Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

phương ngữ bắc là cơ sở hình thành nên ngôn ngữ văn học và cũng được lựa chọn làm ngôn ngữ toàn dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.24 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
Lịch sử dân tộc Việt Nam ta, kể từ thời dựng nước trải qua hàng năm cho đến
ngày nay, nếu xét riêng về mặt ngôi ngữ thì có thể nói rằng đó là lịch sử người Việt
Nam, cùng nhau xây dựng, thống nhất và phổ biến tiếng Việt trong cương vị ngôn
ngữ dùng chung trên lãnh thổ nước ta.Khi nhận diện một dân tộc, ngôn ngữ thường
được coi là một trong những tiêu chuẩn chính (bên cạnh các tiêu chuẩn khác như
tính cộng đồng lãnh thổ, ý thức tự giác dân tộc, các đặc điểm chung về tâm lý, văn
hóa, kinh tế ).Ngôn ngữ góp phần làm nên bản sắc của một dân tộc, phân biệt dân
tộc này với dân tộc khác. Trong suốt lịch sử lâu dài đấu tranh vì chủ quyền dân tộc,
vì độc lập tự do của đất nước, chúng ta có thể hình dung dân tộc Việt Nam ta đã
phấn đấu gian khổ như thế nào để thoát được hiểm họa diệt chủng về ngôn ngữ và
văn hóa, để bảo vệ và phát triển được tiếng Việt.
Phương ngữ vùng nào tất nhiên được người dân vùng đó dùng để giao
tiếp.Tuy nhiên ngoài ra còn có một số đặc điểm sau.
Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia – phương tiện giao tiếp chung được sử dụng
rộng rãi trên khắp đất nước. Song, ở mỗi địa phương khác nhau, nó lại mang những
nét riêng vô cùng phong phú, đa dạng.Bởi vì ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và
phản ánh cuộc sống của từng địa phương khác nhau về kinh tế, văn hóa nên sẽ khác
nhau.Mỗi một phương ngữ là một biến thể ngôn ngữ nhất định, vừa khác biệt với
tiếng toàn dân, vừa mang nét chung cho toàn vùng phương ngữ.Ở Việt Nam chủ
yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung, phương
ngữ Nam. Trông đó phương ngữ Bắc là cơ sở hình thành nên ngôn ngữ văn học và
cũng được lựa chọn làm ngôn ngữ toàn dân.
Các phương ngữ khác nhau về việc phân vùng phương ngữ, về ngữ âm, rồi
đến từ vựng- ngữ nghĩa, cuối cùng là khác biệt ngữ pháp.
1
B. NỘI DUNG
I. Phương ngữ Bắc có vùng phân bố tương đối rộng lớn và tương đối
thuần nhất
I.1. Phương ngữ Bắc có vùng phân bố tương đối rộng lớn
Phương ngữ Bắc là phương ngữ vùng quê Bắc Bộ (tính từ Ninh Bình trở ra),


có diện tích tương đối lớn, được chia làm 3 vùng nhỏ hơn:
(1) Phương ngữ vòng cung biên giới phía Bắc nước ta. Phần lớn người Việt ở
đây mới đến từ các tỉnh đồng bằng có mật độ cao như Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình. Do quá trình cộng cư diễn ra trong thời gian gần đây nên phương ngữ phát
triển theo hướng thống nhất với ngôn ngữ văn học, mang những nét khái quát chung
của phương ngữ Bắc và không chia manh mún thành nhiều thổ ngữ làng xã như
phương ngữ Bắc ở các vùng đồng bằng, cái nôi của người Việt cổ.
(2) Phương ngữ vùng Hà Nội và các tỉnh đồng bằng và trung du bao quanh Hà
Nội(Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hoà Bình, Hưng Yên, Hải Phòng,
Thái Nguyên).
Đây là vùng mang những đặc trưng tiêu biểu của phương ngữ Bắc.
(3) Phương ngữ miền hạ lưu sông Hồng và ven biển (Hải Phòng, Thái Bình,
Nam Định, Ninh Bình, Quảng Ninh) còn giữ lại cách phát âm khu biệt d với gi, r s
với xtr với ch mà ở các phương ngữ Bắc khác không còn phân biệt được nữa. Còn
có nơi phát âm tr thành t và s thành th.
Nếu so với sự phân vùng của phương ngữ Trung và phương ngữ Nam thì
phương ngữ Bắc mang nét phân vùng khác biệt. Nhắc đến phương ngữ Trung ta
nhắc đến sự phân vùng nhỏ lẻ, mamh mún và đầy phức tạp, bởi diện tích nhỏ hẹp
chỉ gồm 6 tỉnh nhưng lại chia làm ba vùng nhỏ. Không chỉ phân vùng nhỏ lẻ mà
trong bản thân phương ngữ Trung cũng rất phức tạp, trong mỗi vùng, thậm chí mỗi
huyện, mỗi xã lại mang một giọng điệu, ngôn ngữ riêng biệt. Phương ngữ Nam
phân vùng trên khoảng một nửa diện tích đất nước, kéo dài từ Đà Nẵng đến Nam bộ
gồm 24 tỉnh thành. Phương ngữ Nam không phức tạp mà tương đối thuần nhất,
phân bố trên địa bàn rộng như vậy nhưng nó không có sự khác biệt nhiều giữa các
phương ngữ trong vùng.
2
I.2. Phương ngữ Bắc phân vùng tương đối thuần nhất
Tuy phương ngữ Bắc có diện tích rộng lớn nhưng ngôn ngữ lại tương đối thuần
nhất. Sự thuần nhất tương đối đó có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
- Một là yếu tố lịch sử: phương ngữ Bắc là phương ngữ có lịch sử phát triển

lâu đời. Vì ngay từ khi ra đời phương ngữ Bắc là phương ngữ được chọn làm ngôn
ngữ toàn dân, đây là ngôn ngữ của một vùng có nền kinh tế, chính trị, văn hóa phát
triển nhất và là ngôn ngữ của bộ lạc chiến thắng. Thời xa xưa, tổ chức xã hội của
nước ta khi mới xuất hiện thì tồn tại dưới hình thức thị tộc, bộ lạc và khi thị tộc, bộ
lạc phát triển đến mức độ nhất định thì hình thành nhà nước, và nhà nước phát triển
mạnh nhất lúc bấy giờ là nhà nước Văn Lang Âu Lạc sống bên lưu vực sông Hồng,
nên ngôn ngữ của nhà nước này được chọn làm ngôn ngữ toàn dân. Đây cũng chính
là phương ngữ Bắc ngày nay.Chính vì có lịch sử phát triển lâu đời nên phương ngữ
Bắc có điều kiện giao lưu phát triển tập trung thống nhất với nhau chứ không phân
tán như ở phương ngữ Trung. Bởi vì phương ngữ Trung và phương ngữ Nam có sự
di dân từ phương ngữ vào khu vực Bình-Trị-Thiên muộn hơn, không có lịch sử lâu
đời như ở phương ngữ Bắc nên khi di cư vào miền Trung thì người dân không sống
tập trung mà sống phân tán, họ sống theo từng cụm đặc biệt theo từng dòng họ nên
ngôn ngữ ở đây vẫn nhỏ lẻ. Cũng do lịch sử hình thành nên phương ngã Nam lại có
đặc điểm khoanh vùng rộng lớn và thuần nhất bởi vì lịch sử hình thành của phương
ngữ chỉ mới diễn ra vào thời gian gần đây (trong khi đất nước kỉ niệm 1000 năm
Thăng Long- Hà Nội thì thành phổ Hồ Chí Minh mới được 300 năm). Cụ thể vào
thế kỉ XVIII, nông nghiệp đã phát triển hình thành những trang trại rộng lớn sớm
mang tính chất hàng hóa nên phạm vi giao lưu rộng khắp cả vùng không bó hẹp
từng làng nhỏ như thời di cư vào miền Trung .
- Hai là yếu tố địa lý: yếu tố nàycũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phân vùng
của phương ngữ Bắc. Phương ngữ Bắc là vùng có đặc điểm địa lý tương đối rộng
lớn, có đồng bằng châu thổ sông Hồng diện tích xếp thứ 2 trong cả nước, bên cạnh
đó, vùng này còn có khu vực trung du và miền núi khá rộng. So với miền Trung thì
địa hình Bắc Bộ không quá chia cách, manh mún.Chính điều kiện này đã tạo cơ sở
cho việc định cư tập trung và tạo điều kiện giao lưu giữa các vùng thuận lợi chứ
không như địa hình phân cách nhỏ hẹp như ở miền Trung.Tuy nhiên, nếu so với địa
3
hình của miền Nam thì địa hình miền Bắc có phần phức tạp hơn và việc giao lưu
giữa các vùng không thuận lợi bằng vùng Nam Bộ.

