Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

XD hoàn thiện nhân cách người thầy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 9 trang )


1
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH
NGƯỜI THẦY GIÁO

I.Sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhân cách người thầy:
1. Sản phẩm lao động của người thầy là nhân cách học sinh do những yêu cầu khách
quan của xã hội qui định:
Sản phẩm nhân cách học sinh là kết quả tổng thể của cà thầy lẫn trò nhằm biến
những tinh hoa của nền văn minh xã hội thành tài sản riêng - sự phát triển tâm lí, của trò.
Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những phẩm chất tương ứng
trong nhân cách người thầy sẽ tạo nên chất lượng cao của sản phẩm giáo dục.
2. Thầy giáo là người quyết định trực tiếp chất lượng giáo dục:
Trình độ tư tưởng, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn và sự phát triển tư duy độc
lập, sáng tạo của học sinh không chỉ phụ thuộc vào chương trình và sách giáo khoa, cũng
không chỉ phụ thuộc vào nhân cách học sinh, mà còn phụ thuộc vào người thầy, vào phẩm
chất chính trị, trình độ chuyên môn và khả năng tay nghề của nhân vật chủ đạo trong nhà
trường.
3. Thầy giáo là cái “dấu nối” giữa văn hóa nhân loại và dân tộc với việc tái tạo nền
văn hóa đó chính trong thế hệ trẻ:
- Nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc chỉ được bảo tồn và phát triển thông qua
sự lĩnh hội nền văn hóa của thế hệ trẻ. Tuổi trẻ không làm được việc đó mà phải huấn
luyện theo phương thức đặc biệt là nhà trường thông qua vai trò của người thầy.
- Tri thức khoa học là phương tiện hoạt động dạy của người thầy, đồng thời là mục
đích hoạt động học của trò. Trò hoạt động theo sự tổ chức và điều khiển của thầy để tái
sản xuất nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc, tạo ra sự phát triển tâm lý của chính
mình, tạo ra những năng lực mới mang tính con người .
- Thầy đã biến quá trình giáo dục của mình thành quá trình tự giáo dục của trò. Vì
thế giáo dục và tự giáo dục thống nhất với nhau trong việc làm nên sản phẩm giáo dục
nhân cách.
- Sứ mạng trên của người thầy thật vẻ vang, nhưng công việc không đơn giản,


không mang tính lặp lại, nó phải dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà loài người đã đi
qua khi phát hiện ra những tri thức khoa học phải dựa trên cơ sở của những thành tựu tâm
lý học, giáo dục học hiện đại, đồng thời phải am hiểu đầy đủ đặc điểm và trình độ phát
triển về mọi mặt của trẻ nhất là trí tuệ và đạo đức.
- Công việc đó đòi hỏi một quá trình học tập lí luận nghiêm túc, trau dồi chuyên
môn, rèn luyện tay nghề…,nói chung là trau dồi nhân cách người thầy.

II.Đặc điểm lao động của người thầy:
1.Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người:
- Vì đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, đòi hỏi người thầy phải có sự tôn
trọng, lòng tin, tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị…

2
- Đối tượng của người thầy và con người đang trong thời kì chuẩn bị, đang ở buổi
bình minh của cuộc đời. Xã hội tương lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ tùy thuộc
vào nội dung và chất lượng của thời kì chuẩn bị này.
2.Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình:
- Trong dạy học và giáo dục, thầy dùng nhân cách của chính mình để tác động vào
học sinh. Đó là phẩm chất chính trị là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng
yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp, là lối sống, cách
ứng xử và kỹ năng giao tiếp…
- Nghề đào tạo con người lại là nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo ra
thứ phẩm hay phế phẩm như ở một số nghề khác.
- Để trở thành một người thầy tốt, trước hết cần phải sống một cuộc sống chân
chính, vẹn toàn nhưng đồng thời phải có ý thức và kĩ năng tự hoàn thiện mình. Tâm hồn
của nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để có khả năng truyền lại gấp bội cho thế hệ trẻ.
3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội:
- Sức lao động chính là toàn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con người,
nhân cách sinh động của cá nhân cần thiết để sản xuất ra sản phẩm vật chất hay tinh thần
có ích cho xã hội.

