Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.62 KB, 87 trang )

lời cảm ơn
Trong thời gian thực hiện khoá luận tốt nghiệp "Quản lý rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam, em
đã nhận đợc sự động viên, khích lệ từ nhiều phía.
Trớc hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể các thầy cô giáo Tr-
ờng Đại học Ngoại thơng. Luận văn này không chỉ là sự nỗ lực của bản thân
em mà còn chính là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu hơn 4 năm
tại trờng dới sự chỉ bảo, dìu dắt và giúp đỡ của các thầy cô.
Đặc biệt, em xin dành lời cảm ơn và biết ơn chân thành tới thầy giáo
hớng dẫn - G.S Đinh Xuân Trình thuộc bộ môn Thanh toán quốc tế, và phòng
Kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam. Sự giúp đỡ và chỉ
bảo nhiệt tình của thầy cùng các cán bộ phòng Kinh doanh ngoại tệ là động
lực vô cùng quan trọng để em hoàn thành luận văn này.
Do điều kiện tài liệu và thời gian có hạn, kinh nghiệm bản và khả
năng bản thân còn hạn chế, luận văn của em không khỏi có những thiếu sót.
Vì vậy, em rât mong đợc các thầy cô xem xét đánh giá, góp ý để khoá luận
tốt nghiệp của em mang tính thiết thực hơn và có chiều sâu hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
lời nói đầu
I. Tên đề tài:
Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng
Ngoại thơng Việt nam.
II. Lí do chọn đề tài:
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra hết sức sôi
động. Cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy các quốc gia không thể tách mình
ra khỏi quá trình này, ngợc lại, các nớc, nhất là các nớc đang phát triển và
chậm phát triển cần nhanh chóng hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn
cầu. Chính vậy, ngành ngân hàng nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại
hối nói riêng đang đứng trớc những thách thức và vận hội lớn. Với vai trò là
một lĩnh vực kinh doanh tiềm năng trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng,
kinh doanh ngoại hối đang ngày càng trở nên có vị thế quan trọng trong hoạt


động của ngân hàng.
Tuy nhiên, trong thực tế, do thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thời gian
tham gia vào hoạt động ngoại hối quốc tế cha nhiều, trình độ nghiệp vụ
chuyên môn cha cao, kinh nghiệm quản lý yếu kém nên không ít ngân hàng
thơng mại Việt nam đã gặp phải những rủi ro trong hoạt động kinh doanh
ngoại hối, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng.
Do đó, quản lý rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối là một vấn
đề hết sức bức xúc, đòi hỏi sự nghiên cứu tìm ra những giải pháp góp phần
nâng cao khả năng quản lý rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối.
Xuất phát từ thực tế đó, đề tài: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối tại Ngân hàng Ngoại thơng Việt nam đã đợc chọn làm
đề tài nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp.
III. Đối tợng nghiên cứu:
Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngoại hối.
Phân tích tổng quan hoạt động kinh doanh ngoaị hối tại ngân hàng
Ngoại thơng Việt nam, thực trạng quản lý các rủi ro kinh doanh ngoại hối th-
ờng gặp trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, đồng thời trình bày các biện
pháp quản lý rủi ro đợc áp dụng tại ngân hàng, trên cơ sở đó đa ra các điểm
hạn chế trong hoạt động quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng
Ngoại thơng Việt nam.
Đánh giá nhằm rút ra những giải pháp và kiến nghị cho việc nâng cao
hiệu quả quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng
Ngoại thơng.
IV. Phơng pháp, phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phơng pháp nghiên cứu tài liệu, phơng pháp thống
kê, tổng hợp dựa trên các số liệu thu thập từ Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thơng Việt nam, vụ quản lý Ngoại hối; cũng nh phơng pháp phỏng vấn trực
tiếp nhằm đem lại hiệu quả tích cực cho đề tài.
VI.Cấu trúc của đề tài:

Ngoài lời nói đầu, kết luận và mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chơng sau:
2 Chơng I: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro trong hoạt động kinh
doang ngoại hối.
3 Chơng II: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại
ngân hàng Ngoại thơng Việt nam.
4 Chơng III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng Ngoại thơng Việt nam.
chơng i:
những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro
trong hoạt động kinh doanh ngoại hối
I. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối.
1. Một vài nét về hoạt động kinh doanh ngoại hối
Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phơng tiện có giá trị đợc
dùng để tiến hành thanh toán giữa các quốc gia. Tuỳ theo quan niệm của
luật quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia mà khái niệm ngoại hối có thể khác
nhau, nhng xét đại thể ngoại hối có thể gồm:
5 Ngoại tệ: bao gồm cả ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng
6 Các phơng tiện thanh toán quốc tế đợc ghi bằng ngoại tệ: Hối phiếu,
Kỳ phiếu, Séc, Th chuyển tiền, Điện chuyển tiền, Thẻ tín dụng,
Th tín dụng ngân hàng
7 Các chứng khoán có giá trị bằng ngoại tệ nh: Cổ phiếu, Trái phiếu
công ty, Công trái quốc gia, Trái phiếu kho bạc
8 Vàng bạc, kim cơng, đá quí, ngọc trai đợc dùng làm tiền tệ.
9 Tiền tệ quốc gia có nguồn gốc là ngoại tệ.
Tuy nhiên, trong đó thành phần cơ bản của ngoại hối là ngoại tệ và các
phơng tiện có giá trị ngoại tệ. Các ngoại tệ đợc giao dịch trên thị trờng ngoại
hối dới hình thức tiền mặt chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, mà chủ yếu chúng tồn tại
dới các hình thức của các phơng tiện thanh toán quốc tế và phơng tiện lu
thông tín dụng nh séc, hối phiếu

Thêm vào đó, không phải loại tiền nào cũng đợc mua bán rộng rãi trên
thị trờng ngoại hối mà chỉ có một số đồng tiền chính là đối tợng mua bán
rộng rãi trên thị trờng kinh doanh ngoại hối nh: đồng Đô la Mỹ (USD), đồng
Yên Nhật (JPY), đồng Bảng Anh (GBP), đồng tiền chung Châu Âu (EUR).
Thị trờng ngoại hối là thị trờng thực hiện các giao dịch mua bán, trao
đổi các loại ngoại hối, trong đó chủ yếu là trao đổi mua bán ngoại tệ và các
phơng tiện thanh toán quốc tế. Trung tâm của thị trờng ngoại hối là thị trờng
liên ngân hàng, thông qua thị trờng liên ngân hàng mọi giao dịch mua bán
ngoại hối có thể đợc tiến hành trực tiếp với nhau.
Các giao dịch chủ yếu trên thị trờng ngoại hối bao gồm: Giao dịch
giao ngay( Spot transaction), Giao dịch kỳ hạn (Forward transaction), Giao
dịch hoán đổi (Swap transaction) và Giao dịch quyền chọn (Option
transaction).
Trong phạm vi luận văn này, ngời viết sẽ chủ yếu xem xét ngoại hối d-
ới khía cạnh là ngoại tệ kinh doanh và bốn hoạt động chủ yếu của một ngân
hàng trên thị trờng ngoại hối bao gồm:
10 Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán
các hợp đồng ngoại thơng.
11 Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình)
nhằm mục đích thực hiện đầu t nớc ngoài trực tiếp và gián tiếp.
12 Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình)
nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại hối của đồng tiền đó để giảm
rủi ro hối đoái.
13 Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ trong việc dự tính sự
biến động của tỷ giá.
Trong bốn hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên, hai hoạt động đầu ngân
hàng thực hiện cho khách hàng để thu phí, do đó ngân hàng không phải hứng
chịu rủi ro hối đoái. Hoạt động thứ ba, ngân hàng tiến hành nghiệp vụ phòng
ngừa rủi ro hối đoái, tức là làm giảm rủi ro hối đoái. Nh vậy rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngoại hối ngoài các rủi ro thuần tuý do hoạt động kinh

