Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.22 KB, 64 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thanh hóa là một tỉnh đông dân, tỷ lệ đói nghèo còn rất cao, không
những vậy số lượng đối tượng hưởng chính sách BHXH, BHYT của tỉnh lớn so
với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Những năm trước đây để chăm lo sức
khỏe cho người nghèo tỉnh thực hiện giải pháp tạm thời cấp sổ chứng nhận hộ
đói nghèo để các cơ sở y tế miễn phí cho người nghèo khi đi khám chữa bệnh.
Những năm gần đây, tỉnh thực hiện cấp thẻ BHYT theo chủ trương của Đảng
và Nhà nước. Việc triển khai chính sách hỗ trợ người nghèo trong CSSK thông
qua cấp thẻ BHYT đã từng bước giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ y
tế cơ bản, tránh được các cú sốc về kinh tế. Tuy nhiên, việc triển khai chính
sách BHYT cho người nghèo trong thời gian qua đã bộc lộ một số yếu kém và
bất cập cần đòi hỏi phải có các giải pháp phù hợp. Đây chính là lý do em lựa
chọn đề tài: “BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá. Thực trạng và giải
pháp”.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương I: Lý thuyết cơ bản về BHYT,
ChươngII: Thực trạng hoạt động BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá,
Chương III: Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt BHYT cho người nghèo ở
Thanh Hoá.
Do còn hạn chế về trình độ kiến thức cũng như các tài liệu tham khảo nên
bài viết chắc chắn còn có nhiều thiếu sót, hạn chế. Chúng em rất mong các
thầy cô đóng góp ý kiến chỉ bảo những thiếu sót trong bài viết này để các lần
viết sau chúng em có điều kiện nâng cao chất lượng của bài viết.
Cuối cùng chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy Phạm Đức Trọng đã
tận tình giúp đỡ chúng em trong việc hoàn thành bài viết này đồng thời chúng
em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Bảo Hiểm đã truyền đạt các kiến
thức trong khi giảng dạy để chúng em có thể hoàn thành bài viết này.
Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.

1
CHƯƠNG I


LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BHYT
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA BHYT
1. Khái niệm và bản chất của BHYT
1.1. Khái niệm về BHYT
Trong cuộc sống con người luôn mong muốn được khoẻ mạnh, ấm no,
hạnh phúc, nhưng những rủi ro bất ngờ về sức khoẻ như ốm đau, bệnh tật luôn
luôn có thể xảy ra. Các chi phí KCB này không được xác định trước, mang
tính “đột xuất”, vì vậy cho dù lớn hay nhỏ, đều gây khó khăn cho ngân quỹ
mỗi gia đình, mỗi cá nhân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp.
Không những thế những rủi ro này nếu tái phát, biến chứng vừa làm suy giảm
sức khoẻ, suy giảm khả năng lao động, vừa kéo dài thời gian không tham gia
lao động sẽ làm cho khó khăn trong cuộc sống tăng lên.
Để khắc phục khó khăn cũng như chủ động về tài chính khi rủi ro bất
ngờ về sức khoẻ xảy ra, người ta đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như tự
tích luỹ, bán tài sản, kêu gọi sự hỗ trợ của người thân, đi vay…Mỗi biện pháp
đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, tuy nhiên, không thể áp dụng trong
trường hợp rủi ro kéo dài và lặp đi lặp lại. Vì thế, cuối thế kỉ XIX, BHYT ra
đời nhằm giúp đỡ mọi người lao động và gia đình khi gặp rủi ro về sức khoẻ
để ổn định đời sống, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Đồng thời cùng với sự tăng trưởng kinh tế, đời sống con người được
nâng cao và nhu cầu KCB cũng tăng lên. Bởi khi điều kiện kinh tế cho phép thì
dù trạng thái sức khoẻ thay đổi rất ít như nhức đầu, mệt mỏi, kém ngủ…đều
có nhu cầu KCB. Hơn nữa, một số bệnh mới và nguy hiểm xuất hiện, đe doạ
đời sống con người. Thêm vào đó chi phí KCB ngày càng tăng lên do ngành y
tế sử dụng các trang thiết bị y tế hiện đại, các loại thuốc men cũng tăng giá do
biến động giá cả chung của thị trường.
2
Do đó phải huy động các thành viên trong xã hội đóng ...nhằm giảm
gánh nặng cho ngân sách Nhà nước (NSNN) và cũng để phục vụ chính bản
thân mình khi gặp rủi ro về sức khoẻ. Càng ngày BHYT càng tỏ ra không thể

thiếu trong đời sống con người. Vậy BHYT là gì?
BHYT là loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự
đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám
bệnh và chữa bệnh cho nhân dân”. (Khái niệm về BHYT được trình bày trong
cuốn “Từ điển Bách Khoa Việt Nam 1 xuất bản năm 1995”-Nhà xuất bản từ
điển Bách Khoa)
1.2. Bản chất của BHYT
BHYT trước hết là một nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội (BHXH)-
một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống đảm bảo xã hội hay còn gọi
là hệ thống an sinh xã hội. Cùng với các hệ thống cung cấp (hay còn gọi là chế
độ ưu đãi xã hội, chế độ bao cấp) và hệ thống cứu trợ xã hội, hoạt động của
BHYT nói riêng và hoạt động của BHXH nói chung, đã thực sự trở thành nền
móng vững chắc cho sự bình ổn xã hội. Chính vì vai trò cực kì quan trọng của
BHXH như vậy, cho nên ở mọi quốc gia trên thế giới, hoạt động của BHXH
luôn do nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện theo hệ thống pháp luật về BHXH.
Đó cũng là một cơ sở quan trọng để phân biệt loại hình BHYT này với BHYT
trong Bảo hiểm thương mại (BHTM). Ở các nước công nghiệp phát triển thì
loại hình BHYT trong BHTM cũng được phát triển và cũng tồn tại song song
với BHYT của Nhà nước. Vì vậy, nói đến BHYT ở đây là chúng ta hiểu là
đang đề cập đến BHYT của Nhà nước hay nói cách khác là BHYT theo luật
pháp.
BHYT sẽ đảm bảo cho những người tham gia BHYT và gia đình họ
những khả năng để phòng tránh bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật, chữa trị và
khôi phục sức khỏe sau bệnh tật. Do các chế độ BHXH về khám chữa bệnh
(KCB), chế độ thai sản và chế độ ốm đau đều có cùng phương thức hoạt động
và các nguyên tắc cơ bản chung, cho nên tùy theo đặc điểm lịch sử, tập quán
3
của từng nước mà BHYT có thể bao gồm cả chế độ KCB, chế độ thai sản và
chế độ ốm đau hoặc được tách ra theo từng chế độ riêng biệt. Điều đó liên
quan đến phạm vi đối tượng tham gia BHXH, đến mức đóng góp và đối tượng

