Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn (GMIC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.22 KB, 72 trang )

Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng phát triển kinh tế hiện nay trên thế giới là tập trung vào các
ngành dịch vụ.Trong đó, bảo hiểm là ngành dịch vụ phát triển khá toàn
diện và có những bước đáng kể cả về quy mô, tốc độ và phạm vi hoạt động.
Bảo hiểm không những thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà
còn góp phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân, gia đình,cho mọi
tổ chức và doanh nghiệp để ổn định đời sống và khôi phục sản xuất, kinh
doanh. Kinh tế càng phát triển, đời sống của người dân ngày càng được
nâng cao thì nhu cầu bảo hiểm càng lớn và các loại hình bảo hiểm ngày
càng được hoàn thiện. Chính vì vậy bảo hiểm xe cơ giới ra đời và phát triển
là điều tất yếu.
Ở Việt nam hiện nay vấn đề giao thông còn nhiều bất cập số lượng xe
cơ giới tham gia giao thông lớn, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, ý thức của
người dân tham gia giao thông còn chưa cao dẫn đến tai nạn giao thông xảy
ra ngày một tăng và trở thành một vấn nạn đối với xã hội. Do vậy tầm quan
trọng của bảo hiểm xe cơ giới trong việc đề phòng, hạn chế tổn thất, khắc
phục hậu quả khi xảy ra rủi ro, đảm bảo cuộc sống con người an toàn hơn,
xã hội trật tự hơn là rất quan trọng.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn nhận
thấy nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới luôn là thế mạnh của công ty,
hàng năm doanh thu từ nghiệp vụ này rất cao tuy công ty chỉ mới thành lập
và phát triển chưa lâu. Mặc dù doanh thu hằng năm đều tăng song để xây
dựng nghiệp vụ này trở thành mũi nhọn của công ty thì việc triển khai
nghiệp vụ này cần phải hoàn thiện hơn nữa. Để làm rõ hơn nữa vấn đề này
sau một thời gian nghiên cứu, em xin chọn đề tài "Hoạt động triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Thái
Sơn (GMIC), thực trạng và giải pháp." làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.Với đề tài này em mong muốn được đóng góp phần nào ý kiến nhỏ bé
của mình vào một nghiệp vụ luôn được coi là thế mạnh của các công ty
Bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và của Thái Sơn nói riêng.


Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, nội dung bài khóa luận tôt nghiệp
được kết cấu làm 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
1
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
Chương 2: Thực trạng hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn.
Chương 3:Giải pháp và khuyến nghị nhằm triển khai tốt hơn
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm
Thái Sơn
Do thời gian và kiến thức thực tế còn hạn chế nên bài viết không thể
không mắc những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
Thầy (Cô) và các anh (chị) tại đơn vị thưc tập để khoá luận của em có thể
hoàn thiện, mang tính thực tế cao hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.S Nguyễn Thị Hữu Ái, giáo
viên hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp, các thầy cô giáo trong khoa bảo hiểm
trường Đại học Lao Động – Xã hội, cũng như tập thể cán bộ nhân viên
công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành
bài khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Lại Thái Hùng
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
2
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới
1.1.Một số khái niệm, sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo

hiểm xe cơ giới
1.1.1 Một số khái niệm
Khái niệm Bảo hiểm:
" Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá
nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền
bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp
phí bảo hiểm cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc
chi trả này do một tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi
ro hay sự kiện bảo hiểm và bù trừ chúng theo quy luật thống kê ".
Đây là khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm, bởi vì nó đã
bao quát được phạm vi và nội dung của tất cả các loại hình bảo hiểm.
Khái niệm Kinh doanh Bảo hiểm:
" Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
(DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của bên
mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả
tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có
các sự kiện bảo hiểm xảy ra ".(theo luật kinh doanh bảo hiểm 2000)
Khái niệm Xe cơ giới:
Theo khoản 18 và khoản 20 điều 3 luật giao thông đường bộ năm
2008 quy định như sau :
- Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới)
gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô,
máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy
điện) và các loại xe tương tự .
- Các loại xe tương tự như xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi
công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ.
Khái niệm bảo hiểm vật chất xe cơ giới:
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản, có đối
tượng bảo hiểm là bản thân chiếc xe tham gia bảo hiểm và nó được thực

hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện.
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
3
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
1.1.2 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới
1.1.2.1 Đặc điểm, tình hình xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay
Khi khoa học ngày càng phát triển thì các hình thức vận
tải cũng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Trong số các loại hình giao thông vận tải bằng đường bộ thì
xe cơ giới vẫn giữ vị trí quan trọng và được coi là huyết
mạch của nền kinh tế mỗi quốc gia, đảm bảo cho hoạt động vận
chuyển hàng hóa, vận tải hành khách được thông suốt. Cùng với cơ sở hạ
tầng giao thông đang được nâng cấp và mở rộng, phương tiện giao thông
hiện đại ra đời ngày càng nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao
lưu kinh tế thương mại các vùng, miền trong nước cũng như với nước
ngoài. Xe cơ giới hiện nay đã trở thành phương tiện giao thông phổ biến
nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và có vị trí quan trọng trong ngành
giao thông vận tải mỗi quốc gia dựa trên một số ưu điểm như sau :
- Xe cơ giới có tính cơ động, linh hoạt cao với nhiều loại xe khác
nhau: xe tải, xe contenner, xe khách, xe con, xe máy…hoạt động trong
phạm vi rộng kể cả địa hình phức tạp, có thể vận chuyển người và hàng hoá
tới những nơi mà các loại hình vận tải khác không thể đến được.
- Tốc độ vận chuyển của loại hình vận tải này nhanh với chi phí vừa
phải. Tiền vốn đầu tư mua sắm phương tiện, xây dựng bến bãi ít tốn kiếm
hơn các hình thức khác, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước.
- Việc sử dụng các phương tiện xe cơ giới cũng đơn giản và thuận tiện
hơn các loại phương tiện khác.
1.1.2.2 Tình hình tai nạn giao thông ở Việt Nam hiện nay.
Tai nạn giao thông nói chung và tai nạn giao thông đường bộ nói
riêng đang là thách thức đối với các quốc gia trên Thế giới. Theo tổ chức Y

tế Thế giới (WHO) TNGTĐB là một trong những nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu cho con người, trung bình mỗi năm có trên dưới 10 triệu người tử
vong vì TBGTĐB và hàng chục triệu người khác bị thương tích. Cùng với
đó là những thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai táng người
chết, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông,
về hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ TNGT đó cùng với thiệt hại do
hao phí thời gian lao động của chính người bị tai nạn và cả của những
người chăm sóc người đó. Mặt khác TNGT gây nên những tác động tâm lý
cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó để lại nhũng di
chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của người
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
4
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
đó và nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra TNGT quá nhiều
sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở đó.
Bảng 1: Tình hình Tai nạn giao thông đường bộ ở Việt nam
( 2005 – 2010 )
Năm
Số vụ tai nạn
(vụ)
Số người chết
(người)
Số người bị thương
(người)
Số vụ
Lượng
tăng
(giảm)
tuyệtđối
Số