doanh đem lại thì có liên quan trực tiếp đến hoạt động thứ t, tức là liên quan
trực tiếp đến trạng thái hối đoái mở đối với những hoạt động mua bán mang
tính đầu cơ.
2. Khái niệm rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối
Rủi ro là một khái niệm chỉ khả năng xảy ra những biến cố mang lại
kết quả xấu khi tiến hành một công việc nào đó. Rủi ro gồm hai loại chính là
rủi ro mang tính đầu cơ và rủi ro thuần tuý.
Hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thơng mại là một
hoạt động hết sức nhạy cảm và không nằm ngoài quy luật, nó cũng tiềm ẩn
những rủi ro. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối là những rủi ro làm sai lệch
kết quả hoạt động kinh doanh do sự cố biến động về tỷ giá của các ngoại tệ
có liên quan.
Đặc biệt trong hệ thống tỷ giá thả nổi hiện nay, tỷ giá hối đoái với t
cách là giá cả của một loại hàng hoá đặc biệt luôn biến động không ngừng
do nhiều nhân tố tác động, thì vấn đề rủi ro hối đoái thờng xuyên xuất hiện.
Các đối tợng thờng xuyên chịu rủi ro hối đoái là các Ngân hàng và các
công ty tham vào nền tài chính quốc tế.
Toàn bộ số tiền có thể chịu rủi ro hối đoái là trạng thái hối đoái mở
(open position), mỗi khi có một trạng thái hối đoái mở thì sẽ có một trạng
thái rủi ro hối đoái. Nếu nh trạng thái hối đoái ở trạng thái mở và tỷ giá hối
đoái thay đổi thì sẽ thu thêm hay mất đi một lợng tiền liên quan đến trạng
thái hối đoái mở.
Để loại trừ và giảm bớt rủi ro trong kinh doanh ngoại hối, các ngân
hàng phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối,
Ngân hàng đánh giá đúng mức độ của từng rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
và đa ra các biện pháp quản lỷ rủi ro thích hợp trong kinh doanh ngoại hối.
3. Phân loại rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
Về mặt nguyên tắc, chúng ta có thể chia rủi ro trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối ra làm bốn nhóm chính:
14 Rủi ro tài chính

15 Rủi ro tín dụng
16 Rủi ro về khả năng thanh toán
17 Rủi ro hoạt động
3.1. Rủi to tài chính
Rủi ro tài chính bao gồm rủi ro tỷ giá hối đoái và rủi ro lãi suất. Đây
chính là các rủi ro cơ bản trong hoạt động kinh doanh ngoại hối.
3.1.1. Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá là loại rủi do gây nên bởi sự biến động mạnh của tỷ giá
dẫn đến thua lỗ trong giao dịch. Nói một cách khác, rủi ro tỷ giá là rủi ro
thua lỗ từ trạng thái không cân bằng không bảo hiểm (trạng thái mở) do sự
biến động tỷ giá xác định.
Đây là loại rủi ro có ý nghĩa rộng lớn trong nghiệp vụ kinh doanh
ngoại tệ. Trờng hợp thờng xảy ra nhất đối với loại rủi ro này là vịêc duy trì
một trạng thái hối đoái mở của một đồng tiền nhất định. Nếu nh trạng thái
hối đoái mở là dơng (Long position) đối với một loại ngoại tệ hay tài sản Có
(Asset) lớn hơn tài sản Nợ (Liabilities) mà ngoại tệ đó bị giảm gía thì chắc
chắn sẽ bị rủi ro. Mặt khác nếu đồng tiền đó lên giá, ngời quản lý ngân quỹ
đang d thừa đồng tiền đó sẽ thu đợc lợi nhuận từ việc chuyển đổi bằng tỉ giá
đó. Kết quả ngợc lại nếu trạng thái hối đoái mở là âm hoặc tài sản Nợ lớn
hơn tài sản Có đồng tiền đó. Nh vậy, rủi ro về tỷ giá sẽ xuất hiện nếu một
trạng thái hối đoái mở đợc tạo ra.
Ví dụ, một ngân hàng Việt Nam mua của một khách hàng hay của một
ngân hàng khác một lợng USD với tỷ giá nào đó, thì cho đến khi bán hết
khối lợng này, ngân hàng mới hết lo lắng về rủi ro tỷ giá, rủi ro chỉ xảy ra
cho đến khi san bằng trạng thái hối đoái mở này. Rủi ro sẽ tăng lên theo thời
gian trạng thái hối đoái mở tồn tại, nhng nó cũng quan trọng ngay trong
khoảng thời gian giữa lúc hình thành và khoá sổ trạng thái hối đoái mở này,
thậm chí trong vòng một phút, khi có một biến động nhỏ của tỷ giá thì điều
đó đã dẫn tới hậu quả của một thất thoát lớn, nếu khối lợng ngoại tệ kinh
doanh nhiều. Nếu tỷ giá hối đoái khi bán ra giảm xuống thì ngân hàng sẽ bị

thiệt hại. Nếu giả sử ngân hàng vẫn muốn giữ khoản tiền này thêm thì rủi ro
càng lớn hơn nữa. Mối nguy hiểm này không hề phụ thuộc vào tỷ giá hối
đoái, tức là bất kể đồng tiền này theo tỷ giá thả nổi hay tỷ giá cố định. Thật
ra, biên độ biến động hàng ngày của tỷ giá USD đã mở rộng nhiều trong giai
đoạn chuyển sang cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi, thế nhng trong hệ thống tỷ
giá hối đoái cố định lại có những rủi ro khác đó là tăng hoặc giảm giá trị của
đồng tiền.
Đặc biệt khi chế độ Bretton Woods sụp đổ năm 1971, quan hệ tiền tệ
giữa các nớc đợc thả nổi, trong đó điển hình nhất là cơ chế Tỷ giá thả nổi
của các quốc gia t bản chủ nghĩa. Với cơ chế này tỷ giá hối đoái của các nớc
biến động hàng ngày, hàng giờ trên thị trờng do chịu ảnh huởng của nhiều
nhân tố nh lạm phát, tình hình cán cân thanh toán quốc tế, tình hình cung cầu
ngoại hối trên thị trờng
Cung cầu ngoại hối trên thị trờng là nhân tố ảnh hởng trực tiếp và nhạy
bén đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Quan hệ cung cầu về ngoại hối bị
ảnh hởng bởi các nhân tố sau:
18 Tình hình d thừa hay thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán
cân thanh toán d thừa thì có thể dẫn đến khả năng cung ngoại hối lớn hơn
cầu ngoại hối và ngợc lại.
19 Thu nhập thực tế tức mức độ GNP thực tế tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu về
hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu, do đó làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh
toán hàng nhập khẩu tăng lên.
20 Những nhu cầu ngoại hối bất thờng tăng lên do thiên tai, bão lụt, hạn hán,
mất mùa, chiến tranh cũng nh do buôn lậu hàng nhập khẩu gây ra.
Bên cạnh quan hệ cung cầu ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái biến
động còn có các nhân tố khác nh mức chênh lệch lạm phát giữa hai nớc và
mức chênh lệch lãi suất giữa các nớc có đồng tiền liên quan.
Xem xét mức chênh lệch lạm phát của hai nớc ảnh hởng đến sự biến
động của tỷ giá. Giả sử, trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao
động của hai nớc nh nhau, quản lý hối đoái tự do. Một loại hàng ở Mỹ có giá