tham gia BHXH, đến mức đóng góp và các chế độ được hưởng.
Ở các nước công nghiệp phát triển người ta định nghĩa BHYT trước hết
là một tổ chức cộng đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau, nó có nhiệm vụ gìn giữ
sức khỏe, khôi phục lại sức khoẻ hoặc cải thiện tình trạng sức khoẻ của người
tham gia BHYT. Như vậy trong hoạt động BHYT thì tính cộng đồng đoàn kết
cùng chia sẻ rủi ro rất cao, là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe, nó điều tiết mạnh mẽ giữa người khoẻ mạnh với người ốm yếu, giữa
thanh niên với người già cả, giữa những người có thu nhập cao và những người
có thu nhập thấp. Sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong BHYT là sự đảm bảo
cho từng người dựa trên cơ sở của sự đoàn kết không điều kiện, của sự hợp tác
cùng chung lòng, chung sức và gắn kết chặt chẽ với nhau. Đây cũng chính là
bản chất nhân văn của hoạt động BHYT mà chúng ta thường đề cập đến. Tuy
nhiên đoàn kết tương trợ không chỉ là quyền được nhận mà còn phải là nghĩa
vụ đóng góp. Sự công bằng và bình đẳng của một chế độ xã hội được gắn bó
với sự đoàn kết được thể hiện ở chỗ: ai muốn đạt được sự bền chặt và đoàn kết
thì phải thực hiện nhiều hơn sự công bằng. Điều đó chỉ có thể được tạo ra
thông qua sự điều chỉnh trong thực tế, vì “sự công bằng” là yếu tố động, nó chỉ
đạt được tại một thời điểm, còn lại đều là sự không công bằng. Đây là một
trong những yếu tố tác động đến sự phát triển xã hội. Do vậy cần có sự tích
cực điều chỉnh thực tế một cách thường xuyên nhằm đảm bảo mối quan hệ
tương thích giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong hoạt động BHYT.
Nếu nhìn trên giác độ tổng thể nền kinh tế quốc dân và xét về phương
diện điều tiết kinh tế vĩ mô thì công cụ BHYT là công cụ thứ hai trong quá
trình phân phối lại (công cụ thứ nhất là thuế) góp phần đảm bảo sự bình đẳng
và công bằng xã hội. Hệ thống BHYT ngay từ khi hình thành đã không định
hướng theo mức độ rủi ro mà định hướng theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và
4
không phải chi trả trực tiếp. Điều đó được thể hiện rất rõ là: khi bị ốm đau thì
người bệnh sẽ được chữa trị cho đến khi khoẻ mạnh trở lại bằng phương pháp,
kỹ thuật tiên tiến hiện thời mà không căn cứ vào trước đó họ đã đóng góp

BHXH được bao nhiêu. Nếu định hướng theo mức độ rủi ro thì khi ốm đau họ
sẽ được đền bù với mức là bao nhiêu căn cứ vào trước đó họ đã đóng góp theo
mức nào như trong BHYT tư nhân hay còn gọi là bảo hiểm thương mại. Chính
định hướng này đã làm nền tảng cho các nguyên tắc cơ bản về BHYT. Chính
vì vậy, BHYT luôn mở rộng phạm vi đối tượng tham gia theo nghĩa vụ (mang
tính chất bắt buộc) và ban đầu BHYT cho người làm thuê rồi đến BHYT cho
người lao động làm thuê rồi đến BHYT cho người lao động tự do, cho người
lao động trong nông nghiệp…cho đến khi BHYT toàn dân.
Nếu nhìn nhận dưới giác độ kinh tế thì BHYT trước hết được hiểu là sự
hợp nhất kinh tế của số lượng những người trước cùng một loại hiểm nguy do
bệnh tật gây nên mà trong từng trường hợp cá biệt không thể tính toán trước và
lo liệu được. Nhưng cái chung đó cần phải đáp ứng được bằng nguồn tài chính
dự trữ một cách thoả đáng thông qua hệ thống cân bằng rủi ro tương ứng do
nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện. Cụ thể như sau: Tổng chi phí cho KCB =
Tổng số tiền đóng góp của những người tham gia BHYT.
Như vậy cân đối về chi phí KCB được thực hiện cân bằng giữa một bên
là tổng chi phí KCB cho những người có nhu cầu và cần phải KCB và bên kia
là tổng số đóng góp của tất cả những người tham gia BHYT bất kể họ có hoặc
không có nhu cầu KCB. Thời gian cân đối về thu chi của BHYT thông thường
là một năm. Có những nước người ta tính toán cân đối để dự trù kinh phí chi
trả cho thời gian thêm một tháng. Việc cân đối thu chi còn có thể được bổ sung
thêm tùy tình hình cụ thể của từng nước và từng năm cụ thể. Trong tổng số chi
còn phải tính thêm khoản chi phí cho bộ máy quản lý làm công tác BHYT.
Trong khoản thu có thể bao gồm cả các khoản thu từ đóng góp của ngân sách
địa phương, của Trung ương và các khoản thu khác.
5
Nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro với ý tưởng nhân văn cao cả của nó
đã loại trừ mục tiêu lợi nhuận thương mại của cộng đồng những người tham
gia BHYT. Do vậy, hoạt động BHYT không có khoản thu lợi nhuận và đương
nhiên cũng không vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy tỉ lệ đóng góp chỉ được nâng