người
chết
Lượng
tăng
(giảm)
tuyệt đối
Số người
bị
thương
Lượng
tăng
(giảm)
tuyệt đối
2005 14.141 - 11.184 - 11.760 -
2006 14.161 20 12.373 1189 11.097 -663
2007 14.652 488 13.106 733 10.512 -585
2008 12.882 -1770 11.594 -1512 8.066 -2446
2009 12.492 -390 11.516 -78 7.914 -152
2010 14.442 1950 11.449 -67 10.633 2719
(Nguồn : báo cáo của uỷ ban an toàn giao thông quốc gia)
Qua số liệu thống kê từ năm 2005 đến 2010 ta có thể thấy tình hình tai
nạn giao diễn ra khá phức tạp từ năm 2005 đến 2007 số vụ tai nạn gia tăng
kéo theo số vụ tử vong cũng như bị thương tăng theo.Đến năm 2008-2009
có chiều hướng giảm số vụ tai nạn song đến năm 2010 số vụ tai nạn lai gia
tăng đột biến tăng 1950 vụ so với năm 2009 tăng số vụ người bị thương lên
2719 vụ so với năm 2009.Trung bình mỗi năm số vụ tai nạn ước tính gần
14000 vụ, số người bị chết khoảng 12000 người. Đây là con số đáng báo
động là bài toán nan giải, là vấn nạn đối với toàn xã hội.
1.1.3.Vai trò của Bảo hiểm xe cơ giới.
- Bảo hiểm xe cơ giới góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả

khi rủi ro xảy ra cho người tham gia bảo hiểm
Hoạt động của xe cơ giới là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều nguy hiểm,
tai nạn rất dễ xảy ra. Khi rủi ro hay tai nạn bất ngờ xảy ra đều gây ra những
thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập cũng như đời sống, sản xuất
kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, thậm chí gây
thiệt hại đến cả tính mạng. Hoạt động bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả
của rủi ro, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh. Từ đó họ khôi phục và
phát triển sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình
thường.
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
5
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
- Bảo hiểm xe cơ giới góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho
cuộc sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo
cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Vai trò của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng
không chỉ dừng lại ở việc bồi thường tổn thất, khắc phục hậu quả tai nạn
mà còn thể hiện trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất, giảm thiểu tai nạn
giao thông. Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ
cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn
thất xảy ra.
- Bảo hiểm xe cơ giới góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà
nước.
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan công
ty bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm
cho người tham gia để họ khôi phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như
vậy ngân sách Nhà nước không phải chi trả để trợ cấp cho các thành viên,
các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất có tính
thảm họa, mang tính xã hội rộng lớn.
- Góp phần huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm
bảo an toàn ( cho cá nhân, doanh nghiệp ) mà còn đáp ứng về vốn không
ngừng tăng lên của quá trình tái sản xuất mở rộng, đặc biệt trong nền kinh
tế thị trường. Với việc thu phí theo “nguyên tắc ứng trước”, các công ty bảo
hiểm chiếm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện lờ cam kết của họ với
khách hàng nhưng tạm thời nhàn rỗi.Do vậy các công ty bảo hiểm đã trở
thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng cho các hoạt động kinh tế khác
trong nền kinh tế quốc dân.
Bảo hiểm còn đóng vai trò làm trung gian tài chính, nắm giữ phần
quan trọng trong các công ty công nghiệp và thương mại lớn.Với vai trò
này bảo hiểm phát huy tác dụng hết sức đặc biệt trong nền kinh tế thị
trường đó là: bảo hiểm là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với nười thứ ba trước
hết nhằm mục đích nhân đạo – bảo vệ người dân: nếu không may xảy ra tai
nạn giao thông họ được bồi thường thiệt hại. Lợi ích đối với chủ xe: nếu
không may xảy ra tai nạn , doanh nghiệp bảo hiểm thay thế họ bồi thường
cho người bị nạn khi chủ xe yêu cầu hoặc nếu họ đã bồi thường cho người
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
6
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
bị nạn thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hoàn trả cho ho số tiền họ đã bồi
thường.
1.2. Nội dung cơ bản về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm.
Là loại hình bảo hiểm tài sản, bảo hiểm vật chất xe cơ giới có đối
tượng bảo hiểm là chính những chiếc xe cơ giới còn giá trị, tham gia lưu
thông trên đường bộ, thường được chia làm 4 loại chính gồm: các loại
môtô; xe gắn máy; xe ôtô và xe chuyên dụng khác. Nhìn chung, đối tượng
bảo hiểm vật chất xe cơ giới mang những tiêu thức như: xe cơ giới phải

được gắn động cơ, di chuyển được trên đất liền không cần đến đường dẫn
và phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều khiển. Tuy nhiên, xe cơ
giới để có thể coi là một đối tượng bảo hiểm thì phải đáp ứng những điều
kiện sau:
- Phải có giá trị sử dụng,
- Xác định được giá trị bằng tiền tệ,
- Đảm bảo an toàn về mặt kỹ thuật và môi trường, phải được lưu hành
hợp pháp (tức là được cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký xe, giấy phép,
chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành
xe).
Về mặt kỹ thuật, xe cơ giới được cấu thành từ nhiều bộ phận khác
nhau tùy vào từng loại xe nhưng về cơ bản đuợc chia thành các bộ phận
sau: khối động cơ và hệ thống nhiên liệu, điện, hệ thống truyền lực; hệ
thống lái; hệ thống phanh và hộp số và bộ phận thân vỏ. Riêng trong bảo
hiểm vật chất xe cơ giới, người ta phân xe ô tô thành 7 tổng thành chủ yếu:
- Tổng thành động cơ
- Tổng thành hộp số
- Tổng thành thân vỏ
- Tổng thành hệ thống lái
- Tổng thành trục trước
- Tổng thành cầu sau, cầu chủ động
- Tổng thành lốp
Trên cơ sở phân chia đó, nhà bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ xe
hoặc bảo hiểm cho từng bộ phận xe. Trong đó, bảo hiểm toàn bộ xe có đối
tượng được bảo hiểm là toàn bộ chiếc xe cơ giới với đầy đủ các bộ phận
tổng thành của xe; còn bảo hiểm bộ phận xe có đối tượng được bảo hiểm
chỉ là một hay một số các tổng thành của xe. Trên thực tế, trong số các tổng
thành của xe thì tổng thành thân vỏ chiếm tỷ trọng giá trị lớn và thường hay
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
7

Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
chịu tổn thất nhiều nhất khi tai nạn xảy ra. Do đó, hiện nay các công ty bảo
hiểm thường chỉ bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc bảo hiểm cho bộ phận là
tổng thành thân vỏ. Đối với các loại xe mô tô, chỉ có hình thức bảo hiểm
toàn bộ vật chất xe dành cho người tham gia bảo hiểm.
1.2.2.Phạm vi bảo hiểm
Rủi ro được bảo hiểm thông thường:
+ Đâm va, lật đổ;
+ Hỏa hoạn, cháy nổ;
+ Những tai nạn bất khả kháng do thiên nhiên: bão, lũ lụt, sụt lở, sét
đánh, động đất, mưa gió.
+ Mất toàn bộ xe trong trường hợp: xe bị trộm cắp, bị cướp.
+ Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc bồi thường tổn thất về vật chất cho xe cơ giới được bảo
hiểm do những rủi ro trên gây ra, công ty bảo hiểm còn chịu trách nhiệm
thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những phí tổn hợp lý và cần thiết
phát sinh nhằm: ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm đối với xe bị
tai nạn; chi phí bảo vệ và đưa xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất,
giám định thiệt hại nếu tổn thất phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm
(bao gồm cả những phí tổn) đối với một sự kiện bảo hiểm không vượt quá
số tiền bảo hiểm (hay mức trách nhiệm bảo hiểm) ghi trên đơn hoặc giấy
chứng nhận bảo hiểm.
Rủi ro loại trừ ( rủi ro không được bảo hiểm ):
- Hư hỏng do khuyết tật, mất giá, giảm chất lượng hoặc hư hỏng thêm
do sửa chữa; hao mòn và hư hỏng tự nhiên phát sinh từ việc hoạt động bình
thường của xe cơ giới thường được tính dưới hình thức khấu hao theo thời
gian.
- Hư hỏng về điện hoặc các thiết bị, bộ phận máy móc mà không phải
do những rủi ro được bảo hiểm gây ra. Cụ thể, đây là những hư hỏng mang

tính chất ẩn tỳ của bộ phận thiết bị từ đó gây hư hỏng trực tiếp tới toàn bộ
hệ thống máy móc của xe thì không được bảo hiểm bồi thường, nhưng do
những hư hỏng đó mà xe bị tai nạn gây hư hỏng đến các bộ phận khác của
xe thì vẫn thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Riêng tổn thất về săm lốp, đề can
xe chỉ được nhà bảo hiểm bồi thường trong trường hợp tổn thất này xảy ra
do cùng nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng
vụ tai nạn.
- Mất cắp bộ phận xe.
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
8
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
Để tránh nguy cơ trục lợi bảo hiểm, hành vi vi phạm pháp luật, đảm
bảo đúng nguyên tắc trong bảo hiểm, những thiệt hại, tổn thất xảy ro do
một số nguyên nhân sau cũng không thuộc trách nhiệm bảo hiểm:
- Hành động cố ý gây thiệt hại;
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và tiêu chuẩn an toàn để lưu hành
theo luật định;
- Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng các quy định về an toàn giao
thông như: lái xe không có giấy phép hoặc giấy phép lái xe không hợp lệ;
lái xe bị ảnh hưởng bởi rượu bia, các chất kích thích gây nghiện trong quá
trình điều khiển phương tiện; xe không có giấy phép lưu hành; xe chở các
chất cháy nổ trái phép; xe đi vào đường cấm, chở quá trọng tải, chạy thử,
tập lái hay sử dụng để đua xe, những thiệt hại do chiến tranh.
Cũng cần lưu ý trong thời hạn bảo hiểm nếu chủ xe chuyển quyền sở
hữu cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn có hiệu lực đối với
chủ xe mới. Tuy nhiên nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm
cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục
bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ yêu cầu
1.2.3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
1.2.3.1 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm

Xe cơ giới là một loại tài sản được bảo hiểm nên giá trị bảo hiểm xác
định bởi giá trị thực tế của xe trên thị trường tại thời điểm tham gia bảo
hiểm hay ký kết hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm được coi là cơ sở để
xác định số tiền bảo hiểm, làm căn cứ áp dụng các hình thức bảo hiểm theo
mức giá trị bảo hiểm khác nhau (như: bảo hiểm dưới giá trị, ngang giá trị,
trên giá trị) và để chi trả bồi thường thiệt hại thực tế cho chủ xe khi có sự
kiện bảo hiểm. Trên thực tế, giá trị của mỗi loại xe trên thị trường khác
nhau và giá cả xe cũng luôn biến động nên thông thường các công ty bảo
hiểm dựa vào yếu tố: loại xe, tuổi của xe, thời gian sử dụng xe,thể tích làm
việc của xilanh… để xác định giá trị xe tham gia bảo hiểm.
Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm các công ty bảo hiểm
thường hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức độ khấu
hao.Cụ thể:
Giá trị bảo hiểm = Giá trị mới – Khấu hao sử dụng (nếu có).
Để đánh giá chính xác giá trị bảo hiểm cần phải kiểm tra xe trước khi
nhận bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế của xe tham giá bảo hiểm.
Đối với những xe mới bắt đàu di vào hoạt động việc xác định giá trị
ban đầu của xe không quá khó, có thể căn cứ vào các giấy tờ hóa đơn mua
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
9
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
bán xe, hóa đơn thuế trước bạ để xác định giá trị xe.Đối với các loại xe đã
qua sử dụng việc đánh giá đòi hỏi nhiều công đoạn phức tạp để đánh giá về
giá trị ban đầu và tình trạng khấu hao cung như tình trạng kỹ thuật và hình
thức bên ngoài của xe.Trên cơ sở đó công ty bảo hiểm và chủ xe sẽ thảo
luận và đi đến kết luận về giá trị bảo hiểm, đòng thời chủ xe có thể quyết
định tham gia tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hay ngang
giá trị thực tế của xe. Việc quyết định số tiền bảo hiểm sẽ là cơ sở để xác
định số tiền bồi thường khi có tổn thất xảy ra.
Số tiền bảo hiểm là một khoản tiền nhất định được ghi trong đơn bảo

hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của
người bảo hiểm trong việc bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm. Như vậy,
khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho toàn bộ xe hoặc bộ phận của
xe tức là chủ xe đã mua bảo hiểm cho toàn bộ hay một phần giá trị của
chiếc xe và phần giá trị được bảo hiểm đó được coi là số tiền bảo hiểm (tức
là mức trách nhiệm bồi thường cao nhất của công ty bảo hiểm cho những
thiệt hại đối với xe tham gia bảo hiểm mỗi vụ tai nạn).
Cũng như các loại hình bảo hiểm tài sản khác, trong nhiều trường hợp
chủ xe có thể tham gia với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm (bao
gồm cả trường hợp tham gia bảo hiểm cho bộ phận xe) hoặc tham gia với
số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm tùy thuộc vào khả năng tài chính và
mục đích sử dụng. Theo nguyên tắc bảo hiểm thì số tiền bảo hiểm không
vượt quá giá trị bảo hiểm, tuy nhiên trường hợp chủ xe tham gia với số tiền
bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm theo điều khoản “giá trị thay thế mới” thì
vẫn được chấp nhận.
1.2.3.2.Phí bảo hiểm và các nhân tố ảnh hưởng
Mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác
định bằng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân với số tiền bảo hiểm.
Tỷ lệ phí cơ bản thường áp dụng cho thời hạn một năm hợp đồng,
cùng với tỷ lệ phí cơ bản đó là quy định về tỷ lệ giảm phí đối với những
hợp đồng có thời hạn dưới một năm.
Nhìn chung tỷ lệ phí bảo hiểm cũng được định lượng dựa trên phương
pháp thống kê, kết quả tính toán về tần suất xảy ra tổn thất và chi phí trung
bình/1 tổn thất và định mức chi phí quản lý của người bảo hiểm.
P= Sb x R
Trong đó: Sb:Số tiền bảo hiểm
R: Tỷ lệ phí bảo hiểm
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
10
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp

Tỷ lệ phí ở công thức này do Bộ Tài Chính quy định và nó phụ thuộc
vào các yếu tố sau:
- Xác suất thống kê những vụ tai nạn giao thông xảy ra
- Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông xảy ra
- Thời hạn bảo hiểm (ngắn hạn hoặc dài hạn)
Như vậy phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe
cũng có thể được tính theo công thức sau:
P= f + d
Trong đó: P: Phí thu đầu mỗi xe
f : phí bồi thường
d: phụ phí
Cơ sở xác định phí bảo hiểm chủ yếu dựa trên các yếu tố sau:
Một là, những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử
dụng xe:
- Loại xe: Mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật, mức độ an toàn
khác nhau nên phí bảo hiểm vì thế cũng khác nhau.
- Mục đích sử dụng xe: Xe lăn bánh trên đường càng nhiều thì mức
độ rủi ro tai nạn càng lớn.
- Phạm vi địa bàn hoạt động: xe hoạt động trên những địa bàn có
mức độ phức tạp, nguy hiểm cao nên xác suất gặp rủi ro lớn vì thế mức phí
bảo hiểm cho những loại xe này phải cao hơn các xe khác.
- Thời gian xe đã qua sử dụng, giá trị xe: vì xe sử dụng càng lâu, mức
độ hao mòn càng nhiều nên tính an toàn càng thấp, khả năng gặp rủi ro lớn.
Hai là, những yếu tố liên quan đến người được bảo hiểm, người
điều khiển xe.
- Giới tính,Tuổi tác của người lái xe.
- Kinh nghiệm của người lái xe: Theo số liệu thống kê những lái xe trẻ
tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với lái xe lớn tuổi, đặc biệt tình trạng tai nạn
trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng xe cơ giới ngày một tăng.
- Tiền sử của lái xe: cho biết các hành vi vi phạm an toàn giao thông,

mức độ liên quan đến các vụ tai nạn giao thông phát sinh…
- Quá trình tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm.
Ba là,việc tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào giới hạn phạm vi bảo
hiểm và có sự phân biệt giữa bảo hiểm lẻ và bảo hiểm cả đội xe.
Cơ chế thưởng bằng việc giảm phí cũng được áp dụng như một biện
pháp giữ khách hàng. Ở Việt nam hiện nay, tỷ lệ phí bảo hiểm của các công
ty bảo hiểm nhìn chung đều có sự phân biệt giữa ôtô và môtô, giữa bảo
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
11
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
hiểm toàn bộ và và bộ phận xe. Tỷ lệ phí cũng được điều chỉnh cho những
trường hợp mở rộng phạm vi bảo hiểm; trường hợp áp dụng mức miễn
thường tăng lên và theo số năm xe đã qua sử dụng.
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt
động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày
hoạt động đó theo công thức sau:
Phí bảo
hiểm
=
Mức phí cả
năm
x Số tháng xe đã hoạt động trong năm
12
Hoàn phí bảo hiểm: Đó là trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả
năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào
đó. Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí
bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại
được tính như sau:
Phí
hoàn lại

=
Phí cả
năm
x Số tháng không hoạt động
12
Tùy theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí
khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%.
1.2.4.Giám định tổn thất và bồi thường thiệt hại
1.2.4.1.Giám định tổn thất
Nguyên tắc giám định :
+ Việc giám định phải tiến hành sớm nhất sau khi nhận được thông tin
tai nạn (quy định chung là 5 ngày). Nếu không tiến hành giám định sớm
được thì lý do của việc chậm trễ phải được đề cập trong biên bản giám
định.
+ Mọi thiệt hại về vật chất xe thuộc trách nhiệm bảo hiểm đều phải
được tiến hành giám định trực tiếp bởi công ty bảo hiểm hoặc người được
công ty bảo hiểm ủy quyền với sự có mặt của chủ xe, người có nghĩa vụ,
quyền lợi liên quan hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên
nhân và mức độ thiệt hại.
+ Khi chủ xe không thống nhất được nguyên nhân và mức độ tổn thất
do giám định viên của công ty xác định thì hai bên thoả thuận chọn giám
định viên độc lập, phí giám định do doanh nghiệp bảo hiểm trả nếu kết luận
giám định của hai bên không trùng nhau, nếu kết luận giám định trùng nhau
thì chủ xe phải trả phí.
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
12
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
+ Công tác giám định của công ty bảo hiểm phải độc lập với các cơ
quan chức năng khác và không được tiết lộ nội dung giám định. Trong
trường hợp đặc biệt không thể thực hiện được việc giám định, thì doanh

