Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

tìm hiểu về hệ thống basel trong thanh tra ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.58 KB, 95 trang )

TÌM HIỂU VỀ NGUYÊN TẮC BASEL TRONG THANH TRA
NGÂN HÀNG
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ƯỚC
BASEL
I/ QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA HIỆP ƯỚC BASEL:
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển
mạnh và có những dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các
ngân hàng. Đồng thời, quy định về vốn điều lệ của các NHTM ở
các nước khác nhau, nên dẫn đến cạnh tranh không công bằng trong
cùng một thị trường, đây là điều cấm kỵ trong cô chế hội nhập. Vì
vậy lãnh đạo các nước phát triển đã ngồi lại với nhau để tìm giải
pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh tranh nhưng đảm bảo công
bằng và an toàn cho người gửi tiền, đó là một trong những lí do
quan trọng cho sự ra đời Hiệp ước Basel. Basel là yêu cầu về an
toàn vốn do các ngân hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng
và được Ủy ban Quản lí ngân hàng thuộc ngân hàng Thanh toán
Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1+88, xuất phát từ
những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân
hàng, mà đáng quan tâm nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt
ở Tây Đức vào thời điểm đó. Do tính thiết thực của nó nên cộng
đồng các tổ chức tài chính, ngân hàng của hơn 100 nước khác
cùng hưởng ứng. Để phù hợp với những thay đổi lớn của thị
trường, Basel đã được cải tiến và sửa đổi lần thứ hai (Basel II) vào
năm 2001 và có hiệu lực vào năm 2006. Ủy ban Basel bao gồm
Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 và một số nước
có hệ thồng ngân hàng lớn mạnh hàng đầu thế giới bao gồm Bỉ,
Canada, Pháp, Đức, Itaia, Nhật, Luxembua, Hà Lan, Tây Ban
Nha, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ đã kí Hiệp ước Basel (Basel Accord),
một cơ quan gọi là Hội đồng Basel về giám sát ngân hàng quốc tế
cũng đã được chính thức thành lập để theo dõi và chỉ đạo việc
thực thi Hiệp ước. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng của nhiều quốc


gia khác trên thế giới cũng đã biểu thị đồng thuận tham gia tuân
thủ Hiệp ước.
Ủy ban Basel tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng
thanh toán quốc tế (BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel
(còn gọi la Basle) – Thụy Sĩ. Ban thư kí thường trực của Ủy ban
này cũng có trụ sở làm việc tại Washington DC – Mỹ.
Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống
Ngân hàng của một quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển,
đều có thể đe dọa không chỉ đến sự ổn định về tài chính của quốc
gia đó mà còn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy ban Basel thường
xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác
quốc tế để giảm bớt khoảng cách trong công tác giám sát ngân
hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát hoạt động ngân hàng
trên toàn thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng
tìm hiểu và thực hiện được 3 điều cơ bản:
+ Trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia.
+ Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng
quốc tế.
+ Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong những
lĩnh vực mà Ủy ban thực sự quan tâm.
II- NHỮNG ĐIỂM CƠ BẢN CỦA BASEL I, BASEL II,
BASEL III
1) Basel I

:
Mục tiêu:
Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) đã xây dựng chỉ tiêu
đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả trong hoạt động ngận hàng
nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu
hóa. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường

vốn quốc tế là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu – đây
là nội dung nền tảng của Basel I (1988). Ngoài những ảnh hưởng
của quá trình tự do hóa tài chính và sự tiến bộ trong công nghệ
ngân hàng cũng như xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm tài chính
diễn ra rầm rộ vào những thập kỷ cuối thế kỷ 20 thì yêu cầu xây
dựng một nền tảng so sánh hiệu quả hoạt động ngân hàng và đảm
bảo hạn chế rủi ro trong hệ thống thanh toán liên ngân hàng toàn
cầu là động lực dẫn đến sự ra đời của Hiệp ước Basel I và sau đó
hơn 10 năm là Basel II (1999).
Nội dung:
Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng đã phê duyệt
một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (Basel I).
Ban đầu, Basel I chỉ áp dụng trong hoạt động của các ngân hàng quốc
tế thuộc nhóm 10 nước phát triển. Sau này, Basel I đã trở thành chuẩn
mực toàn cầu và được áp dụng ở trên 120 quốc gia. Theo quy định
của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu
(Capital Adequacy Ratio - CAR) đạt tối thiểu 8% để bù đắp cho rủi
ro, đây là biện pháp dự phòng bắt buộc nhằm đảm bảo rằng các ngân
hàng có khả năng khắc phục tổn thất mà không ảnh hưởng đến lợi ích
của người gửi tiền.
Phương trình 1.1:
Hệ số CAR được tính như sau:
Tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR) = Tổng vốn / Tài sản có rủi ro (RWA)
- Tổng vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại:
Vốn cấp 1_ Vốn tự có cơ bản: bao gồm cổ phần thường, cổ
phần ưu đãi dài hạn, thặng dư vốn, lợi nhuận không chia, dự phòng
chung các khoản dự trữ vốn khác, các phương tiện ủy thác có thể
chuyển đổi và dự phòng lỗ tín dụng). đó chính là phần vốn điều lệ và
các quỹ dự trữ được công bố.
Vốn cấp 2_Vốn tự có bổ sung: vốn này được xem là vốn có