- Ba là yếu tố kinh tế, văn hóa: Miền Bắc là vùng có kinh tế phát triển mạnh,
đứng thứ 2 trong cả nước. Bắc Bộ còn là cái nôi văn hóa của người Việt, là vùng có
nền văn hóa hình thành sớm và phát triển mạnh. Việc giao lưu buôn bán, văn hóa,
thương mại có sự qua lại với nhau đã tạo điều kiện cho ngôn ngữ giữa các vùng có
sự giao thoa, nên ngôn ngữ miền Bắc càng vươn tới sự thống nhất với nhau mặc dù
vẫn tồn tại một số điểm khác biệt ở mỗi vùng nhưng không đáng kể.
Là một nền văn hóa lâu đờivà là mảnh đất kinh kì nên ảnh hưởng nhiều đến
việc sử dụng ngôn ngữ, điều này thể hiện rõ trong sắc thái, giọng điệu cũng như ngữ
âm, từ vựng- ngữ nghĩa và ngữ pháp. Điều này làm cho phương ngữ phía Bắc mang
tính chuẩn mực cao hơn so với phương ngữ hai vùng còn lại.
II. Đặc điểm ngữ âm
Phương ngữ Bắc có đầy đủ thanh điệu, vần, nguyên âm, âm cuối; phụ âm đầu
và âm đệm chưa đầy đủ.
II.1. Sự đầy đủ thanh điệu tạo nên giọng Bắc nhẹ nhàng, đa âm sắc
Như chúng ta đã biết “Thanh điệu là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong
một âm tiết có tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị”
Thanh điệu được phân chia thành hai nhóm trầm và bổng, tức là chia thành hai
âm vực cao và thấp. Những từ có thanh bổng láy với nhau và những từ có thanh
trầm láy với nhau: thanh không đi với thanh hỏi và sắc, thanh huyền đi với thanh
ngã và thanh nặng.
Tiếng Việt có 6 thanh điệu tuy nhiên ở mỗi vùng phương ngữ việc sử dụng
thanh điệu có sự khác nhau. Phương ngữ Trung và Nam gồm có 5 thanh còn
phương ngữ Bắc gồm 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng).
Ví dụ
PHƯƠNG NGỮ BẮC PHƯƠNG NGỮ TRUNG
Mũi Mủi
Bão Bảo
Nghĩ ngơi Nghỉ ngơi
Suy nghĩ Suy nghỉ
Xã hội chủ nghĩa Xả hội chủ nghỉa

4
Nếu so sánh tiếng Việt của Hà Nội với tiếng Việt từ Nghệ Tĩnh trở vào thì
người ta thấy ngay hai thanh( ?) và( ~) ở Bắc lại có sự chuyển mã, khi đối chiếu với
tiếng Nghệ Tĩnh, hay tiếng Bình Trị Thiên.
Một người Huế nghe người Bắc nói thì chỉ cần chuyển mã thanh( ~) của Bắc
thành thanh( ?) của Huế, ngược lại người Bắc nghe( ?) của Huế thì phải thích thanh
này có thể vừa là( ~) vừa là( ?) và căn cứ vào đó mà xét nội
dung của câu nói.
Dĩ nhiên khi một người miền Trung nghe một người Hà Nội nói thì về mặt
thanh điệu sự chuyển mã khá dễ dàng: anh ta chỉ cần gộp lại làm một hai
thanh khu biệt ở Hà Nội là( ?) và( ~) hay gộp( ~) và( .) làm một.
Trường hợp người Hà Nội giao tiếp với người Huế hay người Nghệ Tĩnh cũng
thế. Trong hệ thống thanh điệu truyền thống, thanh( ?) ở âm vực cao, thanh( ~) ở
âm vực thấp, nhưng trong phương ngữ Hà Nội hiện nay thì ngược lại, thanh( ?) cao
và thanh( ~) thấp.
Hệ thống thanh điệu ở Bắc Bộ :
Thanh không có âm điệu bằng phẳng, cường độ không thay đổi, ở âm vực
trung bình của lời nói, không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu,
tương đối thống nhất trong tất cả các phương ngữ.
Thanh huyền có âm điệu hơi đi xuống, có âm vực thấp, cường độ không đổi,
không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu. Chỉ khu biệt với thanh
không về âm vực: thấp hơn thanh không từ quãng ba đến quãng năm.
Thanh ngã có âm điệu biến thiên theo hai chiều: đi xuống với đi lên như
hình chữ V với nhánh đi lên cao gấp đôi. Cường độ thay đổi: thanh yếu đi ở
khoảng giữa âm tiết và có khi tắt hẳn rồi lại xuất hiện.
Chính ở điểm này có hiện tượng tắc thanh hầu. Về âm vực, thanh ngã bắt đầu
ở mức thanh huyền. Khoảng cách về âm vực giữa mức bắt đầu và mức kết thúc
trung bình bằng một quãng sáu, giữa hai mức thấp nhất và cao nhất có thể đến hai
quãng tám.
Thanh hỏi có âm điệu biến thiên hai chiều xuống- lên, nhưng không chia hai

giai đoạn rõ rệt như ở thanh ngã.
5
Thanh sắc bắt đầu ở độ cao hơi thấp hơn thanh không, đi ngang hay là hơi
chúi xuống ở đoạn đầu, sau đó vút cao lên thông thường vào khoảng một quãng
năm, có khi đến một quãng tám ở giọng nữ.
Trong những âm tiết khép( có –p, -t, -ch, -k đứng cuối), thanh sắc nhập thanh
thiếu hẳn phần đi ngang lúc bắt đầu, âm điệu cao vút lên, nhất là ở những âm tiết
ngắn ( có nguyên âm ngắn) thanh sắc có trường độ rất ngắn.
II.2. Phụ âm đầu: Phương ngữ Bắc thiếu một số âm vị, có hiện tượng lẫn
lộn và mất phụ âm tiền ngạc
Phụ âm đầu là một trong những thành phần chủ yếu của âm tiết.Nó tương
đối độc lập đối với những thành phần chính khác của âm tiết như âm điệu và
vần.Nó có thể đứng trước mọi nguyên âm, mọi cách khép âm tiết và đi với mọi
thanh điệu.Trong tiếng Việt hiện nay ở các địa phương khác nhau, cách phát âm
một số phụ âm đầu vẫn chưa thống nhất.Hệ thống phụ âm đầu được phản ánh vào
chữ quốc ngữ là có số lượng âm vị tương đối đầy đủ hơn cả, so với hệ thống phụ âm
đang tồn tại trong các phương ngữ hiện nay.
Phải nói đến rằng có sự khác nhau trong hệ thống phụ âm đầu ở các phương
ngữ, cả về mặt số lượng âm vị lẫn về chất lượng của âm vị (tức là tính chất ngữ âm
của âm vị).
Đặc điểm nổi bật của phụ âm đầu tiếng Việt với tính cách một hiện tượng
ngữ âm học của Đông Nam Á khác với ngữ âm châu Âu, đó là hiện tượng yết hầu
hóa xảy ra ở tất cả các âm tắt nổ vô thanh, cũng như hữu thanh b, đ, t, ch, k, m, n,
nh, ng (M.V Gordina, R.S Bystrov, 1984, 57-62). Đây là dấu vết của cơ tầng Nam
Á, đồng thời cũng là chứng tích của thời xa xưa, khi trước nguyên âm không phải là
một phụ âm đơn mà là một chùm phụ âm gồm hai đơn vị, trong đó đơn vị đầu
thường là một âm tắc như ta còn thấy ở nhiều ngôn ngữ Tây Nguyên hiện nay.
II.2.1. Phụ âm đầu của phương ngữ Bắc có 20 đơn vị. Nó thiếu các phụ
âm đầu ghi trong chính tả: R,S,Tr,Gi(tức không phân biệt s/x, r/d, tr/ch)
Hệ thống phụ âm đầu vừa nêu hiện nay còn gặp ở nhiều thổ ngữ miền dưới