nghiệp bảo hiểm được căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan
chức năng có thẩm quyền và các tài liệu liên quan do chủ xe có trách nhiệm
cung cấp để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại.
Quy trình giám định:
Bước1: Tiếp nhận và xử lý thông tin về tai nạn:
Yêu cầu khi tiếp nhận thông tin tai nạn cần phải nắm được:
- Tình hình tai nạn: số xe, chủ xe, thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn,
sơ bộ thiệt hại…
- Việc tham gia bảo hiểm: thời hạn bảo hiểm, nơi cấp giấy chứng
nhận bảo hiểm (hoặc đơn bảo hiểm), phạm vi tham gia bảo hiểm.
- Giải quyết bước đầu của chủ xe và các cơ quan chức năng.
Sau khi tiếp nhận thông tin tùy theo tình hình yêu cầu hướng dẫn
bước đầu cho chủ xe thu thập các giấy tờ cần thiết chuẩn bị cho công tác
giám định cũng như giải quyét bồi thường sau này đồng thời tiến hành
những công việc cần thiết để hạn chế tổn thất phát sinh, bảo vệ hiện trường
xe bị tai nạn, nếu cần phải khai báo cơ quan chức năng để giải quyết tai nạn
đúng luật. Thống nhất với lái xe, chủ xe về thời gian, địa điểm giám định.
Chuẩn bị những yếu tố cần thiết về con người, trang thiết bị, phương tiện
để tiến hành giám định.
Bước 2: Giám định tổn thất.
Giám định tổn thất là quá trình giám định những thiệt hại trong vụ tai
nạn. Việc giám định này chia làm 2 giai đoạn đó là giám định sơ bộ tổn thất
ban đầu và giám định chi tiết.
Ngay sau khi xảy ra tai nạn đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ
cùng với chủ phương tiện ( hoặc người đại diện) tiến hành giám định ban
đầu để xác định sơ bộ thiệt hại.
Việc giám định chi tiết của xe sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm và chủ
xe thực hiện trước khi tiến hành sửa chữa xe.Sau khi đã xác định được một
cách chi tiết những thiệt hại xảy ra hai bên xây dựng phương án sửa
chữa.Doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe sẽ thống nhất lựa chọn nơi sửa

chữa với chi phí hợp lý và đảm bảo chất lượng.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp
của giấy tờ, hồ sơ liên quan đến chiếc xe bị tai nạn. Trong quá trình giám
định nhất thiết phải có mặt của cả hai bên doanh nghiệp bảo hiểm và người
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
13
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
được bảo hiểm.Nhân viên giám định bảo hiểm chụp ảnh hiện trường nơi
xảy ra tai nạn đồng thời phối hợp với công an để thu thập tư liệu, sau đó lập
biên bản giám định.
1.2.4.2.Bồi thường bảo hiểm.
Quy trình bồi thường:
Bước 1: Kiểm tra bộ hồ sơ khiếu nại bồi thường
Sau khi tiếp nhận được hồ sơ từ khách hàng, căn cứ vào quy tắc bảo
hiểm và hợp đồng bảo hiểm gốc, yêu cầu giám định viên và chủ xe cung
cấp thêm nếu chưa đầy đủ.
Một bộ hồ sơ bồi thường hoàn chỉnh thường bao gồm những giấy tờ
sau:
- Thông báo tai nạn và công văn yêu cầu bồi thường của chủ xe (theo
đơn có sẵn của công ty bảo hiểm).
- Giấy tờ xe (bản photo có giám định viên ký xác nhận) bao gồm:
Giấy chứng nhận bảo hiểm; Đăng ký xe hoặc giấy tờ liên quan đến quyền
sở hữu xe; giấy phép lưu hành hoặc giấy phép sử dụng xe; Bằng lái xe.
- Bản sao hồ sơ vụ tai nạn giao thông gồm có: Biên bản khám
nghiệm hiện trường; Biên bản khám nghiệm xe; Sơ đồ hiện trường và các
giấy tờ liên quan đến việc điều tra nguyên nhân tai nạn; Biên bản hoặc
thông báo giải quyết tai nạn giao thông; Bản trưng cầu kết luận điều tra tai
nạn giao thông khi cần thiết; Biên bản hòa giải dân sự và kết luận cả tòa án
(nếu có).
- Các chứng từ liên quan đến xác định thiệt hại: Hóa đơn, chứng từ

liên quan đến sửa chữa thiệt hại; Hóa đơn xuất kho; Các biên bản đánh giá,
xác định thiệt hại;
- Các chứng từ khác nếu cần.
Bước 2: Cơ sở để tính toán thiệt hại
- Căn cứ vào thiệt hại thực tế và chi phí sửa chữa hợp lý mà 2 bên đã
thỏa thuận trong khi thực hiện phương án giám định chi tiết để thống nhất
các điều kiện sửa chữa cho chiếc xe bị tai nạn.
- Căn cứ vào các khoản chi phí khác được chấp nhận bồi thường như
chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí cẩu, kéo xe từ nơi bị tai nạn tới
nơi sửa chữa.
- Căn cứ vào cách thức tham gia bảo hiểm của chủ xe
- Căn cứ vào các khoản đòi bồi thường từ người thứ ba gây nên tai
nạn.
Bước 3:Trình tự và cách thức tính toán bồi thường
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
14
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
Một là: Xác định giá trị thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm hợp đồng
bảo hiểm. Thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm được tính
theo công thức sau:
Thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm bảo hiểm = Tổng chi phí sửa chữa
hợp lý đã thống nhất + Các khoản chi phí được chấp nhận bồi thường khác
– Chi phí sửa chữa thiệt hại không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
Hai là:Tính toán số tiền bồi thường
Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ ( đúng giá trị thực tế) thì số
tiền bội thường bằng giá trị thiệt hại thực tế
Nếu xe tham gia bảo hiểm bộ phận thì số tiền bồi thường được căn cứ
theo giá trị thiệt hại của bộ phận được bảo hiểm
Nếu xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị thì số tiền bồi thường được xác
định:

Số tiền bồi
thường
=
Giá trị thiệt hại thực tế thuộc
trách nhiệm của bảo hiểm
x Số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Trên thực tế việc giải quyết bồi thường có thể áp dụng theo 3 cách sau:
- Bồi thường trên cơ sở chi phí sửa chữa, khôi phục lại xe
- Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại
- Bồi thường toàn bộ sau đó thu hồi và xử lý xe
Việc lựa chọn cách thức bồi thường luôn phải đảm bảo tính thống
nhất giữa doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe để lựa chọn phương án kinh tế
cho cả hai bên
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình triển khai bảo hiểm
1.3.1 Các chỉ tiêu trong khâu khai thác
- Các chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch khai thác
+ Chỉ số nhiệm vụ kế hoạch ( i
NK
)
y
k
i
NK
=
y
o
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
15
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp

+ Chỉ số hoàn thành kế hoạch ( i
HK
)
y
1
i
HK
=
y
k
+ Chỉ số thực hiện ( i )
y
1
i =
y
o
Trong đó: y
1,
y
o,
y
k
là mức độ khai thác kỳ báo cáo, kỳ gốc và kỳ kế
hoạch. Các mức độ trên (y
1,
y
o,
y
k
)có thể là: số hợp dồng, số giấy chứng

nhận bảo hiểm, doanh thu phí bảo hiểm.
- Các chỉ tiêu phân tích cơ cấu khai thác: Tổng số hợp đồng bảo hiểm
và doanh thu phí bảo hiểm.
- Các chỉ tiêu phân tích tính mùa vụ trong khâu khai thác bảo hiểm:
X
i
k
i
=
X
Trong đó: k
i
: Chỉ số thời vụ tháng thứ i
X
i
: Mức độ khai thác tháng thứ i
X : Mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm
+ Chỉ số thời vụ theo tháng (k
i
) phản ánh mối quan hệ giữa mức độ
khai thác trong từng tháng với mức độ khai thác bình quân một tháng trong
năm.
1.3.2 Các chỉ tiêu trong phân tích tình hình đề phòng hạn chế tổn
thất.
- Tỷ lệ chi đề phòng
hạn chế tổn thất trong
kỳ
=
Số tiền chi đề phòng hạn chế tổn
thất trong kỳ

x 100
Doanh thu phí trong kỳ
- Tỷ lệ chi đề phòng
hạn chế tổn thất
bình quân một vụ
=
Số tiền chi đề phòng hạn chế
tổn thất trong kỳ
x 100
Tổng số vụ tổn thất trong kỳ
- Tỷ lệ chi đề phòng
hạn chế tổn thất so
với số tiền chi bồi
thường trong kỳ
=
Số tiền chi đề phòng hạn chế
tổn thất trong kỳ
x 100
Tổng số tiền chi bồi thường
trong kỳ
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
16
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
1.3.3 Các chỉ tiêu trong khâu giám định và bồi thường tổn thất
- Số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ.
- Số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ
- Số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết bồi thường trong kỳ
- Tỷ lệ giải quyết
bồi thường
=

Số vụ khiếu nại đã được giải
quyết bồi thường trong kỳ
x 100
Số vụ khiếu nại đòi giải quyết
bồi thường trong kỳ
- Tỷ lệ tồn đọng =
Số vụ khiếu nại còn tồn đọng
chưa giải quyết bồi thường
trong kỳ
x 100
Số vụ khiếu nại đòi giải quyết
bồi thường trong kỳ
- Số tiền bồi thường thực tế trong kỳ.
- Tỷ lệ chi
bồi thường
=
Số tiền chi bồi thường thực tế
trong kỳ
x 100
Tổng chi trong kỳ
Tỷ lệ bồi thường
trong kỳ
=
Tổng số tiền chi bồi thường
trong kỳ
x 100
Tổng doanh thu phí bảo hiểm
trong kỳ
Tỷ lệ tổn thất
trong kỳ

=
Tổng số tiền bị tổn thất trong kỳ
thuộc phạm vi bảo hiểm
x 100
Tổng số tiền bảo hiểm trong kỳ
- Thời gian xử lý ban đầu: Là khoảng thời gian kể từ khi DNBH nhận
được thông báo tổn thất đến khi có phản hồi ban đầu với khách hàng. Chỉ
tiêu này phản ánh mức độ nhanh nhạy của doanh nghiệp bảo hiểm trong
việc thực hiện những phương hướng, hành động xử lý khi nhận được thông
báo tổn thất.
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
17
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
- Thời gian giải quyết bồi thường: Là khoảng thời gian kể từ khi
DNBH nhận dược thông báo tổn thất của khách hàng đến khi khách hàng
nhận được thông báo bồi thường ( hoặc từ chối bồi thường) của doanh
nghiệp bảo hiểm.
- Số vụ khiếu nại bồi thường sai sót trong kỳ: Chỉ tiêu này do cơ quan
kiểm tra kiểm soát phát hiện và xác định.Những sai sót chủ yếu mà cán bộ
bồi thường hay mắc phải dẫn đến tình trạng bồi thường sai, không đúng
nguyên tắc dẫn đến tình trạng bồi thường sai, không đúng nguyên tắc: bồi
thường khi chưa thu thập đủ tài liệu, chứng từ; bồi thường vượt quá số tiền
bảo hiểm; bồi thường khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ bảo hiểm…
- Tỷ lệ bồi thường
sai sót trong kỳ
= Số vụ bồi thường sai sót trong kỳ
Số vụ khiếu nại đã được
giải quyết bồi thường trong kỳ
- Số tiền bị thất thoát do bồi thường sai sót trong kỳ
- Tỷ lệ số tiền

bồi thường bị
thất thoát
=
Số tiền bị thất thóat do bồi
thường sai sót trong kỳ
x 100
Tổng số tiền đã giải quyết bồi
thường trong kỳ
1.4.Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình hình triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.4.1 Một số yếu tố chủ quan
- Mặt thuận lợi:
+ Vấn đề marketing trong kinh doanh bảo hiểm: đối với doanh nghiệp
bảo hiểm marketing là công cụ quan trọng nhất giúp hoạch định chiến lược
phát triển kinh doanh, chiến lược thị trường và chiến lược cạnh tranh.Với
hệ thống chính sách hiệu quả marketing không chỉ giúp cho các nhà sản
xuất kinh doanh lựa chọn đúng đắn phương án đầu tư, tận dụng triệt để thời
cơ kinh doanh mà còn giúp xây dựng chiến lược cạnh tranh và sử dụng các
vũ khí cạnh tranh có hiệu quả nhất, nhằm nâng cao uy tín, chinh phục
khách hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh thị trường.
- Dịch vụ chăm sóc khách hàng của các công ty bảo hiểm mà chu đáo
thì sẽ chiếm lĩnh được niềm tin của khách hàng và làm tăng uy tín cho công
ty. Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới mang tính tự nguyện vì vậy dịch
vụ chăm sóc khách hàng cần phải được ưu tiên lên trên hết đảm bảo uy tín
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
18
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
trách nhiệm của mình đối với khách hàng đây cũng là phương pháp khai
thác thị trường hiệu quả.
- Mạng lưới các đại lý, các địa điểm bán lẻ và các kênh phân phối về