chất lượng thấp hơn, bao gồm: dự trữ không được công bố; dự trữ tài
sản đánh giá lại; dự phòng chung/dự phòng tổn thất cho vay chung;
các công cụ vốn lai (nợ/vốn chủ sở hữu); nợ thứ cấp. Tuy nhiên, các
khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không bao gồm trong định
nghĩa về vốn này.
Các giới hạn: Tổng vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp 1;
nợ thứ cấp tối đa bằng 50% vốn cấp 1; dự phòng chung tối đa bằng
1,25% tài sản có rủi ro; dự trữ tài sản đánh giá lại được chiết khấu
55%; thời gian đáo hạn còn lại của nợ thứ cấp tối thiểu là 5 năm; vốn
ngân hàng không bao gồm vốn vô hình (goodwill).
- Tài sản có rủi ro (RWA): Basel I mới chỉ đề cập đến rủi ro tín
dụng và tùy theo mỗi loại
tài sản sẽ được gắn cho một hệ số rủi ro.
Theo Basel I, hệ số rủi ro của tài sản có rủi ro được chia thành 4
mức là 0%, 20%, 50%, và 100% theo mức độ rủi ro của từng loại tài
sản (Phụ lục 1).Theo biến đổi của thị trường, năm 1++6, Hiệp ước
Basel I được sửa đổi có tính đến rủi ro thị trường và rủi ro thị trường
có thể được tính theo 2 phương thức: bằng mô hình Basel tiêu chuẩn
hoặc bằng các mô hình nội bộ của các ngân hàng.
Nhìn chung, Basel I đã thể hiện một bước đột phá cơ bản liên
quan đến tỷ lệ an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng. Basel I phân
loại tài sản có rủi ro và xác định hệ số rủi ro cho từng loại tài sản,
quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% tính trên tổng tài sản điều
chỉnh theo rủi ro.
RWA Basel I = Tài sản * Hệ số rủi ro
Từ ngày 1.10.2010 theo thông tư 13/TT-NHNN ngày
20.5.2010 của NHNN thì tỉ lệ CAR này sẽ được điều chỉnh từ 8%
lên +%. Ngoài ra, hiệp ước Basel I còn xác định các hệ số rủi ro
trong các loại rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động.


Hạn chế:
Mặc dù Basel I đã giúp quản trị ngân hàng hiệu quả hơn, đảm
bảo khả năng chống đỡ của ngân hàng với rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên,
qua quá trình dài áp dụng với xu thế phát triển như vũ bão của hệ
thống ngân hàng trên thế giới thì Basle I với bản sửa đổi năm 1++6
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.
 Thứ nhất, phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số
rủi ro chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ khả năng tài chính
của khách hàng) hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ như
theo thời hạn). điều này chỉ ra rằng có thể các ngân hàng có cùng tỷ
lệ an toàn vốn nhưng có thể đang đối mặt với các loại rủi ro khác
nhau, ở mức độ khác nhau.
 Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hoá hoạt động. Các
lý thuyết về đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hoá danh
mục đầu tư. Tuy nhiên, theo Basel 1, quy định về vốn tối thiểu
không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa
dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều
rủi ro hơn). Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như
một danh mục đầu tư được đa dạng hóa, với cùng một giá trị (ví dụ
không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay $100 và 100 khoản
vay $1).
 Thứ ba, Basel I chưa tính đến các rủi ro khác. Trong quy định vốn
tối thiểu của mình, Basle I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín
dụng, chưa đề cập đến những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro
quốc gia, rủi ro ngoại hối; đề cập chưa đầy đủ về rủi ro thị trường.
 Thứ tư, một số các quy tắc do Basle I đưa ra không thể vận dụng
trong trường hợp ngân hàng sáp nhập hay tập đoàn ngân hàng, ngân
hàng mẹ, ngân hàng - chi nhánh. Xu thế phát triển hiện nay là các
ngân hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn
lớn có khả năng cạnh tranh cao và có tiềm lực mạnh về tài chính,

công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ hoạt động trọng phạm vi
lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế, mở rộng mạng lưới
ngân hàng dưới hình thức hoạt động của ngân hàng quốc tế. Chính
vì vậy, một số qui định trong Basle I đã không còn phù hợp khi áp
dụng tại những ngân hàng này, đòi hỏi phải có một sự cải tiến toàn
diện trong việc xây dựng các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro và
giám sát hoạt động ngân hàng.
2) Bộ 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng (năm 1999)
Tiếp theo sau Hiệp ước Basel I, để bảo đảm an toàn trong hoạt động
ngân hàng của các TCTD, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân
hàng lớn có phạm vi hoạt động quốc tế, từ năm 1+++, Uỷ ban Basel
đã đề ra 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu. Bộ
nguyên tắc cơ bản bao hàm một số nhóm nội dung chủ yếu liên quan
đến việc giám sát ngân hàng, bao gồm:
- Nguyên tắc về điều kiện cho việc giám sát ngân hàng hiệu quả:
nguyên tắc1.
- Nguyên tắc về cấp phép và cơ cấu: từ nguyên tắc 2 đến 5.
- Nguyên tắc về quy định và yêu cầu thận trọng: từ nguyên tắc 6 đến
15.
- Nguyên tắc về giám sát nghiệp vụ ngân hàng: từ nguyên tắc 16
đến 20.
- Nguyên tắc về yêu cầu thông tin: nguyên tắc 21.
- Nguyên tắc về quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám sát:
nguyên tắc 22.
- Nguyên tắc về ngân hàng xuyên biên giới: từ nguyên tắc 23 đến
25.
Chi tiết các nội dung trong Bộ 25 nguyên tắc về giám sát ngân hàng
hiệu quả
Trong quá trình hoạt động, Uỷ ban đã xây dựng và xuất bản bộ
25 nguyên tắc cơ