của đồng bằng Bắc Bộ, tập trung ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình mà
không tiêu biểu cho toàn thể phương ngữ Bắc. Nhưng cách đây chưa đầy một thế kỉ
nó đã được sử dụng khắp miền Bắc nước ta. Chữ quốc ngữ được đặt ra, qua nhiều
6
bước cải tiến cho đến khi ổn định với dáng vẻ như ngày nay là dựa vào cách phát
âm này. Những phụ âm tiền ngạc C, Z, S ở đây đã được chữ quốc ngữ ghi lại bằng
tr, gi và s là những phụ âm đầu lưỡi, chứ không phải âm quặt lưỡi như phương ngữ
Trung. Khi phát âm C (tr) đầu lưỡi được nâng lên áp vào phía trước ngạc, rồi sau đó
bật ra để luồng hơi thoát ra ngoài, đôi khi chỉ nghe như một âm tắc xát, gần với âm
C trong từ Cas “giờ” của tiếng Nga. Vị trí cấu âm của S và Z cũng như thế, nhưng
đầu lưỡi không áp sát ngạc, mà tạo thành một khe hở ở giữa để cho luồng hơi thoát
ra, và gây nên tiếng cọ xát. Những phụ âm này có thể so sánh với phụ âm trong các
từ chien “chó”, jeu “trò chơi” của tiếng Pháp. Ví dụ: trong trắng[Cong
m
Cắng], gia
giáo [Za Záw], sao ta [Saw Sa]. Phụ âm vùng Thái Bình, Nam Định có cấu âm rung
lưỡi rất rõ.
Mặc dù thiếu các phụ âm đầu ghi trong chính tả nêu trên nhưng phương ngữ
Bắc lại có đầy đủ các âm cuối ghi trong chính tả. Đó là:
Nh-ch đứng sau nguyên âm dòng trước [i, ê, e]: chân chính, mít tinh, chim
chích, tênh tếch, yêu thích,…
Ng- k đứng sau nguyên âm dòng giữa [ư, ơ, a, ă, â]: ngưng, tưng tức, tầng, tang …
Ng
m
- kp đứng sau nguyên âm dòng sau tròn môi [u, ô, o]: long lóc, mốc, khóc, …
II.2.2. Phương ngữ Bắc mất đi dãy phụ âm tiền ngạc C, Z, S, phụ âm R,
phụ âm ngạc, nổ, vô thanh, hữu thanh Ch
Ở đa số phương ngữ Bắc hiện nay, mà tiêu biểu là phương ngữ Hà Nội đã
mất đi dãy phụ âm tiền ngạc C, Z, S và phụ âm rung r. Ngoài ra phụ âm ngạc, nổ, vô
thanh, hữu thanh Ch được phát âm như một phụ âm tắc- xát đầu lưỡi- răng ts ở thế

hệ trung niên và thanh niên Hà Nội.
7
Bảng hệ thống phụ âm đầu ở Hà Nội:
Môi Răng Lợi Tiền ngạc Ngạc Mạc Hầu
b đ
p t C (ch) k (q)
th
mn nh ng
Tắc xát ts
Xát f s Sx h
v z ZG
r
l
Năm phụ âm kể trên đã biến đổi trong phương ngữ Hà Nội và những vùng
xung quanh ts, Z (gi) thành z, r thành z, S (s) thành s.
Ví dụ:
Chanh chua [tsenh tsuô]
Trong trắng [tsong
m
tsắng]
Gia giáo [Za Zaw]
Rì rào [Zi Zaw]
Sao sáng [Saw sáng]
Những sự biến đổi này mới xảy ra gần đây, vào đầu thế kỉ XX, sau khi chính
tả đã ổn định. Chúng phải xảy ra sau khi các chùm phụ âm mà A, de Rhodes ghi là
bl, tl, ml đã biến thành những phụ âm đầu tiền ngạc và ngạc: Z (gi), C (tr), nh (nh).
Ví dụ:
blời – giời
tlâu – trâu
mlạt – nhạt

Chính tả đã ghi nhận những kết quả biến đổi này, mà không còn ghi là bl, tl,
ml nữa.
Sự biến động ngữ âm trên có thể là kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ mới
nhất (thế kỉ XVIII) giữa tiếng ta và tiếng Hán vùng Hoa Nam, do những đợt sóng di
cư ồ ạt của người Hoa sang Việt Nam dưới triều Mãn Thanh bằng cả đường thủy và
8
đường bộ. Phần lớn những người này quê ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phú
Kiến, Vân Nam. Phương ngữ Hán miền này không có các phụ âm ngạc và tiền
ngạc,và cũng không có phụ âm rung r.Hàng loạt những thổ ngữ tiếng Tày- Thái
phía Bắc nước ta, có lẽ do ảnh hưởng đó cũng đang mất đi những phụ âm trên (ch
thành ts, s;j thành z; r thành h, l…). Trái lại trong những ngôn ngữ các dân tộc ít
người ở phía nam Trường Sơn và Tây Nguyên, trong tiếng Chăm và tiếng Khơme
đều có các âm ngạc ch, j và nhất là phụ âm r xuất hiện với tầng số cao.
II.2.3. Hiện tượng lẫn lộn: l/n
Hiện tượng lẫn lộn l/n là một nét mới của phương ngữ Hà Nội và xung quanh.
Ví dụ:
Lẫn lộn = nẫn nộn
Lòng lợn = nòng nợn
Nôn nóng = lôn lóng
Làm ăn = nàm ăn
Cơm nếp = cơm lếp…
Có người không biết ngôn ngữ học, cho đó là nói nghịu, nhưng đích thực là
hiện tượng phương ngữ. Trong tiếng Tày- Nùng cũng có sự lẫn lộn l/n ở một số thổ
ngữvùng đông- bắc nước ta, còn trong tiếng Thái vùng tây- bắc thì lộn l/đ. Ở nhiều
phương ngữ Hán miền tây- nam Trung Quốc cũng có hiện tượng lẫn lộn l/n và l/đ.
Hiện tượng này lan ra như một làn song ngữ âm theo hướng tây bắc- đông nam.
Riêng phụ âm cuối –n biến thành –j, trở thành âm tiết mở hoặc mất –n.
Ví dụ:
Cay cấn/ cày cấy, cái vắn/ cái váy, cái chủn/ cái chủi.
Chỉn/ chỉ, kẻn/ ghẻ, nhén/ nhẹ, bín/ bí, rui mèn/ rui mè.