- Chức năng của giáo dục, mà thầy giáo là lực lượng chủ yếu, chính là bồi dưỡng và
phát huy sức mạnh đó ở trong con người.
4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sang tạo cao:
- Ai có ở trong nghề thầy giáo, ai có làm việc với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, với
lương tâm nghề nghiệp cao thượng thì mới cảm thấy lao động sư phạm là một loại lao
động căng thẳng, tinh tế, không rập khuôn, không đóng khung trong một giờ giảng, trong
khuôn khổ nhà trường.
- Dạy học đòi hỏi người thầy phải dựa trên nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ
môn cũng như khoa học giáo dục và có những kĩ năng sử dụng chúng vào từng tình huống
sư phạm cụ thể, thích ứng với từng cá nhân sinh động.
- Tính khoa học, tính sáng tạo cao đến mức khi thể hiện nó như là một người thợ cả
lành nghề, một nghệ sĩ của quá trình sư phạm.
5.Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp, với hai đặc điểm:
- Phải có thời kì khởi động, nghĩa là thời kì để cho lao động đi vào nề nếp, tạo ra
hiệu quả.
- Vượt ra khỏi không gian (lớp, trường), thời gian (8 giờ làm việc)

III.Cấu trúc nhân cách người thầy:
- Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản
sắc - nét đặc trưng và giá trị tinh thần -giá trị làm người , của mỗi người.
Vậy cấu trúc nhân cách gồm phẩm chất (đức ) và năng lực ( tài ).
- Cấu trúc nhân cách người thầy:
*Các phẩm chất: thế giới quan khoa học, lí tưởng đào tạo thế hệ trẻ lòng yêu trẻ, lòng
yêu nghề, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của nghề giáo.

3
*Các năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, tri
thức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực dạy học và giáo dục,
năng lực dạy học, năng lực ngôn ngữ, năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh,
năng lực đối xử khéo léo sư phạm, năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.

A. Phẩm chất người thầy :
1.Thế giới quan khoa học :
-Thế giới quan :Hệ thống quan điểm của con người trước những quy luật tự nhiên,
về xã hội - nó vừa là sự hiểu biết , quan điểm vừa là sự thể nghiệm , là tình cảm sâu sắc .
-Thế giới quan duy vật biện chứng của người thầy giáo Việt Nam được hình thành
do ảnh hưởng của trình độ học vấn , của quá trình nghiên cứu nội dung giảng dạy, nghiên
cứu triết học và nói chung là toàn bộ thực tế đất nước (kinh tế , khoa học , văn hóa , nghệ
thuật …) .
-Thế giới quan người thầy chi phối mọi mặt hoạt động cũng như thái độ đối với các
hoạt động như việc lựa chọn phương pháp giảng dạy và giáo dục , việc kết hợp giữa giáo
dục với nhiệm vụ chính trị xã hội , gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống ,
phương pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của học sinh .
2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ:
- Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là ngôi sao dẫn đường giúp cho người thầy luôn đi lên
phía trước ,thấy hết giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ,đồng thời cũng ảnh hưởng
sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh .
- Biểu hiện của lý tưởng đó là niềm say mê nghề nghiệp , lòng yêu trẻ lương tâm
nghề nghiệp , tận tụy hi sinh với công việc , tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm cao lối
sống giản dị và thân tình… .Những cái đó giúp người thầy thêm sức mạnh vượt qua mọi
khó khăn về vật chất và tinh thần, hoàn thành nhiệm vụ. Hơn nữa nó sẽ để lại những dấu
ấn đậm nét trong tâm trí học sinh ,nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình
thành và phát triển của trẻ.
3.Lòng yêu trẻ:
-“Đối với một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người, đó là một nhu cầu sâu sắc
trong con người.Những mầm móng của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy
tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác , cho
trẻ thơ thì ở chỗ họ sẽ có một tài sản vô giá : đó là tình người, mà tập trung là sự nhiệt tâm,
thái độ ân cần và chu đáo, lòng vị tha.” (Xukhômlinski).
-Lòng yêu trẻ được thể hiện :
* Cảm thấy sung sướng và niềm vui khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế

giới độc đáo của trẻ. Nếu tình cảm này được nảy nở sớm được bao nhiêu, càng được thoả
mãn sớm chừng nào qua hoạt động phù hợp thì ở người đó càng sớm chiếm nhiều tình yêu
và nguyện vọng hoạt động sư phạm bấy nhiêu.
* Thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần đối với trẻ,kể cả những em học kém và vô
kỷ luật.