bản
Basel trong công tác giám sát ngân hàng.
Các nguyên tắc này đã được thiết kế cho các chuyên
gia
giám sát,
nhóm giám sát khu vực và thị trường nói chung theo nguyên tắc
dễ áp dụng và
kiểm
chứng. Bộ nguyên tắc cơ bản bao hàm một số
nhóm nội dung chủ yếu
sau:
- Các Nguyên tắc thuộc về điều kiện tiên quyết cho
việc giám sát ngân hàng hiệu
qu

:
được thể hiện bởi
nguyên tắc 1. Nguyên tắc chỉ ra điều kiện của một hệ thống
giám
sát
nghiệp vụ ngân hàng có hiệu quả là: i) phải có một
khung pháp lý phù hợp; ii) phân
định
mục tiêu, nguồn lực và
trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan giám sát; iii) quy định
về
chia sẻ và bảo mật thông
tin.
- Các nguyên tắc về cấp phép và cơ cấu: bao gồm từ
nguyên tắc 2 đến nguyên tắc 5, với

các

nội
dung chính: i) xác
định rõ ràng các hoạt động tổ chức tài chính được phép làm

chịu

sự
giám sát; ii) quyền đưa ra các tiêu chí và bác bỏ
đơn xin thành lập nếu không đạt
yêu

cầu
của cơ quan cấp
phép; iii) quyền rà soát và từ chối bất kỳ một đề xuất nào đối
với
việc
chuyển quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát ngân
hàng hiện tại cho các bên
khác.
- Các nguyên tắc về các quy định và yêu cầu thận
trọng:
bao gồm từ nguyên tắc số 6
đến

số
15. Nội dung chính
của nhóm nguyên tắc là đưa ra các chuẩn mực mà các chuyên
gia

giám sát nghiệp vụ ngân hàng được làm và nhất thiết
phải biết xử lý trong hoạt động
của
mình ví dụ như: yêu cầu
về an toàn vốn cho các ngân hàng, xác định rõ những khu vực
nào
của vốn ngân hàng chịu rủi ro; đánh giá các chính sách,
thực tiễn hoạt động, các thủ
tục

cho
vay vốn, đầu tư, việc kiểm
soát vốn vay hiện tại và hồ sơ đầu tư của ngân hàng đó;
đánh
giá chất lượng tài sản và tính thích hợp của các điều khoản
chống thất thoát và quĩ dự trữ
thất
thoát khoản
vay.
- Các nguyên tắc về giám sát nghiệp vụ ngân hàng
hiện nay: bao gồm từ nguyên tắc
số

16
đến nguyên tắc số
20. Nhóm nguyên tắc này quy định yêu cầu đối với một hệ
thống
giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiệu quả bao gồm cả các
hình thức giám sát từ xa và
giám

sát tại
chỗ.
Cơ quan giám sát
cần thường xuyên liên hệ với Ban giám đốc ngân hàng để
hiểu rõ
về
hoạt động của ngân hàng, xây dựng phương pháp
phân tích báo cáo thống kê và có
biện
pháp thẩm định độc lập
thông tin giám sát thông qua kiểm tra tại
chỗ.
- Nguyên tắc yêu cầu về thông tin: nguyên tắc số 21 chỉ
ra cán bộ giám sát phải biết
chắc

mỗi
ngân hàng có hệ thống
lưu trữ tài liệu phù hợp cho phép chuyên gia giám sát có
thể
tiếp
cận và thấy được tình hình tài chính thực tế của ngân
hàng.
- Nguyên tắc về quyền hạn hợp pháp của chuyên
gia giám sát: nguyên tắc số 22
chỉ

ra
các biện pháp giám sát
bắt buộc để có thể đưa ra được hành động can thiệp kịp thời

khi
ngân hàng không đáp ứng được những yêu cầu cơ bản
(ví dụ tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu
không đảm bảo, năng lực
quản trị điều hành yếu ). Trong trường hợp khẩn cấp,
hoạt
động
can thiệp này bao gồm cả việc thu hồi giấy phép lập tức
hoặc đề nghị thu hồi giấy
phép
hoạt
động.
- Các nguyên tắc về nghiệp vụ ngân hàng xuyên biên
giới: bao gồm từ nguyên tắc số
23