II.3. Âm đệm có khả năng kết hợp với các phụ âm trước nó và nguyên
âm sau nó, làm thay đổi cấu trúc âm tiết
Âm đệm tiếng Việt là một thể thống nhất hữu cơ được biểu hiện rõ rệt trong
cách kết hợp của nó với phụ âm đầu cũng như với nguyên âm.
Âm đệm có chức năng làm trầm hóa âm tiết, sau lúc mở đầu chứ không phải
tạo nên âm sắc chủ yếu của âm tiết. Vì vậy một âm vị đảm nhiệm phần này chỉ có
thể là một âm lướt, một bán nguyên âm phi âm tiết tính.
Nếu như cách kết hợp của phụ âm đầu với nguyên âm là tự do và không bị hạn
9
chế gì hết, tức là phụ âm đầu nào cũng có thể kết hợp với mọi nguyên âm. Vì đây
không phải là hai thành phần đứng liền nhau trong kết cấu âm tiết, thì âm đệm lại có
mối quan hệ hết sức chặt chẽ với các âm vị đứng trước và sau nó (sự kết hợp này bị
hạn chế bởi một số nguyên tắc như hai âm cùng có những đặc tính như nhau thì
không kết hợp được với nhau).
Đặc điểm của âm đệm phương ngữ Bắc có điểm giống với âm đệm
phươngngữ Trung và cũng có nét riêng. Cụ thể như sau:
II.3.1. Khả năng kết hợp của âm đệm với các phụ âm trước nó.
Âm đệm [-w] với các phụ âm đầu.
Trong phương ngữ Bắc (và cả phương ngữ Trung), âm đệm [-w] có thể kết
hợp với hầu hết các phụ âm đầu, trừ những phụ âm môi m, b, v, ph.
Ví dụ:
hoa xuân [hwa swân]
lòe loẹt [lwè lwẹ:t]
thuế[thwế:]
đoàn[đwàn]
tuyết nguyệt [twiết ngwiệt]
nhuần nhuyễn [nhwuần nhwyễn]
khuya khoắt [xwiê xwắt]
quấy phá [kwấj kwá]
v.v

Âm đệm [-w] trong âm tiết vắng phụ âm đầu:
Ta còn bắt gặp -w- trong âm tiết vắng phụ âm đầu, ví dụ: oan, uyên, uỳnh
uỵch. Những từ này thường được bắt đầu với âm tắc họng: [qwan, qwiên], [qwình
qwịch].Trong trường hợp này càng nêu bật tính chất độc lập của âm đệm [-w-]. Nó
không đóng vai một phụ âm đầu, bởi vì người ta có thể them trước nó một phụ âm.
Nó cũng không đóng vai nguyên âm, bởi vì sau nó phải có nguyên âm.
II.3.2.Âm đệm trong kết hợp với nguyên âm sau nó
Âm đệm [-w] không kết hợp với mọi phụ âm đầu. Cũng vậy, nó không kết
hợp tự do với mọi nguyên âm. Do xu hướng dị hóa, tức là do yêu cầu đối lập nên
các âm đồng tính không kết hợp được với nhau, vì là âm môi nên âm đệm [-w-]
10
không đứng trước những nguyên âm tròn môi. Nó không kết hợp với các nguyên
âm đơn [u, ô, o] và [uô] trong các phương ngữ đều không kết hợp với bán
nguyênâm cuối [-w]. Ta không thể có những vần uw, ôw, ow, uôw như ở các ngôn
ngữ khác.
Trong phương ngữ Bắc có lẽ xu hướng dị hóa mạnh, nên âm đệm [-w-] cũng
không kết hợp với nguyên âm [ư] và [ươ], cũng như [ư] và [ươ] không kết hợp với
âm cuối [-w-]. Vần ưu phát âm thành [iw] và ươu phát âm thành [iêw].
Ngoài những nguyên âm kể trên, âm đệm [-w-] kết hợp được với tất cả các
nguyên âm khác.
Ví dụ:
uy quyền [qwi kwiền]
hoa hòe [hwa hwè]
thuở xuân xanh [thwở swân senh]
Ta có sơ đồ kết hợp âm đệm w với nguyên âm ở phương ngữ Bắc
-i ư u
iê- ươ uô
ê - ơ â ô
e - a ă o
W+

Ở sơ đồ trên, âm đệm -w- chỉ kết hợp được với nửa bên trái của hệ thống
nguyên âm.
II.3.3.Âm đệm làm thay đổi cấu trúc âm tiết
Qua việc khảo sát âm đệm -w- với những khả năng kết hợp của nó với những
phụ âm đứng trước và nguyên âm đứng sau nó, chúng ta có thể rút ra một số nhân
xét về âm đệm của phương ngữ Bắc như sau:
(1). Bán nguyên âm -w- là một âm vị, làm một thành phần cấu tạo nên âm tiết,
nhưng chỉ là một thành phần phụ. Nó giữ chức năng đệm giữa hai thành phần chủ
yếu của âm tiết là phụ âm và vần.
(2). Âm đệm –w- tồn tại trong phương ngữ Bắc. Nếu ta lần lượt cho vắng mặt
âm vị ở những vị trí có thể vắng được (như trên đã làm) thì trong phương ngữ Bắc
11
có đến tám kiểu kết hợp như chúng ta đã thấy ở trên (ở phương ngữ Trung cũng có
tám kiểu nhưng phương ngữ Nam chỉ có bốn kiểu, sự giống và khác biệt này sẽ
được biết khi nghiên cứu phương ngữ Trung và Nam).
(3) Âm đệm –w- còn là một tiêu chuẩn để phân biệt các phương ngữ của tiếng Việt.
II.4. Vần- Nguyên âm
- Vần là một bộ phận chính, trực tiếp của âm tiết. Nó bao gồm hai thành phần :
nguyên âm và âm cuối
Nguyên âm yếu tố không bao giờ vắng mặt và là âm tạo thành âm tiết
Âm cuối, yếu tố có thể có mặt hay vắng mặt. Khi có mặt, nó là một phụ âm
hay một bán nguyên âmj, w. Bán nguyên âm này xét về chức năng là một phụ âm
chứ không phải một nguyên âm bởi vì sau nó người ta không thể them một phụ âm
nào nữa. Vậy có thể gọi chúng là phụ âm cuối.
Nếu như phụ âm đầu với vần và âm đệm, cũng như đệm với vần kết hợp với
nhau lỏng lẻo, không có ảnh hưởng qua lại đáng kể thì trái lại, hai bộ phần của vần
là nguyên âm và âm cuối tác động qua lại với nhau hết sức chặt chẽ, thậm chí thay
đổi cả một bộ mặt ngữ âm của nhau Thí dụ hai âm gốc lưỡi /-ng, -k/ ở phương ngữ
Bắc khi kết hợp với những nguyên âm dòng trước thì chúng nhích về phía trước
biến thành những phụ âm mặc lưỡi ngạc: [-nh, -ch]; còn khi kết hợp với những

