Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Nghiên cứu thực trạng và xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh tại xã thủy phù, thị xã hương thủy, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.88 KB, 57 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC



LÊ KIM THANH



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ CÁC ĐỊNH MỘT SỐ YẾU TỐ
ẢNH HƢỞNG ĐẾN TỶ SỐ GIỚI TÍNH KHI SINH TẠI XÃ THỦY
PHÙ, THỊ XÃ HƢƠNG THỦY, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ NĂM 2011



Luận văn tốt nghiệp cử nhân y khoa



Ngƣời hƣớng dẫn Luận văn:
ThS.GVC Hoàng Đình Huề



Huế, 2012










LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả trong Luận văn này là trung thực và chưa
từng được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.

Huế, tháng 5 năm 2012
Sinh viên thực hiện


Lê Kim Thanh




CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CN Công nghiệp
CNVC Công nhân viên chức
DS – KHHGĐ Dân số kế hoạch hóa gia đình
ĐTBĐDS Điều tra biến động dân số
NĐ – CP Nghị định Chính phủ

PGD (Pre-implantation Genetic Diagnosis)
Chẩn đoán tiền mang thai
QĐ-TTg Quyết định Thủ tướng
SRB (Sex Ratio at Birth) Tỷ số giới tính khi sinh
TC – CĐ – ĐH Trung cấp, Cao đẳng, Đại học
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TĐTDS Tổng điều tra dân số
TP Thành phố
TSGTKS Tỷ số giới tính khi sinh
UBND Ủy ban nhân dân
UNFPA (United Nations Population Fund)
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc



MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tỷ số giới tính khi sinh tại châu Á 3
1.2. Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam 5
1.2.1. Báo động đỏ mất cân bằng giới tính ở miền Trung 7
1.3. Nguyên nhân chính dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh 7
1.3.1. Chính sách của Nhà nước về giảm sinh 7
1.3.2. Các yếu tố kinh tế xã hội và phong tục tập quán 9
1.4. Hệ quả của sự chênh lệch giới tính 10
1.5. Một số giải pháp khẩn thiết 11
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Đối tượng nghiên cứu 14

2.1.1. Đối tượng 14
2.1.2. Cỡ mẫu nghiên cứu 14
2.1.3. Tiêu chuẩn lựa chọn 14
2.1.4. Tiêu chuẩn loại trừ 14
2.2. Phương pháp nghiên cứu 15
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 15
2.3.1. Địa điểm nghiên cứu 15
2.3.2. Thời gian nghiên cứu 15
2.4. Kỹ thuật thu thập thông tin 16
2.5. Công cụ thu thập thông tin 16
2.6. Nội dung, biến số nghiên cứu 16
2.6.1. Nghiên cứu định lượng 16
2.6.2. Nghiên cứu định tính 17



2.6.3. Cách đánh giá thu thập thông tin 17
2.6.4. Phân tích và xử lý số liệu 18
2.6.5. Đạo đức trong nghiên cứu 18
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 19
3.1. Một số đặc trưng cá nhân của các bà mẹ 19
3.1.1. Phân bố nhóm tuổi của các bà mẹ 19
3.1.2. Trình độ học vấn và nghề nghiệp của các bà mẹ 20
3.1.3. Dân tộc và Tôn giáo của các bà mẹ 21
3.1.4. Hoàn cảnh kinh tế gia đình của các bà mẹ 21
3.2. Quá trình sinh con của các bà mẹ 22
3.2.1. Số lần sinh con và số con hiện sống của các bà mẹ 22
3.2.2. Tiền sử sẩy thai và nạo phá thai của các bà mẹ 22
3.3. Tỷ số giới tính khi sinh 23
3.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh 23

3.4.1. Mong muốn giới tính của con trước khi sinh 23
3.4.2. Lý do các bà mẹ muốn sinh con lần này 24
3.4.3. Biết giới tính thai khi mang thai và cách để biết 25
3.4.4. Thời gian đi siêu âm và mục đích đi siêu âm 25
3.4.5. Một số vấn đề liên quan tới việc siêu âm xác định giới tính 26
3.4.6. Ý định của các bà mẹ nếu siêu âm giới tính thai nhi không theo
mong muốn và quan niệm đối với việc phá thai 27
3.4.7. Sinh con theo ý muốn và cách thực hiện. 27
3.4.8. Hiểu biết của bà mẹ về Pháp lệnh dân số 28
3.5. Kết quả nghiên cứu định tính 28
Chƣơng 4. BÀN LUẬN 30
4.1. Bàn luận về tỷ số giới tính khi sinh 30
4.2. Bàn luận về các yếu tố ảnh hưởng tới tỷ số giới tính khi sinh 30



4.3. Bàn luận về hậu quả xã hội 35
4.4. Bàn luận về các giải pháp 36
KẾT LUẬN 38
1. Một số đặc trưng cá nhân của các bà mẹ 38
2. Tỷ số giới tính khi sinh 38
3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh 38
4. Kết quả nghiên cứu định tính 39
KIẾN NGHỊ 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC











1



ĐẶT VẤN ĐỀ


Tỷ số giới tính là một chỉ số nhân khẩu học phản ánh cơ cấu giới tính
của một quần thể dân số, trong đó tỷ số giới tính khi sinh thường được các
nhà nhân khẩu học quan tâm nhất. Tỷ số giới tính khi sinh được xác định
bằng số trẻ em trai được sinh ra trên 100 trẻ em gái. Tỷ số này thông thường
là 104 - 106/100 rất ổn định qua thời gian và không gian, giữa các châu lục
quốc gia, khu vực và chủng tộc người. Bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào
của tỷ số này chệch khỏi mức sinh học bình thường, đều phản ánh những can
thiệp có chủ định ở các mức độ khác nhau ảnh hưởng đến sự cân bằng tự
nhiên này [34].
Ba quốc gia trong khu vực châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc đã
từng chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự mất cân bằng giới tính [16]. Và giờ
đây Việt Nam đang là bản sao của Trung Quốc thập kỷ trước [10].
Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy tỷ số giới tính
khi sinh ở Việt Nam là 110,5 và không có sự khác biệt đáng kể giữa khu vực
thành thị và nông thôn. “Điểm nóng” của tỷ số giới tính khi sinh nằm ở vùng
Đồng bằng sông Hồng (115,3), Đông Nam Bộ (110,1) và 29/63 tỉnh, thành
phố có tỷ số giới tính khi sinh cao hơn mức trung bình của cả nước [21].

Mặc dù đã trải qua bốn thập kỷ với các chính sách xã hội nhằm làm
giảm sự bất bình đẳng về giới và làm giảm ảnh hưởng của tập quán quan hệ
gia trưởng, mong muốn có con trai vẫn tiếp tục điều khiển quá trình xây dựng
gia đình tại Việt Nam.
Dưới tác động của Chính sách Nhà nước về giảm sinh, tư tưởng trọng
nam khinh nữ cùng với sự hỗ trợ của các dịch vụ siêu âm, nạo phá thai, các kĩ
thuật lựa chọn giới tính khi sinh đã góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng
mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam. Hậu quả của mất cân bằng giới
2



tính khi sinh sẽ gây nên các bất ổn về xã hội như nhiều thanh niên sẽ không
có khả năng kết hôn, di cư bất hợp pháp vì mục đích hôn nhân, buôn bán phụ
nữ và gia tăng tỷ lệ người hoạt động tình dục đồng tính [6].
Tại Việt Nam, mới chỉ có một vài nghiên cứu về vấn đề này là trong
các cuộc Tổng điều tra dân số và các cuộc điều tra chọn mẫu biến động dân số
vào ngày 01/4 hàng năm.
Tại tỉnh Thừa Thiên Huế, theo báo cáo năm 2010 thì tỷ số giới tính khi
sinh khá cao (110/100) [24], tuy nhiên vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đi sâu
về nội dung này.
Do vậy để tìm hiểu đầy đủ hơn về vấn đề này chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thực trạng và xác định một số yếu tố ảnh
hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011” với mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ số giới tính khi sinh tại xã Thủy Phù, thị xã Hương
Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011.
2. Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh
tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011.
3




Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Một vài dòng giới thiệu về các khái niệm
Tỷ số giới tính: Tỷ số giới tính là số nam so với nữ trong một dân số,
thông thường được biểu thị số nam trên 100 nữ trong một dân số. Tỷ số giới
tính của toàn bộ dân số trung bình trong khoảng 95 đến 100. Do ảnh hưởng
sinh lý và các nhân tố khác nhau, cơ cấu giới tính, tuổi tác và tử vong không
đồng đều nên tỷ số giới tính của các nhóm tuổi có sự khác nhau [1].
Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS): Tỷ số giới tính khi sinh là một
chỉ số thống kê được xác định bằng số trẻ em trai sinh ra trên 100 trẻ em gái.
Tỷ số này thông thường là từ 104 - 106 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái và giá
trị của tỷ số này thường rất ổn định qua thời gian [34].
1.1. Tỷ số giới tính khi sinh tại châu Á
Tổng kết của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), châu Á là nơi có
sự mất cân bằng giới tính cao nhất trên thế giới và nếu như tỷ số giới tính tại
lục địa này ở mức tương đương như các khu vực khác, thì trong năm 2005, lẽ
ra châu Á phải có thêm 163 triệu phụ nữ [33].
Theo các nguồn số liệu của Liên hợp quốc, các nước châu Á như:
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ… bị mất cân bằng giới tính khi sinh rất
nghiêm trọng trong những năm 2000-2005. Hiện tỷ số giới tính khi sinh ở
Trung Quốc đang ở mức 120 trẻ trai/100 trẻ gái, Hàn Quốc 110 trẻ trai/100 trẻ
gái và Ấn Độ khoảng 112 trẻ trai/100 trẻ gái [22].
Để “đối phó” với vấn đề mất cân bằng giới tính do lựa chọn giới tính
thai nhi, các nước này đã đề ra nhiều chính sách: Luật: “Những kỹ thuật chẩn
đoán trước sinh” cấm việc lựa chọn giới tính bởi bất cứ ai, bất cứ phương tiện
nào trước hoặc sau khi thụ thai; chính sách tiền thưởng cho tất cả các vợ
chồng sinh con gái, xây nhà miễn phí cho những hộ chỉ có 1 hoặc 2 con

gái…Tuy nhiên, tình trạng mất cân bằng giới tính vẫn đang là một vấn đề
nhức nhối ở các nước này [22].
4



