong một không gian tinh


thần cụ thể. Vì thế, thơ họ, một mặt, thể hiện những suy tư cá nhân độc đáo
nhưng mặt khác, những suy tư ấy phải thể hiện được tâm thế và trạng thái tinh
thần của thời đại mình. Rõ ràng, để giúp HS khám phá được ý nghĩa của những
bài thơ hiện đại là việc làm không hề đơn giản. Bởi lẽ, ở nhiều tác phẩm, nhà thơ
không đứng ra làm nhiệm vụ giải thích, thuyết minh mà để cho người đọc tự
khám phá những bí mật sau những cách nói ngỡ như khơng ăn nhập gì với nhau,
cấu trúc thi phẩm nhìn qua hết sức lỏng lẻo nhưng thật ra lại hết sức chặt chẽ. Vì
vậy, GV cần có một kiến thức sâu, vững chắc, cả sự trải nghiệm và tài năng sư
phạm thì mới có thể tổ chức tốt q trình tiếp cận phân tích các tác phẩm thơ

hiện đại cho HS.
2.2. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm truyện Chiếc thuyền ngoài
xa – Nguyễn Minh Châu theo hướng vận dụng tri thức về thể loại truyện hiện
đại.
a. Truyện :
Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về
nó, thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó.
Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống, trong
không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người.
trong tác phẩm tự sự nhà văn cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình.
Nhưng ở đây, tư tưởng và tình cảm của nhà văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện
và hoạt động bên ngoài của con người tới mức giữa chúng giường như khơng có
sự phân biệt nào cả. Nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngồi mình, khiến
cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm tự sự là
một thế giới tạo hình xác định đang tự phát triển, tồn tại bên ngồi nhà văn,
khơng phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà văn. (Từ điển Thuật ngữ văn
học).
b. Đặc điểm của truyện hiện đại :
“Ở văn học hiện đại, “truyện” là một khái niệm không thật xác định. Một
mặt, nó vẫn được dùng để trỏ mọi loại tác phẩm tự sự có cốt truyện nói chung
(bao gồm cả truyện ký, tiểu thuyết), mặt khác, lại có lối dùng nó như một thuật
ngữ trỏ dung lượng tác phẩm tự sự (“truyện dài”, “truyện vừa”, “truyện ngắn”).
Theo tác giả Trần Thanh Đạm, “truyện là một khái niệm rộng bao gồm các thể
tài chủ yếu thuộc loại hình tự sự. Tự sự có nghĩa là kể chuyện. Và có kể chuyện
ắt là có truyện”.
Về các yếu tố cơ bản của truyện, có: cốt truyện, nhân vật, trần thuật, thời
gian, không gian trong truyện và lời văn của truyện. Ở thể loại truyện hiện đại,
về trần thuật, nhiều tác giả sử dụng cách trần thuật nhập vai nhân vật, hoặc xen
kẽ, hoà nhập lời của người trần thuật khách quan với lời của nhân vật, tạo thành
cách trần thuật song trùng chủ thể. Thời gian trong truyện hiện đại thường có sự

thay đổi trình tự kể so với trình tự diễn ra của các sự kiện. Truyện thường ít khi
bắt đầu trần thuật từ sự việc khởi đầu, mà có thể từ một thời điểm sau sự khởi
đầu, hoặc ở thời điểm kết thúc câu chuyện, rồi mới quay ngược thời gian của các
sự kiện đã diễn ra trước đó. Lời văn trong truyện hiện đại giàu tính sinh động,
trực tiếp, sát với tiếng nói hằng ngày, mang đậm phong cách cá nhân và đa


giọng điệu. Các thể chính của truyện hiện đại: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện
ngắn.
*Từ việc nắm được những đặc trưng của thể loại truyện hiện đại, khi tổ
chức quá trình đọc hiểu cho HS, trước hết, GV cần lưu ý hướng dẫn các em tìm
hiểu những phương diện chung như đề tài, bố cục, cốt truyện...Sau đó, tùy theo
đặc điểm của từng tác phẩm mà đi vào các bình diện khác. Ví dụ: có những
truyện khơng thể khơng quan tâm đến tình huống truyện, nhân vật, xung đột, có
những truyện lại phải đặc biệt chú ý đến không gian, thời gian...Thơng qua việc
phân tích nhân vật, hình ảnh, các lớp ngôn từ, chi tiết nghệ thuật đặc sắc mà nhà
văn đã xây dựng để khám phá, đúc kết những khái quát về tư tưởng, chủ đề của
tác phẩm.
c. Cách thực hiện.
Để giúp HS nắm được sự phát triển của tình tiết trong tác phẩm (tức là
nắm được cốt truyện), GV có thể yêu cầu HS kể lại tác phẩm sau khi đã đọc.
Thao tác này, khơng những có tác dụng củng cố tri thức văn học mà cịn có tác
dụng trau dồi tư duy và ngôn ngữ, phát triển năng khiếu thẩm mĩ của HS. Điều
quan trọng để nắm vững tình tiết trong tác phẩm là phân tích các chặng đường
phát triển chủ yếu của nó. Điều này sẽ tạo ở các em một ấn tượng hoàn chỉnh về
đối với hình tượng tự sự của tác phẩm.
Sau khi giúp HS nắm được các giai đoạn phát triển của tình tiết, GV cần
tiến tới hướng dẫn HS cảm thụ được sâu sắc và đánh giá đúng các nhân vật
trong truyện về ngoại hình, tính cách thơng qua ngơn ngữ, hành động, cử chỉ.
Điều đặc biệt cần lưu ý là thế giới nội tâm của nhân vật.