nguyên âm dòng sau tròn môi thì chúng thành những phụ âm môi mạc [-ng
m
, -k
m
].
Chúng chỉ giữ được diện mạo chân thực của mình khi kết hợp với những nguyên
âm dòng giữa: [-ng, -k].
Chính vì vậy, nếu như ở trên ta có thể khảo sát tách riêng từng phần làm âm
đệm và phụ âm đầu, thì ta không thể làm thế ở phần vần; trái lại, ta phải xét các vần
như một tổng thể để rồi tách ra nguyên âm và âm cuối trong từng trường hợp một.
II.4.1. Chỉ phương ngữ Bắc mới có đầy đủ các vần với các phụ âm cuối.
Hầu hết các nguyên âm đều kết hợp được với 2 cặp phụ âm [-m, -p], [-n, -t]
và vần giữ gần như nguyên vẹn các tính chất ngữ âm.
12
Ví dụ:
um tùm [u:m tù:m]
cơm nếp [kơm nế:p]
ton hót [to:n hó:t]
ăn tết [ăn tế:t]
Phương ngữ Bắc không có các vần [-ưw] và [-ươw] như các phương ngữ
khác.
Ví dụ:
cứu giúp = kíu giúp
âm mưu = âm miu
về hưu = về hiu
con hươu = con hiu
uống rượu = uống riệu
II.4.2.Phương ngữ Bắc có đặc điểm về hai bán nguyên âm [-j -w]
Hai bán nguyên âm này kết hợp với nguyên âm theo một khuynh hướng nhất
quán trong tiếng Việt là những âm vị có cấu âm tương tự không kết hợp được với

nhau. [-w-] là bán nguyên âm môi không đi với các nguyên âm tròn môi [u, ô, o,
uô]. Cũng vậy, bán nguyên âm [-j-] không đi với các nguyên âm dòng trước[i, e, ê,
iê]. Cho nên ta có các vần iu, êu, eo, iêu nhưng không có các vần ii, ê i, ei, iêi và và
có các vần ui, ôi, oi, uôi mà không có uu, ôu, ou. Nhưng cả hai âm cuối [-j, -w] đều
kết hợp được với các nguyên âm dòng giữa, ta có cả vần ưi lẫn vần ưu, cả ây và âu,
cả ai và ao, cả ay và au. Những điều kiện nói trên là chung cho ngôn ngữ văn học.
Riêng các phương ngữ Bắc không có các vần [-ưw] và [-ươw]. Những từ như cứu
giúp, âm mưu, về hưu phát âm là kíu giúp, âm miu, về hiu, và những từ con hươu,
rượu phát âm thành con hiu, riệu. Đây là một nét khu biệt của phương ngữ Bắc.
II.4.3.Ba cặp phụ âm [-nh -ch] [-ng -k] [-ng^m -k^p] lại kết hợp với các
nguyên âm theo sự phân bố bổ túc như sau:
- Cặp phụ âm mặt lưỡi [-nh –ch] chỉ kết hợp với nguyên âm dòng trước[i, ê,
e]. Ta chỉ có các vần- inh - ich, - ênh - ếch, - enh – ech (chính tả ghi là - anh – ach)
mà không có các vần như – ưnh – ưch, - ônh - ôch, - onh - och,…
- Cặp phụ âm gốc lưỡi [- ng - k] chỉ đi với các nguyên âm dòng giữa [ư, â, a,
13
ă]: - ưng - ưk, - âng -âk, - ang - ak, -ăng - ăk.
- Cặp phụ âm môi ngạc [-ng
m
-k
p
] chỉ kết hợp được với các nguyên âm dòng
sau (tròn môi): [-ung
m
– uk
p
], [-ông
m
–ôk
p

], [-ong
m
–ok
p
].
Ba cặp phụ âm trên không kết hợp được với tất cả nguyên âm, mà đắp đổi, bổ
sung cho nhau mới làm được việc này, cho nên gọi là phân bố bổ túc.
II.4.4.Cả 3 nguyên âm đôi iê, ươ, uô đều kết hợp với [-ng –k] vì yếu tố thứ
hai là âm trung hòa gắn với nguyên âm dòng giữa. Ngoài ra trong một số từ tượng
thanh (như kêu eng éc, long coong, leng keng, boong boong,…) và những từ vay
mượn (như rơ –móoc, quần soóc, nồi soong, bù long, xe goòng, boong tàu,…) có
kết hợp nguyên âm [e] (dòng trước, mở) và nguyên âm [o] (dòng sau, mở) với [-ng
–k]. Nếu xem trường hợp này như một ngoại lệ (dư của cách phát âm cổ để đọc
những từ ngoại lai) thì ta có bảng vần của phương ngữ Bắc như sau:
Âm cuối
Nguyên âm
1
-m
2
-n
3
-
nh
4
-
ng
5
-ng
m
6

-w
7
-j
T
rước

i
ê
e
-
iêm
-
i:m
-
ê:m
-
e:m
- iên
- i:n
- ê:n
- e:n
-
inh
-
ênh
-
enh
-
iêng
-

iêw
-
i:w
-
ê:w
-
e:w
ư
ơ
-
ươu
-ươn
-ưn
-
ương
-
ươj
14
Giữa
ư
ơ
â
a
ă
-
ơm
-
âm
-
am

-
ăm
-ơn
-ân
-an
-ăm
-
ưng
-
âng
-
ang
-
ăng
-
âw
-
aw
-
ăw
-
ưj
-
ơj
-
âj
-
aj
-
ăj

Sau
u
ô
u
ô
o
-
uôm
-
u:m
-
ô:m
-
o:m
-uôn
-u:n
-ô:n
-on
-
uông
-
ung
m
-
ông
m
-
ong
m
-

uôj
-
u:j
-
ô:j
-
o:j
Trong phương ngữ Bắc các nguyên âm trầm,bổng, trung hòa có sự kết hợp
hài hòa với các phụ âm mặt lưới, gốc lưỡi và môi gạc kết quả là phương ngữ Bắc
mang tính chất trung hòa, dễ nghe. Những đặc điểm cấu âm đã tạo cho phương ngữ
này âm sắc ngọt ngào, nhẹ nhàng và trầm bổng. Ngoài quy luật phát triển tự thân thì
nó còn một số nguyên nhân khác chi phối như lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hóa
- Góc độ lịch sử: trong thời kì Bắc thuộc và giai đoạn dầu thời kì tự chủ,
vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ là nơi cư dân Việt Mường tiếp xúc thường
xuyên với người Tày, người Hán. Kết quả là tiếng Việt-Mường đã có sự thay đổi,
cởi bỏ đặc trưng của tiếng Mon-Khmer để tiếp thu tiếng Tày-Thái và ngôn ngữ
Hán: rơi rụng âm tiết phụ, rơi rụng phụ tố, biến đổi phụ âm cuối, hình thành thanh
điệu. Cuối thời kì Bắc thuộc thì tiếng Việt Mường đã tách thành hai ngôn ngữ.
- Góc độ văn hóa: Bắc bộ là vùng văn hóa mà quá trình tiếp biến văn hóa
diễn ra lâu dài và với nội dung phong phú hơn cả. Việc tiếp biến văn hóa thể hiện ở
15
các điểm sau:
+ Âm Gi có nguồn gốc xa xưa từ âm /ji/ tiếng Hán, ngày nay còn một số nhỏ
đọc đúng là /gi/ còn đa số đọc /z/
+ Âm R biến mất là do ảnh hưởng phát âm Bắc Kinh, Mã Lai.
+ Các âm R, Tr và cả âm W, phụ âm đầu từ Y,Dr, Pl, Pr, Fl, Fr và nhiều phụ
âm phức tạp khác đã xuất hiện trong phát âm người Văn Lng nhưng do thời đô hộ
đã bị tiếng Hán lấn áp
- Góc độ xã hội: người miền Bắc thường trọng lễ giáo, khuôn phép, trong
ứng xử luôn hướng đến sự trung hòa. Những đặc điểm đó đã chi phối đến lời ăn

