Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

100 bài thơ hay thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 132 trang )

100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  3 4  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

Trung tâm văn hóa doanh nhân Việt Nam




100
Bài thơ hay thế
kỷ XX










Nhà xuất bản Giáo dục
T.t văn hóa doanh nhân Việt Nam
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  5 6  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX



tựa
"Một trăm bài thơ hay thế kỷ XX" - đó là kết quả
bước đầu cuộc thi: "Bình chọn một trăm bài thơ hay thế
kỷ XX" của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam
và Nhà xuất bản Giáo dục phối hợp tổ chức. Trên hai


năm kể từ khi phát động cuộc thi đến nay đã có tới hàng
nghìn bài dự thi của các tác giả từ ba mươi sáu tỉnh thành
trong cả nước và đồng bào ở nước ngoài như: Nga,
Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Đức… gửi tác phẩm về
tham dự.
Rất nhiều bạn đọc cho rằng đây là một cuộc thi
độc đáo, đặc biệt có lẽ vào loại nhất ở nước ta của cả một
thế kỷ. Chúng tôi rất cảm ơn những ý kiến của bạn đọc
nhưng có lẽ nó độc đáo ở chỗ đây không phải là sự lựa
chọn của một nhóm người nào mà cả một tập thể lớn bạn
đọc trong cả nước. Và chọn bài thơ hay chứ không chọn
tên tác giả. Tác phẩm dự thi chỉ chọn "tên" sáng tác, mà
cụ thể là "tên" của một trăm bài thơ vào loại hay nhất.
Độc đáo, đặc biệt và cũng thật là mạo hiểm. Nó mạo
hiểm ở chữ "hay".
Ban tổ chức và hội đồng giám khảo sau nhiều khó
khăn và phức tạp cuối cùng cũng lựa chọn một cách công
phu, nghiêm túc và trách nhiệm trong tổng số hàng nghìn
tác giả với hàng triệu bài thơ đã được công bố trên thi
đàn Việt Nam trong suốt thế kỷ XX qua sự sàng lọc chọn
lựa của hàng nghìn “thí sinh” đồng thời là giám khảo
chọn ra 100 bài thơ hay này. Một thế kỷ – nghĩa là một
trăm năm chỉ có một trăm bài thơ hay.
Tuy đã được tinh tuyển công phu nhưng cũng chưa
thể khẳng định một cách dứt khoát. Bởi vì lấy gì làm mực
thước cho sự "hay" này.
Cái chỗ để chúng ta cùng bằng lòng với nhau đó là
sự chọn lựa là của một tập thể đông đảo các thí sinh ở
nhiều lứa tuổi, nhiều trình độ, nhiều học vấn, nhiều vùng
quê khác nhau. Trong đó có cả các nhà văn, nhà thơ, các

giáo sư nổi tiếng, những người từng giảng dạy nhiều năm
trong các trường Đại học, trường PTTH, những người
Việt đang sống và làm việc ở nước ngoài chung góp lại.
"Một trăm bài thơ hay thế kỷ XX" đã định hình.
Phải nói đây là một công trình tập thể của những người
yêu thơ trong và ngoài nước và cũng phải nói rằng đây
mới chỉ là bước đầu cho dù đã hết sức khắt khe, nghiêm
túc và minh chính.
Chúng tôi nghĩ kết quả này phải được công bố
dưới hình thức xuất bản và cuối cùng thời gian và công
chúng sẽ tiếp tục giúp chúng ta trả lại sự công bằng minh
chính cho thơ ca.
Chúng tôi hy vọng và trông chờ mọi ý kiến tham
gia góp ý xây dựng và chỉ bảo cụ thể của bạn đọc trong
và ngoài nước. Chúng tôi xin nghiêm túc tiếp thu và từng
bước tiếp tục hoàn chỉnh để chúng ta sớm có được một
tác phẩm thi ca chọn lọc xứng đáng với một dân tộc, một
đất nước giàu truyền thống anh hùng và thơ mộng: Việt
Nam.

Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam –
Nhà xuất bản Giáo dục
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  7 8  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

































Hồ Chí Minh
(1890 – 1969)


Chữ hán








phiên âm

thế lộ nan

Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn ngộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  9 10  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX










Dịch nghĩa

đường đời hiểm trở



Từng đi khắp núi cao non hiểm, ngờ đâu đến nơi
đường phẳng lại gặp nhiều gian nan. Nơi núi cao gặp
hổ, chung quy vẫn không sao. Xuống đường phẳng
gặp người lại bị bắt giam.


Dịch thơ


Đi khắp đèo cao, khắp núi cao
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao
Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người, bị tống lao.






Phùng khắc bắc

(1944 – 1991). Quê: Bắc Giang
Tác phẩm thơ đã in: Một chấm xanh.