4
* Luôn thể hiện tinh thần giúp đỡ trẻ bằng ý kiến hoặc bằng hành động thực tế của
mình một cách chân thành và giản dị, không có sự phân biệt đối xử với mọi đối tượng học
sinh.
* Tuy nhiên lòng yêu trẻ của người thầy không thể pha trộn với những nét uỷ mị,
mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ.
4.Lòng yêu nghề (Yêu lao động sư phạm).
-Có lòng yêu người, yêu trẻ mới có lòng yêu nghề.Người thầy phải luôn nghĩ đến
việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Trong công tác họ luôn luôn làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không tự thoả mãn với
trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có niềm vui khi được giao tiếp với học
sinh; sự giao tiếp này sẽ làm phong phú cuộc đời người thầy: càng làm cho người thầy có
nhiều cảm xúc tích cực và say mê hơn.
-“Để đạt được thành tích trong công tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất –đó
là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong công việc là đủ cho họ trở thành giáo viên
tốt” (L.N Tônxtôi).
5.Một số phẩm chất đạo đức và ý chí của người thầy :
-Gồm :Tinh thần nghĩa vụ, tinh thần “mình vì mọi người”, nhân đạo, lòng tôn trọng,
thái độ công bằng, chính trực tính tình ngay thẳng , giản dị và khiêm tốn, tính mục đích ,
tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn ,tự kiềm chế , tự chiến thắng những thói hư tật xấu, kỹ
năng điều khiển tình cảm tâm trạng cho thích hợp với tình huống sư phạm .vvv…
-Những phẩm chất đạo đức là nhân tố tạo ra sự cân bằng theo quan điểm sư phạm
trong các mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trò.
-Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của

người thầy thành hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh.
B.Năng lực sư phạm: Gồm
-Nhóm năng lực dạy học .
-Nhóm năng lực giáo dục .
-Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.
1.Nhóm năng lực dạy học:
a. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục:
-Đó là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về
nhân cách của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học
sinh.
-Chuẩn bị bài giảng phải biết đến trình độ văn hoá , trình độ phát triển của chúng,
hình dung được từng em, cái gì chúng biết , biết đến đâu,cái gì có thể quên hoặc khó hiểu
khi soạn giảng phải biết đặt mình vào vị trí của người học .Đặc biệt suy nghĩ về đặc điểm
của nội dung, xác định khối lượng, mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho thuận
lợi nhất đối với học sinh.
-Người thầy hiểu học sinh trong vấn đề giảng dạy của mình, căn cứ vào một loạt
dấu hiệu do quan sát tinh tế có thể xây dựng những biểu tượng chính xác về những lời
giảng giải của mình đã được các học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào .

5
Người thầy có năng lực hiểu học sinh còn biểu hiện ở chỗ dự đoán được thuận lợi
và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ
nhận thức.
-Năng lực này là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và
sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý học trẻ , tâm lý học
sư phạm, sự tinh ý sư phạm quan sát, óc tưởng tượng, khả năng phân tích, tổng hợp…
b/ Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy:
-Là năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực trụ cột của
nghề dạy học:
* Thầy có nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc biệt là

tri thức, quan điểm…
* Công việc thầy giáo là vừa dạy học,vừa giáo dục – một dạng lao động phong phú
và đa dạng .Vừa dạy một môn học ,vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có một nhãn quan rộng,
có những hứng thú và thiên hướng thích hợp.
* Khoa học – công nghệ phát triển nhanh, hơn nữa yêu cầu của xã hội đối với giáo
dục ngày càng cao, hứng thú và nguyện vọng của trẻ ngày càng phát triển.
* Tri thức và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ tạo ra uy tín của người thầy.
-Người thầy có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện:
* Nắm vững và hiểu biết rộng môn mình giảng dạy.
*Thường xuyên theo dõi, nắm bắt những xu hướng, những phát minh trong khoa
học thuộc môn mình phụ trách, có hứng thú lớn lao đối với bộ môn.
*Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình.
-Điều kiện để có năng lực này là hai yếu tố cơ bản trong chính mỗi người thầy: nhu
cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết ,đó là nguồn gốc của tính tích cực và động lực
của việc tự học và những kỹ năng , phương pháp tự học để làm thỏa mãn nhu cầu đó.
c/ Năng lực soạn giảng:
- Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy đối với tài liệu học tập nhằm làm
cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ kinh
nghiệm của các em và đảm bảo lôgic sư phạm.
- Thầy phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu, xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu
kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh.
- Bước tiếp theo là phải chế biến, gia công tài liệu làm cho nó vừa đảm bảo lôgic
khoa học vừa phù hợp với lôgic sư phạm, lại thích hợp với trình độ nhận thức của trẻ. Hơn
nữa cũng cần phải biết bổ sung tài liệu đó bằng những điều lấy từ sách vở, từ quan sát và
thu thập từ cuộc sống.
- Điều kiện để có năng lực trên là:
* Người thầy có khả năng phân tích, tổng hợp,hệ thống hóa kiến thức, suy nghĩ
cách trình bày, dẫn dắt quá trình tiếp thu của trẻ.
* Phải có óc sáng tạo, truyền đạt kiến thức cho người khác hiểu không phải đơn
giản. Việc xây dựng lại cấu trúc tài liệu cho phù hợp với đặc điểm đối tượng là một quá