trị 1 USD và ở Nhật là 100 JPY, có nghĩa là ngang giá sức mua đối nội của
hai đồng tiền này là USD/JPY = 100. Nếu ở Mỹ có mức lạm phát là 5% và ở
Nhật là 10% thì hàng hoá ở Mỹ tăng lên là 1,05 USD và ở Nhật là 110 JPY
dó đó ngang sức mua đối nội sẽ là 1,05 USD= 110 JPY
Hay là USD/JPY= 104,761
Mức chênh lệch tỷ giá là 4,761 hay gần tơng tự nh mức chênh lệch
lạm phát 5%.
Mức chênh lệch về lãi suất giữa các nớc cũng ảnh hởng đến sự biến
động tỷ giá. Nớc nào có lãi suất ngắn hạn cao hơn các nớc khác hoặc cao
hơn LIBID thì vốn ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền
lãi tạo ra, do đó sẽ làm cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm xuống, tỷ
giá hối đoái cũng giảm.
Tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau mà các nhân tố
này thờng xuyên thay đổi kéo theo sự biến động không ngừng của tỷ giá hối
đoái. Vấn đề này đặt ra với những công ty là những ngời thờng xuyên có thu
chi ngoại hối và đặc biệt là những nhà kinh doanh ngoại tệ, chấp nhận rủi ro
để kiếm lời. Đối với các ngân hàng thơng mại cỡ lớn có giao dịch với các
công ty thơng mại lớn thì không những số lợng hợp đồng ký kết là rất nhiều
mà khối lợng ngoại hối đợc giao dịch trong ngày cũng rất lớn do đó mà
những biến động nhỏ trong tỷ giá hối đoái của các ngoại tệ sẽ gây ra một ảnh
hởng rất lớn đối với kết quả kinh doang của ngân hàng.
Trạng thái hối đoái mở của mỗi ngoại tệ có thể là dơng hoặc âm. Trạng
thái ngoại hối dơng khi tài sản Có lớn hơn tài sản Nợ. Trạng thái ngoại hối
âm khi tài sản Nợ lớn hơn tài sản Có. Tại phòng kinh doanh nơi mà nhà kinh
doanh phải thoả mãn các yêu cầu của khách hàng, thì trạng thái hối đoái th-
ờng xuyên xuất hiện. Tình trạng này xuất hiện là do hàng ngày luôn có các
nguồn luân chuyển vốn. Mỗi khi một trạng thái mở xuất hiện là ngân hàng ở
trạng thái rủi ro hối đoái, nghĩa là khả năng thu đợc hay mất đi một số tiền
nếu tỷ giá thay đổi. Đặc biệt khi lợng ngoại hối d thừa hoặc thiếu hụt đến
mức nếu rủi ro hối đoái xảy ra sẽ đa ngân hàng vào tình trạng phá sản, vì vậy

ngân hàng phải luôn tìm cách cân bằng trạng thái hối đoái thực để hạn chế
bớt những thiệt hại của rủi ro này. Để làm đợc điều này thì ngân hàng phải có
mối quan hệ bạn hàng rộng rãi với các công ty thơng mại cỡ lớn cũng nh
hoạt động tích cực trên thị trờng liên ngân hàng.
3.1.2. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất hay còn gọi là rủi ro tỷ lệ SWAP là rủi ro về lãi suất th-
ờng xảy ra trong trạng thái kỳ hạn. Trạng thái kỳ hạn không cân bằng có thể
gặp rủi ro lãi suất. Ngay cả trong trờng hợp trạng thái ròng cân bằng cũng có
thể gặp rủi ro lãi suất nếu nh thời điểm đáo hạn của các hợp đồng mua và
bán không khớp nhau. Sở dĩ nh vậy là vì rủi ro đối với trạng thái kỳ hạn nằm
ở lãi suất của các ngoại tệ có mặt trong giao dịch mua bán ngoại tệ đó. Nếu
trớc thời điểm đáo hạn của giao dịch có sự biến động về lãi suất của một
trong hai đồng tiền giao dịch mà nằm ngoài mong muốn thì sẽ xuất hiện rủi
ro lãi suất.
Giao dịch SWAP là giao dịch gồm đồng thời hai giao dịch mua và bán
của cùng một số lợng đồng tiền này với một đồng tiền khác (chỉ có 2 đồng
tiền đợc thực hiện trong giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao
dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch đợc xác định tại thời điểm ký kết
hợp đồng giao dịch hoán đổi. Do đó giao dịch SWAP không có tác động đến
trạng thái hối đoái mở. Vì vậy lãi hay lỗ trong trạng thái SWAP chỉ phụ
thuộc duy nhất vào biến động lãi suất của hai đồng tiền có liên quan.
Rủi ro tỷ lệ SWAP trở nên quan trọng nếu trạng thái hối đoái thời hạn
với khối lợng kinh doanh đã thoả thuận xong nhng thời hạn thanh toán thì
cha chấm dứt. Ví dụ: một ngân hàng mua 5 triệu GBP theo 3 tháng và bán
theo thời hạn 4 tháng thì hai khoản này về giá trị là bằng nhau nhng thời hạn
thì không đồng nhất. Điều đó có nghĩa là ở đây không có rủi ro về tỷ giá, nh-
ng lại có rủi ro về tỷ lệ SWAP, tức là rủi ro sẽ nảy sinh vào cuối tháng thứ 3,
nếu trạng thái hối đoái này đợc hình thành qua thực hiện một nghiệp vụ
SWAP mà tỷ lệ SWAP lại phát triển không thuận lợi.
Rủi ro này có ý nghĩa : một mặt trong nghiệp vụ Arbitrage về tỷ giá

thời hạn và mặt khác là trong nghiệp vụ khách hàng. Trong giao lu với khách
hàng, các ngân hàng phải ký kết các nghiệp vụ thời hạn, với thời hạn vòng,
tức là thời hạn mà lúc đó thị trờng không hoạt động. Sau đó các ngân hàng
ký thực hiện nghiệp vụ đối ứng với thời hạn tiêp theo trong thị trờng và khắc
phục những bất đồng về thời điểm, bằng cách ký hợp đồng SWAP ngắn hạn
và luân chuyển (ví dụ SWAP theo ngày).
Khi hạch toán các ngân hàng thờng căn cứ vào tình hình lúc ký kết
nghiệp vụ thời hạn. Theo nguyên tắc các ngân hàng cũng dự tính một khoảng
an toàn nhất định, nhng khi xem xét tới góc độ cạnh tranh ngân hàng không
thể dự tính khoảng an toàn lớn đợc. Ví dụ, khi chênh lệch lãi suất có lợi cho
đồng GBP là 3%/năm (lãi suất GBP=12%/năm, lãi suất SGD= 9% năm và
cho các loại thời hạn) ngân hàng đã bán cho khách hàng 5 triệu GBP thời hạn
4 tháng. Số GBP này ngân hàng đã phải huy động trên thị trờng với thời hạn
vay 3 tháng và tới cuối tháng thứ 3 thì chênh lệch lãi suất giảm quá mạnh
xuống tới 3%/năm. Do vậy, ngân hàng phải gánh chịu khoản lỗ của tháng 4.
Giả sử tỷ giá giao ngay GBP/SGD vào lúc ký nghiệp vụ thời hạn với khách
hàng là 2,80 hạch toán chuyển đổi này sẽ có kết quả sau (cha tính đến lợng
lợi nhuận và an toàn):
21 Bán 5 triệu GBP cho khách hàng với thời hạn 4 tháng theo tỷ giá
GBP/SGD là 2,7731:= 13.865.000 SGD.
22 Mua 5 triệu GBP trên thị trờng theo thời hạn 3 tháng với tỷ giá GBP/SGD
là 2,7769:=13.898.000 SGD
Nghiệp vụ SWAP gia hạn khi hết 3 tháng:
1 Nếu quan hệ lãi suất không đổi (tỷ giá giao ngay ổn định):
Bán 5 triệu GBP giao ngay với tỷ giá GBP/SGD là 2,8:=14.000.000 SGD.
Mua 5 triệu GBP thời hạn 1 tháng với tỷ giá GBP/SGD là
2,793: =13.965.500 SGD.
Sự chuyển đổi này đợc thực hiện không có lãi mà cũng không bị lỗ, khoản
chênh lệch 2.000 SGD đợc tạo ra từ tỷ giá ngoại hối thời hạn.
2 Chênh lệch lãi suất có lợi cho đồng GBP là 1%/năm:

Bán 5 triệu GBP giao ngay với tỷ giá GBP/SGD là 2,8 = 14.000.000 SGD
Mua 5 triệu GBP thời hạn 1 tháng với tỷ giá là 2,7977:=13.988.500 SGD
Ngân hàng chịu lỗ một khoản 21.000 SGD (cha tính đến phần lãi suất duơng
từ doanh thu tiền mặt phát sinh do từ cuối tháng thứ 3 ngân hàng thu đợc
14.000.000 SGD từ nghiệp vụ SWAP gia hạn, nhng chỉ phải trả có
13.965.500 SGD. Nếu tỷ giá GBP/SGD giảm thì doanh lợi về lãi suất sẽ trở
thành thiệt hại về lãi suất).
So sánh với rủi ro tỷ về tỷ giá, không nghi ngờ rằng, rủi ro về tỷ lệ lãi
suất ít có ý nghĩa hơn, nhng với khối lợng kinh doanh lớn cũng tạo ra điều
đáng quan tâm. Điều này ít có giá trị cho nghiệp vụ giao dịch với khách
hàng, vì ngay từ đầu nghiệp vụ này bị giới hạn bởi số lợng khách hàng và
một phần hoạt động chuyển đổi đối ứng đã đợc các nhà xuất nhập khẩu tự
cân đối với nhau. Trong nghiệp vụ với khách hàng, khối lợng lợi nhuận tạo ra
đã tạo thành khối lợng đảm bảo. Ngợc lại trong trờng hợp Arbitrage tỷ giá
hối đoái kỳ hạn không thể có đợc một giới hạn rủi ro tự nhiên. Nếu xét về
khả năng ký kết các hợp đồng nghiệp vụ Arbitrage thời hạn có phạm vi rộng
lớn. Tơng tự nh vậy, ở đây sẽ xuất hiện nguy cơ làm thất thoát lớn.
Tóm lại, rủi ro lãi suất hay gọi là rủi ro tỷ lệ SWAP chính là rủi ro về
tỷ lệ lãi suất, tuy nhiên nó khác rủi ro lãi suất trên hoạt động thị trờng tiền tệ
ở chỗ trên thị trờng tiền tệ chúng ta chỉ quan tâm đến sự biến động lãi suất
của một đồng tiền. Nhng khi hoạt động trên thị trờng hối đoái qua giao dịch
SWAP cần phải xem xét thay đổi lãi suất của cả hai đồng tiền.
3.2 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng (rủi ro độ tin cậy) là tình trạng khách hàng hay đối tác
của ngân hàng cố tình hoặc rơi vào tình trạng bất khả kháng, không có khả
năng thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng giao dịch mua bán
ngoại tệ vào thời điểm phát sinh các nghĩa vụ cam kết đó.
Trong rủi ro tín dụng, có rủi ro đối tác và rủi ro do các nguyên nhân
chính trị.
3.2.1. Rủi ro đối tác

Với mỗi nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do ngân hàng ký kết, luôn
xuất hiện rủi ro do bên đối tác không chịu hay không thể thực hiện trách
nhiệm của họ do các nguyên nhân chủ quan, và hậu quả là hoạt động này sẽ
kết thúc bằng thua lỗ.
Giả sử một ngân hàng bán cho một khách hàng hay một ngân hàng
khác 5 triệu GBP với tỉ giá GBP/SGD là 2,8005 và mua lợng này từ một ngân
hàng khác theo tỉ giá GBP/SGD là 2,8. Sau khi đã ký kết hợp đồng với ngời
mua thì ngời mua bị phá sản và không thể thực hiện trách nhiệm của mình.
Tỉ giá GBP/SGD trên thị trờng hạ xuống còn 2,75, ngân hàng đành phải bán
theo giá này cho đối tác khác và chấp nhận chịu lỗ 250.000 SGD.
3.2.2. Rủi ro chính trị
Là trờng hợp rủi ro xảy ra khi đối tác giao dịch ở nớc ngoài (có thể là
chính phủ, ngân hàng hay khách hàng) không thể hoặc có thể không thực
hiện đợc các nghĩa vụ cam kết trong giao dịch mua bán ngoại tệ vào thời
điểm phát sinh các nghĩa vụ cam kết mà nguyên nhân dẫn đến rủi ro này là
tình trạng bất khả kháng do chiến tranh, bạo động, cách mạng, hay tuyên bố
ngừng hoạt động hệ thống thanh toán ra nớc ngoài của chính phủ quốc gia
đó.
Điều này thực tế đã xảy ra với ngân hàng Herstatt tại Đức trong năm
1974. Nhiều ngân hàng Đức và ngân hàng nớc ngoài đã mua USD của ngân
hàng Herstatt và phải trả tiền bằng đồng DEM 5-6 tiếng theo quy định trớc
khi nhận đợc USD. Ngay sau khi các ngân hàng này trả tiền vào buổi tra thì
đồng loạt các quầy giao dịch của ngân hàng Herstatt bị đóng cửa theo chỉ
định của Cục thanh tra liên bang ngành tín dụng. Thông tin về việc đình chỉ
thanh toán đã nhanh chóng lan ra trên toàn thế giới. Các ngân hàng ở Mỹ đã
không thực hiện đợc những hợp đồng bán USD đã ký với ngân hàng Herstatt
mặc dù họ đã nhận đồng DEM và lợng ngoại tệ này bây giờ chỉ đợc xem là
những món nợ phải đòi đối với tài sản thanh lý còn lại.
3.3 Rủi ro về khả năng thanh toán
Rủi ro về khả năng thanh toán trên thị trờng hối đoái cũng xuất hiện

trong trờng hợp không có khả năng vó đợc vốn bằng đồng tiền nh dự định.
Ví dụ: một giao dịch SWAP mua SGD kỳ hạn 3 tháng bằng đồng USD
đồng thời bán SGD lấy USD kỳ hạn 1 tháng. Nếu ngân hàng trung ơng
Singapore quyết định dừng mọi giao dịch hối đoái của mình vì lý do thị trờng
bất ổn định, chúng ta sẽ phải mua SGD trên thị trờng khác, những ngời bán
SGD này không thể giao dịch với khối lợng lớn, chẳng hạn 1000 triệu SGD
hoặc hơn, thì khó có thể thực hiện đợc giao dịch nh đã định. Trong trờng hợp
giao dịch không đợc thực hiện nh đã định, điều đó có nghĩa gần nh chắc chắn
xảy ra tình trạng phá sản đối với một số tổ chức tài chính.
3.4 Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động thờng thể hiện dới ba hình thức chính là rủi ro trong
việc dùng ngời, rủi ro vận hành và rủi ro tổ chức.
3.4.1.Rủi ro trong việc dùng ngời:
Là loại rủi ro xuất phát một cách chủ quan từ các nhân viên tham gia
vào quá trình thực hiện giao dịch kinh doanh ngoại hối, nguyên nhân chính
là còn hạn chế về trình độ, mức độ tinh thông nghiệp vụ cũng nh kinh
nghiệm còn ít ỏi.
Chẳng hạn một ngời kinh doanh quên không lập chứng từ mua bán,
sau khi thực hiện hợp đồng thì khoản kinh doanh trong bảng cân đối của
ngân hàng sẽ không thống nhất với thực trạng giao dịch, và hậu quả là sẽ
phát sinh thiệt hại khi thanh toán sau này thông qua việc rút tiền vợt quá số
tiền thấu chi (overdraft) qui định trên tài khoản của khách hàng nớc ngoài.
Hay nếu nhân viên thiếu cẩn trọng dựa trên một địa chỉ sai để giao dịch cũng
có thể gây ra thiệt hại lãi suất, nếu sau đó điều này đợc biết đến thì việc
thanh toán đúng hạn là không thể thực hiện đợc.
3.4.2. Rủi ro vận hành
Rủi ro vận hành trong kinh doanh ngoại hối có thể gặp phải từ những
sai sót của mạng điện thoại, của giao dịch qua Telex, Reuter, giao dịch
Telerate, hỏng hóc của máy tính cá nhân, hệ thống mạng bị quá tải, h hại đến
thiết bị hay do mất điện

3.4.3. Rủi ro tổ chức kiểm soát
Là những rủi ro do hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý đem lại. Rủi ro
này thờng có nguồn gốc từ sự phân công trách nhiệm cha rõ ràng giữa các bộ
phận tham gia vào hoạt động kinh doanh ngoại hối: giao dịch, thanh toán,
kiểm soát. Nói cách khác loại rủi ro này xuất hiện khi mô hình tổ chức kinh
doanh ngoại hối còn cha hợp lý, hiệu quả kém.