bảo hiểm vật chất xe cơ giới sẽ góp phần làm tăng hiệu quả của công tác
khai thác và tăng doanh thu cho doanh nghiệp bảo hiểm.
- Mặt khó khăn:
+ Năng lực, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
của nhân viên bảo hiểm: Ở Việt Nam hiện nay số lượng nhân viên có
chuyên môn nghiệp vụ cao còn ít, đặc biệt còn thiếu các chuyên viên giám
định và bồi thường. Do vậy khi gặp những vụ có mức độ rủi ro lớn hầu hết
các công ty bảo hiểm trong nước đều phải thuê giám định vừa tốn kém chi
phí cho công ty cũng như mất thời gian của khách hàng.
+ Mạng lưới đại lý bảo hiểm, các địa điểm bán lẻ về bảo hiểm vật chất
xe cơ giới lớn song đa phần không có chuyên môn nghiệp vụ do vậy khi
khai thác sẽ gặp nhiều khó khăn đặc biệt đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật
chất xe cơ giới mang tính tự nguyện của khách hàng là chính.
1.4.2 Một số yếu tố khách quan
- Mặt thuận lợi:
+ Các quy định của nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm chi
phối không nhỏ tới tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ
giới của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các quy định của pháp lý nhằm quản
lý và định hướng cho hoạt động triển khai bảo hiểm vào năm 2011 như quy
định về đấu thầu bảo hiểm, quy định về tiêu chuẩn và đào tạo cán bộ bảo
hiểm, môi giới bảo hiểm, xử lý trục lợi bảo hiểm, xây dựng cơ sở dữ liệu
bảo hiểm xe cơ giới…làm hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
+ Số lượng phương tiện tham gia giao thông trên cả nước ngày càng
gia tăng tạo điều kiện thuận lợi phát triển nghiệp vụu bảo hiểm này.
+ Tính cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm cũng thúc đẩy các doanh
nghiệp bảo hiểm phát triển. Do phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển
chính vì vậy các doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn thiện sản phẩm, nâng
cao chất lượng dịch vụ nhằm thu hút khách hàng về phía mình qua đó nâng

cao được uy tín của mình trên thị trường.
- Khó khăn:
+ Sự biến động của nền kinh tế trong nước và trên thế giới: điều này
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp bảo
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
19
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
hiểm,năm 2010, lạm phát của Việt Nam là 11,5%, tăng trưởng của các
DNBH phi nhân thọ là gần 25%. Với dự báo lạm phát năm 2011 tối thiểu là
15,5%, tăng trưởng của các DNBHPNT chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng khá lớn.
đặc biệt đối với bảo hiểm vạt chất xe cơ giới mang tính tự nguyện tham gia
bảo hiểm của khách hàng.
+ Các biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát cũng ảnh hưởng không nhỏ
tới doanh thu của nghiệp vụ này, ví dụ như biện pháp thắt chặt tín dụng,
kiềm chế tăng trưởng tính dụng dưới mức 20%. Tính tới thời điểm hiện tại,
lãi suất cho vay đang trở thành gánh nặng cho nhiều DN cũng như các cá
nhân. Lãi suất tăng cao lên hơn 20%/năm khiến các DN phải gác lại kế
hoạch mở rộng sản xuất. Nhiều DN thừa nhận, với tình hình chi phí vốn đắt
đỏ, chỉ có nước "có gì làm nấy", thu gọn hoạt động kinh doanh. Và như
vậy, các DN và người dân sẽ có xu hướng cắt giảm các khoản chi chưa cấp
thiết, trong đó có khoản chi cho bảo hiểm vì đối với nhiều DN, đây là
khoản chi chưa thấy ngay được lợi ích. Thêm vào đó, khi lạm phát có xu
hướng tăng lên, giá trị quyền lợi bảo hiểm sẽ có xu hướng giảm, ảnh hưởng
nhất định tới tâm lý của khách hàng mua bảo hiểm theo hướng giảm nhu
cầu mua.
+ Nhận thức của người dân về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới:
Nhìn chung nhận thức của người dân về bảo hiểm chưa cao, yếu tố này ảnh
hưởng lớn đến công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Vì nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới mang tính tự nguyện nhận thức
của người dân về bảo hiểm cũng như về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ

giới tăng cao thì số lượng khách hàng tiềm năng sẽ tăng, nâng cao doanh
thu của doanh nghiệp và ngược lại.
+ Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và
nước ngoài trên thị trường bảo hiểm tác động tới không nhỏ đến kết quả
triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này trên thị trường. Đặc biệt trong năm 2011
các công ty bảo hiểm đã chuyển hướng cạnh tranh từ chiều rộng sang chiều
sâu, tình hình cạnh tranh không lành mạnh như hạ phí bảo hiểm, mở rộng
điều khoản, điều kiện bảo hiểm không tương xứng với rủi ro, chấp nhận
bảo hiểm đã hạ nhiệt hơn thay vào đó là mở rộng khai thác bán lẻ, mở rộng
dịch vụ chăm sóc khách hàng.Ngoài ra theo thống kê của hiệp hội bảo hiểm
năm 2011 có 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ do vậy công tác triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm này cũng gặp không ít khó khăn do phải cạnh
tranh với nhiều công ty bảo hiểm lớn chính vì vậy phải có phương án tối ưu
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
20
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
nhằm triển khai nghiệp có hiệu quả đặc biệt đối với công ty bảo hiểm mới
ra đời như Thái Sơn
Chương 2: Thực trạng hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn.
2.1 Giới thiệu chung về công ty cổ phần Bảo hiểm Thái Sơn.
2.1.1 Lịch sử hình thành, phát triển; chức năng, nhiệm vụ và cơ
cấu tổ chức bộ máy của công ty cổ phần Bảo hiểm Thái Sơn.
2.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty cổ phần Bảo hiểm Thái Sơn ( GREAT MOUNTAIN JOINT
STOCK INSURANCE CORPORATION ). Tên giao dịch:BẢO HIỂM
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
21
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
THÁI SƠN / Tên viết tắt: GMIC. Công ty cổ phần bảo hiểm Thái Sơn

chính thức được cấp phép hoạt động vào năm 2008. Trụ sở công ty: Tầng
18, tháp CEO, đường Phạm Hùng, Từ Liêm, Hà Nội. Hình thức pháp lý:
Công ty cổ phần bảo hiểm.Thời gian hoạt động: 99 năm.Công ty bắt đầu
hoạt động với số vốn điều lệ là 300.000.000.000 đồng (ba trăm tỷ đồng),
tổng Giám đốc: Ông Nguyễn Văn Dũng.
Được thành lập bởi cổ đông là những tập đoàn kinh tế mạnh, với đội
ngũ lãnh đạo dày dặn kinh nghiệm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, Bảo
hiểm Thái Sơn – GMIC đã nhanh chóng tổ chức phát triển mạng lưới và
triển khai hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Hà Nội và các tỉnh thành trên
cả nước.
Công ty đã xây dựng được một đội ngũ gần 300 cán bộ nhân viên làm
việc tại 09 Phòng ban Công ty, 5 phòng bảo hiểm khu vực tại Hà Nội; 18
chi nhánh; 18 phòng bảo hiểm đại diện tại các tỉnh và thành phố với hàng
nghìn đại lý, tổng đại lý, cộng tác viên bảo hiểm trong toàn quốc. Bên cạnh
đó, GMIC cũng đầu tư và xây dựng hệ thống phần mềm quản lý chất lượng
ISO 9001 hiện đại nhằm nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp và đem
dịch vụ tối ưu nhất đến với khách hàng.
Nhiều công trình, dịch vụ lớn có tầm vóc quốc gia đã được bảo hiểm
tại GMIC như : Công trình nâng cấp tuyến đê La Giang- Hà Tĩnh ,Công
trình khu tái định cư xã Kỳ Thịnh, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ; Dự án
phòng chống lụt bão đường cứu hộ, cứu nạn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam; Dự án cải tạo nâng cấp đường tại các huyện Hữu Lũng, Bắc Sơn, tỉnh
Lạng Sơn; Dự án nạo vét lòng thoát lũ dẫn tuyến sông Hoàng Long, tỉnh
Ninh Bình; Dự án đường dây 500KV Sơn La- Hiệp Hòa; Bảo hiểm cho các
tòa nhà cao tầng, văn phòng tại Hà Nội như Tháp CEO,.....Công ty Cổ phần
Bảo hiểm Thái Sơn - GMIC luôn hướng tới sứ mệnh cung cấp dịch vụ bảo
hiểm đồng bộ, đa dạng và tiện ích nhất với phương trâm “ Hơn cả sự cam
kết”.
2.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy
Chức năng: Bảo hiểm rủi ro trong các lĩnh vực như : hàng hải, tài sản