GV cũng cần giúp HS hiểu và khai thác được tình huống của truyện. Vì
đối với cốt truyện, tình huống chính là điểm nhấn, là đầu mối của các biến cố
trọng yếu. Trong truyện, tình huống là một tâm trạng của một nhân vật hoặc một
trạng thái của đời sống dưới cái bề ngoài lặng lẽ, bình thường, mà phải bằng một
sự tinh tế, nhạy cảm đặc biệt nhà văn mới cảm nhận và thể hiện được. Ví dụ,
trong “Chiếc thuyền ngồi xa” của Nguyễn Minh Châu, tình huống bất ngờ,
cảnh anh chồng đánh đập tàn bạo người vợ và cảnh chị ta chỉ im lặng chịu đựng,
diễn ra trước mắt người phóng viên nhiếp ảnh, chỉ là tình huống bên ngồi để
dẫn đến tình huống bên trong: sự nhận thức lại hay là “vỡ lẽ” của hai nhân vật
Phùng và Đẩu về nhiều điều không hề đơn giản, cả những nghịch lý trong đời
sống. Tác phẩm bắt đầu bằng cái vẻ ngồi bình dị của một câu chuyện đời
thường với những chi tiết bình thường của đời sống. Một phóng viên nhiếp ảnh
tìm về một vùng biển miền Trung và nằm phục ở đó cả tháng trời để tìm cảnh
cho cho một tấm lịch trong chuyên đề về thuyền và biển...Anh đã tìm kiếm, đã
bấm máy và có lúc đã ngập tràn hạnh phúc ngỡ như mình vừa chứng kiến, vừa
đối diện với vẻ đẹp tồn bích, với cái tận thiện, tận mĩ của đời sống. Ấy là khi
đôi mắt nhà nghề của anh phát hiện một vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mù
sương: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi
thuyền in một nét mơ hồ, loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đơi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào...Toàn bộ khung cảnh từ đường
nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích
khiến đứng trước nó tơi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.


Chẳng biết ai đó đã lần đầu phát hiện ra cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây
phút bối rối, tơi tưởng mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện,
khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng mọi chuyện lại
bắt đầu từ cái ngã rẽ bất ngờ này. Ngay sau sự phát hiện thứ nhất về cái đẹp, cái
lãng mạn của đời sống là sự phát hiện thứ hai đầy trớ trêu đến tàn nhẫn để lộ ra
cái mặt trái của cuộc đời và con người nhiều “đa sự, đa đoan”. Ám ảnh khơng

rời khi đọc xong tác phẩm chính là bi kịch của cặp vợ chồng hàng chài. Hình
ảnh người đàn bà khốn khổ với cặp mắt mệt mỏi vì thiếu ngủ, bàn chân nhợt
trắng vì ngâm nước đang trần tấm lưng áo ướt sũng và bạc phếch vì muối mặn
hứng chịu một cách nhẫn nhục cơn thịnh nộ của chồng. Và hình ảnh lão đàn ơng
độc ác, vũ phu đang nghiến răng nghiến lợi trút những uất ức, cay cực, bức xúc
của cuộc đời thường nhật lên đôi vai vốn đã nặng trĩu gánh nặng đời sống của
người vợ đang cùng mình chung lưng đấu cật để tồn tại trong cuộc sống. Cần
lưu ý rằng: truyện ngắn hiện đại không hướng đến sự kết thúc mà hướng vào sự
mở đầu. Vấn đề căn bản không phải là “kết thúc bằng cách nào” mà là “mọi
chuyện bắt đầu từ đâu”. Đưa kết thúc vào thì truyện ngắn hiện đại lại trở nên
không trọn vẹn.
Trong truyện, trần thuật là một phương diện không thể thiếu. Cần lưu ý
đến những yếu tố sau khi tìm hiểu nghệ thuật trần thuật: vai trần thuật, điểm
nhìn và giọng điệu.Có nhiều hình thức trần thuật: trần thuật từ ngôi thứ ba, trần
thuật từ ngôi thứ nhất. Trong văn học hiện đại, nhà văn kết hợp nhiều điểm nhìn
trần thuật, chủ yếu xoay quanh hệ thống nhân vật, chủ yếu là nhân vật chính. Từ
các điểm nhìn khác nhau, nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, từ đó khắc
hoạ tồn vẹn chân dung, tính cách, số phận và khái quát nêu lên những vấn đề
nhân sinh có tính tổng qt. “Chiếc thuyền ngồi xa” của Nguyễn Minh Châu là
một tác phẩm có sự phối hợp các điểm nhìn. Với truyện ngắn này, Nguyễn Minh
Châu đã khám phá con người trong sự phức hợp, đa chiều của nó. Nhân vật của
ơng khơng đơn giản, nhất phiến mà được soi chiếu, lật xới mọi chiều cạnh của
khối vng ru bích. Người đọc cảm nhận được ở người phụ nữ thuyền chài với
vẻ ngồi xấu xí, thơ kệch ấy ẩn giấu bên trong một tâm hồn đẹp đẽ với tấm lòng
bao dung, vị tha và đức hi sinh vì chồng con. Cách lí giải và cắt nghĩa của chị về
cuộc sống cá nhân chứng tỏ một sự chín chắn và sâu sắc vơ cùng, làm cho
những trí thức như anh nghệ sĩ nhiếp ảnh và vị thẩm phán vỡ vạc nhiều chân lí
đời sống mà trước hết, đó là sự trải nghiệm. Như trên đã nói, đa dạng hố điểm
nhìn là một thế mạnh nghệ thuật của truyện ngắn này. Cắt nghĩa số phận bất
hạnh của người đàn bà và đề xuất cách hành xử nhằm giải thoát cho chị, nhà văn