Tỷ số giới tính khi sinh tại Trung Quốc là 118,08 bé trai trên 100 bé gái
gái vào năm 2010, cao hơn những tiêu chuẩn nhân khẩu học dao động từ 103-
107 bé trai trên 100 bé gái. Số lượng các nam thanh niên dưới 19 tuổi đã vượt
23,77 triệu so với các bé nữ ở cùng nhóm tuổi [17].
Tại Ấn Độ trong vòng 20 năm qua tỷ lệ trẻ em gái đã sụt giảm mạnh
trước sự xuất hiện của công nghệ siêu âm, chọc ối, và chẩn đoán tiền mang
thai (PGD) điều này đã làm cho tỷ lệ giới tính tại Ấn Độ tăng đáng kể, nhất là
tại các bang miền Bắc Ấn Độ (như Punab) TSGTKS là 139 [6].
Bảng 1.1. Tỷ số giới tính khi sinh ở một số quốc gia 2004-2009 [15]
Quốc gia/vùng
TSGTKS
Giai đoạn
Loại số liệu
Albania
113,6
2007
Đăng kí sinh
Armenia
115,8
2008
Đăng kí sinh
Azerbaizan
117,2
2007

Đăng kí sinh
Trung Quốc (đại lục)
120,6
2008
Ước lượng quốc gia
Tỉnh Giang Tây
137,1
2004
TĐTDS mẫu 1%
Tỉnh An Huy
132,2
2004
TĐTDS mẫu 1%
Tỉnh Thiểm Tây
132,1
2004
TĐTDS mẫu 1%
Georgia
111,9
2006
Đăng kí sinh
Ấn Độ
112,1
2004-2006
Đăng kí sinh
Bang Delhi
118,0
2007
Đăng kí sinh
Hàn Quốc

106,4
2008
Đăng kí sinh
Một số tỉnh tại Trung Quốc có tỷ số giới tính khi sinh rất cao: Giang
Tây (137,1); An Huy (132,2); Thiểm Tây (132,1). Năm 2008, tỷ số giới tính
khi sinh tại Hàn Quốc đã trở về mức sinh học bình thường (106,4).
5



1.2. Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam
Theo báo cáo của TS Dương Quốc Trọng (Tổng cục trưởng Tổng cục
DS-KHHGĐ). Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam bắt đầu gia tăng vào
khoảng đầu những năm 2000, (sau các nước ở châu Á như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Azerbaijan, Armenia khoảng 20 năm), trùng với việc nở rộ
các dịch vụ siêu âm, mở rộng các dịch vụ hành nghề y tế tư nhân cùng với
việc nạo phá thai thuận lợi. Tuy muộn hơn nhưng tốc độ gia tăng TSGTKS
của Việt Nam lại hết sức nhanh chóng. Từ 105 năm 1979, tăng lên 110 năm
2006, 111 năm 2007, năm 2008 đã tới mức 112,1; năm 2009 là 110,5 và thời
điểm 01/4/2010 là 111,2. Trong khi các nước nói trên tốc độ gia tăng
TSGTKS khoảng 0,4 - 0,5 điểm phần trăm thì trong mấy năm vừa qua, tốc độ
gia tăng TSGTKS của Việt Nam lên tới khoảng 1 điểm phần trăm [24].
TSGTKS đã cao ngay trong lần sinh đầu tiên 110,2, điều này hiếm
khi được ghi nhận ở các quốc gia khác. Đặc biệt ở lần sinh thứ 3 trở lên
(chiếm khoảng 16% tổng số trẻ được sinh ra) TSGTKS là 115,5. Khu vực
Đồng bằng sông Hồng (nơi có TSGTKS cao nhất cả nước), TSGTKS đã tăng
vọt từ mức 110 trong lần sinh thứ nhất và lần sinh thứ hai, lên tới 152 trong
lần sinh thứ 3 trở lên [2].
Theo nhiều nghiên cứu, TSGTKS cao ở những tỉnh xung quanh các
thành phố lớn Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, trong đó cao nhất là các

tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng như Hưng Yên, Hải Dương, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Nam Định Đây là những địa phương mà người dân có
điều kiện tiếp cận dễ dàng các dịch vụ chọn lọc giới tính trước khi sinh [2].
TSGTKS cao ở những gia đình có kinh tế khá giả, ở những phụ nữ có
trình độ học vấn cao và mức sinh thấp. Những phụ nữ có trình độ học vấn cao
biết chủ động sử dụng các biện pháp tránh thai và chủ động điều chỉnh số con
mong muốn. Họ lại có điều kiện kinh tế tốt hơn để có thể chi trả dịch vụ lựa
chọn giới tính trước sinh [2].
6



Bảng 1.2. Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam giai đoạn 2000-2007 [20]
Năm điều tra
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tỷ số giới
tính khi sinh
106,2
109,0
107,0
104,0
108,0
106,0