đến
nguyên tắc số 25 với
nội dung hướng dẫn giám sát đối với các nghiệp vụ giao
dịch
ngân hàng quốc tế, yêu cầu các ngân hàng nước ngoài
hoạt động theo đúng các
tiêu
chuẩn cao bằng tiêu chuẩn của
các ngân hàng trong nước và thiết lập quan hệ và hệ
thống
trao đổi thông tin với các chuyên gia giám sát khác, đặc biệt
là với chuyên gia giám sát
của

nước sở
tại.
3) Basel II:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với
bản sửa đổi năm 1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong
những điểm hạn chế đó là Basel I đã không đề cập đến một loại rủi
ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng tăng
lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp
ước mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước
quốc tế về vốn của Basel (Basel II) đã chính thức được ban hành.
Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II đã buộc các
ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một
lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của
mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác
nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro
tín dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường
nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một
cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm
bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ
của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ này,
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
- Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức
độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một
chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
- Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh
giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng.
Họ cũng phải có khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn

tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số hành động
giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình
này.
- Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn
cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
- Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo
mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy
định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không
được duy trì trên mức tối thiểu.
Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai
thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ
3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu
buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin
về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan
đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối
với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp
ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày
càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo
vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ
giảm thiểu được rủi ro.
Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi
ro
Phân loại tài sản
0%
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.
Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
20%

Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
100%
Tất cả các k
hoản vay khác như trái phiếu của doanh
nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các
khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất động sản,…
Bảng 2.
Loại tài sản
Trọng
số
rủi
ro
Tỷ lệ
vốn
Số tiền
Tài
sản
điều
chỉnh
theo
Yêu cầu
về vốn
tối thiểu
Trái phiếu Chính
phủ
0% 8% 1.000
USD
0 USD 0 USD

Trái phiếu đô thị 20% 8% 1.000
USD
200 USD 16 USD
Thế chấp nhà ở 50% 8% 1.000
USD
500 USD 40 USD
Vay không bảo đảm 100% 8% 1.000
USD
1.000
USD
80 USD
Những sửa đổi của Hiệp ước Basel II so Hiệp ước Basel I
- Basel 2 vẫn qui định mức vốn an toàn tối thiểu là 8% và chỉ thay
đổi cách tính ở mẫu số trong công thức tính tỉ lệ đủ vốn. Theo đó,
mẫu số phải bao gồm cả ba loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường, rủi ro hoạt động.
- Hệ thống đo lường theo Basel 2 phức tạp hơn, nhiều phương pháp
để lựa chọn hơn, nhưng có khả năng đánh giá chính xác mức độ an
toàn vốn, và cho phép quyền tự quyết rất lớn trong giám sát hoạt
động ngân hàng. đối với rủi ro tín dụng, nếu Basel I đưa ra một
phương pháp chung thì Basel II lại đưa ra các lựa chọn. Cụ thể, 2
phương pháp được đề xuất: Phương pháp chuẩn và phương pháp
phân hạng nội bộ.
-Phương pháp chuẩn: Phương pháp tiếp cận này đo lường rủi ro tín
dụng tương tự như Basel I, nhưng ở ức độ nhạy cảm với rủi ro hơn
vì sử dụng xếp hạng tài chính do các tổ chức phân hạng độc lập cung
cấp làm hệ số khi tính toán tài sản điều chỉnh theo rủi ro.
-Phương pháp đánh giá nội bộ: Phương pháp này chủ yếu dựa vào
đánh giá nội bộ của ngân hàng về hệ số rủi ro để xác định tỷ lệ vốn
cần thiết. Tuy nhiên, vẫn dựa vào hướng dẫn của Uỷ ban Basel để xác

định rủi ro cho từng loại tài sản, bao gồm: Yếu tố cấu thành rủi ro,
Phương trình rủi ro, Mức yêu cầu vốn tối thiểu:.
- Basel 2 phân định các mức rủi ro trên cơ sở xếp hạng, do đó các
ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chủ yếu vào kết quả xếp hạng và đánh
giá độ tín nhiệm của các tổ chức độc lập như Moody, S&P.
-Xét về phạm vi áp dụng nói chung của Basel II rộng hơn so với
Basle I, bao gồm không chỉ các ngân hàng quốc tế mà cả các công ty
mẹ, hay thay đổi định nghĩa về tài sản có rủi ro.
Bảng 3: điểm khác nhau căn bản của Basle II so với Basle I
Basel I Basel II
Mức vốn an toàn tối thiểu là 8%, mẫu số gồm: rủi
ro tín dụng
Mức vốn an toàn tối thiểu là 8%, mẫu số gồm: rủi
ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động
Chỉ tập trung vào rủi ro tín dụng Basel II bổ sung thêm rủi ro hoạt động quy trình
giám sát và các quy tắc thị trường
Có một phương pháp duy nhất áp dụng cho tất cả
các trường hợp
Linh động hơn, có nhiều phương pháp để lựa chọn ,
hướng đến việc quản trị rủi ro tốt hơn
Hệ thống đo lường đơn giản hơn Hệ thống đo lường theo Basel II phức tạp hơn
Basel I chỉ có thể vận dụng ở ngân hàng theo kiểu
đơn thuần túy
Phạm vi ap dụng của Basel II sẽ rộng hơn bao gồm
ngân hàng quốc tế và công ty mẹ
Dựa trên caaud trấu theo diện trải rộng Nhạy cảm hơn với rủi ro
Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải
pháp quản lý rủi ro duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi,
Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội bộ của

chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ
luật trên nguyên tắc thị trường
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung
một chọn lựa cho tất cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với
một danh sách các phương pháp, các biện pháp khuyến khích để
các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ
bộ. Basel II nhạy cảm hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của
yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công khai bắt
buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi
hơn với các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD- Organisation for Economic Co-operation and
Development). Basel II quy định từ 0 – 150 hoặc hơn và không
có đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm
bảo. Basel II thừa nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra
nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập
mạng lưới vị thế (position netting).
4) Basel III:
Hiệp ước Basel III được phát triển để đối phó với những
thiếu sót trong các qui định về tài chính bị bộc lộ sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Basel III tăng cường yêu cầu về vốn của
ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về tính thanh
khoản ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Tổ chức OECD ước
tính rằng việc thực hiện Basel III sẽ giảm tốc độ tăng trưởng GDP
hàng năm khoảng 0,05%-0,15%
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính gần đây, Ủy ban
Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS) đã đưa ra các điều chỉnh
trong hướng dẫn đối với các quy định về vốn và hoạt động các

ngân hàng như sau:
Trong tài liệu hướng dẫn này trình bày các kiến nghị của
Ủy ban Basel để tăng cường vốn toàn cầu và các quy định về tính
thanh khoản với mục tiêu thúc đẩy khu vực ngân hàng trở nên
linh hoạt hơn. Mục tiêu gói cải cách của Ủy ban Basel là nhằm
cải thiện khả năng của lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú
sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn
gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ
khu vực tài chính cho các nền kinh tế hiện tại
Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu
chuẩn về tính thanh khoản để củng cố các quy định, giám sát và
quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu chuẩn vốn và các
vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và
chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel
II. Các đòn bẩy mới và tỷ lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện
pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên
rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì
trong trường hợp xảy ra khủng hoảng
Ngày 19/12/2009 các thành viên BCBS ban hành một thông
cáo báo chí trong đó trình bày hai chủ đề để xem xét và bình luận:
- Tăng cường khả năng phục hồi của nghành Ngân hàng
- Đưa ra khuôn khổ về đo lường rủi ro thanh khoản, các
chuẩn mực và sự giám sát Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng
(BCBS) cho phép một khoảng thời gian bình luận đại chúng (kết
thúc vào 16/04/2010), nhận kết quả 272 câu trả lời theo yêu cầu
để lấy ý kiến
PHẦN 2: TIẾN TRÌNH ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN
BASEL VÀO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM
I) GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI ÁP DỤNG BASEL (NHỮNG

NĂM 1990)
Năm 1990, những quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt
động của các ngân hàng đầu tiên được thể hiện trong các pháp lệnh
về ngân hàng. Một số quy định cơ bản đã có nhưng còn khá thô sơ
như “Tổ chức tín dụng không được huy động vốn quá 20 lần tổng
số vốn tự có và quỹ dự trữ” thay vì sử dụng hệ số an toàn vốn
theo quy định của Basel I được ban hành năm 1988.
II) GIAI ĐOẠN ÁP DỤNG BASEL VÀO HỆ THỐNG NH
VIỆT NAM:
Những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo lần đầu tiên được
nghiên cứu và áp dụng khá chi tiết vào Việt Nam kể từ khi Luật
Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng được ban hành
vào năm 1997 và chúng đã được cụ thể hóa hai năm sau đó bằng
quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng (Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN), Quy định về
giới hạn cho vay đối với một khách hàng (Quyết định
276/1999/QĐ-NHNN).
Năm 2005, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số quy
định mới để sửa đổi bất hợp lý về vốn của Quy định 1999 và một
số nội dung khác đã được bổ sung cho gần với Basel I hơn. Điểm
đáng chú nhất trong Quy định 2005 là việc tách bạch giữa hoạt
động của ngân hàng thương mại (các hoạt động cấp tín dụng và
thanh toán là chủ yếu) và hoạt động của ngân hàng đầu tư (các
nghiệp vụ liên quan đến kinh doanh chứng khoán).
2.1. Năm 2005-2006:
Giai đoạn này, nhìn chung, các ngân hàng ở Việt Nam đang
ở những bước đầu tiên trong quá trình áp dụng những chuẩn mực
quốc tế vào việc xây dựng một hệ thống an toàn, giảm thiểu rủi ro
trong quá trình hoạt động. Theo kết quả khảo sát do Công ty Tư vấn
Ernst & Young tiến hành năm 2006 để đánh giá mức độ tuân thủ