lên theo đòi hỏi quyền lợi chung của quá trình thực hiện BHYT. Tức là tỉ lệ
đóng góp BHYT chỉ được nâng lên theo nhu cầu chữa trị bệnh tật, nhu cầu
nâng cao chất lượng KCB và ứng dụng những thành tựu khoa học tiên tiến và
công tác KCB của cả cộng đồng.
Phương thức đoàn kết chia sẻ rủi ro phải được thực hiện bằng sự điều
tiết nhằm cân bằng mang tính xã hội. Việc lập ra quỹ BHYT và từng bước mở
rộng phạm vi đối tượng tham gia từ đó đã mở rộng phạm vi cân bằng, chia sẻ
rủi ro trong cộng đồng những người tham gia BHYT.
Nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro chỉ được thực hiện một
cách đầy đủ và hợp lí thông qua những giới hạn nhất định. BHYT chỉ bao gồm
những đối tượng là những người về nguyên tắc luôn có nhu cầu được bảo vệ
về sức khỏe. Những đối tượng cụ thể sẽ được quy định theo pháp luật.
BHYT trước hết được thực hiện đối với những người lao động phụ
thuộc, tức là người lao động không có tư liệu sản xuất và phải đi làm thuê hay
những người có quan hệ lao động. Đây là loại hình BHXH nghĩa vụ, nó mang
tính bắt buộc đối với mọi người lao động phụ thuộc và chủ sử dụng lao động.
Sau đó do bản chất ưu việt nên nó được mở rộng ra các đối tượng lao động
khác như người hành nghề tự do, lao động nông lâm, ngư nghiệp…và BHYT
theo đơn vị gia đình.
Vấn đề KCB không chỉ đơn thuần liên quan đến vấn đề kỹ thuật y tế mà
còn liên quan một cách rất chặt chẽ đến các yếu tố kinh tế như: các khoản chi
trả cho các nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật (khám bệnh, phẫu thuật, thủ
thuật…) của các bác sỹ, chi phí cho bệnh viện với các trang thiết bị, vật tư y tế
phục vụ cho KCB và thuốc men – nếu nhìn dưới giác độ kinh tế - đó là “Cung”
của ngành y tế. Còn phía “Cầu” là bệnh tật, những bệnh tật này cần đến các
6
dịch vụ KCB và những hàng hoá cần thiết cho sức khoẻ. Vì vậy khi thực hiện
BHYT, ở các nước công nghiệp phát triển bên cạnh việc sử dụng vai trò điều
tiết của Nhà nước, người ta còn chú trọng sử dụng quan hệ cung – cầu điều tiết
trên thị trường sức khoẻ hay còn gọi là thị trường y tế nhằm đảm bảo hiệu quả

sử dụng nguồn quỹ đóng góp của những người tham gia BHYT và nâng cao
chất lượng KCB. Trong các nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu, số người
tham gia BHYT theo luật pháp chiếm tới 90% dân số, chỉ 10% dân số còn lại
không tham gia BHXH. Nhóm người này không thuộc đối tượng điều chỉnh
của luật BHYT và phần lớn trong số họ là những người giàu có, họ có đủ khả
năng tự lo liệu khi ốm đau hoặc tham gia BHYT tư nhân để hưởng những
quyền lợi cao hơn khi ốm đau.
Ở nước ta BHYT được tiến hành từ năm 1992 và cho đến nay vẫn thực
hiện BHYT bắt buộc đối với người lao động có quan hệ việc làm giữa người
sử dụng lao động với người lao động. Những đối tượng xã hội như: người có
công với cách mạng, thân nhân sỹ quan quân đội, người nghèo cũng được Nhà
nước cấp kinh phí để tham gia BHYT. Các đối tượng là trẻ em dưới 6 tuổi
được KCB miễn phí bằng nguồn ngân sách Nhà nước và địa phương và đang
được xem xét để tham gia BHYT. Hình thức BHYT tự nguyện đang được vận
động thực hiện đối với học sinh, sinh viên và nhóm cộng đồng theo địa bàn
dân cư hoặc theo tổ chức xã hội…
2. Vai trò của BHYT
Trong đời sống kinh tế – xã hội, ngoài những tác dụng to lớn của hoạt
động bảo hiểm nói chung, BHYT còn có những tác dụng như sau:
BHYT giúp người tham gia BHYT khắc phục sự thiếu hụt về tài chính,
đáp ứng nhu cầu KCB của mọi người dân, khi bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật vì
việc khám, chữa, điều trị chi phí rất tốn kém, ảnh hưởng đến ngân sách gia
đình, trong khi thu nhập của họ bị giảm đáng kể, thậm chí mất thu nhập. Từ đó
góp phần ổn định cuộc sống của họ và gia đình, vai trò này thể hiện rõ nhất đối
với người nghèo trong xã hội có thu nhập thấp.
7
BHYT góp phần nâng cao chất lượng và thực hiện công bằng trong
KCB. Bởi vì khi tham gia BHYT thì mọi người dân bất kể giàu nghèo đều
được KCB và chăm sóc sức khoẻ tại các cơ sở y tế, do đó sẽ đảm bảo được
công bằng xã hội. Đồng thời quỹ BHYT sẽ hỗ trợ cho ngân sách y tế để cải

thiện các trang thiết bị y tế, sử dụng trang thiết bị hiện đại hơn, nâng cấp chất
lượng dịch vụ của ngành y.
BHYT góp phần giảm gánh nặng cho NSNN thông qua việc đóng góp
vào quỹ BHYT, từ đó giảm bớt được khoản chi từ NSNN cho hệ thống y tế.
Các quốc gia trên thế giới thường có khoản chi từ ngân sách cho hệ thống y tế.
Tuy nhiên, ở một số quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển, khoản
chi này thường chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển ngành y. Ở nhiều nước
trên thế giới, Nhà nước chỉ đầu tư khoảng 60% ngân sách y tế, hoặc chỉ đầu tư
ban đầu cho việc hình thành bệnh viện. Như vậy, Ngân sách y tế vẫn bị thiếu
hụt. Có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề này như sự đóng góp của cộng
đồng xã hội, trong đó có biện pháp thu phí của người đến khám, chữa bệnh.
Nhưng đôi khi giải pháp này lại vấp phải trở ngại từ mức sống của dân cư. Vì
vậy, biện pháp hiệu quả nhất là thực hiện BHYT để giám gánh nặng cho Ngân
sách Nhà nước, hỗ trợ cho Ngân sách y tế, khắc phục sự thiếu hụt về tài chính,
đảm bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân.
BHYT góp phần nâng cao tính cộng đồng đối với tất cả người dân trong
xã hội trên tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quy
luật số lớn. Vì vậy, mọi thành viên trong xã hội gắn bó với nhau hơn, đặc biệt
là gắn bó với các chế độ xã hội. BHYT không ngừng mở rộng đối tượng tham
gia, từ đó có sự chia sẻ rủi ro trong cộng đồng những người tham gia BHYT
Chính sách BHYT đã thúc đẩy sự phát triển của một lĩnh vực khoa học
mới, đó là lĩnh vực kinh tế y tế.
BHYT góp phần khôi phục và phát triển hệ thống y tế trường học, thực
hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hỗ trợ về tài chính trong tai nạn và bệnh tật
cho hàng triệu học sinh cả nước.
8
BHYT đã đóng góp thiết thực vào công tác tăng cường và phát triển y tế
cơ sở.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BHYT
1. Đối tượng, đối tượng tham gia và phạm vi BHYT