trình lao động sáng tạo. Tuy nhiên, không có nghĩa là làm cho tài liệu đơn giản, thô thiển,
hạ thấp trình độ học sinh.

6
* Tính sáng tạo khi chế biến tài liệu thể hiện ở chỗ:
* Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận cuả mình, cung cấp cho học sinh
những kiến thức chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thứ mới, kiến
thức bộ môn này với bộ môn khác, liên hệ vận dụng vào thực tiễn.
-Tìm ra phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và
giàu cảm xúc tích cực.
-Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo.
d/ Nắm vững kỹ thuật dạy học:
- Là nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của trò qua bài
giảng. Thể hiện ở chỗ:
* Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí “người phát minh” trong
quá trình dạy học.
* Truyền đạt tài liệu chính xác, rõ ràng dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với
học sinh.
* Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập.
* Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập như động viên, khêu gợi sự chú ý,
chuyển hóa kịp thời từ trạng thái làm việc sang trạng thái nghỉ ,giảm căng thẳng giây lát và
ngược lại, khác phụ sự suy giảm hoạt động trong giờ giảng hoặc thái độ thờ ơ, uể oải.

Hình thành năng lực như vậy, nắm vững kỹ thuật dạy học vừa nêu không phải dễ
dàng. Trái lại, nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc ,cả lý luận cơ bản và lý
luận nghiệp vụ và rèn luyện tay nghề công phu.

2. Năng lực ngôn ngữ:
Là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình cảm của mình bằng lời nói
cũng như nét mặt và điệu bộ .Nó là công cụ sống còn bảo đảm người thầy thực hiện chức

năng của mình vì :bằng ngôn ngữ thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của học sinh vào bài
giảng ,truyền đạt thông tin điều khiển và điều chỉnh họat dộng và nhận thức của học sinh.
- Biểu hiện của năng lực ngôn ngữ :
Về nội dung :
* Ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn ,diễn tả , trình bày phải chính xác ,
cô động ; đó là kết quả của sự uyên thâm về hiểu biết , của sự suy nghĩ sâu sắc .
* Lời nói phải phản ảnh sự kế tục và tính luận chứng để đảm bảo thông tin liên tục ,
lôgic .
* Nội dung và hình thức ngôn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác
nhau :thông báo tài liệu mới , bình luận câu trả lời của học sinh , biểu lộ sự tán đồng hay
bất bình
* Nhận thức người thầy là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nói của mình .
Sức mạnh ,sự lôi cuốn , lực hấp dẫn , tính điều chỉnh của lời nói của người thầy giáo tùy
thuộc vào nhân cách , uy tín của chính họ .
Về hình thức :

7
* Hình thức ngôn ngữ của người thầy có năng lực thường giản dị , sinh động ,giàu
hình ảnh có ngữ điệu , sáng sủa, biểu cảm , với cách pháp âm mạch lạc trong đó không có
những ai phạm về mặt tu từ học , về ngữ pháp , ngữ âm .
Vì thế , người thầy giáo cần suy nghĩ để lựa chọn hình thức trình bày sao cho dễ
hiểu, có chiều sâu về tư tưởng có sức lay động được tâm hồn của học sinh . Những lời
nói cầu kỳ ,hoa mỹ nhưng rỗng tuếch thường không gây ấn tượng tốt cho học sinh.
* Phải thúc đẩy tối đa sự chú ý và suy nghĩ của học sinh vào bài giảng ,cần tránh
những câu dài ,cấu trúc từ phức tạp , những thuật ngữ và cách trình bày khó hiểu .Sự khôi
hài đúng chỗ, sự pha trò nhẹ nhàng , sự châm biếm dí dỏm , có thiện ý sẽ có tác dụng giúp
học sinh tích cực suy nghĩ , học tập sôi nổi và tiếp thu tốt .
* Nhịp điệu ngôn ngữ cũng rất quan trọng : nếu đều đều , đơn điệu sẽ gây mệt mỏi
rất nhanh chóng , làm người nghe chán chường , uể oải và thờ ơ .Nhịp điệu quá gấp cũng
gặp khó khăn trong việc lĩnh hội , chóng gây mệt mỏi ,ức chế bảo vệ phát sinh nhanh .