các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu của Ủy ban
Giám sát ngân hàng quốc tế Basel, có tới 1+trong số 25 nguyên tắc
phần lớn không tuân thủ, 1/25 nguyên tắc tuân thủ, 2/25 nguyên
tắc không thực hiện phần lớn và 3/25 nguyên tắc không áp dụng.
Trong đó, hầu hết các nguyên tắc liên quan đến điều kiện tiên
quyết bảo đảm giám sát ngân hàng hữu hiệu (mục tiêu, nhiệm vụ,
tính độc lập, khung pháp lý, quyền lực, hệ thống thông tin của cơ
quan giám sát ngân hàng), cấp phép và chấp thuận thay đổi cấu
trúc ngân hàng, các quy định an toàn hoạt động, phương pháp
giám sát ngân hàng liên tục được đánh giá không tuân thủ. Việc
áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng chưa
đồng bộ và không triệt để dẫn đến cách nhìn nhận, đánh giá hệ
thống ngân hàng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình.
Các quy định của Ngân hàng Nhà nước đã đề cập tới một số
vấn đề liên quan tới các điều khoản trong hiệp định Basel I nhưng
vẫn ở mức còn hạn chế. Cụ thể: Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN
quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín
dụng đã phản ánh được các rủi ro liên quan đến hạch toán nội bảng
và ngoại bảng và phù hợp với Hiệp ước Basel về vốn mới (Basel
Capital Accord I). Các nội dung quy định về việc tính toán mức
vốn tự có và tỷ lệ vốn tự có tối thiểu so với tổng tài sản “Có” rủi ro
tại Quyết định này đã tiến khá sát so với yêu cầu tính toán vốn tự
có theo chuẩn mực Basel, điều này đảm bảo hoạt động kinh doanh
của các Ngân hàng thương mạiđược an toàn hơn. Tuy nhiên, giữa
chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn
còn tồn tại một số khoảng cách, vì thế cách tính tỷ lệ an toàn vốn
theo chuẩn mực kế toán Việt Nam chưa phản ánh hợp lý rủi ro
trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Hầu hết các Ngân
hàng thương mạicổ phần đều đã đạt được hệ số an toàn vốn
(CAR) trên 8%, song nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của

Basel như đã nêu ở trên, tức là mẫu số phải cộng thêm cả vốn
dành cho rủi ro thị tr ườ ng thì rất ít Ngân hàng thương mạiViệt
Nam đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%. Thêm vào đó, tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu là 8% được áp dụng thống nhất cho tất cả các
ngân hàng mà không tính đến sự khác biệt trong phạm vi, quy mô
cũng như rủi ro của các ngân hàng. Đối với Quyết định số
4+3/2005/QĐ-NHNN, dư nợ tín dụng tại các Ngân hàng thương
mạiphải được phân loại, trích dự phòng rủi ro và có biện pháp đặc
biệt đối với các khoản nợ xấu. Các khoản nợ được phân loại dựa
trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mỗi ngân hàng và chủ
yếu dựa vào khả năng thu nợ của mỗi khoản vay. Đây đồng thời
cũng là cách phân loại nợ mà Hiệp ước Basel đã đưa ra. Phương
pháp trích lập nêu tại Quyết định 493 đã tiến khá sát với thông lệ
quốc tế, cụ thể: (i) Có trích lập dự phòng chung và dự phòng
riêng; (ii) Có tính giá trị Tài sản bảo đảm và loại trừ khi tính toán
số tiền phải trích lập; (iii) Cho phép các Ngân hàng thương
mạiđược trích lập dần trong 3 năm, phù hợp với tình hình tài
chính và kết quả kinh doanh tại các Ngân hàng thương mại. Nhìn
chung, quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về giới hạn
tín dụng với một nhóm khách hàng có liên quan tương đối phù
hợp với yêu cầu của Basel. Tuy nhiên, Quyết định 457/2005/QĐ-
NHNN quy định giới hạn tín dụng của Tổ chức tín dụng với một
nhóm khách hàng có liên quan là 60%, trong khi tỷ lệ này theo
Basel chỉ là 25%. Ngoài ra, theo quy định trên thì việc trích lập dự
phòng của các ngân hàng Việt Nam dựa trên tình trạng nợ quá
hạn của các khoản nợ chứ không dựa trên cơ sở hạch toán kế toán
nhằm đánh giá khả năng
thu hồi nợ dự kiến. Thanh tra ngân hàng cũng chỉ kiểm tra việc
tuân thủ của ngân hàng
với quy định mà chưa kiểm tra mức dự

phòng trích lập có phản ánh đúng khả năng thu hồi dự kiến hay
không.
Mô hình tổ chức Thanh tra Ngân hàng và hệ thống pháp luật
về thanh tra, giám sát ngân hàng còn bất cập so với các thông lệ
và chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng, nhất là so với yêu
cầu thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro. Cụ thể, theo Hiệp
ước Basel, rủi ro tín dụng được xác định chủ yếu dựa trên hệ
thống phân loại nợ nội bộ với hệ thống chỉ tiêu khá phức tạp nhằm
đánh giá khả năng thu hồi nợ đối với từng khoản vay. Trong khi đó,
việc phân loại nợ của các Ngân hàng thương mạiViệt Nam dựa
trên các thông số có tính bề mặt như căn cứ chủ yếu vào số ngày
gia hạn nợ và số ngày chuyển sang nợ quá hạn. Các yếu tố định
tính khác phản ánh đúng chất lượng và khả năng thu nợ của
khoản vay như tình hình tài chính, rủi ro trong kinh doanh của
khách hàng, rủi ro phi tài chính… đều chưa được đưa vào Hệ
thống cho điểm tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Rủi ro
thị trường chưa đóng vai trò trọng yếu trong rủi ro hoạt động của
các Tổ chức tín dụng, chưa có các quy định về rủi ro thị trường và
do đó chưa áp dụng nguyên tắc của Basel về điều chỉnh tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu đối với rủi ro thị trường. Ngân hàng nhà nước có
thực hiện kiểm tra việc thiết lập các giới hạn cụ thể về rủi ro thị
trường bao gồm cả rủi ro cho hoạt động kinh doanh ngoại hối và
việc xây dựng hệ thống thông tin và kiểm soát nội bộ để đảm bảo
việc tuân thủ các giới hạn rủi ro thị trường của các Tổ chức tín
dụng. Tuy nhiên, mức độ kiểm tra khác nhau phụ thuộc vào từng
loại hình Tổ chức tín dụng và phụ thuộc vào kỹ năng và kiến thức
của các cán bộ thanh tra. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam
hầu như vẫn chưa áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro thị
trường một cách đầy đủ. Các sản phẩm Hedging hầu như chưa được
triển khai, ngoại trừ một số biện pháp như quản lý trạng thái ngoại