Đánh giá vai trò và mức độ các loại rủi ro
Vai trò và mức độ của mỗi loại rủi ro là khác nhau khi tham gia vào
các giao dịch khác nhau. Nếu chúng ta đang giao dịch với các tổ chức đợc
xếp vào loại tín dụng hàng đầu và chúng ta cũng thuộc nhóm lựa chọn đó thì
rủi ro về tín dụng và khả năng thanh toán chỉ đóng vai trò thứ yếu nếu so
sánh với rủi ro về tỷ giá và rủi ro về tỷ lệ lãi suất do các rủi ro này làm mất đi
khả năng thu lợi của chúng ta hoặc thậm chí khiến ta có thể bị thua lỗ do dự
đoán sai.
Tuy nhiên khi chúng ta giao dịch với một khách hàng không có uy tín
trên thế giới thì rủi ro tín dụng sẽ trở nên quan trọng hơn. Hơn nữa nếu
chúng ta không thuộc một số các tổ chức có uy tín thì chúng ta cần phải chú
trọng hơn đến rủi ro về khả năng thanh toán của mình.
II. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại
hối.
1. Khái niệm quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối
Định nghĩa về quản lý ngoại hối tự thân nó đã là một đề tài lớn. Tuỳ
theo cách hiểu và trong từng lĩnh vực khác nhau mà ngời ta có những định
nghĩa khác nhau về quản lý rủi ro.
ở đây, ta xem xét quản lý rủi ro dới khía cạnh là việc nhận định và áp
dụng các biện pháp dự báo và phòng ngừa rủi ro dới khía cạnh là việc nhận
định và áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro cần thiết, đồng thời có khả
năng kiểm soát và quản trị đợc những rủi ro này nếu nh chúng xảy ra, nhằm
mục đích tránh và hạn chế tối đa tổn thất thiệt thại, hoặc chấp nhận rủi ro ở

mức nhất định có thể cho phép.
2. Vì sao quản lý rủi ro có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối
Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, có thể nói không thể tránh
khỏi mọi rủi ro. Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng luôn có mối quan hệ cùng
chiều. Peter Clairin, chuyên gia trong lĩnh vực quản lý rủi ro của ngân hàng
Bank of NewYork đã đúc kết lại thành châm ngôn trong kinh doanh ngoại
hối nh sau: More profit, more risks (Lợi nhuận càng nhiều thì rủi ro sẽ
càng lớn). Tuy nhiên, rủi ro có thể đợc giảm thiểu nếu nh việc quản lý rủi ro
trong kinh doanh ngoại hối đợc thực hiện tốt.
Không có việc quản lý rủi ro thì giống nh việc ngời đi trong đêm
không trông thấy đờng, không biết khi nào mình sẽ bị vấp ngã và liệu việc
vấp ngã sẽ ảnh hởng đến sức khoẻ nh thế nào, có bị gãy chân hay chỉ bong
gân mà thôi? Trong lịch sử, sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng Baring chính
là một minh chứng cụ thế cho vai trò to lớn của quản lý rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngoại hối.
Hiện nay, vai trò của kinh doanh ngoại hối ngày càng trở nên quan
trọng, dó đó việc phát triển giao lu buôn bán quốc tế làm cho nhu cầu trao
đổi tiền tệ giữa các nớc ngày càng tăng với khối lợng lớn. Thêm vào đó,
trong chế độ tỷ giá thả nổi hiện nay, do nhiều nhân tố tác động làm cho tỷ
giá hối đoái các đồng tiền biến đổi không ngừng từng ngày, từng giờ, cũng
nh do việc kinh doanh ngoại hối diễn ra trên phạm vi quốc tế nên việc quản
lý các giao dịch cũng nh việc hiểu biết kỹ về các bạn hàng là rất khó khăn.
Điều này khiến cho các nhà kinh doanh ngoại hối phải đối mặt với rất nhiều
rủi ro.
Chính vậy, để hạn chế bớt ảnh hởng xấu của những rủi ro trong kinh
doanh ngoại hối, các ngân hàng luôn phải tìm ra các biện pháp phòng ngừa
các rủi ro. Đặc biệt là rủi ro về tỷ giá hối đoái và rủi ro về lãi suất do sự biến
động thờng xuyên và khó lờng trớc đợc của chúng. Bên cạnh đó các rủi ro về
tín dụng, rủi ro về khả năng thanh toán và rủi ro tổ chức hoạt động cũng cần

đợc quan tâm thích đáng.
3. Các mô hình và biện pháp quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh
ngoại hối
3.1 Các mô hình quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối
Có hai mô hình quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối:
3.1.1. Mô hình quản lý rủi ro tập trung
Hầu nh các ngân hàng trên thế giới đều có nhiều chi nhanh tại một
quốc gia nhng đa số các ngân hàng đều có xu hớng tập trung quản lý hoạt
động của bộ phận kinh doanh ngoại hối về một hoặc một số đầu mối nhằm
giảm chi phí quản lý, đào tạo và thống nhất các luồng tiền tệ, tận dụng các
nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong hoạt động kinh doanh ngoại hối nhằm đem lại
hiệu quả, thuận lợi lớn nhất trong mức rủi ro có thể chấp nhận đợc. Thông
qua việc tập trung các giao dịch kinh doanh ngoại tệ vào một đầu não chính,
việc quản ly rủi ro cũng sẽ đợc tập trung vào một đầu mối, hạn chế, phân tán
rủi ro tại các chi nhánh đợc phép cùng kinh doanh ngoại hối.
3.1.2. Mô hình quản lý rủi ro phân tán
Đây là mô hình quản lý rủi ro đợc thực hiện trên cơ sở hoạt động kinh
doanh ngoại hối tiến hành tại nhiều chi nhánh trong cùng một hệ thống ngân
hàng tại một hay nhiều quốc gia. Khi đó, do có nhiều chi nhánh cùng đợc
phép hoạt động kinh doanh ngoại hối trực tiếp nên hoạt động quản lý rủi ro
sẽ đợc thực hiện trên tại tất cả các chi nhánh này. Hơn nữa, rủi ro trong hoạt
động ngoại hối tại các chi nhánh không đợc tập trung quản lý, không đợc
tách bạch giữa các hoạt động kinh doanh ngoại hối và hoạt động quản lý rủi
ro, không có sự phân chia đầy đủ thành các bộ phận độc lập bao gồm bộ
phần giao dịch trực tiếp, bộ phần thực hiện giao dịch, bộ phận kiểm soát và
quản lý rủi ro.
3.2 Các biện pháp quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối
3.2.1. Quản lý rủi ro tài chính
a. Quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái
Giới hạn trạng thái hối đoái