đặt nó dưới điểm nhìn của nhiều nhân vật khác nhau. Đứa con trai ngây thơ, bốc
đồng và xốc nổi thì kịch liệt kết tội bố đã gây ra cảnh ngộ này. Vị thẩm phán
dưới góc độ pháp luật để bảo vệ cho người bị hại thì li hơn là phương cách tối
ưu. Cịn người đàn bà thì sao? Bà khơng bỏ chồng mặc dù bị đối xử tàn tệ có
phải bởi lo sợ hay nhẫn nhục cam chịu cho qua một kiếp làm người? Cách nghĩ
của chị khiến nhiều người phải giật mình xem lại mình. Ba lí do thật đơn giản
nhưng vơ cùng sâu sắc: bản tính ấy của chồng theo chị khơng phải bản chất mà
do hồn cảnh nghèo, đơng con gây ra; với chị- người đàn bà sống lênh đênh trên
thuyền thì rất cần người đàn ông như một chỗ dựa để chống chọi phong ba bão


tố; cuối cùng, nhân bản nhất đó là vì con, vì những ngày tháng hạnh phúc mà họ
từng có. Nhà văn không hề áp đặt người đọc bởi một cách nghĩ nào cả mà đặt
trong sự bỏ ngỏ tùy người đọc lựa chọn. Vì thế, tác phẩm giàu tính đối thoại mà
mỗi một người đọc đều có quyền lựa chọn cho mình một đáp án riêng. Do đó,
GV cần làm tốt vai trị định hướng, dẫn dắt q trình cảm thụ ở HS.
2.3. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng
sơng ? – Hồng Phủ Ngọc Tường theo hướng vận dụng tri thức về thể loại kí.
a. Về thể loại Bút kí :
Bút kí là thể loại thuộc loại hình kí thường có quy mơ tương ứng với truyện
ngắn. Bút kí khác với truyện ngắn ở chỗ tác giả bút kí khơng sử dụng hư cấu vào
việc phản ánh hiện thực.
b. Đặc điểm của bút kí.
Bút kí ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu,
nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thề hiện một tư tưởng nào
đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan
sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt những khía cạnh « có vấn đề », những ý
nghĩ mới mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hồn cảnh, cá nhân và
mơi trường. Nói cách khác, giá trị hàng đầu của bút kí là giá trị nhận thức.
…(Từ điển Thuật ngữ văn học).

Khi giảng dạy kí, điều lưu ý trước tiên là GV cần bám chắc vào đặc điểm
cơ bản của kí là tính xác thực. Mỗi thể kí lại có những đặc điểm riêng. Vì thế,
GV cần xác định rõ để bảo đảm HS tiếp nhận tác phẩm kí đúng hướng. Có kiến
thức về đặc điểm của từng thể kí thì khi giảng mới khai thác hết được giá trị tư
tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Việc dạy tác phẩm kí theo đặc trưng thể loại
sẽ giúp HS có sự so sánh, đối chiếu nhiều thể kí khác nhau để có được một nhận
thức sâu sắc về thể loại này, trên cơ sở đó, các em có thể tự mình tiếp nhận các
tác phẩm kí ngồi chương trình.
Trên cơ sở đặc trưng thể loại và yêu cầu của dạy học hiện đại, dạy học kí
hướng đến mục tiêu phát triển kĩ năng tiếp thu tri thức và năng lực cảm thụ nghệ
thuật. Qua đó, giúp HS biết vận dụng sáng tạo tri thức và cảm xúc trong việc đọc
và tạo lập văn bản, biết suy nghĩ và rung động trước những vấn đề của đời sống.
c. Cách thực hiện :
Khi dạy tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng ?” của Hồng Phủ Ngọc
Tường, GV cần làm cho HS cảm được vẻ đẹp của sông Hương và cố đơ Huế với
phong cảnh hữu tình và bề dày văn hóa thâm sâu. Người học có thể cảm nhận
được chiều sâu tư tưởng nhân văn trong từng trang kí của Hồng Phủ Ngọc
Tường, từ đó thấy được sự gắn bó với thiên nhiên và lịng u q hương đất
nước của nhà văn. Tác phẩm cũng cho thấy nét đặc sắc trong viết kí của Hồng
Phủ Ngọc Tường, một cách viết tài hoa uyên bác, với lối so sánh độc đáo và
những liên tưởng thú vị.
Để đạt được những yêu cầu trên, GV cần giúp HS xác định được thể loại.
Trên cơ sở đó, bám sát đặc trưng của thể loại mà tổ chức quá trình tiếp cận và
chiếm lĩnh tri thức ở các em. Có thể nói, để đạt được mục tiêu của bài học, vai
trò định hướng của GV rất quan trọng.


Về tác giả: GV giới thiệu một vài nét cơ bản về tác giả (cần chú ý đến
những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự ra đời của tác phẩm và phong cách nghệ
thuật của nhà văn). Những sáng tác của Hồng Phủ Ngọc Tường ln tốt lên

một niềm đam mê đối với vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam. Các sáng
tác của ông là kết quả của cả một q trình quan sát, tìm tịi, chiêm nghiệm về
cuộc sống, về văn hoá nghệ thuật. GV cần lưu ý về phong cách nghệ thuật của
nhà văn để HS có hướng tiếp cận tác phẩm này một cách chính xác hơn. “Ai đã
đặt tên cho dịng sơng ?” là tác phẩm kí viết về Huế mà nhân tố làm nên giá trị
đặc sắc của tác phẩm là màu sắc văn hóa. Bởi các dịng sơng ln là cái nơi của
những vùng, những nền văn hố đa dạng, nhiều màu sắc.
Về quá trình đọc hiểu tác phẩm: qua việc phân tích văn bản ngơn từ, qua
cảm nhận trực giác của người đọc, giúp HS tìm ra cái hay, cái đẹp của văn bản.
GV hướng dẫn HS tiếp thu lượng thông tin tri thức về đối tượng mà nhà văn nói
đến trong văn bản và tìm hiểu nghệ thuật trần thuật tài hoa của người viết. “Ai
đã đặt tên cho dịng sơng” là một áng thơ trữ tình bằng văn xuôi ca ngợi sông
Hương và thiên nhiên Huế. Thông qua tác phẩm, nhà thơ bộc lộ niềm tự hào về
lịch sử - văn hoá Huế, đồng thời thể hiện tấm lịng u q hương, đất nước của
mình. Qua đó, giúp HS có thêm tri thức về thiên nhiên, con người, lịch sử và văn
hóa xứ Huế, đồng thời có được tri thức về thể loại, về nghệ thụât trần thuật và
cảm nhận về những rung động tinh tế của nhà văn.