Ngôn ngữ quá to ,quá mạnh hoặc quá yếu , giọng thé cũng ảnh hưởng tương tự .
Vậy nhịp độ tối ưu đôi với sự lĩnh hội của học sinh là trung bình, họat bát .
2 . Nhóm năng lực giáo dục .
a/ Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh :
- Là năng lực biết dựa vào mục đích giáo dục , yêu cầu đào tạo , hình dung trước
cần phải giáo dục cho từng học sinh những phẩm chất nhân cách nào và hướng họat động
của mình để đạt tới hình mẫu trọn vẹn của con người mới .
- Biểu hiện của năng lực này :
* Vừa có kỹ năng tiên đóan sự phát triển của những thuộc tính này hay khác ở
từng học sinh , vừa nắm được nguyên nhân sinh ra cũng như mức độ phát triển của
những thuộc tính đó .
* Có sự sáng rõ về những biểu tượng nhân cách của học sinh sẽ thu được trong
tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển nhân cách do mình xây dựng .
* Hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình thành nhân cách
theo dự án.
Năng lực này được tạo ra bởi nhiều yếu tố tâm lý như : óc tưởng tượng sư phạm ,
tính lạc quan sư phạm , niềm tin vào sức manh giáo dục , niềm tin vào con người và óc
quan sát sư phạm .Nhờ năng lực nầy , công việc của người thầy trở nên có kế họach ,chủ
động và sáng tạo .
b/ Năng lực giao tiếp sư phạm :
- Là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và bên trong của
học sinh và bản thân , Đồng thời ,biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ , biết cách tổ chức , điều khiển và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục
đích giáo dục .
-Biểu hiện của năng lực giao tiếp :
* Kỹ năng định hướng giao tiếp : dựa vào sự biểu lộ bên ngoài như sắc thái biểu
cảm , ngữ điệu ,thanh điệu của ngôn ngữ cử chỉ ,tác động , thời điểm và không gian giao
tiếp mà phán đóan chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa chủ thể (giáo viên)
và đối tượng (học sinh) giao tiếp .


8
* Năng lực định vị :là sự đồng cảm giữa chủ thể và đối tượng , kỹ năng này là khả
năng biết xác định vị trí trong giao tiếp , đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng , tạo
điều kiện để đối tượng chủ động , thoải mái giao tiếp với mình .
* Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp : biết thu hút đối tượng , tìm ra đề tài giao
tiếp , xác định được hứng thú , nguyện vọng của đối tượng . Kỹ năng này bao gồm các kỹ
năng như làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân , biết sử dụng tòan bộ các phương tiện
giao tiếp : ngôn ngữ , cử chỉ , điệu bộ nét mặt , nụ cười , liếc mắt …
c / Năng lực cảm hóa học sinh :
- Là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt tình
cảm và ý chí . Nói cách khác , đó là khả năng làm cho học sinh nghe , tin và làm theo
mình bằng tình cảm , niềm tin .
Năng lực trên tùy thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất nhân cách người thầy như
tinh thần trách nhiệm , niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa , kỹ năng truyền đạt niền tin đó
, lòng tôn trọng học sinh , sự khéo léo , chu đáo , lòng vị tha và các phẩm chất của ý chí
Học sinh không nhất trí , không tán thành sự nhu nhược, sư khoan dung vô nguyên tắc , sự
cả tin một cách ngây thơ , sự uể oải , sự thiếu kiên quyết của người thầy .
- Năng lực này đòi hỏi người thầy phải phấn đấu tu dưỡng để có một nếp sống văn
hóa cao , một phong cách mẫu mực nhằm tạo ra uy tín chân chính và thật sự , biểu hiện từ
cử chỉ lời nói đến tinh thần lao động hăng say , lý tưởng nghề nghiệp cao đẹp ,….
- Phải xây dựng quan hệ thầy trò tốt đẹp vừa nghiêm túc vừa thân mật , có thái độ
yêu thương và tin tưởng học sinh biết đối xử công bằng và dân chủ ,chân thành giản dị
- Có tư thế tác phong gương mẫu trước học sinh : ăn nói lịch sự nhã nhặn , tôn trọng
cử chỉ đẹp , giọng điệu đàng hòang .
d/Năng lực đối xử khéo léo sư phạm .
- Là kỹ năng mà trong bất kỳ tình huống nào cũng tìm ra tác động sư phạm đúng đắn
nhất như là một nghệ thuật .
- Biểu hiện :
* Sư nhạy bén về mức độ sử dụng bất cứ một tác động sư phạm nào :khuyến kích ,
trách phạt hay ra lệnh .

* Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ ,không
nóng vội không thô bạo .
* Biết biến cái bị động thành chủ động , giải quyết một cách mau lẹ những vấn đề
phức tạp đặt ra .
* Phải quan tâm chu đáo đến trẻ, có tính đến đầy đủ những đặc điểm tâm lý cá nhân
học sinh.
-Cơ sở hình thành năng lực này : là lương tãm nghề nghiệp , niềm tin yêu và tôn
trọng trẻ, tin thông nghề nghiệp.
3/Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm
-Biểu hiện :
*Biết tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác dạy
học và giáo dục trên lớp hay ngoài nhà trường .

9
*Biết đòan kết học sinh thành một tập thể thống nhất , lành mạnh , có kỷ luật , có nề
nếp .
* Biết tổ chức và vận động nhân dân , phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội
tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu xác định .
- Để có kỹ năng trên , người thầy phải :
+ Biết vạch kế họach : suy nghĩ chín chắn , sâu sắc các tình huống giáo dục và đặc
điểm đối tượng , kế hoạch phải kết hợp yêu cầu trước mắt và lâu dài , đảm bảo tính
nguyên tắc và linh họat , kiểm tra kế hoạch để đánh giá hiệu quả và biết bổ sung kế
hoạch .
+ Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục khác nhau
nhằm tổ chức tốt việc học tập và có tác dụng sâu sắc đến tư tưởng và tình cảm của học
sinh .
+ Biết định ra mức độ và giới hạn của từng biện pháp .
+ Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế họach và biện pháp giáo dục.

V.Sự hình thành uy tín người thầy:

-Người thầy giáo có uy tín thường có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm
của các em, được các em yêu mến và kính trọng. Sức mạnh tinh thần và khả năng cảm hóa
của người thầy có uy tín thường được nâng lên gấp bội.
-Thực chất của uy tín, cô đọng lại đó là tấm lòng và tài năng của người thầy. Vì có tấm
lòng, người thầy mới có tấm lòng yêu thương học sinh, tận tụy với công việc và đạo đức
trong sáng Bằng tài năng, người thầy đạt được hiệu quả cao trong dạy học và giáo dục.
Do đó, đối với nhiều học sinh, người thầy có uy tín đã trở thành hình tượng lý tưởng của
cuộc đời các em và các em mong muốn xây dựng cuộc sống của mình theo hình mẫu lý
tưởng đó.
-Uy tín thực, uy tín chân chính được toát lên từ toàn bộ cuộc sống của người thầy, nó là
kết quả của sự hoàn thiện nhân cách, là hiệu quả lao động đầy kiên trì và giàu sáng tạo, là
do sự kiến tạo quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò.
- Điều kiện để hình thành uy tín thầy giáo:
* Thương yêu học sinh và tận tụy với nghề.
* Công bằng trong đối xử :không thiên vị , không thành kiến , không cảm tính.
* Phải có chí tiến thủ :nguyện vọng tự phát triển , nhu cầu về sự mở rộng tri thức , hòan
thiện kỹ năng nghề nghiệp.
* Có phương pháp và kỹ năng tác động trong dạy học và giáo dục hợp lý , hiệu quả và
sáng tạo.
* Mô phạm , gương mẫu về mọi mặt , mọi lúc và mọi nơi .

Tóm lại , nhân cách là bộ mặt chính trị , đạo đức của người thầy giáo , là công cụ
chủ yếu để tạo ra sản phẩm giáo dục . Sự hình thành và phát triển nhân cách là cả
một quá trình tu dưỡng , bồi dưỡng văn hóa và rèn luyện tay nghề trong chính thực
tiễn sư phạm .

×