1.1. Đối tượng BHYT
BHYT như trên đã nói nhằm mục đích chăm lo sức khoẻ, khám bệnh và
chữa bệnh cho nhân dân do đó đối tượng của BHYT chính là sức khoẻ của mọi
người được bảo hiểm. Có nghĩa là nếu người được bảo hiểm gặp rủi ro về sức
khoẻ (bị ốm đau, bệnh tật…) thì sẽ được cơ quan BHYT xem xét chi trả bồi
thường.
BHXH ở nước ta hiện có các chế độ: Chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ
cấp ốm đau, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu
trí, chế độ tử tuất như vậy cũng thể hiểu BHYT là chế độ khám chữa bệnh
(KCB).
Hoạt động y tế thường bao gồm: phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi
chức năng. Tuỳ theo tính chất và phạm vi hoạt động mà BHYT ở mỗi quốc gia
có các loại hình như:
- Phòng bệnh và chữa bệnh
- Chữa bệnh và phục hồi chức năng
- Phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng
Ở các quốc gia có các loại hình như vậy thì BHYT được gọi là Bảo hiểm
sức khoẻ. Còn nếu chỉ gồm hoạt động chữa bệnh thì chỉ gọi là BHYT.
1.2. Đối tượng tham gia BHYT
BHYT nói riêng và bảo hiểm sức khoẻ nói chung là một dịch vụ bảo
hiểm rất nổi tiếng trên thế giới và được đông đảo nhân dân tham gia. Bất kì ai
có sức khoẻ có nhu cầu Bảo hiểm sức khỏe đều có quyền tham gia bảo hiểm.
Như vậy đối tượng tham gia BHYT là mọi người dân có nhu cầu BHYT cho
sức khoẻ của mình hoặc cũng có thể là người đại diện cho một tập thể, một
9
đơn vị, cơ quan…đứng ra kí kết hợp đồng BHYT cho tập thể, đơn vị, cơ quan
đó. Trong trường hợp này, mỗi cá nhân tham gia BHYT tập thể sẽ được cấp
một giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc thẻ bảo hiểm để phục vụ quyền lợi của
riêng mình. Văn bản này có thể có tên gọi khác nhau như giấy chứng nhận bảo
hiểm hoặc thẻ bảo hiểm…ở các nước khác nhau.

Trong thời kỳ đầu mới triển khai BHYT, thông thường các nước đều có
hai nhóm đối tượng tham gia BHYT là bắt buộc và tự nguyện. Hình thức bắt
buộc áp dụng đối với công nhân viên chức Nhà nước và một số đối tượng như
người về hưu có hưởng lương hưu…Hình thức tự nguyện áp dụng cho mọi
thành viên khác trong xã hội có nhu cầu và thường giới hạn trong độ tuổi nhất
định tuỳ theo từng quốc gia.
1.3. Phạm vi bảo hiểm
BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy
động sự đóng góp của các cá nhân, tập thể để thanh toán chi phí y tế cho người
tham gia bảo hiểm. Thông thường, BHYT hoạt động trên cơ sở quỹ tài chính của
mình, nhà nước chỉ hỗ trợ tài chính khi thật cần thiết. Vì hoạt động theo nguyên
tắc cân bằng thu chi như vậy nên tuy mọi người dân trong xã hội đều có quyền
tham gia BHYT nhưng thực chất BHYT không chấp nhận bảo hiểm cho những
người mắc bệnh nan y nếu không có thoả thuận gì thêm.
Những người đã tham gia BHYT khi gặp rủi ro về sức khoẻ như bị ốm
đau, bệnh tật đều được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức độ
khác nhau tại các cơ quan y tế. Tuy nhiên nếu khám chữa bệnh trong các
trường hợp tự huỷ hoại bản thân, trong tình trạng say, vi phạm pháp luật hoặc
một số trường hợp loại trừ theo quy định của BHYT...thì không được cơ quan
BHYT chịu trách nhiệm.
Ngoài ra, mỗi quốc gia đều có những chương trình sức khoẻ quốc gia
khác nhau, trong đó quy định một số loại bệnh mà người đến khám chữa bệnh
đó được ngân sách của chương trình (hoặc ngân sách nhà nước) đài thọ chi phí.
10
Cơ quan BHYT cũng không có trách nhiệm BHYT nếu họ khám chữa bệnh
thuộc chương trình này.
Tuy nhiên, do hoạt động BHYT có hai hình thức bắt buộc và tự nguyện
nên có thể có các quy định khác nhau về phạm vi BHYT của hai nhóm đối
tượng này. Thông thường phạm vi BHYT của nhóm BHYT tự nguyện linh
hoạt hơn nhóm BHYT bắt buộc, do họ được quyền lựa chọn phạm vi BHYT

theo nhu cầu. Nhưng do đó công tác quản lý sẽ phức tạp hơn.
2. Phương thức BHYT
Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ
BHYT, BHYT được phân ra:
BHYT trọn gói: Là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu
phần trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được
BHYT.
BHYT trọn gói, trừ các đại phẫu thuật: Là phương thức BHYT trong đó
cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT
cho người được BHYT, trừ các chi phí y tế cho các cuộc đại phẫu thuật (theo
quy định của cơ quan y tế).
BHYT thông thường: Là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của
cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của
người được BHYT.
Đối với các nước phát triển, mức sống dân cư cao, hoạt động BHYT đã
có từ lâu và phát triển, có thể thực hiện BHYT theo cả ba phương thức trên.
Đối với các nước nghèo, mới triển khai hoạt động BHYT thường áp dụng
phương thức BHYT thông thường.
Đối với phương thức BHYT thông thường, có hai hình thức tham gia
bảo hiểm, đó là BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện. BHYT bắt buộc được
thực hiện với một số đối tượng nhất định, được quy định trong các văn bản
pháp luật về bảo hiểm. Dù có muốn tham gia hay không, những người thuộc
11
đối tượng này đều phải tham gia BHYT. Số còn lại (không thuộc nhóm đối
tượng), tuỳ theo nhu cầu và khả năng có thể tham gia BHYT tự nguyện.
3. Quỹ BHYT
3.1. Nguồn hình thành quỹ BHYT
Quỹ BHYT là một quỹ tài chính độc lập có quy mô phụ thuộc chủ yếu
vào số lượng thành viên đóng góp và mức độ đóng góp của các thành viên đó.
Thông thường, với mục đích nhân đạo, không đặt mục đích kinh doanh

lên hàng đầu, quỹ BHYT được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của
người tham gia bảo hiểm, gọi là phí bảo hiểm. Nếu người tham gia BHYT là
người lao động và người sử dụng lao động thì quỹ BHYT được hình thành từ
sự đóng góp của cả hai bên. Thông thường người sử dụng lao động đóng 50-
60% mức phí bảo hiểm, người lao động đóng 34-50% mức phí bảo hiểm.
Phí BHYT phụ thuộc vào nhiều yếu tố như xác suất mắc bệnh, chi phí y
tế, độ tuổi tham gia BHYT…Ngoài ra, có thể có nhiều mức phí khác nhau cho
những người có khả năng tài chính khác nhau trong việc nộp phí lựa chọn…
Trong đó chi phí y tế lại phụ thuộc vào các yếu tố sau: tổng số lượt người
KCB, số ngày bình quân của một đợt điều trị, chi phí bình quân cho một lần
KCB, tần suất xuất hiện các loại bệnh…
Phí BHYT thường được tính trên cơ sở các số liệu thống kê về chi phí y
tế và số người tham gia BHYT thực tế trong thời gian liền ngay trước đó.
Công thức tính:
P = f + d
Trong đó: P – Phí BHYT/người/năm
f - Phí thuần
d – Phụ phí
Phụ phí thường được quy định bằng một tỷ lệ phần trăm (thông thường
khoảng 20% - 30%) so với phí BHYT.
12
Phí thuần được xác định như sau:
i
f
=