Việc vận dụng tri thức lý luận văn học vào quá trình dạy học nhằm tạo cơ sở
khoa học cũng như đem lại con đường tiếp cận và đánh giá tác phẩm một cách
có hiệu quả. Khi vận dụng tri thức lý luận văn học vào dạy học đọc văn cần
tránh việc cung cấp lý thuyết mang tính thuần lý mà hướng tới giúp HS vận
dụng vào phát hiện, phân tích những chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm cụ thể. Để
cảm cái hay, cái đẹp được thể hiện qua bức thông điệp thẩm mĩ. Vận dụng tri
thức lý luận vào dạy học đọc hiểu tác phẩm cần bảo đảm sự cân bằng giữa cảm
và hiểu. Có như vậy, HS mới tìm được tiếng nói tri âm trong tác phẩm và sống
cùng thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã sáng tạo nên. Những kiến thức lý luận sẽ
giúp cho GV và HS khai thác những đặc sắc nghệ thuật trong từng tác phẩm.
Mặt khác, thông qua giờ dạy đọc hiểu tác phẩm văn học, những tri thức về lý
luận sẽ được tích lũy, củng cố và khắc sâu ở HS.

Lí luận văn học hiện đại đã chỉ ra nhiều cách tiếp cận tác phẩm: tiếp cận theo
quan điểm lịch sử phát sinh, theo quan điểm cấu trúc và theo quan điểm lịch sử
chức năng. Mỗi một cách tiếp cận sẽ giúp cho chúng ta có được một cái nhìn
phong phú hơn, tồn diện hơn về TPVC. Vì vậy, trong việc dạy học đọc tác
phẩm, GV cần định hướng HS vận dụng các quan điểm này vào tiếp cận, phân
tích TP nhằm đạt được hiệu quả về tiếp nhận.
Một trong những cách tìm hiểu tác phẩm một cách có hiệu quả là phân tích
tác phẩm theo đặc trưng thể loại. Căn cứ vào từng thể loại cụ thể (thơ hiện đại,
truyện hiện đại, kịch) mà GV có thể tổ chức quá trình đọc hiểu ở HS một cách
phù hợp. Việc vận dụng những hiểu biết về đặc trưng thể loại vào quá trình dạy


đọc hiểu các tác phẩm văn học Việt Nam sau năm 1975 nhằm trang bị cho HS
những tri thức cần thiết để các em tự định hướng cảm thụ phân tích tác phẩm
theo từng thể loại. Từ đó, giúp cho việc hiểu và cảm tác phẩm có hiệu quả hơn.
3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
(Tiết 40- Lớp 12)
ĐÀN GHITA CỦA LORCA
-Thanh ThảoA. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1.Về kiến thức
- Hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lorca trong mạch cảm
xúc và suy tư đa chiều vừa sâu sắc, mãnh liệt của Thanh Thảo.
- Cảm nhận vẻ đẹp độc đáo trong hình thức biểu đạt mang phong cách
hiện đại.
2. Về kĩ năng
- Rèn luyện nâng cao cho HS kĩ năng đọc hiểu một tác phẩm trữ tình.
- HS làm quen với cách biểu đạt mang đậm dấu ấn của trường phái tượng
trưng, siêu thực.
3. Về tư tưởng, thái độ
Giáo dục HS phải biết tôn trọng những giá trị tinh thần của người đi trước

nhưng phải biết vượt lên nó để sáng tạo.
B. ĐỊNH HƯỚNG VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐỌC HIỂU
1. Định hướng về nội dung
* Đặc điểm bài học
+ Về nội dung
Bài thơ viết về cái chết của Lorca, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà viết kịch, nhà hoạt
động sân khấu thiên tài người Tây Ban Nha vào năm 1936, khi ông mới 38 tuổi.
Cái chết của Lorca là sự kiện gây chấn động lớn không chỉ ở Tây Ban Nha
mà cịn với tồn thế giới, khơng chỉ lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm
sau. Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ lịng ngưỡng mộ, đau
xót và qua đó xây dựng biểu tượng nghệ thuật Lorca qua một hình ảnh quen
thuộc mà độc đáo: đàn ghita.
+ Về hình thức
Với Lorca, người được coi như một trong những bậc thầy của thi ca hiện
đại thế giới, đại diện tiêu biểu cho một thế hệ nghệ sĩ mới đầy tình cơng dân và ý
thức cách tân nghệ thuật, nên với bài tưởng mộ của mình, Thanh Thảo khơng
muốn dừng lại với hình thức thơng thường, ơng thể nghiệm một hình thức mới,
gần gũi với dòng mạch tượng trưng và siêu thực, tạm gọi là kết hợp và giao hoà:
kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và nhạc, giữa màu sắc thơ viếng phương
Đông và chất bi tráng của nhạc giao hưởng phương Tây, giữa hệ thống thi ảnh
Lorca và hệ thống của chính tác giả. Tất cả lại đưa vào một cấu trúc mới cũng
mang tính chất kết hợp và giao hồ: giao hồ giữa tính liên tục trong cốt tự sự
với tính gián đoạn trong suy cảm và ngơn ngữ thơ.
* Trọng tâm bài học:


- Phân tích và cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng Lorca và biểu tượng
nghệ thuật Lorca trong mạch cảm xúc và suy tư đa chiều vừa sâu sắc, vừa mãnh
liệt của tác giả bài thơ.
- Cảm nhận vẻ đẹp độc đáo trong hình thức biểu đạt mang phong cách

hiện đại.
2. Định hướng PPDH
- GV cần tận dụng và tiếp tục phát huy những kiến thức về thể loại thơ
hiện đại đã trang bị cho HS để tổ chức quá trình tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm
ở các em.
- Cũng cần trang bị cho HS một số kiến thức về các trào lưu, trường phái
văn học như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực trong văn học phương
Tây và sự ảnh hưởng của các trường phái chủ nghĩa này vào thơ ca hiện đại Việt
Nam. Từ đó, thơng qua bài học để hồn thiện và nâng cao phương pháp đọc hiểu
thơ hiện đại cho HS.
- GV giới thiệu vắn tắt các đặc điểm chính cũng như sự khác biệt của các
trường phái nói trên trong cấu trúc bài thơ, câu thơ, trong hệ thống hình ảnh và
cái tơi trữ tình với các dịng mạch cổ điển, lãng mạn mà HS đã khá quen thuộc.
C. CHUẨN BỊ CỦA GÍAO VIÊN VÀ HỌC SINH
- Chuẩn bị của GV: đọc SGK, SGV, soạn giáo án.
- Chuẩn bị của HS: học bài cũ, đọc và soạn bài mới.
D. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC, HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Ổn định tổ chức lớp: ổn định trật tự, kiểm tra sĩ số.
2. Kiểm tra bài cũ:
Cảm nhận của em về hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của nhà thơ
Xuân Quỳnh?
3.Bài mới:
Dẫn nhập: “Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hố thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có những con người như chân lí sinh ra.”
(Tố Hữu)
Những câu thơ trên của Tố Hữu có thể dùng để nói đến Lorca mà cái chết
của ơng đã trở thành một trong những sự kiện bi tráng trong lịch sử Tây Ban
Nha hiện đại. Có thể coi bài thơ “Đàn ghita của Lorca” (Thanh Thảo) như là

một khúc tưởng mộ mà Thanh Thảo dành cho Lorca, người nghệ sĩ thiên tài Tây
Ban Nha.
* Tiến trình tổ chức, hướng dẫn HS đọc – hiểu văn bản
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS

NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN
ĐẠT


HS nêu kết quả cần đạt,->xác định trọng
tâm bài học.
HS đọc tiểu dẫn và ghi lại những nét chính
về tác giả và tác phẩm.
Em hãy trình bày những nét chính về tác
giả?
HS giới thiệu. GV nhấn mạnh những điểm
cần ghi nhớ.
GV kết hợp gợi mở và diễn giảng về phong
cách thơ Thanh Thảo:
- Nhà thơ được công chúng đặc biệt chú ý
bởi những bài thơ và trường ca mang diện
mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu
chiến, thể hiện nhiều trăn trở và suy tư về xã
hội và thời đại.
- Sau năm 1975, dành tâm huyết cho việc
đổi mới thơ ca qua cách diễn đạt mới: hình
thức thơ ca tự do (có khi là thơ văn xi),
nhịp vần bất thường, những kiểu kết hợp lạ
kì, thi ảnh và ngôn ngữ mới mẻ.
Nêu xuất xứ và thể thơ?

Hs dựa vào tiểu dẫn trả lời câu hỏi.

I.Tiểu dẫn
1. Tác giả
-Tên: Hồ Thành Công (1946)
-Quê: Xã Đức Tân, Mộ Đức,
Quảng Ngãi.
-Tác phẩm chính: “Những người
đi tới biển” (1977), “Dấu chân
qua trảng cỏ” (1978), “Khối
vuông ru-bich” (1985).

- Thơ Thanh Thảo đậm chất triết
luận, giàu suy tư với những cách
tân nghệ thuật độc đáo, mới mẻ,
mang màu sắc tượng trưng, siêu
thực.

2. Tác phẩm
a. Xuất xứ:
-Bài thơ “Đàn ghita của Lor-ca”
GV: Bài thơ lấy cảm hứng từ số phận và rút trong tập “Khối vuông runhân cách cao đẹp của Lorca. Là một trong bich” (1985)
những sáng tác tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ
của Thanh Thảo: giàu suy tư, phóng túng và
ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu
thực.
(viết bài thơ trong trạng thái khơng nghĩ
ngợi gì, một trạng thái mà vơ thức chiếm
lĩnh tôi trọn vẹn –Văn học và tuổi trẻ, số b. Thể thơ: Tự do, mang màu sắc
tháng 3/2009)

tượng trưng, siêu thực
Chuyển ý: Tên tập thơ là hình dung mới của
Thanh Thảo về cấu trúc thơ-cấu trúc rubich: một mô hình mở phá bỏ những khn
mẫu ổn định để giải phóng cảm xúc và
tưởng tượng.
GV cung cấp cho HS một số hiểu biết về
thơ tượng trưng, siêu thực. (Thơ hiện đại
dòng thơ tượng trưng, siêu thực ra đời vào
những năm 20 của thế kỉ XX).
- Khác biệt ở vai trò cái tôi trong thơ.
+Thơ cổ điển: phủ định cái tôi.


+Thơ lãng mạn: khẳng định cái tôi.
+Thơ tượng trưng: cái tơi bị phân chia
thành nhiều cái tơi, thậm chí tồn tại cả cái
tôi chưa biết và tác giả luôn nỗ lực để đi tìm
kiếm cái tơi đó của mình.
-Nghệ thuật: sáng tạo hình ảnh theo lối lạ
hố, đề cao cái hỗn độn, phi logic hố, tạo
ra nghịch lý, bất ngờ.
+Hình ảnh thơ nảy sinh từ việc đưa
những thực tại vốn vẫn xa cách nhau lại
gần nhau.
+Đề cao nhạc tính trong thơ.
+Sử dụng lối viết tự động đảo lộn cú
pháp cổ điển.
(GV diễn giảng, HS không cần ghi.)
VD: Những tiếng đàn bọt nước->Xa lạ
trong hiện thực nhưng mang nghĩa biểu

tượng.
Gọi HS đọc
GV hướng dẫn cách đọc
Khổ 1: chậm, vang, phóng khống.
Khổ 2: nhanh, cao giọng, nhấn vào những
từ ngữ: “Áo choàng bê bết đỏ…”.
Khổ 4: tha thiết, tiếc nuối.
Khổ 5: trầm lắng, suy tư.
- GV nhận xét cách đọc
- HS tìm hiểu chú thích để có thể cảm nhận
sâu sắc hơn vể bài thơ.
Qua việc đọc và soạn bài, em hãy cho biết
kết cấu của bài thơ? Nội dung của từng
phần?
- HS trả lời
- GV nhận xét, định hướng.