- kỹ thuật, xe cơ giới, con người… Kinh doanh Bảo hiểm, tái Bảo Hiểm phi
nhân thọ và đầu tư tài chính.
- Đối với nền kinh tế là một kênh thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội để đầu tư trở lại nền kinh tế, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Đối với xã hội là tấm lá chắn vững chắc cho nền kinh tế trước những
rủi ro bất ngờ
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
22

Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy công ty CP Bảo hiểm Thái
Sơn
Tổng giám đốc
Tổng đại lý, đại lý
Công nghệ
thông tin
MakettingTổ chức nhân
sự
Hành chính
quản trị
Chi nhánh,
phòng KD
Ban quản lý và
đào tạo đại lý
Ban tổ chức
tổng hợp
Ban tài chính
kế toán
Ban kiểm
soát nội bộ
Ban hàng hải Ban phi hàng hải Ban tài sản- kỹ

thuật
Ban tái bảo hiểm
Ban trợ lý, thư

Ban kiểm soát
Hội đồng quản trị
Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc
Đại hội đồng cổ đông
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
Nhiệm vụ:
- Hoàn thành tốt các kế hoạch kinh doanh, quản lý các chi nhánh, văn
phòng đại diện trên cả nước.
- Nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ khách hàng thông qua phương
châm " Hơn cả sự cam kết”
- Chú trọng đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu
- Tuân thủ các chế độ chính sách quản lý kinh tế, quản lý tài sản, quản
lý lao động do nhà nước ban hành.
- Tổ chức tốt công tác quản lý tài chính, thống kê lưu trữ theo quy
định của Tổng công ty do phòng hành chính - tổ chức cán bộ thực hiện ,
tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý
nghiệp vụ.
Cơ cấu bộ máy tổ chức:
Bộ máy quản lý của công ty được sắp xếp theo cơ cấu hỗn hợp trực
tuyến và chức năng đứng đầu là Đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị,
Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc, các phòng ban có chức năng khác
nhau.Hội đồng quản trị do các cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ soạn thảo điều
lệ hoạt động của công ty, xác định mục tiêu chiến lược, tor chức đại hội
đồng cor đông…. Ban giám đốc có nhiệm vụ điều hành hoạt động của công
ty thông qua các phòng ban chức năng.
Mỗi phòng ban đều có giám đốc và phó giám đốc, các trưởng phòng

có chức năng quản lý, đôn đốc hoạt động của phòng, ban mình và chịu
trách nhiệm trước ban giám đốc. Các tổng đại lý và đại lý là các đầu mối
chân rết trong toàn bộ cơ cấu của bộ máy chịu sự chỉ đạo và tham mưu của
các phòng ban chức năng.
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
23
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
Do cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty theo hỗn hợp trực tuyến và
chức năng do vậy có những ưu điểm và những hạn chế sau:
+ Ưu điểm: Giảm gánh nặng cho các lãnh đạo do có sự tham mưu của
các phòng ban, công tác chuyên môn thành thạo hiệu quả, công việc giải
quyết nhanh chóng đảm bảo chất lượng chuyên môn.
+ Nhược điểm: Bộ máy cồng kềnh trong cơ cấu tổ chức của công ty
do vậy tốn kém chi phí hoạt động, tổ chức…
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
24
Trường Đại học Lao Động - Xã Hội Khóa luận tốt nghiệp
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty Cổ phần Bảo
hiểm Thái Sơn.
Ra đời trong bối cảnh nền Kinh tế đang khủng hoảng và gặp rất nhiều
khó khăn, song với đội ngũ lãnh đạo có năng lực và dầy dặn kinh nghiệm,
cùng sự hỗ trợ của Tập đoàn Xuân Thành, Bảo hiểm Thái Sơn đã tìm ra
được hướng đi riêng cho mình, có định hướng phát triển rõ ràng và đạt
được một số kết quả kinh doanh bước đầu:
Bảng 2: Tổng kết tài chính công ty cổ phần Bảo hiểm Thái Sơn
giai đoạn 2008-2010
Tổng doanh thu phí ( trđ) 44250 73350 100000
Tổng chi phí ( trđ) 20450 37350 45500
Lợi nhuận trước thuế (trđ) 23800 36000 54500
Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh

thu phí (%)
53.79 49.08 54.5
Tỷ lệ chi phí trên doanh thu
phí (%)
46.21 50.92 45.5
Nguồn báo cáo tài chính hàng năm công ty Cổ phần Bảo hiểm Thái Sơn
Sau 3 năm chính thức đi vào hoạt động vượt qua những khó khăn
thách thức công ty đã và đang dần đi vào quỹ đạo ổn định. Doanh thu phí
đều tăng qua các năm, bình quân doanh thu phí tăng 27875 triệu đồng, số
lượng khách hàng tiềm năng ngày càng lớn. Công ty luôn chú trọng tới
chiến lược phát triển kinh doanh, xây dựng thương hiệu do vậy công tác
Marketing sản phẩm cũng như dịch vụ chăm sóc khách hàng luôn được
công ty đề cao trong những năm qua. Ngoài các nghiệp vụ bảo hiểm được
coi là thế mạnh của công ty thì các nghiệp vụ khác cũng đóng góp không
nhỏ trong tổng doanh thu phí hàng năm
Bảng 3: Kết quả công tác khai thác một số nghiệp vụ cơ bản của công
ty Cổ phần Bảo hiểm Thái Sơn giai đoạn 2008 – 2010.
Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Sinh viên: Lại Thái Hùng Lớp:Đ3BH4
25

×