Trạng thái ngoại hối của một ngoại tệ là chênh lệch giữa tổng tài sản
Có và tổng tài sản Nợ của một ngoại tệ. Trạng thái ngoại tệ cuối ngày đợc
tính trên cơ sở trạng thái ngoại tệ ngày hôm trớc và chên lệch giữa doanh số
mua và doanh số bán phát sinh trong ngày của ngoại tệ đó, bao gồm cả giao
dịch Spot và giao dịch Foward.
Nhằm tránh thất thoát quá mức do biến động tỷ giá, từ lâu các ngân
hàng đã áp dụng mức hình thành các trạng thái hối đoái cho các phòng kinh
doanh ngoại hối. Mức độ của các giới hạn này là phụ thuộc vào số hoạt động
của ngân hàng, khả năng chấp nhận rủi ro và lòng tin vào khả năng kinh
doanh của ngời điều hành kinh doanh ngoại hối.
Giới hạn trạng thái ngoại hối (Limit of Foreign Exchange Position) là
mức chênh lệch cao nhất hoặc thấp nhất giữa tài sản Có ngoại tệ và tài sản
Nợ ngoại tệ.
Từ hạn mức trạng thái hối đoái của các ngân hàng sẽ cho phép tính
toán đợc mức của rủi ro và tất nhiên cả khả năng lợi nhuận thu đợc. Trong
mối quan hệ này cần lu ý rằng lợi nhuận của ngân hàng này không nhất thiết
phải tơng ứng với thiệt hại của ngân hàng khác. Vì lợi nhuận này sinh ra từ
nghiệp vụ khách hàng, tức chênh lệch tỷ giá giữa giá trị thanh toán ngoại tệ
cho khách hàng và giá trị thanh toán trên thị trờng, lợi nhuận này không liên
quan gì đến các ngân hàng khác.
- Giới hạn trạng thái hối đoái qua đêm (Overnight)
Việc đặt ra giới hạn trạng thái hối đoái cũng cần phải đặt ra một hạn
mức qua đêm của từng đồng tiền, kể cả đồng bản tệ. Sở dĩ phải đặt ra một
hạn mức qua đêm là do các sự kiện chính trị và kinh tế xảy ra sau giờ làm
việc của từng nớc có thể ảnh hởng quan trọng đến tỷ giá. Nhà giao dịch
không làm việc ban đêm nên không thể phản ứng tức thì đối với các thay đổi
này nên có thể bị thiệt hại. Ví dụ, các thông tin quan trọng về chính trị và
kinh tế thờng đợc cố tình thông báo sau khi thị trờng trong nớc đóng cửa và
lúc đó các nhà giao dịch không còn ở trong phòng giao dịch, tuy nhiên, các
nhà giao dịch ở các nơi khác trên thế giới vẫn có cơ hội phản ứng lại các tin

tức và gây tác động lên tỷ giá thị trờng. Trong ngày, các nhà giao dịch cũng
bị giới hạn trong các trạng thái mở của họ, nhng họ đợc phép có các trạng
thái thuần tuý lớn hơn mức qua đêm. Điều này là cần thiết để đảm bảo cho
các nhà giao dịch đáp ứng đợc các nhu cầu ngoại hối của khách hàng. Hạn
mức ban ngày thờng lớn hơn rất nhiều lần hạn mức ban đêm.
- Giới hạn tổng trạng thái hối đoái
Ngoài hạn mức trên ra, một vài ngân hàng đặt ra một hạn mức đợc gọi
là giới hạn tổng trạng thái ngoại hối. Tổng trạng thái ngoại hối của tổ chức
tín dụng là trạng thái ngoại hối (dơng hoặc âm) cao nhất của các tiền tệ. Ví
dụ, một nhà giao dịch có thể có hạn mức cho mỗi đồng tiền tơng đơng 1 triệu
USD cho 10 đồng tiền riêng biệt, cùng với hạn mức tổng hợp là 6 triệu USD
cho tổng các trạng thái của 10 đồng tiền trên. Nếu không có hạn mức tổng
hợp, nhà giao dịch có thể có một trạng thái mở tổng hợp là 10 triệu USD
trong trờng hợp không cho phép nhà giao dịch đạt đến hạn mức trạng thái mở
của cả 10 đồng tiền và hạn chế trạng thái mở tổng cộng của nhà giao dịch ở
mức 6 triệu USD. Điều quan trọng là đặt ra một hạn mức trạng thái mở của
đồng bản tệ và đa nó vào trong hạn mức tổng hợp. Nếu không thì các nhà
giao dịch có thể mua hay bán theo hạn mức tối đa của tất cả các ngoại tệ của
họ bằng đồng bản tệ. Dĩ nhiên, điều này sẽ tạo ra một trạng thái thực d mua
hay d bán rất lớn của đồng bản tệ, mà cũng nh các đồng tiền khác nó có thể
chịu sự phá giá hay tăng giá.
Cân bằng trạng thái ngoại hối
Tại phòng giao dịch ngoại hối, các ngân hàng thờng xuyên xuất hiện
các trạng thái hối đoái do hàng ngày luôn có các luồng luân chuyển vốn. Nh
đã nói ở phần trên để hạn chế bớt rủi ro hối đoái ngời ta đã đa ra các hạn
mức của trạng thái hối đoái, khi vợt qúa hạn mức này thì đòi hỏi cần phải cân
bằng trạng thái hối đoái d thừa hay thiếu hụt này.
Để xem xét vấn đề này chúng ta lấy ví dụ một ngân hàng ở Anh với
giả thiết ban đầu cha có giao dịch nào đợc thực hiện. Giả thiết rằng với thời
điểm ban đầu của một khách hàng, ngân hàng mua SGD bằng GBP kỳ hạn 1

tháng theo tỷ giá 2,3930 GBP/SGD. Giao dịch này thực hiện ở Anh vào cuối
buổi chiều khi thị trờng hối đoái đã ngừng làm việc mà lúc này các thị trờng
Singapore đã đóng cửa. Do đó, ngân hàng đã đa ra tỷ giá thấp hơn 10 điểm
(bps) so với tỷ giá hiện hành trên thị trờng 2,3940 GBP/SGD. Ngân hàng
muốn biết rằng chỉ có thể cân bằng trạng thái hối đoái kỳ hạn này vào hôm
sau. 10 bps chênh lệch này không chỉ bao gồm lợi nhuận của ngân hàng mà
còn đợc coi nh chi phí phòng ngừa rủi ro hối đoái qua đêm.
Vấn đề nhà kinh doanh hối đoái gặp phải ở đây là trạng thái hối đoái
d thừa SGD (thiếu GBP). Để khắc phục tình trạng này, nhà kinh doanh sẽ
thực hiện một giao dịch ngợc lại với giao dịch trên tại thị trờng giao ngay,
bán SGD mua GBP. Nh vậy đối với SGD và GBP số lợng mua vào và số lợng
bán ra bằng nhau. Đồng thời nhà kinh doanh tạo ra trạng thái hối đoái thừa
SGD qua đêm. Bằng cách này, lợi nhuận của nhà kinh doanh sẽ không bị ảnh
hởng bởi những thay đổi về chênh lệch lãi suất hoặc tỷ giá SWAP. Do chênh
lệch lãi suất qua đêm thờng thay đổi ít hơn tỷ giá hối đoái giao ngay nên
trạng thái SWAP sẽ ít mạo hiểm hơn trạng thái hối đoái.
Sang ngày hôm sau, nhà kinh doanh có thể chọn phơng pháp thị trờng
tiền tệ hoặc phơng pháp thị trờng hối đoái để xoá bỏ trạng thái hối đoái này.
Giả thiết rằng lãi suất kỳ hạn một tháng của SGD và GBP là không thay đổi,
nhà kinh doanh có thể vay SGD lãi suất 10% và đầu t GBP lãi suất 7% hoặc
mua SGD bằng GBP giao ngay và bán lấy GBP kỳ hạn 1 tháng. Kết quả của
hai phơng pháp trên đều giống nhau, phải khấu trừ kỳ hạn tỷ giá kỳ hạn một
tháng với tỷ giá giao ngay tơng ứng với chênh lệch lãi suất giữa SGD và GBP.
Hạn chế rủi ro tỷ giá hối đoái bằng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá.
Một biện pháp hạn chế rủi ro tỷ giá hết sức quan trọng đối với các nhà
kinh doanh ngoại hối đó là dự đoán tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn cũng nh
dài hạn sẽ giúp cho nhà kinh doanh ngoại hối có những phản ứng thích hợp
nhằm hạn chế rủi ro này đến mức thấp nhất. Việc dự đoán tỷ giá dựa trên
một số những phơng pháp phân tích sau:
Phân tích cơ sở (Fundermental Analysis)