II. Đọc hiểu văn bản
1.Đọc và tìm hiểu bố cục
a. Đọc

b. Bố cục
- Phần 1: (6 dòng đầu): Lorcanghệ sĩ tự do nhưng đơn độc.
- Phần 2: (2 đoạn tiếp): Nỗi xót xa
bi phẫn về cái chết oan khuất và
sự dang dở của khát vọng cách
tân.
- Phần 3: (3 đoạn cuối): Sự bất tử
của Lorca và nghệ thuật của
Lorca.

2. Tìm hiểu văn bản
- GV yêu cầu HS dựa vào phần chú thích để 2.1 Nhan đề và lời đề từ
giải thích ý nghĩa nhan đề của bài thơ.
a. Nhan đề
+ HS đọc và giải thích
-Ghita khơng chỉ là nhạc cụ
+ GV nhấn mạnh.
truyền thống của Tây Ban Nha mà
còn được coi là biểu tượng cho
nền nghệ thuật của đất nước này:
Tây Ban Cầm
-Lorca: + Một nghệ sĩ thiên tài.
+ Một nhân cách cao đẹp.


Nêu xuất xứ và ý nghĩa của lời đề từ?
GV nhấn mạnh và liên hệ với câu nói của
Gơm-brơ-vích và Trần Dần.

Chân dung nghệ sĩ Lorca được gợi lên
trong một không gian như thế nào? được
thể hiện qua những chi tiết nào?
HS thảo luận nhóm, đại diện trả lời.
GV tổng hợp. định hướng và khái quát.

Lorca đang bay bổng với những giai điệu
mới, với khát vọng cách tân nghệ thuật.
Hình tượng đẹp, cao cả của người nghệ sĩ tự
do, lãng mạn đang cất lên giai điệu hùng
tráng.


Trên cái nền ấy, Lorca hiện lên như thế
nào?
HS nêu ý kiến, nhận xét.

GV phân tích, đánh giá.
Lorca hiện lên như một kị sĩ- lang thang, vơ
định mỏi mịn trên con đường đấu tranh cho

+ Một số phận oan khuất.
=> Nhan đề đã hé mở hình tượng
nghệ thuật trung tâm của bài thơ:
Lorca và biểu tượng nghệ thuật
mang tính cách tân, gắn bó máu
thịt giữa Lorca với âm nhạc, cây
đàn.
b. Lời đề từ: cũng chính là
di chúc của Lorca “khi tơi chết
hãy chơn tơi với cây đàn”, thể
hiện:
+ Tình yêu tha thiết xứ sở Tây
Ban Nha
+ Khao khát cách tân nghệ
thuật
+ Mong muốn xoá bỏ ảnh
hưởng của bản thân để dọn đường
cho thế hệ sau vươn tới->Nhân
cách cao đẹp.
=>Khơi nguồn dẫn dắt cảm
xúc của Thanh Thảo.

2.2 Đoạn 1: Lorca- nghệ sĩ
tự do nhưng đơn độc.
- Khơng gian văn hố mang
đậm bản sắc Tây Ban Nha: tiếng
đàn, đấu trường, hoa lila.
+Vầng trăng, yên ngựa trong
không gian mênh mông của thảo
nguyên, với bầu trời và đồng cỏ.
+ Những tiếng đàn bọt nước: thị
giác, thính giác-> trong trẻo, dễ
vỡ của nền nghệ thuật mới (báo
trước định mệnh phũ phàng
Lorca).
+Áo chồng đỏ gắt ->Đấu trường
bị tót Tây Ban Nha.
+ Li la: mô phỏng tiếng đàn ghi
ta.
=>Sự tương phản khắc nghiệt
giữa “tiếng đàn lila” với “áo
choàng đỏ gắt” gợi khung cảnh
một đấu trường giữa võ sĩ với bị
tót; Tây Ban Nha như một đấu
trường đẫm máu. Lorca- đấu sĩ
khoác áo choàng đỏ đấu tranh cho


lí tưởng cao đẹp; người nghệ sĩ, chiến sĩ
Tây Ban Nha vĩ đại với cây đàn bền bỉ trong
cuộc đấu tranh khơng cân sức với chế độ
độc tài vì tự do dân chủ và khát vọng cách

tân nghệ thuật.

khát vọng dân chủ và cách tân
nghệ thuật.
=>Tất cả làm nổi bật khơng
gian văn hóa Tây Ban Nha. Hình
ảnh thơ gợi lên khơng gian chính
trị khốc liệt với những cuộc đàn
Chuyển ý: 6 câu thơ đầu vút lên như một áp đẫm máu của chính quyền độc
khúc dạo đầu hào hùng và có những tài Tây Ban Nha.
khoảnh khắc lắng xuống, day dứt, mong
manh.
2.3 Phần 2: Nỗi xót xa bi phẫn
Lo sợ trước sự ảnh hưởng và sức mạnh đấu về cái chết oan khuất và sự
tranh của Lorca, chính quyền độc tài thân dang dở của cách tân nghệ
phát xít vội vã bắn chết Lorca. Sự kiện đó thuật.
được tái hiện một cách hình tượng và đầy
-Hình ảnh “Tây Ban Nha, hát
màu sắc tượng trưng ở phần 2 của bài thơ.
nghêu ngao” gợi:
+Tiếng hát vơ tư, khơng mục
đích.
Hình ảnh Tây ban Nha hát “nghêu ngao”
+Thực trạng bi đát: dân tộc
gợi lên điều gì?
Tây Ban Nha và Lorca chưa có sự
Ý nghĩa của hình ảnh gợi lên bi kịch gì ở thấu hiểu và liên kết.
Lorca?
->Ý nghĩa: người Tây Ban
Nha vẫn cất lên những âm điệu