110,0
111,6
Số liệu cho thấy trước năm 2004, tỷ số giới tính khi sinh biến động
ngẫu nhiên trong khoảng 106-109/100, không theo một xu hướng rõ ràng.
Tuy nhiên tỷ số giới tính tăng lên dần từ năm 2004 và đạt 111,6 năm 2006 (số
liệu điều tra 01/4/2007) [20].
Bảng 1.3. Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) theo vùng, 2006-2008 [14]
Vùng
ĐTBĐDS 2006
ĐTBĐDS 2007
ĐTBĐDS 2008
Cả nƣớc
109,8
111,6
112,1
Thành thị
109,0
112,7
114,2
Nông thôn
110,0
111,3
111,4
ĐB Sông Hồng
107,9
111,1
117,7
Đông Bắc
121,9
109,7

120,0
Tây Bắc
108,2
106,7
105,7
Bắc Trung Bộ
113,9
116,9
105,4
Nam Trung Bộ
110,5
108,5
110,6
Tây Nguyên
107,7
117,3
116,7
Đông Nam Bộ
101,9
115,5
117,0
ĐB Sông Cửu Long
110,1
107,9
102,8
Bảng trên cho thấy tỷ số giới tính khi sinh thấp nhất ở ĐB sông Cửu
Long (102,8) và cao nhất ở vùng Đông Bắc (120).
Kết quả Tổng điều tra dân số 01/4/2009 cho thấy 29/63 tỉnh, thành phố
có tỷ số giới tính khi sinh cao hơn mức 115/100, đó là: Hưng Yên (130,7);
Hải Dương (120,2); Bắc Ninh (119,4); Bắc Giang (116,8); Nam Định (116,4);

Hòa Bình (116,3); Hải Phòng (115,3); Quảng Ngãi (115,1); Quảng Ninh
(115,0) [9].
7



Vấn đề mất cân bằng TSGTKS trở nên "nóng" và thực sự thu hút sự chú ý
của các phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội từ năm 2006 [24].
1.2.1. Báo động đỏ mất cân bằng giới tính ở miền Trung
Theo thống kê năm 2006, tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh Nghệ An là 118
bé trai/100 bé gái; năm 2010 tỷ lệ đó tăng đột biến lên 123 bé trai/100 bé gái [7].
Tại tỉnh Hà Tĩnh, năm 2010 tỷ số giới tính là 115 bé trai/100 bé gái. Tỷ
lệ này vượt quá xa theo quy luật sinh sản tự nhiên hiện nay và cao hơn bình
quân của cả nước [7].
Nếu như năm 2007, chỉ có 6 trong số 14 huyện của tỉnh Quảng Ngãi
mất cân bằng giới tính khi sinh, thì đến nay, 12 huyện này đã có số nam sinh
ra nhiều hơn nữ, trong đó 3 địa phương cao nhất là Lý Sơn (cứ 100 bé gái có
đến 160 bé trai), kế đến là Bình Sơn và TP Quảng Ngãi (theo khảo sát của Chi
cục dân số kế hoạch hóa gia đình tỉnh) [5].
Theo thống kê tại Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi năm 2010, có hơn 11.000
trẻ sinh ra đời tại đây. Trong đó, cứ 100 bé gái sinh ra thì có đến 124 bé trai ra đời,
tỷ lệ nam/nữ là 124/100, cao hơn mức trung bình cả nước là 110/100 [5].
Tại Tỉnh Thừa Thiên Huế, báo cáo năm 2010 cho thấy tỷ số giới tính
khi sinh là khá cao (110/100) [28], theo một nghiên cứu tại khoa sản Trung
tâm y tế huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế năm 2010, thì tỷ số giới tính khi
sinh tại đây là 125,3/100 [12]. Một số xã có tỷ số giới tính khi sinh ở mức
bình thường đó là xã Thủy Phù năm 2010 (97,2/100) [23], xã Hương Hồ năm
2010 (89/100) [18].
1.3. Nguyên nhân chính dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh
1.3.1. Chính sách của Nhà nƣớc về giảm sinh

Theo thời gian, chuẩn mực “quy mô gia đình ít con” trong giai đoạn
1961 - 1975, đến cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch với chuẩn mực “quy mô
gia đình có từ hai đến ba con” trong giai đoạn 1975 - 1991 và sau đó là cuộc
vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình với chuẩn mực “quy mô gia đình có
từ một đến hai con” trong giai đoạn từ năm 1993 - 2003 [26].
8