tiếng nói của những người nơi đây, họ thích mềm mỏng nhẹ nhàng và thanh lịch.
Do đó phương ngữ Bắc, cụ thể là về mặt ngữ âm đã có nhiều sự biến đổi để phù hợp
với tính cách, thói quen biểu đạt biểu thị tình cảm của chính mình.
III. TỪ VỰNG- NGỮ NGHĨA
Sự khác nhau về từ vựng- ngữ nghĩa giữa các phương ngữ xuất phát từ hai
lĩnh vực:
Thứ nhất là do bản thân sự phát triển lịch sử ngữ âm của tiếng Việt mà có.
Vì đây là sự phát triển nội bộ của tiếng Việt, của những quy luật ngữ âm lịch sử có
tính chất đều đặn và nhất loạt, cho nên những từ khác nhau chẳng qua là do biểu
hiện của bản chất: những quy luật ngữ âm lịch sử. Những từ này bao gồm tất cả mọi
lĩnh vực, không trừ một lĩnh vực nào: gia đình, xã hội, thiên nhiên, văn hóa,…Sự
khác nhau này biểu hiện ở mọi từ loại, bao gồm cả danh từ, động từ, tính từ, hư từ.
Từ đây dẫn đến sự khác nhau về phụ âm đầu, nguyên âm hoặc âm cuối.
Thứ hai, do những từ khác nhau xuất phát từ những nguồn gốc khác nhau. Do
sự tiếp xúc ngôn ngữ từng nơi, từng lúc khác nhau mà mỗi miền có một từ khác
nhau. Điều này dẫn đến hiện tượng từ đồng nghĩa: bông – hoa, thuyền- nốôc, quả-
trái,…
III.1.Lớp từ đặc phương ngữ ít
Từ đặc phương ngữ là một nét biểu hiện khá cụ thể, riêng biệt và sinh động
của mổi vùng phương ngữ. Đó là những từ chỉ có ở một phương ngữ, nó không
mang tính phổ biến nên không có từ tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân.
Trong phương ngữ Bắc thì lớp từ này rất ít, việc tìm ra chúng không hề đơn
16
giản, số lượng của chúng vô cùng khiêm tốn. Ta có thể thấy một số từ như: sấu,
quan họ, áo tứ thân,…trong khi đó lớp từ đặc phương ngữ ở phương ngữ Nam lại
vô cùng phong phú: chôm chôm, điêng điểng, lục bình, …
Sở dĩ như vậy là do các nguyên nhân sau:
- Lịch sử hình thành: phương ngữ Bắc hình thành sớm nhất và có mối quan hệ
mật thiết với ngôn ngữ toàn dân. Đây là phương ngữ được lựa chọn xây dựng ngôn
ngữ toàn dân. Vì vậy vốn từ của nó gần như thống nhất với ngôn ngữ toàn dân, trừ

một số bộ phận chưa chuẩn hoặc không có trong phương ngữ Bắc, bộ phận này
được bổ sung từ ngôn ngữ của các vùng còn lại.
- Về điều kiện tự nhiên kinh tế: Bắc bộ không có nét đặc thù riêng như ở miền
Nam dẫn đến không có nét đặc thù về lao động, sản xuất hay sinh hoạt dẫn đến lớp
từ đặc phương ngữ ít.
III.2. Tiếp thu nhiều yếu tố vay mượn gốc Hán, từ Hán-Việt tạo nên hiện
tượng từ đồng âm, đồng nghĩa phú .
Trong ba phương ngữ chính thì phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ gốc Hán và
từ Hán-Việt nhiều hơn cả, trong khi phương ngữ Nam chủ yếu có sự vay mượn đối
với ngôn ngữ Pháp là chủ yếu: săm, lốp, pin, ghi đông, xe hơi Thật vậy phương
ngữ Bắc có vốn từ vựng là từ gốc Hán khá phong phú: bát, thuyền, quả, đầu, dầu
hỏa, quan tài, nến, đường
Nguyên nhân của việc tiếp thu nhiều từ gốc Hán ở miền Bắc có thể kể đến:
Một là xuất phát từ lịch sử là chủ yếu, Bắc bộ là vùng hình thành sớm nhất,
lại chịu quá trình đô hộ của phong kiến phương Bắc hơn một nghìn năm, văn hóa
Hán sớm có sự ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam trong đó phải kể đến ngôn ngữ
nên nó sẽ chịu ảnh hưởng cả về văn hóa lẫn ngôn ngữ.
Hai là trải qua quá trình xây dựng ngôn ngữ văn học, trong đó các nhà nho
biết chữ Hán rất nhiều đóng một vai trò không nhỏ nên việc tiếp thu nhiều từ Hán-
Việt và từ gốc Hán là đương nhiên.
Việc phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ gốc Hán cũng tạo nên hiện tượng từ
đồng âm, đồng nghĩa.
Đặc trưng này xuất phát từ nguồn gốc khác nhau của các phương ngữ trong
vùng phương ngữ. Khi tiếp thu các yếu tố gốc Hán, chúng ta luôn có sự chọn lựa để
17
phù hợp với văn hóa, với tâm lí người sử dụng. Việc tiếp thu này đã làm cho vốn từ
vựng có một nhóm từ đồng nghĩa phong phú.
Ví dụ: Quả và trái: 2 từ này có nét nghĩa giống nhau tuy nhiên nguồn gốc lại
khác nhau. Quả có nguồn gốc từ gốc Hán, trái có nguồn gốc Nam Á.
“Bông” và “hoa”: 2 từ này là những từ đồng nghĩa, nhưng nguồn gốc lại

khác nhau. Từ “bông” vốn là từ thuần Việt, còn từ “hoa” lại là từ Hán Việt. Sự xâm
nhập của từ “hoa” khiến cho từ “bông” bị nhược hóa về nghĩa. Nhưng từ “bông”
vẫn không mất đi, nó vẫn được sử dụng, có lúc nó bị đẩy sang vị trí phụ trở thành
lọại từ “bông hoa”. Điều này cho thấy sự cạnh tranh giữa vốn từ ngoại lai và từ bản
địa rất mạnh mẽ. Ngoài ra, ta có thể xét các ví dụ khác như sau:thuyền/ nôốc; cổ
/xưa; bản/ gốc; vô/ không; ái/ yêu;…
Những yếu tố gốc Hán còn tạo nên sự xê dịch về nghĩa, có thể đi xa đến nỗi ta
có những đồng âm khác nghĩa ở trong hai phương ngữ Bắc và Trung, Nam.
Ví dụ 1:
rèm (Hán Việt): Phương ngữ Bắc tương ứng với màn ở phương ngữ Trung và
phương ngữ Nam (gốc Thái)
Màn ở phương ngữ Bắc tương ứng với mùng ở phương ngữ Trung và
phương ngữ Nam(gốc Khmer).
Có nghĩa từ rèm xuất hiện làm thay dổi nghĩa của từ màn và mùng, kết quả
màn ở phương ngữ Bắc đồng nghĩa với mùng ở phương ngữ Nam, mùng bị đẩy ra
khỏi cách nói năng của người miền Bắc, trong khi màn ở phương ngữ Bắc chỉ vật
bằng vải thưa để tránh muỗi,đồng âm với màn ở phương ngữ Nam, phương ngữ
Trung chỉ tấm vải che cửa
Ví dụ 2:
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung, phương ngữ Nam
Thạch sùng = thằn lằn: loài bò sát có chân sống trên trần nhà
Thằn lằn = rắn mối: loài bò sát có chân sống trong bụi bờ
Rèm = màn: tấm vải che gió
Màn = mùng: tấm vải thưa vây quanh giường che
muỗi…
Việc tiếp thu các yếu tố gốc Hán làm cho vốn từ vựng phương ngữ Bắc thêm
18
phong phú.
Từ đồng âm, đồng nghĩa còn xảy ra do quá trình biến đổi phụ âm và ngữ
điệu. Trong quá trình phát triển thì bản thân sự phát triển lịch sử ngữ âm của tiếng