GV: liên hệ số phận nhân vật Hạ Du trong của thứ nhạc “già nua” cổ lỗ,
“Thuốc” của Lỗ Tấn.
khơng cùng mục đích với Lorca.
- Khơng chỉ cô đơn trong sáng tạo
Thái độ và phản ứng của Lorca khi bị mà mục đích đấu tranh chân chính
của Lorca cũng khơng được nhiều
bắt?
(Phản ứng: kinh hồng-> bất ngờ, kinh người thấu hiểu.
ngạc; thái độ: đi như người mộng du, vẫn -Cái chết gợi tả bằng hình ảnh:
ngẩng cao đầu, khơng bận lịng tới cái chết).
+ “Áo chồng bê bết đỏ”: tả
thực về cái chết của Lorca ->Gây
Cái chết của Lorca được gợi tả bằng
chấn động dữ dội, cả Tây Ban
những hình ảnh nào? Ý nghĩa?
GV giảng: Tấm áo choàng đỏ là ngọn lửa Nha bàng hoàng, thảng thốt, đột
đấu tranh,là khát vọng cháy bỏng, là lời ngột và đau đớn.
tuyên chiến; giờ đâu thấm đẫm máu của
người anh hùng.
=>Cái chết:-Bi thảm, tàn
khốc.
-Bi tráng: một
Diễn tả cái chết của Lorca, Thanh Thảo
dũng sĩ, nghệ sĩ hi sinh vì nghệ
đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật gì?
(Lorca khơng cịn xuất hiện, chỉ có tiếng thuật, vì tự do, dân chủ.
đàn khơng cịn vẹn ngun, nó đã vỡ ra qua
+Nghệ thuật:
nghệ thuật…)
*Hốn dụ: Tiếng đàn- Cuộc

Tiếng ghita được hình dung bằng những đời Lorca.
hình ảnh khác nhau, hãy lí giải ý nghĩa
Áo choàng bê bết đỏ- Cái


tượng trưng của những hình ảnh đó?
+Tiếng ghita nâu (màu mắt nâu huyền của
cô gái ấy, màu đất, màu gỗ của cây đàn đặc
trưng).
+Tiếng ghita lá xanh: tuổi trẻ, tuổi xuân,
niềm tin và hi vọng của Lorca.
+Tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan: tượng
trưng cho cái chết bất ngờ, nhanh chóng,
khơng thể cứu vãn.
+Tiếng ghita rịng rịng máu chảy: cái chết
thảm khốc, bi thiết, ám ảnh người đọc

chết

*Ẩn dụ: - chuyển đổi cảm
giác: tiếng ghita nâu, xanh-cảm
nhận âm thanh bằng thị giác, âm
thanh vỡ ra thành màu sắc, hình
khối (trịn bọt nước) thành dịng
chuyển động.
-Tượng trưng: bầu
trời-tự do, cơ gái-tình yêu, bọt
nước-mong manh, ròng ròng máu
chảy- đau đớn tột cùng.
->Âm nhạc thành sinh thể có linh

-Thanh Thảo gửi niềm xót thương vơ hạn hồn, thân
phận, cùng chịu
của mình với Lorca vào hình ảnh những chung số phận với người nghệ sĩ
tiếng ghita.
sáng tạo ra nó.
+Điệp từ “Tiếng ghita” như tấu lên một
khúc nhạc đau đớn, nhức nhối.
+Từ cảm thán “biết mấy”->gợi sự tiếc
thương vơ hạn vì hành trình dở dang của
những cách tân nghệ thuật.
+ Đối lập: Tiếng hát yêu đời- Áo chồng bê
bết đỏ
Tình u, cái đẹp- Hành động
tàn ác, dã man
Đoạn thơ gợi cho em cảm xúc gì? Nghệ
thuật?
HS nêu cảm nhận
GV tổng hợp, hệ thống.
=>Tiếng ghita gắn với người nghệ
Liên hệ: Thanh Thảo: “Thi nhân cần phải sĩ, là hình ảnh ẩn dụ về cuộc đời,
sống, phải nếm trải đến tận cùng sự sống, cái chết của Lorca.
trong đó, cái cần phải nếm trải nhiều nhất là Bằng những hình ảnh đậm màu
những nỗi đau đớn của con người”.
sắc tượng trưng, siêu thực, tác giả
đã làm phục sinh giây phút bi
phẫn trong cuộc đời của Lorca;
HS đọc 3 khổ cuối.
thể hiện nỗi đau xót trước cái chết
GV định hướng phân tích
của người nghệ sĩ giàu khát vọng

Hiểu như thế nào về hai câu thơ đầu của và cống hiến.
khổ 4?
2.4. Phần 3: Sự bất tử của
Lời di chúc có ý nghĩa như thế nào?
Lorca và nghệ thuật của Lorca.
Lorca cho rằng phải biết “chôn” nghệ thuật a Khổ 4
của ơng để nghệ thuật đó khơng trở thành -Không ai chôn tiếng đàn
vật án ngữ, cản trở sự sáng tạo. Thực chất +Tiếng đàn: Biểu tượng cho nghệ
không ai tài giỏi hơn Lorca để vượt qua thuật , cho những khát vọng cách
Lorca.
tân của Lorca.
+Không ai chôn cất: Không ai


- Theo em, qua hình ảnh so sánh này tác
giả muốn gửi tới người đọc thơng điệp gì?
- Niềm xót xa vô hạn, day dứt khôn nguôi,
cảm xúc kết đọng thành “Giọt nước mắt
vầng trăng/Long lanh trong đáy giếng”.
Gv giảng thêm: câu thơ gợi nhiều chiều
hướng suy tưởng, niềm xót thương ấy có
hình khối (trịn) có màu sắc (sáng trong) và
rất đẹp. Gợi không gian trên mặt đất, trên
bầu trời và cả ở dưới địa hạt vô cùng...
Liên hệ :Độc Tiểu Thanh Kí”- Nguyễn Du.