Đến nay, Nghị định 104/2003/NĐ-CP của Chính phủ xác định duy trì
mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con “để đạt quy mô dân số, bảo đảm cơ
cấu dân số và phân bổ dân cư hợp lý, nâng cao chất lượng dân số” [3].
Kết quả đạt được của công tác dân số trong thời gian qua đã khẳng định
chuẩn mực “quy mô gia đình ít con” đã được đông đảo nhân dân đồng
tình, chấp nhận và thực hiện. Các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đã hiểu
rằng, thực hiện mỗi gia đình có một hoặc hai con là nhân tố quyết định để
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng gia đình và toàn xã hội [26].
Nhưng vấn đề đặt ra là trong mô hình ít con người dân thường quan
tâm đến việc sinh con trai nhiều hơn [31].
Vì thế, họ sẽ áp dụng các biện pháp giúp lựa chọn giới tính nào đó để vừa
có thể đạt được thành phần giới tính của những đứa con theo mong muốn và
đồng thời vẫn có thể kiểm soát được quy mô gia đình. Một điều nữa có thể nhận
thấy đó là chính sách gia đình có quy mô nhỏ và các chế tài của nó không có
nhiều tác dụng với những người không làm việc trong cơ quan nhà nước [6].
Tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” còn xuất hiện cả trong suy nghĩ của
những người là Đảng viên, cán bộ nhà nước, những người đang sinh sống ở
những thành phố lớn. Họ cố tình hiểu sai tinh thần của Pháp lệnh dân số, theo
Điều 10 của Pháp lệnh dân số, mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền: “Quyết
định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp
với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu

nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng” [30].
Trong Điều 10 đã không ghi rõ mỗi gia đình được sinh bao nhiêu con. Chính
vì vậy, các cặp vợ chồng đã cố tình hiểu sai và sinh con theo ý muốn của
mình mà không tuân theo quy định của Chính Phủ về sinh 1 hoặc 2 con. Năm
2010 Chính Phủ đã ban hành Nghị định sửa đổi điều 10 trong Pháp lệnh dân
số, trong đó quy định rõ đối tượng nào được sinh con thứ 3 trở lên [4].
9



1.3.2. Các yếu tố kinh tế xã hội và phong tục tập quán
- Nguyên nhân chính vẫn là quan niệm trọng nam, khinh nữ của những
bậc cha mẹ. Phần lớn những người này lại chịu áp lực từ chính những bậc phụ
huynh của mình, cần có con trai để nối dõi tông đường và thờ cúng sau này.
Tâm lý ưa thích con trai bắt nguồn từ những qui tắc của chế độ phụ hệ và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt mà hiện nay vẫn còn rất phổ biến ở
Việt Nam. Theo những qui tắc đó, con trai có vai trò và trách nhiệm tiếp nối
dòng dõi gia đình, chăm sóc cha mẹ khi tuổi già, duy trì tài sản và tiếp tục sự
nghiệp của gia đình. Vì thế, nhiều phụ nữ, khi mang thai đến tháng thứ 4, thứ
5, nếu kết quả siêu âm là con gái, họ sẵn sàng phá bỏ để đợi lần sau, bất chấp
đạo đức, hậu quả lâu dài về sức khỏe và xã hội. Cũng có nhiều phụ nữ ở các
vùng nông thôn không có khả năng tiếp cận dịch vụ chẩn đoán giới tính thai
nhi sớm, nên vô tư sinh tiếp con thứ 4, thứ 5 cho đến khi có con trai mới chịu
dừng [8].
- Với mong muốn có con trai, nhiều cặp vợ chồng áp dụng theo sách
vở hoặc đến các bác sĩ tư để được tư vấn, hướng dẫn về chế độ ăn uống, sinh
hoạt sao cho có kết quả. Tất cả những phương pháp này đều chưa được một
nghiên cứu chính thức nào khẳng định nhưng sự trùng hợp ngẫu nhiên ở vài
người đã khiến không ít các cặp vợ chồng tin tưởng và làm theo. Báo chí từng
phản ánh, rất nhiều cặp vợ chồng làm theo chỉ dẫn của bác sĩ, sách vở nhưng

không thành, dẫn đến nhiều bi kịch dở khóc dở cười [6].
- Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác là việc hệ thống Ủy ban dân số
các tỉnh bị giải thể và sáp nhập cùng với ngành y tế khiến việc tuyên truyền,
vận động kế hoạch hóa gia đình kém hiệu quả; sinh con do tin đồn năm tốt,
năm đẹp…[8].
- Bên cạnh đó sự tiến bộ của ngành y tế hiện nay đã tạo điều kiện
thuận lợi để các cặp vợ chồng có thể lựa chọn giới tính khi sinh. Theo Quỹ
10



dân số Liên hiệp quốc, trong số những bà mẹ sinh con vẫn còn sống từ tháng
4/2003, khoảng 2/3 được cán bộ y tế chăm sóc tiền sản cho biết giới tính của
thai nhi và 98% trong số này biết là nhờ vào siêu âm [16].
- Một nguyên nhân nữa là số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 15 - 49 tuổi
tăng nhanh. Nếu như vào năm 1989 chỉ có 17 triệu chị em bước vào độ tuổi
sinh đẻ thì 10 năm sau, con số này đã là 22 triệu, đặc biệt vào năm 2009 là 26
triệu. Như vậy có nghĩa cứ 2 phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ mới có một
người ra khỏi độ tuổi này [8].
- Mặt khác tại mục 1 Điều 44 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân hiện nay
cho phép phụ nữ được nạo, phá thai theo nguyện vọng. Điều kiện nạo, phá
thai còn đơn giản, thai phụ chỉ cần đủ sức khỏe và không có chống chỉ định.
Điều này khiến các gia đình đã phá bỏ thai nếu giới tính của thai nhi không
đúng ý muốn của gia đình [13].
1.4. Hệ quả của sự chênh lệch giới tính
Nhiều chuyên gia cảnh báo, với đà tăng dân số và sự chênh lệch giới
tính ngày càng cao như hiện nay, trong những năm tới, Việt Nam sẽ phải đối
mặt với nhiều vấn đề khó khăn:
Thứ nhất là tình trạng gia tăng dân số quá nhanh do nhu cầu có con trai,
sự phân bố dân cư giữa các vùng chênh lệch lớn sẽ xảy ra tình trạng có nơi