Việt cũng không giống nhau ở từng vùng. Sự biến đổi về ngữ âm không phải biến
đổi tất cả các bộ phận cùng một lúc, mà phần lớn chỉ biến đổi một trong số các bộ
phận như phụ âm đầu, nguyên âm, phụ âm cuối hay thanh điệu, trong khi các bộ
phận khác giữ nguyên, cho nên đây là cơ sở để khẳng định rằng các bộ phận này là
âm vị, rằng âm tiết có thể phân đoạn được. Có các quá trình biến đổi sau:
• Những từ khác phụ âm đầu.
Có thể xem những từ cặn còn sót lại đây là bằng chứng của những quá trình
biến đổi ngữ âm đã xảy ra.
+ Từ thể hiện quá trình xát hóa:
Phương ngữ Bắc do quá trình xát hóa đã biến các từ cổ có phụ âm b, đ chuyển
sang v,z: bui/vui, bo/vo, đa/da, đao/dao, bá/vá, bưa/vừa, đưới/ dưới, đơi/ dơi.
+ Từ thể hiện quá trình xát hóa và hữu thanh hóa:
Do quá trình xá hóa và hữu thanh hóa nên chuyển:
• Ph, th, kh/ v, z, (d), G (g)
Ph/v: ăn phúng/ ăn vụng, phở đất/vỡ đất, phổ tay/ vỗ tay,…
Th/z: nhà thốt/ nhà dột, mưa thâm/ mưa dầm, thu/ dấu,…
Kh/v: khải/ gãi, khở/gỡ, khỏ/ gõ, khót/ gọt,
kháp/ gặp,…
• Ch, k/ j (gi), G (g)
Ch/gi: chi/ gì, chừ/ giờ, chờng/giường, rau chên/ rau giền,…
k/g: ca/ gà, cấu/ gạo, cỏ cú/cỏ giấu, trốc cúi/ đầu gối,…
Qua những từ cặn trên còn thấy được hiện tượng hữu thanh hóa
thường xảy ra cùng với việc hạ thấp thanh điệu: thanh không thành thanh
huyền, thanh sắc thành thanh nặng, thanh hỏi thành thanh ngã, . Phụ âm vô thanh đi
với thanh cao ở phương ngữ Nam, còn phụ âm hữu thanh đi với thanh trầm gặp ở
phương ngữ Bắc.
• sắc/ nặng: ăn phúng/ăn vụng, nhà thốt/nhà dột, cấu/ gạo, khót/gọt,
kháp/ gặp,…
19
• không/ huyền: ca/gà, chi/gì, mưa thâm/ mưa dầm, rau chên/ rau giền,…

• hỏi/ngã: bở/ vỡ, phổ/ vỗ, khở/gỡ, khải/gãi,…
Các tổ hợp phụ âm đầu bl, tl, ml được ghi trong từ điển Việt- Bồ- La (1651)
của A.de Rhodes đã biến mất và cũng để dấu vết lại ở những từ cặn trong phương
ngữ Trung:
Lôông cơn/ trồng cây, lúa lổ/ lúa trổ,…
Ruồi lằng/ nhặng, quả lót/ quả nhót, nói lịu/ nói nhịu, hoa lài/ hoa nhài,…
Những từ có phụ âm đầu khác với ngôn ngữ văn học có thể tìm thấy trong
phương ngữ Bắc nhưng không nhiều hiện tượng như ở phương ngữ Trung.
Dăn leo/ nhăn nheo, duộm/ nhuộm, dức đầu/ nhức đầu, con dộng/ con nhộng,

- Những từ khác nguyên âm được thể hiện trong quá trình biến đổi từ nguyên
âm đơn sang nguyên âm đôi theo hai khuynh hướng: nguyên âm đôi mở dần và
nguyên âm đôi khép dần.
+ Nguyên âm đôi mở dần trong phương ngữ Bắc và phương ngữ
Nam:e/iê, a/ươ, o/uo:
méng/miếng, mẹng/miệng
lả/ lửa, nác/ nước, mạn/mượn, lái/lưới, náng/nướng,…
ló/lúa, nót/nuốt, lòn/luồn, mói/muối,
roọng/ruộng,…
+ Nguyên âm đôi khép dần trong các phương ngữ khác:i/iê, u/ôu
con chí/con chấy, ni/nầy, mi/mày, vi cá/ vây cá,…
nu/nâu, bu/bâu, tru/trâu, cụ/cậu, su/sâu,…
+ Ngoài ra còn có sự đối ứng giữa nguyên âm khép hơn ở phương ngữ
Trung, phương ngữ Nam với nguyên âm mở hơn ở phương ngữ Bắc: u/ô, ư/â.
20
Phương ngữ Bắc nguyên âm mở hơn
Phương ngữ Trung-Nam
nguyên âm khép hơn
chổi
tối

môi
thối
khôn
hôn
chân
chủi
túi
mui
thúi
khun
hun
chưn
Sự đối ứng này chỉ tìm thấy trong một số hoàn cảnh ngữ âm nhất định.
Do có sự khác nhau về nguồn gốc dẫn đến cùng một đối tượng mỗi
phương ngữ có những từ khác nhau.
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam
quả dứa
quả roi
bát
ngã
cùn
ngồi xổm
ăn vụng
thuyền
nến
quả bóng
cá quả
trấy thơm
trấy đào
đọi

bổ
đùi
chò hõ
ăn phúng
nốôc
đèn sáp
trấy ban
cá tràu
trái gai
trái mận
chén

lục
chồm hỗm
ăn chùng
ghe
bạch lạp
trái banh
cá lóc
III.3.Vốn từ vựng phong phú, biểu thị các nét nghĩa chính xác, tinh tế
Nếu từ vựng càng phong phú hay từ vựng thay đổi sẽ dẫn đến sự phân bố lại
nghĩa thì nghĩa của từ càng tinh vi, chính xác. Phương ngữ Bắc có một vốn từ
phong phú không chỉ về số lượng mà cả chất lượng, có khả năng biểu thị các nét
nghĩa một cách chính xác, phù hợp với hoàn cảnh hơn hai vùng phương ngữ còn lại.
Là vùng phương ngữ hình thành và phát triển sớm nên vốn từ vựng của phương ngữ
Bắc phong phú hơn các phương ngữ khác, không chỉ về số lượng mà cả chất lượng.
21
Đối với phương ngữ Trung và phương ngữ Nam một từ chỉ biểu thị một nét nghĩa,
một tính chất, một trạng thái cảm xúc thì phương ngữ Bắc lại có một loạt từ với các
sắc thái biểu cảm, tùy trường hợp mà người sử dụng lựa chọn. Do đó mức độ thể

hiện của nó chính xác hơn.
Ví dụ 1:
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Nam
lạnh, rét, giá buốt
nóng, bực, bức, sốt
ốm, đau
gầy, còm, còi, cọc
nong, cạn
yêu, mến, thương
miếng, ngụm, mẫu
viên, cục, miếng, mẫu
lạnh
nóng, nực
đau
ốm
cạn
thương
miếng
cục
Ví dụ2:
Phương ngữ Bắc: viên kẹo, cục đường, miếng bánh, miếng cá
Phương ngữ Nam: cục kẹo, cục đường, cục bánh, cục cá
Hoặc: Phương ngữ Bắc: miếng cơm, ngụm nước, mẩu giấy
Phương ngữ Nam: miếng cơm, miếng nước, miếng giấy
Ở phương ngữ Bắc còn có trường hợp hai từ dùng để chỉ hai đồ vật khác nhau,
trong khi phương ngữ Nam dùng một từ đẻ chỉ cả hai đồ vật
Ví dụ3:
Phươngngữ Bắc: kính(đeo mắt); gương (soi)
Phương ngữ Nam: coi kiếng (soi gương) và đeo kiếng (đeo kính)
Phương ngữ Trung: gương để chỉ cả soi gương và đeo gương