=
=
n

i
i
n
i
i
n
f
1
1
Trong đó:
i
f
: Chi phi y tế thuộc trách nhiệm BHYT của toàn bộ
người được BHYT trong năm i;
i
n
: Số người được BHYT trong năm i;
i : Số năm thống kê tính toán, thường từ 3 đến 5 năm.
Ngoài ra, quỹ BHYT còn được bổ sung bằng một nguồn khác như: sự hỗ
trợ của ngân sách nhà nước (thông thường chỉ trong trường hợp quỹ có dấu
hiệu mất khả năng chi trả), sự đóng góp và ủng hộ của các tổ chức từ thiện, lãi
do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi theo quy định của các văn bản pháp luật về BHYT
nhằm đảm bảo và tăng trưởng quỹ, …
3.2. Các khoản chi
Sau khi hình thành, quỹ BHYT được sử dụng như sau:
- Chi thanh toán chi phí y tế cho người được BHYT: Đây là khoản chi
thường xuyên, lớn nhất của quỹ BHYT. Những người thuộc đối tượng được
hưởng BHYT thì khi gặp những vấn đề về sức khoẻ sẽ được khám chữa bệnh
theo quy định của Nhà nước, khi đó BHYT sẽ thanh toán những khoản tiền
này trong phạm vi theo quy định.

- Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn: Đây là những khoản mà BHYT
phải trích lập để phòng những trường hợp khẩn cấp cũng như bất ngờ. Khoản
chi này thường được tồn tích trong thời gian dài nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người tham gia BHYT.
- Chi đề phòng, hạn chế tổn thất: Khoản chi này với mục đích giảm thiểu
tổn thất đáng lẽ là nặng nề nếu rủi ro xảy ra. Như vậy, thực chất làm giảm
khoản chi thanh toán chi phí y tế cho người được BHYT.
13
- Chi quản lý: Các khoản chi phí về quản lý hành chính BHYT, đảm bảo
cho bộ máy BHYT hoạt động bình thường.
Tỉ lệ và quy mô các khoản chi này thường được quy định trước bởi cơ
quan BHYT và có thể thay đổi theo từng điều kiện cụ thể.
Ngoài ra, như trên đã trình bày, do hoạt động BHYT thường có hai hình
thức bắt buộc và tự nguyện, phạm vi bảo hiểm của hai nhóm người này khác
nhau nên phí BHYT cũng khác nhau. Mức phí thường được quy định thống
nhất cho nhóm BHYT bắt buộc, còn đối với nhóm BHYT tự nguyện thì mức
phí thay đổi tuỳ theo từng hợp đồng BHYT. Các khoản chi cũng không giống
nhau, cụ thể là đối với nhóm BHYT tự nguyện thì chi thanh toán chi phí y tế
tuỳ theo phạm vi hợp đồng BHYT đã giao kết. Vì vậy, việc quản lý quỹ cũng
được tách riêng cho hai nhóm này.
III. KHÁI QUÁT VỀ BHYT VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH CHĂM SÓC SỨC KHOẺ Ở
VIỆT NAM.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO
Ở THANH HOÁ
I. VÀI NÉT VỀ BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở VIỆT NAM
1. Quy định KCB cho người nghèo ở Việt Nam
1.1. Chuẩn nghèo
Công cuộc xoá đói giảm nghèo của nước ta bắt đầu từ những năm đầu
thập kỉ 90 của thế kỉ trước, nhưng các nước trong khu vực đã thực hiện từ thập

kỉ 70 và 80. Trên thế giới mãi đến đầu những năm`1990 mới bắt đầu nghiên
cứu, hình thành hệ thống lý luận và phương pháp luận cho cuộc chiến chống
nghèo đói. Tuy vậy trong nhận thức của người Việt Nam khi nói đến nghèo đói
mọi người đều hiểu rằng đó là tình trạng người dân cơm không đủ ăn, áo
14
không đủ mặc, con cái không được học hành tử tế, ốm đau không có tiền chữa
bệnh, nhà cửa tạm bợ...
Khái niệm nghèo khổ đã được Uỷ ban Kinh tế - Xã hội khu vực châu Á-
Thái bình dương (ESCAP) thống nhất như sau: “Nghèo khổ là tình trạng một
bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con
người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội
và phong tục, tập quán của từng vùng được xã hội thừa nhận”. Như vậy sẽ
không có một chuẩn nghèo chung cho tất cả các quốc gia và các khu vực.
Chuẩn nghèo là thước đo mức sống của dân cư để phân biệt trong xã hội
ai thuộc diện nghèo và ai không nghèo để từ đó có chính sách trợ giúp cho
những người nghèo tiếp cận với thành quả của sự phát triển kinh tế - xã hội và
đảm bảo công bằng giữa các nhóm dân cư.
Chuẩn nghèo không phải là một đại lượng bất biến mà thay đổi theo thời
gian vì nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Từ năm 1996 đến
nay, chúng ta đã điều chỉnh chuẩn nghèo theo hướng tăng dần trong 3 giai
đoạn 1996-1997, 1998-2000, 2001-2005. Vào thời điểm năm 2004 tỉ lệ đói
nghèo của Việt Nam là 8%; trong đó 2 tỉnh, thành phố đã cơ bản không còn hộ
nghèo theo chuẩn; 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chỉ còn từ 3-5%; 24 tỉnh trên 5-10%; 15
tỉnh trên 10-15 %; 3 tỉnh trên 15-20%. Đặc biệt đã có 8 tỉnh, thành phố nâng
chuẩn nghèo cao gấp 2-3 lần chuẩn nghèo hiện tại.
Trong giai đoạn 2006-2010, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ là giảm nghèo toàn diện hơn, công bằng hơn, bền vững và hội nhập;
đồng thời thu nhập và mức sống của người dân cũng được nâng cao, do vậy,
chuẩn nghèo cũng như các giải pháp thực hiện chương trình giảm nghèo cũng
phải thay đổi cho phù hợp. Theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006-2010:

- Khu vực nông thôn: 200.000đ/người/tháng.
- Khu vực thành thị: 260.000đ/người/tháng.
Như vậy ước tính đến đầu năm 2006, Việt Nam có khoảng 26,7% hộ
nghèo (khoảng 4,6 triệu hộ), trong đó khu vực thành thị khoảng 12%, khu vực
15
nông thôn khoảng 31%. Cứ 100 người nghèo có khoảng 10 người ở thành thị,
90 người ở nông thôn và 36 người là dân tộc thiểu số. Theo đó ước tính tỷ lệ
nghèo ở các vùng như ở bảng 2:
Bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo của các vùng trong cả nước

Vùng Tỷ lệ nghèo (%)
Tây Bắc 62
Đông Bắc 36
Đồng bằng sông Hồng 20
Bắc Trung Bộ 40
Duyên hải Nam Trung Bộ 23
Tây Nguyên 52
Đông Nam Bộ 11
Đồng bằng sông Cửu Long 21
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Trong khi đó tỉ lệ bệnh tật của dân cư nông thôn nghèo cao gấp 4 lần
thành thị (mức chênh lệch này ở trẻ em là 27 lần); do đó, chúng ta cần có giải
pháp hữu hiệu nhất để giảm tỷ lệ hộ đói nghèo.
Theo Bộ LĐ-TB và XH, mục tiêu giảm nghèo cần đạt được đến năm
2010 là 15% (giảm 38% số hộ nghèo trong 5 năm).
1.2. Các chủ trương, Nghị định của Đảng hướng dẫn thực hiện BHYT cho
người nghèo
2. BHYT cho người nghèo ở Việt Nam.
2.1. Sự cần thiết BHYT cho người nghèo.
Việt Nam được xếp là một trong những nước nghèo trên thế giới, đa

phần nhân dân sống ở nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Do điều kiện
giao thông ở những vùng này chưa phát triển nên việc cải thiện đời sống và
CSSK còn gặp nhiều khó khăn. Sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong những năm gần đây đã và đang mang lại nhiều kết quả
tốt đẹp, song bên cạnh đó vẫn còn sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, tạo ra
sự bất bình đẳng trong CSSK và hưởng thụ dịch vụ y tế của người nghèo so
16
với người giàu. Chính vì lí do này mà Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều
chính sách về KCB cho người nghèo, song vẫn xẩy ra nhiều bất cập như:
- Việc cấp giấy chứng nhận cho người nghèo để giám đốc các bệnh viện
căn cứ vào đó quyết định việc miễn giảm viện phí cho người nghèo, nhưng lại
gặp khó khăn về kinh phí KCB. Các cơ quan LĐ-TB&XH cấp xong giấy miễn
phí là hết trách nhiệm, lúc đó gánh nặng về tài chính chuyển sang các cơ sở
KCB. Cơ sở KCB phải sử dụng kinh phí eo hẹp của mình để miễn giảm cho
đối tượng này. Từ đó tạo nên sự thiếu hụt trầm trọng về kinh phí KCB của các
cơ sở y tế. Thực tế còn cho thấy việc xác định người nghèo dù là ở xã, phường,
bệnh viện vẫn mang tính chủ quan. Điều này tạo ra sự không công bằng trong
xã hội.
- Có địa phương cấp một khoản ngân sách bổ sung cho các bệnh viện
để chi phí cho những người nghèo đến KCB tại bệnh viện sau đó định kì cơ
quan tài chính sẽ quyết toán theo số lượng và chi phí thực tế của người bệnh.
Hình thức này có những bất cập do nguồn kinh phí bổ sung không đều và
không đủ để chi trả chi phí cho người nghèo. Bệnh viện phải sử dụng kinh phí
giường bệnh để bù trừ gây khó khăn cho bệnh viện vốn đã rất eo hẹp về kinh
phí.
Với các hình thức nêu trên, một bộ phận người nghèo đã được CSSK
thông qua KCB miễn phí, song các hình thức đó còn nhiều thiếu sót và hạn chế
cần khắc phục.
Như vậy, để tránh tình trạng khó khăn trong công tác KCB cho người
nghèo và đảm bảo lợi ích chính đáng của họ thì “BHYT cho người nghèo” là

hết sức cần thiết.
2.2. Thực trạng BHYT cho người nghèo ở Việt Nam.
2.2.1. Về số thẻ BHYT cấp cho người nghèo
Tính đến tháng 12/1999 đã có 34/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tổ chức lập danh sách KCB cho người nghèo và cơ quan BHYT các tỉnh,
thành phố này đã cấp 688.826 thẻ BHYT cho người nghèo (chiếm 6,5% tổng
17
số người nghèo trong cả nước) trong đó 2 tỉnh, thành phố là Hà Nội và Bắc
Ninh thực hiện phương thức thực thanh thực chi. Các tỉnh, thành phố tổ chức
thực hiện Thông tư số 05 sớm nhất trong cả nước là: Quảng Nam, Đà Nẵng,
Khánh Hoà, Vĩnh Phúc, Phú Yên, Bắc Giang, Nam Định, Hà Nam, Quảng
Bình, Bình Định, Bình Dương. Ngoài ra có 1 số tỉnh, thành phố trước khi có
Thông tư số 05 đã dùng một phần kinh phí xoá đói, giảm nghèo để mua thẻ
BHYT cấp cho người nghèo như Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình.
Đến tháng 12/2000 có 44/61 tỉnh, thành phố thực hiện việc cấp thẻ BHYT
cho người nghèo với số lượng là: 1.120.237 thẻ (khoảng 130 ngàn người
nghèo), tăng 61% so với năm 1999, nâng tỉ lệ số người được cấp thẻ BHYT
lên 13,8%; trong đó có 4 tỉnh, thành phố cấp thẻ BHYT cho người nghèo theo
phương thức thực thanh thực chi là: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh và Thái
Nguyên. Tỉnh có tỉ lệ phát hành thẻ BHYT trên tổng số nghèo cao nhất trong
cả nước là Ninh Thuận: 57.48%. Một số tỉnh, thành phố thực hiện cấp thẻ
BHYT cho người nghèo mang ý nghĩa tượng trưng, số lượng rất ít, không đúng
với thực trạng về số lượng của người nghèo hiện có tại mỗi địa phương.
Tháng 9/2001 đã có 48 tỉnh, thành phố đã hoàn thành thủ tục cần thiết để
có thể cấp thẻ cho khoảng 1.750.000 người nghèo, tăng 57% so với năm 2000,
nhưng mới đạt 13% người nghèo được cấp thẻ BHYT so với tổng số người
nghèo theo chuẩn hộ nghèo công bố ngày 1/11/2000 của Bộ LĐ-TB&XH.
Năm 2001 nhiều tỉnh, thành phố đã mở rộng diện người nghèo được cấp thẻ
BHYT như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thực hiện 100%; Phú Yên, Đà Nẵng;
Ninh Thuận, Nghệ An 50%; Hà Tây 40%; Bình Thuận, Lâm Đồng 36%, nhiều