thiếu lao động, có nơi lại thừa lao động, từ đó dẫn đến sự di dân kéo về các
tỉnh, thành phố lớn [34].
Thứ hai là sự chênh lệch giới tính ở trẻ sơ sinh sẽ dẫn đến tình trạng
thừa nam, thiếu nữ, cùng với xu hướng lấy chồng ngoại ở nhiều tỉnh miền
Tây, nạn buôn phụ nữ sang Trung Quốc ở các tỉnh phía Bắc… trong tương lai
có thể Việt Nam sẽ phải “nhập khẩu cô dâu”, kéo theo việc gia tăng của tội
phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em gái hay phụ nữ kết hôn sớm, thậm chí bỏ học
giữa chừng và tệ nạn mại dâm [34].
11



Thứ ba là sự mất cân bằng giới tính sẽ làm thay đổi cơ cấu dân số trong
lương lai; thiếu hụt phụ nữ ở độ tuổi lập gia đình dẫn đến một tỷ lệ nam giới
sẽ phải trì hoãn việc xây dựng gia đình, đặc biệt là nam giới nghèo, vị thế xã
hội thấp; cấu trúc gia đình thay đổi đáng kể (một số nam giới có thể phải lựa
chọn hay rơi vào tình trạng sống độc thân); gia tăng tội phạm liên quan đến
lạm dụng tình dục; tình trạng khan hiếm phụ nữ sẽ cản trở việc nâng cao địa
vị của họ trong xã hội [34].
1.5. Một số giải pháp khẩn thiết
Để đảm bảo sự phát triển bền vững theo quy luật tự nhiên và hạn chế sự
mất cân bằng giới tính khi sinh, theo chúng tôi cần triển khai đồng bộ các giải
pháp sau đây:
- Trước hết, cần tổ chức khảo sát, điều tra, đánh giá lại tình trạng mất
cân bằng về giới tính của trẻ sơ sinh, qua đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này [9].
- Cấp Ủy, chính quyền các cấp cần đẩy mạnh quán triệt và kiểm tra
việc thực hiện quy định tại khoản 2, điều 7 của Pháp lệnh dân số về việc sinh
con thứ ba; quy định nghiêm và chặt chẽ hơn nữa trong việc công bố giới tính
thai nhi tại các bệnh viện cũng như phòng khám tư, xử nghiêm các Đảng viên,

cán bộ, công nhân viên cố tình sinh con thứ ba [22]. Sẽ có hình phạt cho
những cơ sở y tế nào vi phạm qui định [32].
- Các cấp, các ngành, các cơ quan truyền thông cần tăng cường tuyên
truyền, giáo dục về bình đẳng giới, lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao nhận thức của người dân về
giới, hậu quả mất cân bằng giới khi sinh nhằm hạn chế các hành vi không phù
hợp với sinh đẻ theo qui luật tự nhiên [19].

12



- Việc tuyên truyền được áp dụng không những đối với các cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ mà còn đối với các cán bộ y tế nói chung và cán
bộ làm công tác siêu âm, xét nghiệm, tư vấn, nạo thai nói riêng. Đối tượng
này cần phải tuyên truyền vận động đầu tiên và liên tục bởi họ vừa là trực tiếp
vừa là gián tiếp tham gia vào việc làm mất cân bằng giới tính. Nếu không có
sự tham gia của cán bộ y tế thì các đối tượng mang thai không thể thực hiện
hành vi lựa chọn giới tính, nghĩa là họ không thể nào biết để xử lý thai nhi
theo ý muốn. Nhưng theo các nhà chuyên môn, rất khó để phát hiện hành vi
này vì nó đang được thực hiện khá “tinh vi”. “Trường hợp nếu phát hiện vi
phạm sẽ có thể rút giấy phép hành nghề” [22].
- Tuyên truyền để người dân tự giác chấp nhận quy mô gia đình nhỏ,
“gái hay trai chỉ hai là đủ”. Để giải quyết vấn đề này không thể một sớm một
chiều và không thể bằng một biện pháp đơn lẻ nào, mà phải bằng sự lồng
ghép của nhiều chương trình, nhiều cấp, nhiều ngành và kiên trì với giải pháp
quan trọng là tuyên truyền vận động thay đổi hành vi của cộng đồng, đồng
thời với việc tăng cường sự quản lý của nhà nước bằng các biện pháp hành
chính [19], [22].
- Về lâu dài, cần xây dựng Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng

giới tính khi sinh. Mục tiêu của Đề án là từng bước khống chế tốc độ gia tăng
mất cân bằng, tiến tới ổn định cân bằng giới tính khi sinh. Theo đó, tăng
cường cung cấp thông tin về giới và mất cân bằng giới tính khi sinh cho người
dân, trước hết là các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, những người cung
cấp dịch vụ siêu âm và dịch vụ nạo phá thai, những người có uy tín trong
cộng đồng nhằm hạn chế các hành vi không phù hợp với sinh đẻ theo quy luật
tự nhiên. Thực thi và hoàn thiện hệ thống pháp luật về các nội dung liên quan
đến giới tính khi sinh. Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái trong học
tập, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phát triển sản xuất [8], [16].
13