Nguyên nhân của hiện tượng trên có thể được giải thích như sau:
- Được thừa hưởng truyền thống văn học viết,ít nhất từ thế kỉ XIII bằng chữ
Nôm. Nói cách khác ngôn ngữ văn học Việt Nam được xây dựng trên nền tảng
phương ngữ Bắc.
- Phương ngữ bắc được hình thành sớm.
22
- Do đặc trưng văn hóa, tính cách con người của vùng miền.
- Điều kiện tự nhiên: Miền Bắc không mang đặc thù sông nước như miền Nam
nhưng ngược lại điều kiện tự nhiên lại đầy đủ các dạng địa hình, đủ 4 mùa xuân,
hạ ,thu, đông. Dẫn đến vốn từ vựng cần phải phong phú để diễn đạt hết những gì
con người muốn nói.
IV. ĐẶC TRƯNG VỀ NGỮ PHÁP
Bên cạnh những nét khác biệt về ngữ âm và từ vựng thì còn một đặc trưng nữa
đó là ngữ pháp. Cấu trúc ngữ pháp hầu như thống nhất giữa ngôn ngữ toàn dân và
các phương ngữ. Sự khác biệt giữa các phương ngữ cũng như nét đặc trưng riêng
biệt của mỗi phương ngữ trên phương diện ngữ pháp chủ yếu được thể hiện ở hệ
thống đại từ, hiện tượng đại từ hóa danh từ, những từ phái sinh hay ngữ khí. Xét
trên những yếu tố đó, có thể nhận thấy một số đặc trưng của phương ngữ Bắc về
ngữ pháp.
IV.1. Tính chuẩn mực cao, trang trọng, lịch sự
Tính chuẩn mực trang trọng và lịch sự thể hiện rõ trong hệ thống đại từ, thống
nhất với ngôn ngữ toàn dân. Hệ thống đại từ mang sắc thái trung hòa, không quá
thân thiện cũng không quá suồng sã, giữ được một phép lịch sự tối thiểu khi dùng,
phù hợp với tính cách con người miền Bắc.
- Hệ thống đại từ chỉ định và nghi vấn: Này, thế này, ấy, thế (ấy), kia, kìa,
đâu, nào, sao, thế nào, gì
- Hệ thống đại từ xưng hô:Tôi, tao, chúng ta, chúng tôi, mày, chúng mày, nó
chúng nó, ông ấy, bà ấy, cô ấy, anh ấy, chị ấy.
Nếu so sánh hệ thống đại từ này với hai phương ngữ còn lại ta sẽ thấy hai
phương ngữ còn lại cũng có hệ thống từ này nhưng nó mang một sắc thái nghĩa

không trung hòa, khi thì quá thân mật, khi thì suồng sã, ngôi vị và thứ bậc trong xã
hội không đảm bảo lắm, không thể đưa vào ngôn ngữ viết.
Sự thống nhất giữ đại từ phương ngữ Bắc với ngôn ngữ toàn dân tạo cho
phương ngữ bắc tính chuẩn mực, chính quy. Trong giao tiếp khi sử dụng từ toàn dân
23
bao giờ cũng trang trọng và lịch sự hơn khi dùng phương ngữ. Đây cũng là cơ sở
cho việc chọn phương ngữ Bắc làm ngôn ngữ toàn dân.
Một điều lưu ý là phương ngữ Bắc không có đại từ trung tính. Trong phương
ngữ Trung và Nam xuất hiện đại từ tui để xưng hô giữa bạn bè, giữa những người
trong gia đình khi nói với người ngang hàng hay người trên như con nói với ba mẹ,
anh nói vơi em. Đại từ tui là dấu hiệu của hệ thống đại từ trung tính Châu Âu.
Phương ngữ Bắc không có hiện tượng này vì người miền Bắc rất trọng thứ bậc,rất
lịch sự, nên nếu có xuất hiện cũng không thể tồn tại.
IV.2. Tương đối linh hoạt và năng động
Sự năng động của một phương ngữ thể hiện ở sự biến đổi và phát triển của
cá yếu tố trong ngôn ngữ. Tuy nhiên như đã nói, thì ngữ pháp rất khó thay đổi. Sự
năng động, linh hoạt của ngữ pháp thể hiện trên các mặt sau:
• Hiện tượng đại từ hóa danh từ.
Phương ngữ Bắc xuất hiện hiện tượng đại từ hóa danh từ. Thêm dấu hỏi
(thanh hỏi) để biến danh từ thành đại từ. Tuy nhiên những từ có tần số xuất hiện cao
như ấy, với lại được rút ngắn ở phương ngữ Bắc nhưng không tạo thành phương
thức ngữ pháp như ở phương ngữ Nam:
+ “Ấy” thành “ý”. Ví dụ: anh ý, chị ý
+ “Với” thành “mí”. Ví dụ :đi mí tôi
+ “Chứ lại” thành “chứ lị”. Ví dụ: tôi cũng đi chứ lị
Hiện tượng đại từ hóa ở phương ngữ Bắc không nhiều, nó không trở thành
một phương thức ngữ pháp được sử dụng rộng rãi như ở miền Nam.
• Hiện tượng từ phái sinh
Ở phương ngữ Bắc, chỉ duy nhất có từ nhiều là có từ phái sinh: bao nhiêu,
bấy nhiêu.

+ Phương ngữ Bắc chỉ có từ “nhiều” là có từ phái sinh: bao nhiêu,
bấy nhiêu.
+ Từ “ từ rày” ở phương ngữ Bắc có nghĩa là “ từ nay trở đi” thì ở
phương ngữ Nam nói “hổm rày” có nghĩa “từ hôm ấy đến nay”
+ Bên cạnh từ “không”, từ “chẳng” thì ở phương ngữ Bắc còn có từ
“chả có” để nhấn mạnh ý phủ định.
24
• Về ngữ khí:
Ngữ khí từ phụ họa với ngữ điệu tạo ra sắc thái từ địa phương rõ nét. Cũng nói
với cấu trúc ngữ pháp và từ vựng, chỉ cần thay đổi ngữ khí và giọng điệu là có thể
nhận ra vùng phương ngữ. Ngữ khí từ của phương ngữ Bắc nhẹ nhàng, lịch sư
̣,mang màu sắc trung hòa, không quá mạnh cũng không quá nhẹ, tạo nên ngữ điệu
thanh thoát, nhẹ nhàng.
Ví dụ: So sánh cách nói ngữ khí của phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam sẽ
dễ nhận ra cách dùng ngữ khí trong phương ngữ Bắc.
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Nam
Ở đây vui quá nhỉ!
Cho cháu ông nhé!
Thôi, tôi về nhé!
Thế, anh tưởng tôi không biết sao?
Người ta cũng làm được chứ lị.
Nó đi từ sáng sớm kia đấy.
Cả ngày nó chỉ đi chơi thôi.
Anh không biết à?
Chuyện gì đây nào?
Cho cháu ông nhé!
Thôi, tôi về nhé!
Nó đi từ sáng sớm kia đấy.
Em không muốn ăn.
Ở đây vui quá hén!

Cho con hén nội!
Thôi, tôi về ngheng!
Bộ, anh tưởng tôi không biết sao?
Người ta cũng làm được chứ bộ.
Nó đi từ sáng sớm lậng.
Cả ngày nó chỉ đi chơi không hà.
Anh không biết há?
Chuyện gì vầy nè?
Cho con hén nội!
Thôi, tôi về ngheng!
Nó đi từ sáng sớm lậng.
Em hổng có muốn ăn.
C.KẾT LUẬN
25

×