Phân tích cơ sở dựa trên nguyên lý cơ bản là quan hệ cung cầu ngoại
hối trên thị trờng hối đoái là kết quả của quá trình kinh tế hoàn toàn có thể
quan sát và dự đoán đợc. Các nhà phân tích tìm cách để thiết lập mối quan hệ
giữa sự biến động của tỷ giá hối đoái và các chỉ số kinh tế quan trọng. Nếu
thiết lập đợc mối quan hệ này thì đây là dữ liệu cơ bản để các nhà phân tích
sử dụng trong dự đoán tỷ giá. Có rất nhiều phơng pháp phân tích đợc các nhà
phân tích thị trờng sử dụng trong kỹ thuật dự đoán tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên,
từ trớc tới nay không một phơng pháp nào đợc coi là thực sự hoàn thiện. Các
phơng pháp phân tích khác nhau đợc kết quả ở từng khía cạnh khác nhau của
từng vấn đề và thờng không mấy khi thống nhất.
- Phơng pháp phân tích dựa trên cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán quốc tế là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền
mà nớc ngoài trả cho một nớc và những khoản tiền mà nớc đó trả cho nớc
ngoài trong một thời gian nhất định.
Cán cân thanh toán của một quốc gia tại một thời điểm có thể cân
bằng, có thể bội thu hoặc thâm hụt. Trờng hợp bội thu hay thâm hụt sẽ dẫn
đến hệ quả tài sản ngoại hối của một nớc có thể giảm xuống hoặc tăng lên do
luồng ngoại hối chảy ra nớc ngoài hoặc ngợc lại. Do đó, ngời ta cho rằng cán
cân thanh toán phản ánh trực tiếp thực trạng kinh tế- tài chính của một quốc
gia, quyết định cung cầu tiền tệ của quốc gia đó và nh vậy ảnh hởng trực tiếp
đến biến động tỷ giá hối đoái.
-Phân tích dựa trên ngang giá sức mua
Ngợc lại với phơng pháp phân tích dựa trên cán cân thanh toán, thuyết
ngang giá sức mua của các đồng tiền (PPP-Purchasing Power Parity) lại coi
nguồn hàng luân chuyển giữa hai quốc gia là kết quả tỷ giá hối đoái và biến
động tỷ giá là do chênh lệch sức mua các đồng tiền gây ra. Thuyết ngang giá
sức mua đợc sử dụng để tính toán tỷ giá hối đoái thực và để dự đoán biến
động tỷ giá trên các thay đổi giá cả trong tơng lai.
-Phơng pháp phân tích dựa trên danh mục đầu t (Portfolio Approach)
Phơng pháp phân tích dựa trên danh mục vốn tập trung vào lợng ngoại

tệ đang nắm giữ của một quốc gia (số d ngoại tệ tại từng thời điểm) chứ
không quan tâm nhiều đến sự luân chuyển các luồng tiền tệ. Ngời ta coi việc
so sánh tình trạng rủi ro ngoại hối thực tế với dự tính là cơ sở để tính toán
khả năng điều chỉnh cơ cấu vốn đầu t (quyết định đầu t vào đồng tiền nào,
khối lợng bao nhiêu). Trong phơng pháp này, dự tính thị trờng của các thành
viên thị trờng đóng vai trò chủ đạo, quyết định về phân bổ tài sản có của một
nhà đầu t dựa trên dự tính về lợi nhuận và độ an toàn của danh mục vốn đầu
t. Nếu cho rằng các khoản đầu t ngoại tệ là quá mạo hiểm trong mối tơng
quan với lợi nhuận mà chúng đem lại thì nhà đầu t đó chắc chắn chỉ giữ một
phần rất nhỏ tài sản của mình bằng ngoại tệ. Trờng hợp dự tính lãi suất ngoại
tệ đáng kể mạo hiểm thì nhà đầu t sẽ mở rộng hơn phần ngoại tệ trong danh
mục vốn đầu t của mình. Những điều chỉnh tơng tự nh vậy đợc thực hiện rất
linh hoạt chẳng hạn số lợng các chứng khoán ngoại tệ trong một danh mục
vốn đầu t của mình. Những điều chỉnh tơng tự nh vậy đợc thực hiện rất linh
hoạt chẳng hạn số lợng các chứng khoán ngoại tệ trong một danh mục đầu t
tăng từ 5% đến 10% trong vòng 1 tuần hoàn toàn không phải là bất thờng.
Nh vật sự luân chuyển ngoại tệ do việc phân bổ hạng mục đầu t gây ra có thể
dẫn đến biến động tỷ giá mạnh và đột ngột. Do đó, cần phải dự đoán trớc đợc
sự thay đổi này một cách chính xác tơng đối để phòng ngừa rủi ro trong kinh
doanh ngoại tệ.
Phân tích kỹ thuật
Ngợc lại với phân tích cơ sở, phân tích kỹ thuật tập trung quan sát sự
biến động của bản thân tỷ giá hối đoái. Sự biến động của tỷ giá hối đoái
trong quá khứ đợc coi là cơ sở duy nhất cho việc dự đoán tỷ giá tơng lai.
Sự diễn biến giá cả hay tỷ giá theo thời gian đợc biểu diễn trên một đồ thị.
Chính vì lẽ đó mà phơng pháp phân tích này thờng đợc coi là phơng pháp
phân tích đồ thị. Bằng cách sử dụng đồ thị, những thông tin quan trọng có
thể dự đoán tình hình giá cả trong tơng lai.
Đồ thị đợc chia làm ba loại tuỳ theo việc biểu diễn biến động tỷ giá
nh thế nào:

+ Đồ thị biểu diễn theo đờng
+ Đồ thị biểu diễn theo vạch
+ Đồ thị biểu diễn theo điểm và theo hình.
b. Quản lý rủi ro tỷ lệ lãi suất (tỷ lệ SWAP)
Nh đã nói ở phần trên về rủi ro tỷ lệ lãi suất (hay rủi ro tỷ lệ SWAP)
thực chất là rủi ro xảy ra khi chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền tham gia
vào giao dịch biến đổi bất lợi.
Trong trạng thái hối đoái SWAP, việc mua bán một đồng tiền có những
ngày giá trị khác nhau do biến đổi của chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền
làm cho tỷ lệ SWAP cũng biến đổi trái với dự kiến ban đầu sẽ gây thiệt hại
cho nhà kinh doanh ngoại hối khi khối lợng ngoại tệ tham gia vào giao dịch
lớn. Chính vậy, để phòng ngừa các rủi ro về tỷ lệ SWAP ngời ta dùng một số
công cụ hiệu quả sau:
Hợp đồng lãi suất kỳ hạn (Foward Rate Agreement- FRA)
Khi ký một hợp đồng kỳ hạn cho một đồng tiền là chúng ta tạo khả
năng ấn định trớc lãi suất của đồng tiền đó cho một thời hạn trong tơng lai.
Đây là hình thức hợp đồng lãi suất đợc kinh doanh trên thông tin liên ngân
hàng, và đợc các ngân hàng sử dụng nh một công cụ phòng tránh rủi ro lãi
suất cho từng khối lợng tiền, đồng tiền hay thời gian nhất định nào đó.
Một hợp đồng lãi suất có kỳ hạn có thể đợc thực hiện với mọi đồng
tiền chuyển đổi. Số lợng tối thiểu với mọi đồng tiền vào khoảng 5 triệu đơn
vị (ví dụ 5 triệu JPY hay 5 triệu SGD). Đặc điểm của các hợp đồng lãi suất
kỳ hạn là ở chỗ không bao giờ có sự chuyển đồi tiền gốc mà chỉ có những
khoản chênh lệch lãi suất đợc trả theo số lợng tiền gốc vào ngày thanh toán,
lãi suất áp dụng ở đây là lãi suất LIBOR.
Ví dụ: một hợp đồng lãi suất kỳ hạn đợc yết thị: FRA 6 tháng trên 9
tháng, nghĩa là lãi suất nói đến ở đây là cho khoản tín dụng thời hạn 3 tháng
đợc tính đúng theo yêu cầu nguyên tắc: lãi suất của toàn bộ thời kỳ phải
ngang bằng với lãi suất trung bình của hai giai đoạn ngắn. Có nghĩa là lãi
suất cho 9 tháng phải tơng đơng với lãi suất cho 6 tháng trớc khi FRA cũng