Nhưng có lẽ, trước khi có các chính sách, đối tượng cần được "giác
ngộ" mạnh mẽ chính là những người cao tuổi trong xã hội và đối tượng tiềm
năng là vị thành niên và thanh niên. Bởi chỉ khi họ hiểu, chia sẻ, cảm thông
với người phụ nữ, thì gánh nặng sinh con trai theo ý muốn mới có thể "giảm
tải" tốt nhất và tình trạng mất cân bằng giới tính. Ngoài ra, cũng cần có chính
sách nâng cao phúc lợi, bảo hiểm xã hội cho người cao tuổi, đặc biệt, những
người chỉ sinh con gái, từ đó giải tỏa tâm lý cha mẹ về già phải sống dựa vào
con trai [16].



14



Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
2.1.1. Đối tƣợng
Các bà mẹ sinh con mà trẻ sinh ra sống từ ngày 01/01/2011 đến
31/12/2011 tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.1.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
- Nghiên cứu định lượng: Chọn mẫu toàn bộ. Tất cả bà mẹ sinh con mà
trẻ sinh ra sống từ ngày 01/01/2011 đến 31/12/2011 tại xã Thủy Phù, thị xã
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế (N=193 bà mẹ).
- Nghiên cứu định tính: Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn (20 bà mẹ trong số
các bà mẹ sinh con thứ 3 trở lên).
2.1.3. Tiêu chuẩn lựa chọn
Tất cả bà mẹ sinh con mà trẻ sinh ra sống từ ngày 01/01/2011 đến
31/12/2011 tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế và sinh
sống tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế từ 6 tháng trở
lên tính đến thời điểm điều tra (08/02/2012).
Các bà mẹ đồng ý tham gia vào mẫu phỏng vấn.
2.1.4. Tiêu chuẩn loại trừ
Tất cả bà mẹ không sinh con trong khoảng thời gian từ 01/01/2011 đến
31/12/2011 tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tất cả bà mẹ sinh sống tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên Huế dưới 6 tháng tính đến thời điểm điều tra (08/02/2012).
Các bà mẹ không tự nguyện tham gia phỏng vấn theo mẫu nghiên cứu.
15



2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Thiết kế nghiên cứu kết hợp hai loại nghiên cứu: Định lượng và định
tính. Nghiên cứu định lượng mô tả tỷ số giới tính khi sinh và phân tích một số

yếu tố liên quan, thiết kế nghiên cứu định tính thăm dò một số yếu tố nhằm
giải thích cho kết quả định lượng.
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.3.1. Địa điểm nghiên cứu [27], [29]
- Nghiên cứu được tiến hành tại xã Thủy Phù, thị xã Hương Thủy, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
- Tổng diện tích:
- Đơn vị hành chính:
- Dân số:
- Mật độ:
34,27 km
2
.
12 thôn.
11.569 người
338 người/ km
2

- Vị trí địa lý: Là xã thuộc vùng đồng bằng nằm phía Nam Thị xã
Hương Thủy, cạnh Sân bay và Khu công nghiệp Phú Bài.
+ Phía Đông giáp sông Đại Giang, xã Vinh Thái (huyện Phú Vang).
+ Phía Tây giáp với xã Phú Sơn.
+ Phía Nam giáp với xã Lộc Bổn (huyện Phú Lộc).
+ Phía Bắc giáp với phường Phú Bài, xã Thủy Tân.
- Tình hình kinh tế xã Thủy Phù: Chủ yếu là chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản 93,8 ha. Nông nghiệp với trồng lúa 1293,6 ha và lâm nghiệp với diện
tích rừng trồng 970,41 ha. Ngoài ra lao động trẻ tại địa bàn xã làm công nhân
tại Khu CN Phú Bài hoặc vào phía Nam làm lao động phổ thông. Phát triển
ngành nghề, dịch vụ tại xã là duy trì các ngành nghề sẵn có.
2.3.2. Thời gian nghiên cứu