hối, quản lý danh mục đầu tư thông qua việc đa dạng hóa danh
mục đầu tư, tránh đầu tư tập trung…Các Ngân hàng thương mại
Việt Nam chưa nhận thức đúng và đủ và loại hình rủi ro hoạt động
nên cũng chưa có nguồn dự phòng thích đáng và phù hợp đối với
loại hình rủi ro này. Mặc dù vậy, trong thực tế, các Ngân hàng
thương mại Việt Nam vẫn luôn phải đối mặt với loại rủi ro này với
mức độ nguy hiểm ngày càng lớn
Một quy định cũng đáng lưu ý là năm 2006, Thủ tướng Chính
phủ ban hành danh mục về vốn pháp định của các tổ chức tín dụng
mà hiểu một cách đơn giản, đối với một ngân hàng, đến hết năm
2010 phải có vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ đồng. Điều này cho
thấy cơ quan giám sát và các ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam đã bắt đầu ý thức thêm về tầm quan trọng
của việc điều chỉnh hoạt động theo Hiệp ước quốc tế Basel.
2.2. Năm 2007:
Bối cảnh đã thay đổi kể từ năm 2007, khi hệ thống ngân hàng
Việt Nam gặp phải hai vấn đề lớn gồm: (1) rủi ro về mặt thanh
khoản và (2) rủi ro từ các hoạt động liên quan đến chứng khoán và
bất động sản.
Rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng gia tăng do cung
tiền được mở rộng với tốc độ cao cộng với sự nở rộng quá nhanh
của một số ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhỏ mà phần đông
là mới thành lập hay được nân cấp lên từ các ngân hàng nông
thôn. Điều này đã tạo ra sự mất cân đối trong việc huy động vốn và
cho vay của các ngân hàng.
Những ngân hàng lớn có lợi thế về mặt huy động vốn do
mạng lưới và quan hệ có sẵn, khi cung tiền được mở rộng họ đã
huy động được rất nhiều tiền, nhưng khả năng cho vay chỉ ở một
mức nào đó nên các ngân hàng này đã dư ra một lượng vốn khá lớn.
Ngược lại các ngân hàng mới nâng cấp hay mới thành lập cần phải

mở rộng hoạt động nên cần vốn. Cung - cầu gặp nhau và hoạt
động vay mượn trên thị trường liên ngân hàng là khá dễ dàng với
lãi suất rất phải chăng.
Kết quả là một số ngân hàng đã đi vay các tổ chức tín dụng
khác (vay liên ngân hàng) để cho vay lại khách hàng, trong khi về
nguyên tắc vay liên ngân hàng với lãi suất rất thấp thường chỉ để
bù đắp những thiếu hụt tạm thời về mặt thanh khoản hay yêu cầu
dự trữ của ngân hàng nhà nước và nguồn vốn sử dụng để cấp tín
dụng nên là vốn huy động trực tiếp.
Khi lạm phát ở mức báo động, chính sách thắt chặt tiền tệ
được đưa ra một quá mạnh và có phần đột ngột đã làm lộ ra
những vấn đề về quản lý cũng như rủi ro thanh khoản của hệ
thống ngân hàng Việt Nam.
Thêm vào đó, việc các Ngân hàng thương mạitham gia quá
tích cực vào các hoạt động kinh doanh chứng khoán và bất động
sản như cho vay để kinh doanh cổ phiếu hay mua bán bất động
sản cũng như một số nghiệp vụ khác của ngân hàng đầu đã tạo
ra những tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hệ thống tài chính.
Một số chính sách có tính chữa cháy như Chỉ thị 03 vào
tháng 5/2007 khống chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán
không vượt quá 3% tổng dư nợ cho vay đã không những không có
tác dụng, mà còn gây ra những tác động tiêu cực khác.
Hơn thế, khi Việt Nam gặp khó khăn do lạm phát tăng cao
chưa từng có kể từ những năm đầu thập niên 1990, cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu tồi tệ nhất kể từ cuộc đại khủng hoảng
và suy thoái 1929-1933 ở Mỹ xảy ra mà một trong những nguyên
nhân chính là việc dỡ bỏ quy tách bạch giữa hoạt động của các
Ngân hàng thương mạivà
ngân hàng đầu tư, đã làm cho nhu cầu có một quy định chặt chẽ về
đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tài chính trở nên