địa phương đã tích cực triển khai KCB BHYT tại trạm y tế xã. Sau khi Chính
phủ ban hành Quyết định 139/2002/QĐ-CP thì số thẻ BHYT cấp cho người
nghèo trong tổng số thẻ BHYT đã tăng lên từ đó đến nay.
2.2.2. Về công tác KCB cho người nghèo
Từ năm 2003-2005 nhà nước đã dành trên 2.000 tỷ đồng để KCB cho
hơn 14 triệu người nghèo, thành lập quỹ KCB cho người nghèo ở 64 tỉnh,
18
thành phố. Đến nay 29 tỉnh thực hiện thực thanh, thực chi, 24 tỉnh mua thẻ
BHYT, 11 tỉnh thực hiện cả 2 hình thức trên. Như vậy cả nước đã có khoảng 4
triệu người được cấp thẻ BHYT. Ngoài ra các bệnh viện còn miễn giảm viện
phí cho 3,78 triệu người với số tiền là 234 tỷ đồng trong năm 2004. Bên cạnh
đó việc mở rộng KCB về tuyến cơ sở cũng ngày càng được quan tâm và coi
trọng; số trạm y tế xã, phường qua các năm ngày càng tăng.
Đồ thị 1: Số trạm y tế xã, phường cả nước từ năm 2000 đến năm
2004
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Do đó số lượt người đi KCB hàng năm cũng vì thế mà tăng lên (bảng 3)
Bảng 3: Tình hình KCB cho người nghèo có thẻ BHYT
Số lượt KCB (lượt) Tỷ lệ (%)
Nội trú Ngoại trú Nội trú Ngoại trú
1999 18.200 207.157 0.036 0,415
2000 55.446 660.379 0,047 0,547
2001 67.835 782.029 0,046 0,526
2002 90.556 1.225.390 0,054 0,736
(Nguồn: BHXH Việt Nam)
Năm 2000 có khoảng 600.000 lượt người nghèo đi KCB ngoại trú, bằng
59% số thẻ đã phát hành, với chi phí trên 10,7 tỷ đồng; bình quân một lần
KCB ngoại trú khoảng 18.000 đồng. Đã có trên 55.000 lượt người nghèo điều
trị nội trú tại các tuyến, bằng khoảng 5 % số người nghèo có thẻ BHYT, tổng
19

chi phí thanh toán cho các cơ sở KCB là 13,8 tỷ đồng, bình quân chi phí một
đợt điều trị nội trú là 250.000 đồng. Như vậy có thể thấy rằng chi phí cho một
lần KCB ngoại trú và một đợt điều trị nội trú của người nghèo tương đương và
có phần cao hơn một chút so với chi phí bình quân của thẻ BHYT bắt buộc,
song tỷ lệ đi KCB của người nghèo lại thấp hơn nhiều so với tỷ lệ đi KCB của
thẻ BHYT bắt buộc. Tuy nhiên có thể thấy rằng số lượt người nghèo đi KCB
ngày càng đông, kể cả nội trú và ngoại trú, mặt khác tỷ lệ KCB của người
nghèo so với các đối tượng khác tăng dần qua các năm, KCB bằng thẻ BHYT
ngày một tăng.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện BHYT cho người nghèo
trong thời gian qua đã khằng định một điều: giải pháp để người nghèo được
chăm sóc sức khoẻ bình đẳng và đạt hiệu quả cao nhất là mua thẻ BHYT cho
họ. Số thẻ BHYT cấp cho người nghèo trên tổng số thẻ BHYT không ngừng
tăng lên qua từng năm, điều này chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và nhà nước
tới công tác chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo, tới mục tiêu công bằng xã
hội. Tuy nhiên, công tác cấp thẻ BHYT cho người nghèo hiện nay vẫn còn
nhiều vướng mắc, nổi cộm nhất là việc điều tra, lập danh sách những hộ thuộc
diện nghèo theo quy định hiện nay, số thẻ BHYT cấp cho người nghèo vẫn còn
chưa đáp ứng đủ yêu cầu của họ.
2.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Hải Dương
Việc mua thẻ BHYT cho người nghèo là chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước, hợp lòng dân để người nghèo chẳng may bị ốm đau được KCB ở
các tuyến dễ dàng nhất là các trường hợp bệnh nặng rất tốn kém nhưng cũng
được BHYT lo đầy đủ. Đối với bệnh viện cũng đỡ khó khăn vì có BHYT
người nghèo đỡ một phần kinh phí cho bệnh viện, không phải trích quĩ Viện
phí của bệnh viện ra trợ cấp.
BHYT cho người nghèo chỉ thực hiện tốt khi có sự chỉ đạo kịp thời của
các cấp chính quyền địa phương; có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các
20
ngành liên quan, trong đó vai trò của ngành LĐ-TB&XH tại tỉnh là quan trọng

nhất.
Người nghèo chưa tiếp cận với các dịch vụ y tế do nhiều nguyên nhân
như: do điều kiện kinh tế, thu nhập; do định cư ở những vùng xa bệnh viện; do
mạng lưới y tế tại địa phương chưa phát triển... từ đó hạn chế phần nào quyền
lợi KCB cho người nghèo, làm sai lệch nhận thức về ý nghĩa của BHYT dành
cho người nghèo. Vì vậy cần tạo môi trường thuận lợi hơn để người nghèo
được tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế, góp phần làm cho chính sách
BHYT cho người nghèo phát huy hết ý nghĩa.
II. GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN BHXH TỈNH HẢI DƯƠNG
1. Sự hình thành và phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương
1.1. Quá trình hình thành của BHXH tỉnh Hải Dương
Cùng với hệ thống BHXH của cả nước, trải qua nhiều thời kỳ khác
nhau, BHXH tỉnh Hải Dương đã từng bước trưởng thành và phát triển vững
mạnh về mọi mặt, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao đảm bảo quyền lợi
cho người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT góp phần ổn định
kinh tế, chính trị, xã hội tại địa phương.
Trước năm 1995 BHXH nước ta thực hiện theo cơ chế bao cấp, nguồn
kinh phí do Nhà nước đảm bảo, tất cả cán bộ, công nhân viên chức trong cơ
quan Nhà nước, lực lượng vũ trang đều được hưởng chế độ BHXH. Sau năm
1995 thể chế hoá Bộ Luật lao động ban hành năm 1994, ngày 16/2/1995 Chính
phủ có Nghị định số 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở
thống nhất các tổ chức BHXH thuộc hệ thống Công đoàn và Lao động-Thương
binh & Xã hội (LĐ-TB&XH) với chức năng tổ chức thực hiện các chế độ
BHXH và để thống nhất tổ chức thu, chi BHXH, quản lý quỹ BHXH theo quy
định của Nhà nước.
Do đó, ngày 15/6/1995 BHXH tỉnh Hải Hưng được thành lập. Sau 2
năm hoạt động BHXH tỉnh Hải Hưng được chia tách thành BHXH tỉnh Hải
21
Dương và BHXH tỉnh Hưng Yên từ ngày 1/10/1997, thực hiện Quyết định số
20/2002/QĐ-TTg ngày 24/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển

BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh Hải Dương đã tiếp nhận
BHYT tỉnh Hải Dương và bắt đầu hoạt động theo mô hình mới, thêm nhiệm vụ
quản lý quỹ và chi trả chế độ BHYT cho người tham gia BHYT từ ngày
01/01/2003.
1.2. Quá trình phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương
1.2.1. Về tổ chức bộ máy
BHXH tỉnh do Giám đốc quản lý điều hành theo chế độ thủ trưởng.
Giúp Giám đốc có 3 Phó giám đốc. Giám đốc và Phó giám đốc BHXH tỉnh do
Tổng giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, khen
thưởng, kỷ luật.
Hiện nay BHXH tỉnh có 12 BHXH huyện, thành phố và có 8 phòng
nghiệp vụ, đó là: Phòng Chế độ chính sách, phòng Kế hoạch tài chính, phòng
Thu, phòng Giám định chi, phòng Bảo hiểm tự nguyện, phòng Công nghệ
thông tin, phòng Tổ chức hành chính, phòng Kiểm tra.
Các phòng trực thuộc BHXH tỉnh Hải Dương có chức năng giúp Giám
đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện các nhiệm được giao theo từng lĩnh vực
chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Tổng giám đốc.
Phòng chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của Giám đốc BHXH tỉnh và
sự chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam.
Phòng không có tư cách pháp nhân đầy đủ, không có dấu và tài khoản
riêng.
22
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của BHXH Hải Dương
(Nguồn: BHXH Hải Dương)
1.2.2. Về cán bộ
Khi mới thành lập đội ngũ cán bộ của BHXH tỉnh Hải Dương do các cán
bộ viên chức từ Liên đoàn lao động tỉnh, Sở LĐ-TB&XH và một số ngành
23
BHXH Tỉnh
Hải Dương

Phó Giám
đốc
Phòng
Chế
độ,
chính
sách
Phòng
kế
hoạch
tài
chính
Phòng
thu
Phòng
Giám
định
chi
Phòng
Bảo
hiểm
tự
nguyện
Phòng
Công
nghệ
thông
tin
Phòng
tổ

chức
hành
chính
Phòng
kiểm
tra
Phó Giám
đốc
Phó Giám
đốc
Giám đốc BHXH
Tỉnh Hải Dương
BHXH

Việt Nam
khác chuyển sang. Được sự quan tâm của BHXH Việt Nam, của Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh, sự phối hợp của các huyện thành phố, BHXH tỉnh đã được bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Sau khi BHYT chuyển sang BHXH
đội ngũ cán bộ đã được bố trí, phân công, sắp xếp hợp lý để kiện toàn bộ máy
tổ chức. Do vậy đến nay đã có đủ số lượng cán bộ theo biên chế được giao và
đã bổ nhiệm đủ Trưởng phó phòng, Giám đốc, Phó giám đốc BHXH 12 huyện,
thành phố.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên của đơn vị đã được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ và ngày càng trưởng thành.
Bảng 5: Số cán bộ, nhân viên trong biên chế và làm việc theo hợp
đồng tại BHXH Hải Dương
Đơn vị: Người
Thời
gian
Tổng số cán

bộ-nhân viên
Trong đó
Biên chế HĐ dài
hạn
HĐ có
thời hạn
7/1995 124 124 - -
9/1997 113 102 - 11
12/200
4
196 143 49 4
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Hải Dương)
Bảng 6: Cán bộ, nhân viên được phân chia theo trình độ chuyên môn
tại BHXH Hải Dương
Đơn vị: Người
Thời
gian
Tổng số cán
bộ-nhân viên
Chia theo trình độ chuyên môn
Đại học Trung cấp Sơ cấp
nhân viên
7/1995 124 31 90 4
9/1997 113 45 63 5
12/200
4
196 129 61 6
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Hải Dương)
1.2.3 Về xây dựng cơ sở vật chất
24

Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất về cơ bản đã hoàn thành. Đã
xây dựng được trụ sở làm việc của BHXH tỉnh, 11 trụ sở BHXH cấp huyện,
chuẩn bị xây dựng trụ sở BHXH thành phố Hải dương và xây dựng mới trụ sở
BHXH tỉnh.
2. Kết quả hoạt động vài năm qua của BHXH tỉnh Hải Dương
2.1. Kết quả đạt được
2.1.1. Thực hiện thu BHXH, cấp sổ BHXH
Từ chỗ người lao động được hưởng các chế độ BHXH được Nhà nước
bao cấp, chưa thực hiện nghĩa vụ đóng nộp BHXH, thói quen này đã đi vào
tiềm thức của từng người, nay phải thay đổi hoàn toàn theo cơ chế người lao
động, người sử dụng lao động phải đóng nộp BHXH sau đó mới được hưởng
BHXH. Đây là một sự thay đổi hết sức khó khăn cả về nhận thức và tổ chức
thực hiện. Công tác tuyên truyền chế độ chính sách BHXH và nghĩa vụ của
mỗi bên tham gia BHXH theo quy định mới đã tác động tích cực làm chuyển
biến mạnh mẽ nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động, đến
nay hầu hết ngươì lao động và sử dụng lao động đã hiểu và quan tâm thực hiện
chế độ BHXH.
Trong thời gian qua, BHXH tỉnh Hải Dương không ngừng tìm biện pháp
khắc phục đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ, sự lãnh đạo của BHXH Việt Nam,
của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ
với các ngành như Báo Hải dương, Đài phát thanh truyền hình, Ban tuyên giáo
tỉnh uỷ, Thanh tra Nhà nước tỉnh, Sở LĐ-TB&XH, Liên đoàn lao động tỉnh
trong việc tuyên truyền chính sách BHXH và thanh tra việc thực hiện chế độ
BHXH ở các doanh nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức tính thu theo
tháng với các đơn vị làm cơ sở để đôn đốc thu, hàng năm đều tổ chức khảo sát
nắm số lao động trong các đơn vị, doanh nghiệp mới hoạt động để đôn đốc vận
động tham gia BHXH. Thực hiện hướng dẫn triển khai kịp thời, đầy đủ các
văn bản quy định về chế độ BHXH, tiền lương đến các đơn vị sử dụng lao
động.
25

×