- Từ tháng 11/2011 đến tháng 05/2012.
16



2.4. Kỹ thuật thu thập thông tin
 Sử dụng hồ sơ ghi chép của Trạm y tế xã Thủy Phù, ghi chép lại đầy
đủ tất cả thông tin liên quan. Dựa vào sổ đẻ, ghi số lượng trẻ sinh ra sống tại
cơ sở y tế từ 01/01/2011 đến 31/12/2011.
 Đến tại hộ gia đình, phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ bằng bộ câu hỏi
để thu thập thông tin định lượng.
 20 bà mẹ được chọn ngẫu nhiên trong 36 bà mẹ sinh con thứ ba trở lên
để phỏng vấn sâu nhằm tìm hiểu sâu hơn về nguyên nhân muốn sinh con trai.
2.5. Công cụ thu thập thông tin
 Công cụ thu thập thông tin cho nghiên cứu định lượng là bộ câu hỏi
phỏng vấn nhằm xác định tỷ số giới tính khi sinh và một số yếu tố liên quan.
 Công cụ thu thập thông tin cho nghiên cứu định tính là một bộ câu
hỏi phỏng vấn sâu nhằm giải thích cho nghiên cứu định lượng.
2.6. Nội dung, biến số nghiên cứu
2.6.1. Nghiên cứu định lƣợng
- Tuổi bà mẹ.
- Dân tộc.
- Tôn giáo.
- Trình độ học vấn.
- Nghề nghiệp.
- Hoàn cảnh kinh tế.
- Số lần sinh con.
- Số con hiện sống.
- Tiền sử nạo, sẩy thai.
- Giới tính trẻ khi sinh.

- Tỷ số giới tính khi sinh.
- Mong muốn giới tính của con trước khi sinh.
17



- Lý do các bà mẹ mong muốn sinh con trai.
- Lý do các bà mẹ mong muốn sinh con gái.
- Lý do các bà mẹ mong muốn sinh con nào cũng được.
- Biết giới tính khi mang thai và cách để biết.
- Ý kiến của bà mẹ về chi phí siêu âm xác định giới tính thai nhi,
ảnh hưởng của siêu âm, tiếp cận dịch vụ siêu âm, quá trình siêu âm.
- Thời gian đi siêu âm và mục đích đi siêu âm.
- Hiểu biết về Pháp lệnh dân số.
- Biết cách sinh con theo ý muốn và cách thực hiện.
- Ý định của bà mẹ khi siêu âm giới tính thai không theo ý muốn.
- Quan niệm của bà mẹ đối với việc phá thai.
2.6.2. Nghiên cứu định tính
- Mục đích, quá trình siêu âm và thái độ cán bộ y tế khi siêu âm.
- Lý do và yếu tố tác động đến việc sinh con thứ ba trở lên.
- Khó khăn về kinh tế, khả năng đáp ứng nhu cầu của các con.
2.6.3. Cách đánh giá thu thập thông tin
- Trực tiếp đến Trạm y tế xã, dựa vào hồ sơ ghi chép thu thập tất cả
thông tin liên quan đến các bà mẹ và trẻ sinh ra sống trong năm 2011.
- Đối với phiếu thu thập thông tin trực tiếp: Chọn câu trả lời cho là
đúng nhất, đánh giá khoanh tròn trực tiếp vào số ở đầu câu trả lời.
- Ghi rõ thông tin trả lời vào câu hỏi có phần gạch chấm.
- Phiếu số đánh theo thứ tự từ 001 trở lên.
- Tuổi được xếp làm 5 nhóm tuổi và cách nhau 5 năm [18].
< 20, 20-24, 25-29, 30-34, ≥35

- Nghề nghiệp: là việc làm lâu nhất mà người đó trải qua.
- Trình độ học vấn là bằng cấp cao nhất (nếu có).
18



- Hoàn cảnh kinh tế: (Căn cứ theo quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ban
hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 của
Thủ tướng Chính phủ ký ngày 30-01-2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-
01-2011).
Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/ tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
2.6.4. Phân tích và xử lý số liệu
- Số liệu thu thập từ phiếu phỏng vấn được kiểm tra, mã hóa và làm
sạch trước khi nhập và phân tích.
- Số liệu được nhập trên nền phần mềm Epidata 3.0 và phân tích trên
nền phần mềm SPSS 11.5.
- Tỷ số giới tính khi sinh được tính toán chung cho tất cả mẫu nghiên cứu.
- Phân tích mối liên quan giữa tỷ số giới tính khi sinh và các yếu tố liên
quan chọn mức ý nghĩa thống kê p = 0,05.
2.6.5. Đạo đức trong nghiên cứu
- Tất cả các bà mẹ tham gia nghiên cứu đều được hỏi ý kiến và đồng ý
tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Mã hóa thông tin và xử lý: Phân tích số liệu được tiến hành một cách
khoa học để tránh các sai số trong quá trình tính toán và bảo mật.
- Các thông tin cá nhân được cam đoan giữ kín.
19




Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


3.1. Một số đặc trƣng cá nhân của các bà mẹ
3.1.1. Phân bố nhóm tuổi của các bà mẹ
Bảng 3.1. Phân bố nhóm tuổi của các bà mẹ
STT
Nhóm tuổi
Số lƣợng
Tỷ lệ %
1
Dưới 20
1
0,5
2
20 – 24
35
18,1
3
25 – 29
84
43,6
4
30 – 34
45
23,3
5
Trên 34

28
14,5
Tổng
193
100,0
Nhận xét: Nhóm tuổi 25 - 29 chiếm tỷ lệ cao 43,6%. Nhóm tuổi dưới
20 chiếm tỷ lệ thấp 0,5%.

Biểu đồ 3.1. Phân bố nhóm tuổi của các bà mẹ

×