cấp thiết hơn. Đề án Cải cách tổ chức và hoạt động Thanh tra Ngân
hàng (Quyết định số 1976/QĐ-NHNN) đã nêu lên 7 nội dung cơ
bản trong đó nhấn mạnh việc chuyển hướng từ thanh tra tuân thủ
sang thanh tra - giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất kết hợp
với thanh tra - giám sát tuân thủ phù hợp với thông lệ quốc tế và
các nguyên tắc của Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel nhằm nâng
cao năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng”.
2.3. Năm 2010:
Tháng 5/2010. Ngân hàng Nhà nước (NGÂN HÀNG NHÀ
NƯớC) đã chính thức ban hành Thông tư 13/2010/TT-NGÂN
HÀNG NHÀ NƯớC có hiệu lực từ 01/10/2010 về Quy định về các
tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Thông tư 13 đề cập đến các tỷ lệ bảo đảm an toàn chính yếu
như sau:
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu;
- Giới hạn tín dụng;
- Tỷ lệ khả năng chi trả;
- Giới hạn góp vốn, mua cổ phần;
- Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động
(a) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:
1. “Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với
tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn
riêng lẻ)”
2. Tổ chức tín dụng phải thực hiện Báo cáo tài chính hợp
nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn
vốn riêng lẻ quy định tại Khoản 1 Điều này, phải đồng thời duy trì
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của
tổ chức tín dụng và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất)”
- Tỷ l


ệ an toàn vốn riêng l

ẻ đư ợ

c xác đ ị

nh như sau :
Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ = Vốn tự có/Tổng tài sản “Có”
rủi ro
Trong đó:
- Vốn tự có là tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ đi các khoản
phải trừ.
+
Vốn từ có Cấp 1 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 1 trừ
đi các khoản phải trừ
+
Vốn từ có Cấp 2 bao gồm các khoản để tính vốn cấp 2
+
Các khoản phải trừ khi tính vốn tự có
- Tổng tài sản “Có” rủi ro
( Điều 5, Mục 1, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
- Tỷ l

ệ an toàn vốn hợp nhất đư ợ

c xác đ ị

nh như sau:
Tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất = Vốn tự có hợp nhất/Tổng tài sản

“Có” rủi ro hợp nhất
Trong đó:
Bảng 4 : Hệ số an tòan vốn (CAR) của một số ngân hàng từ 2005 –
2008
(Nguồn: Báo cáo thường niên các ngân hàng )
Biểu đồ 1: Hệ số an tòan vốn CAR của một số các NHTM từ 2005 –
2007
( Nguồn: Báo cáo thường niên các ngân hàng)
(b) Giới hạn tín dụng:
- Tổ chức tín dụng căn cứ quy chế nội bộ về quản lý chất lượng
tín dụng để xây dựng, ban hành quy định về các tiêu chí xác
định một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan, chính
sách tín dụng đối với khách
hàng và các giới hạn tín dụng áp dụng đối với một khách hàng và
nhóm khách hàng có liên quan, trong đó tối thiểu phải có các nội
dung sau đây:
• Tiêu chí cụ thể xác định một khách hàng, nhóm khách hàng có
liên quan.
• Giới hạn tín dụng đối với một khách hàng, nhóm khách hàng có
liên quan.
• Kế hoạch đa dạng hóa hoạt động tín dụng, phương pháp
theo dõi và quản lý đối với các khoản cấp tín dụng ở mức từ
5% vốn tự có của tổ chức tín dụng trở lên.
Từng khoản cho vay hoặc bảo lãnh, cho thuê tài chính và tổng các
khoản cho vay hoặc tổng các khoản bảo lãnh, tổng các khoản cho
thuê tài chính vượt quá 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng phải
được Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc người
được Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị ủy quyền
thông qua theo phân cấp, ủy quyền quy định tại chính sách tín dụng
nội bộ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

- Quy định nội bộ về các tiêu chí xác định một khách hàng
và nhóm khách hàng có liên quan, các giới hạn tín dụng áp dụng
đối với một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan phải
được sửa đổi, bổ sung phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung các
quy định nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng, chính sách tín dụng
đối với khách hàng khi hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được sửa
đổi, bổ sung hàng năm.
( Điều 7, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(c) Giới hạn cho vay, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá:
Dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng bao gồm dư nợ cho
vay theo hợp đồng tín dụng; số dư nợ tổ chức tín dụng ủy thác
cho tổ chức tín dụng khác cho vay; số dư các khoản tổ chức tín
dụng đã trả thay do thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với khách
hàng.
+
Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một
khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín
dụng.
+
Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín
dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có
của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho vay đối với một
khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (15% vốn tự có).
+
Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một
nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự
có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho vay đối với một
khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (15% vốn tự có).
+
Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín

dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt
quá 60% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó tổng dư nợ cho
vay và số dư bảo lãnh đối với một khách hàng không được vượt
quá tỷ lệ quy định (25% vốn tự có).
( Điều 8, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(d) Giới hạn cho thuê tài chính
+
Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng
không được vượt quá
30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
+
Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một nhóm khách
hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của công ty
cho thuê tài chính, trong đó mức cho thuê tài chính đối với một
khách hàng không được vượt quá tỷ lệ quy định (30% vốn tự có).
( Điều +, Mục 2, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010)
(e) Tỷ lệ về khả năng chi trả:
Cuối mỗi ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các
biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm
sau như sau:

+
Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán
ngay và tổng Nợ phải trả
- Tổng tài sản “Có” thanh toán ngay (Phụ lục 5)
- Tổng Nợ phải trả được xác định bằng số dư trên khoản mục
Tổng nợ phải trả (Phụ lục 6).
• Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn
thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng

×