Hình ảnh “đường chỉ tay đã đứt” và Lorca
đi vào cõi chết bằng “chiếc ghita màu bạc”
có ý nghĩa gì?
Chiếc ghita đã giúp Lorca siêu thốt đến cõi

vĩnh hằng-> Tình u nghệ thuật và sự gắn
bó thiết tha của Lorca với nghệ thuật đi vào
bất tử. Lorca sang sông là Lorca đi vào cõi
khác bằng một phương tiện thật đẹp “Lorca
bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc”

Hành động ném lá bùa, trái tim có ý nghĩa
tượng trưng gì?
- HS trao đổi, thảo luận về hình ảnh “lá bùa
cơ gái Di Gan, trái tim mình, xoáy nước” và
hành động của Lorca để sang bên kia sông.

GV yêu cầu HS nêu giá trị nội dung và nghệ
thuật của bài thơ.
HS trả lời.
GV khắc sâu kiến thức.
* Nội dung
-Hình tượng Lorca hiện lên mạnh mẽ nhưng

hiểu Lorca, không ai hiểu di chúc
Lorca nên không ai “chôn” nghệ
thuật của ông để đi tới.->Đạo đức
của người nghệ sĩ vĩ đại, ln đặt
lợi ích của cộng đồng , của nghệ
thuật lên trên lợi ích và danh vọng
cá nhân.
-Tiếng đàn như cỏ mọc hoang:
so sánh độc đáo (nghệ thuật thiếu
vắng nguời dẫn đường, nghệ thuật
thành thứ cỏ mọc hoang) ->Xót

xa, tiếc nuối cho khát vọng cách
tân nghệ thuật dang dở của Lorca
và nền nghệ thuật Tây Ban Nha.
=>Nước mắt người nghệ sĩ khóc
thương người nghệ sĩ, là nỗi đau
ngời sáng, lung linh.
b. Khổ 5:
-Đường chỉ tay đã đứt: (ẩn dụ):
cái chết , số phận nghiệt ngã đã
báo trước->định mệnh không thể
thay đổi. Lorca chấp nhận định
mệnh như một quy luật (mọi
người chấp nhận sự ra đi của
Lorca).
-Dịng sơng rộng vơ cùng: đối lập
giữa cái vơ hạn của dịng sơng và
hữu hạn của đời người.
-Ghita màu bạc (biến ảnh của màu
nâu)-> thế giới huyền thoại,
truyền thuyết, đi vào cõi siêu
sinh.
c. Khổ 6:
-Hành động ném: dứt khốt, mạnh
mẽ.
- Hình ảnh: +lá bùa: huyền bí
+Trái tim: tình u.
+Xốy nước: kiếp nạn
của con người.
-> Lorca dứt khoát từ giã cuộc
sống một cách thanh thản, thái độ

coi thường cái chết.
=> Bài ca về sự bất tử của người
nghệ sĩ chân chính. Tác giả thể
hiện niềm ngưỡng mộ và xót


cũng thật lẻ loi trên con đường gập ghềnh, thương vô hạn với Lorca.
xa thẳm.
III. Tổng kết (ghi nhớ SGK)
-Lời thơ di chúc của Lorca hàm ẩn tình yêu
đất nước, tình yêu nghệ thuật và khát vọng
cách tân mãnh liệt.
-Cái chết không thể tiêu diệt được tâm hồn
và nghệ thuật của Lorca.
=>Tình cảm yêu mến, trân trọng, ngưỡng
mộ và tri âm của Thanh Thảo dành cho
Lorca.
* Nghệ thuật
Sử dụng thành công những thủ pháp tiêu
biểu của thơ tượng trưng , siêu thực. Ngôn
ngữ thơ hàm súc, giàu sức gợi.
4. Củng cố- dặn dị
- Nắm được vẻ đẹp hình tượng Lorca trong mạch cảm xúc và suy tư đa
chiều; vẻ đẹp hình thức biểu đạt mang phong cách hiện đại.
- Học thuộc lòng bài thơ
- Chuẩn bị bài đọc thêm “Tự do”.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.
Sau đây là bảng thống kê kết quả học tập của những lớp tôi đã dạy từ năm trước
tới năm nay.
Bảng 1. Kết quả học tập của năm học 2010 – 2011

Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Ghi chú

Lớp
số Ts %
TS
%
TS
%
TS
%
TS %
11A2 44
0 0.0 21
47.7 22
50.0 1
2.3 0
0.0
11A3 41
2 4.9 20
48.8 18
43.9 1
2.4 0
0.0
11B2 45
0 0.0 3

6.7 22
48.9 16
35.6 3
6.7
11B4 44
0 0.0 1
2.3 28
63.6 12
27.3 2
4.5
Tổng
174 2 3.5 45
25.9 90
51.7 30
17.2 5
2.9

Bảng 2. Kết quả học tập của năm học 2011 -2012
Lớp
12A2
12A3
12A8

Sĩ số
40
40
40

12A11 41


Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

Ghi
chú

Ts % TS % TS % TS % TS %
2
5.0 10 25.0 24 60.0 4
10.0 0
0.0
3
7.5 15 37.5 18 45.0 4
10.0 0
0.0
0
0.0 2
5.0 20 50.0 16 40.0 2
5.0 11B2

0
0.0 4
9.8 29 70.7 8

19.5 0
0.0 11B4



×