nh cho cả thời hạn 3 tháng của FRA.
Thờng thì chênh lệch lãi suất đợc trả ngay khi tính toán hợp đồng,
nghĩa là ngay khi bắt đầu thời gian này. Nh vậy chênh lệch này đợc thực hiện
bằng chiết khấu bởi vì thờng phải trả lãi suất vào cuối thời hạn tín dụng. Nh
vậy, một trạng thái rủi ro lãi suất có thể thực hiện phòng chống bằng cách ký
kết hợp đồng lãi suất kỳ hạn tơng ứng. Lợi nhuận hay thua lỗ của trạng thái
này sau đó đợc bù trừ bằng thua lỗ hay lợi nhuận qua thực hiện hợp đồng lãi
suất kỳ hạn.
Một nguyên tắc quan trọng ở đây là ngời vay tiền đề phòng tình trạng
lãi suất cao hơn thì phải mua còn ngời đầu t muốn tránh tình trạng lãi suất hạ
thì phải bán FRA.
Quyền lựa chọn lãi suất (Option on Interest Rate Future)
Ngoài việc áp dụng các hợp đồng lãi suất kỳ hạn , trên thị trờng tiền
tệ, ngời ta có thể dùng công cụ quyền chọn lãi suất để phòng ngừa rủi rolãi
suất. Một quyền lựa chọn lãi suất trao sau đem lại cho ngời mua một quyền
chứ không phải nghĩa vụ đợc hởng (trong trờng hợp quyền chọn mua hợp
đồng lãi suất kỳ hạn- call option) hay trả (trong trờng hợp quyền chọn bán
hợp đồng lãi suất kỳ hạn- put option), lãi suất cơ sở theo thoả thuận (hay còn
gọi là lãi suất ớc định- strike rate) với thời hạn ấn định trớc.
Cụ thể, là quyền đợc mua hoặc bán một số lợng ngoại tệ trong một
khoảng thời gian hoặc một thời điểm xác định trong tơng lai với một tỷ giá
thoả thuận ấn định tại một thời điểm giao dịch. Nói một cách khác, giao dịch
quyền chọn này cho ngời mua quyền (không phải nghĩa vụ) để mua hoặc
bán một lợng ngoại hối nhất định vào hoặc trớc ngày đến hạn tại một tỷ giá
đã thoả thuận, đồng thời phải trả cho ngời bán quyền một khoản phí nhất
định.
Khoản phí này hay còn đợc gọi là giá mua quyền (Premium) cũng
giống nh mọi giá cả thị trờng khác do quan hệ cung-cầu chi phối. Những yếu
tố sau đây sẽ tác động đến quyền lựa chọn:
+ Chênh lệch lãi suất ớc định và lãi suất thị trờng hiện thời

+ Thời hạn của hợp đồng quyền chọn
+ Độ biến động của các lãi suất tham chiếu nhất định
Trong thực tế, quyền lựa chọn đối với hợp đồng lãi suất kỳ hạn đợc
kinh doanh rất phổ biến, các trạng thái có thể đợc tất toán bất cứ lúc nào
bằng nghiệp vụ đối ứng - closing out. Các quyền chọn có thể đợc tất toán tự
động vào ngày giao dịch cuối cùng. Vào thời điểm này, chênh lệch mang dấu
dơng (positive) giữa giá ớc định và giá hiện hành của hợp đồng lãi suất kỳ
hạn đối với ngời mua, quyền sẽ đợc ghi có cho ngời mua hoặc ghi nợ tơng
ứng cho ngời bán quyền. Trong trờng hợp chênh lệch này mang dấu âm
(negative) đối với ngời mua quyền thì quyền này hết hạn và không có giá
trị.
Quyền lựa chọn có 3 loại:
1. Quyền lựa chọn lãi suất trần (CAP): là công cụ phòng chống rủi ro khi lãi
suất tối đa.
2. Quyền lựa chọn lãi suất sàn (Floor): là công cụ tránh rủi ro khi lãi suất hạ
bằng cách ấn định lãi suất tối thiểu.
3. Kết hợp các quyền lựa chọn lãi suất trên.
3.2.2. Quản lý rủi ro tín dụng
Các ngân hàng quản lý rủi ro tín dụng bằng cách chọn lựa kỹ bạn
hàng, quy định hạn mức song phơng cho khối lợng ngoại hối giao dịch, cũng
nh trong giao dịch với khách hàng đòi hỏi một khoản bảo hiểm theo tỷ lệ
phần trăm nhất định, thờng là 20% so với số giao dịch trong hợp đồng.
Trong giao lu với các ngân hàng, việc đòi hỏi bảo hiểm thờng không
phổ biến. ở đây chỉ có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro thông qua việc từ chối
chuyển đổi nhằm hạn chế rủi ro, bằng cách các ngân hàng quy định hạn mức
song phơng mà họ chỉ mua bán trong phạm vi đó với các ngân hàng khác.
Khi giới hạn bị vi phạm thì nhng thoả thuận tiếp theo phải bị từ chối, với chú
thích là đã hết định mức hoặc chỉ ra cho bạn hàng thấy rằng trong thời điểm
đó ngân hàng không muốn ký thoả thuận tiếp với họ nữa (ví dụ nh thông qua
việc lập ra một khoảng cách tỷ giá).

Trong thực tế, việc quy định hạn mức cũng biến động, khác nhau giữa
các ngân hàng. Trong một đồ án đợc sử dụng rộng rãi, ngời ta quy định hạn
mức cân đối ngoại hối và cả hạn mức cho khối lợng của các giao dịch cha
thanh toán, nhất là trong kinh doanh kỳ hạn. Hạn mức cân đối ngoại tệ có
mục đích hạn chế rủi ro trong cung ứng. Nó đảm bảo rằng thời hạn thanh
toán của kinh doanh ngoại hối trong từng ngày không vợt quá giới hạn cho
phép. Rủi ro tỷ giá hối đoái phát sinh từ việc cần thiết phải ký kết những
nghiệp vụ kinh doanh bổ xung sẽ không bị hạn chế trực tiếp. Điều này đợc
tập hợp thông qua quy định hạn mức cho khối lợng của các giao dịch cha
thanh toán, mà ở đây chỉ lu ý đến nghiệp vụ thời hạn hoặc nghiệp vụ giao
ngay. Tính chất hoàn chỉnh chỉ đợc đề cập khi các rủi ro tín dụng có thể bị
loại trừ, nếu thoả thuận đợc với bạn hàng chỉ thanh toán trở lại sau khi đã
nhận đợc giá trị đã thoả thuận. Nhng biện pháp này chỉ áp dụng trong trờng

×