Ngày hòa bình đầu tiên


Những sợi nắng xuyên qua nhà mình

Thành những mũi tên
Thành những viên đạn
Bắn tiếp vào anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả
Van anh.
Hôm qua chưa nhận được viên đạn
Hôm nay nhận những lỗ thủng
Vũ khí lúc này hai bàn tay
Mẹ giục:
– Ăn cơm, con!
Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà

Mùi ổ rơm.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  11 12  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX





Nguyễn bính

(1918 – 1966). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: Lỡ bước sang ngang.
Tâm hồn tôi. Hương cố nhân. một nghìn
cửa sổ. Người con gái ở lầu hoa. Mười hai
bến nước. Mây tần. Tỳ bà truyện. ông lão
mài gươm. Đồng tháp mười. Trả ta về.
Gửi người vợ miền Nam. Trông bóng cờ bay.
Tiếng trống đêm xuân. tình nghĩa đôi ta.
đêm sao sáng. nước giếng khơi.

tuyển tập Nguyễn Bính.


những bóng người trên sân ga


Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những lời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày

Có lần tôi thấy hai cô bé
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
"Đường về nhà chị chắc xa xôi?"
















Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu

Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu

Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu, anh thắt lại:
"Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!"
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  13 14  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

















Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga

Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly

Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?






Thu bồn

(1935 – 2003). Quê: Quảng Nam
Tác phẩm thơ đã in: bài ca chim ch'rao (tc). Tre xanh.
Quê hương mặt trời vàng. azan khát.
cămpuchia hy vọng (tc). Oran 76 (TC).
Người vắt sữa Bầu trời (tc). Thông điệp
mùa Xuân (TC). Tuyển tập trường ca
100 bài thơ tình nhờ em đặt tên.



Tạm biệt huế


Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
Chén ngọc giờ chìm đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn
chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu

Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  15 16  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX















áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
Nắng mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.

Huế, 8-1983












đồng đức bốn


(948 – 2004). Quê: Hải Phòng
Tác phẩm thơ đã in: chăn trâu đốt lửa.
trở về với mẹ ta thôi.
cuối cùng vẫn còn dòng sông.
tuyển tập thơ đồng đức bốn.


vào chùa


đang trưa ăn mày vào chùa
Sư cụ cho một lá bùa rồi đi
Ăn mày không biết làm gì
Lá bùa nhét túi lại đi ăn mày.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  17 18  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX








Nhã ca

Sinh: 1939. Quê: Thừa Thiên Huế
Hiện sinh sống ở nước ngoài
Tác phẩm đã in: Trên 36 truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết và tập
Thơ nhã ca (gồm Thi tập Nhã Ca mới và
những bài thơ mới viết, 1973).



Tiếng chuông thiên mụ


Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn
Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn
Những sáng chim chiều dế canh gà
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu trong da
Người với chuông như chiều với tối







Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Tiếng chuông đến và đi chỉ mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền

Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố
Tiếng chuông tan dài như đêm không ngủ
Tiếng chuông tan tành như tiếng vỡ trong tôi

Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư
Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sương mù
Dòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc
Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da
Tuổi hồng sa chân chết đuối bao giờ
Ngày tháng cũ cầm bằng như nước lũ
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  19 20  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX











Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi
Tiếng chuông xưa kìa tuổi dại ta ơi
Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói

Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như máu phục sinh
Những mảnh đồng đen kề nhau bước tới

Tôi thức dậy rồi đây chuông ơi chuông hỡi
Tôi thức dậy đây tôi thức dậy rồi
Thức dậy thực sự rồi
Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ
Thức dậy cùng lịch sử

Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay
Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ
Cho con trở về đứng mê sảng ngó.




văn cao
(1923 – 1995). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: những người trên cửa biển.
Lá. tuyển tập thơ văn cao


Chiếc xe xác qua phường dạ lạc


Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma

Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang Não nuột khóc tàn sương
áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thế
Ta đi trên đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây.
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân
nghe loạn trùng hút tủy
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  21 22  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX





Ai hủy đời trai trên tang trống nhỉ?
Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!
Đảo điên mê say Thể phách chia lìa
Nghe gieo mạnh chuỗi tiền cười lạnh lẽo!
Tiền rơi! Tiền rơi! Chùm sao huyền diệu
Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!
Ta lả nhìn cửa sổ mắt mờ rồi
Vàng mấy lá thừa đãi thây phủ chiếu.


Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
Dặt dìu cung bậc âm dương
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
Đầm đìa rả rích phương Đông
Mang mang thở dài hôn đất trích
Lưới thép trùng trùng khép cố đô
Cửa ô đau khổ
Bốn ngả âm u
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa Thu
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
Đêm đêm, đài canh tan tác
Bốn vực nhạc động, vẫy người
Dẫy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
Ta về gác gió cài then cửa cũ
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân




Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc

Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói Công Yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ u huyền

Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đang kêu sào sạo
– Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
Trong tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xe dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.

1945
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  23 24  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX






Vũ cao
Sinh: 1922. Quê: Nam Định
Hiện sống và viết tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: sớm nay, đèo trúc. Núi đôi


Núi đôi



Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục Đoài, Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi!

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau










Anh vào bộ đội, lên đông bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?


Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  25 26  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX








Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen

Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong!
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối
Xuân Dục, Đoài, Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau





Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau

Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng, mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây

ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này!

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng

Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

1956
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  27 28  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX








Hoàng cầm
Sinh: 1922. Quê: Bắc Ninh
Hiện sống và viết tại Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: Men đá vàng (tc).
mưa thuận thành. Lá diêu bông.
bên kia sông đuống. Về Kinh bắc. 99 tình
khúc.



bên kia sông đuống


em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay







Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô

Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang từng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  29 30  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX






Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những cô nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?


Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa Thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng






Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa Đông


Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.
Thuyền ai thấp thoáng bến Hồ
Xoá cho ta hết những giờ thảm thương.

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  31 32  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX






Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn.


Đêm buông xuống dòng sông Đuống
– Con là ai? Con ở đâu về
Hé một cánh liếp
– Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn








Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa

Bao nhiêu nắng đẹp mùa Xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu:
– "à ơi! Cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn, càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay
– "Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu "

Em ơi? Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  33 34  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX






Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười.

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ

Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Việt Bắc 4-1948









Huy cận

(1919 - 2005). Quê: Hà Tĩnh
Tác phẩm thơ đã in: lửa thiêng. vũ trụ ca.
Đất nở hoa. Bài thơ cuộc đời. Những năm

sáu mươi. cô gái mèo. Chiến trường gần
chiến trường xa. Những người mẹ
những người vợ. Ngày hằng sống
ngày hằng thơ. Ngôi nhà giữa nắng.
hạt lại gieo.


Tràng giang
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C

Tặng Trần Khánh Giư


Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy giòng
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  35 36  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX



















Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.



nông quốc chấn

Dân tộc Tày
(1923 – 2003). Quê: Bắc Cạn
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: tiếng ca người việt bắc.

đèo gió. Bước chân pác pó.
Dòng thác. suối và biển.
Tuyển tập thơ nông quốc chấn.


Dọn về làng


Mẹ! – Cao Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dầy như củi
Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai
Mấy năm qua quên tết tháng Giêng
quên rằm tháng Bảy
Chạy hết núi lại khe cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Đường đi lại vắt bám đầy chân
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  37 38  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX










Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến lùng
Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi
Nó vơ vét áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lẩn đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lòa mắt không biết lối bước đi

Làm sao bây giờ: Ta phải chống
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng nổ ngay đì đùng một loạt
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất
Cha ơi! Cha không biết nói rồi
Chúng con còn thơ, ai nuôi, ai dậy
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc
Sợ Tây nghe mẹ dỗ "nín", con im

Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi cất











Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi áo liệm thân cho bố!
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày tao mới hả!

Hôm nay Cao-Bắc-Lạng cười vang
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày, mẹ phát ruộng ta quang
Đường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá
Mặc gà gáy, chó sủa không lo
Ngày hai bữa rau ta có muối
Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu
Có bắp say độn gạo no lâu
Đường ngõ từ nay không cỏ rậm
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  39 40  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX














Trong vườn chuối hổ không dám đến đẻ con
Quả trên cành không lo tự chín, tự rụng
Ruộng không thành nơi máu chảy từng vũng
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng
Ra đường xe hát, nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai
Chân đi có giầy không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa

Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người,
cướp của trên đất nước ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.

Mùa Đông, 1950







Nguyễn bá chung


Việt kiều tại Mỹ


Quê hương


Ba mươi năm xa cách quê hương
Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ
Nhớ lần đầu – tóc tang trời ủ rũ
Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên

Có cái gì là lạ không thể quên
Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi
Như nỗi đau không thể làm dịu vợi
Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm

Như bầu trời nửa xám nửa không quen
Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó
Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ
Những người xưa vì nước xả thân mình
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  41 42  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX

















Con đường quê vẫn mãi mãi gập ghềnh
Bao năm tháng những người làng chịu đói
Năm ất Dậu tất cả làng tụ lại
Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời

Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời
Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại
Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi
Vết thương đau chưa chôn đủ tháng ngày

Để về đây nhận lại mặt người
Để mình biết mình vẫn là mình cũ
Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ
Nhìn quê hương để lại nhận ra mình.



Vũ hoàng chương

(1916 – 1976). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: thơ say. Mây. Thơ lửa.
tâm sự kẻ sang tần. Rừng phong.

Hoa đăng. tâm tình người đẹp.
Trời một phương. lửa từ bi. ánh sáng
đạo lý. Bút nở hoa đàm. cành mai
trắng mộng. Ta đợi em từ ba mươi năm.


say đi em


Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Mặt trời phấn hương
Đôi người gió sương

Đầu xanh lận đận, cùng xót thương,
càng nhớ thương
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề,
tình nay sao héo
Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng chót nghiêng mà bước vẫn du hương
Lòng nghiêng tràn hết yêu đương
Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  43 44  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX













ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

Âm ba gờn gợn nhỏ
ánh sáng phai phai dần
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!

Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa
Tay mềm mại, bước còn chưa chếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly, chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men









Say đi em! Say đi em
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!

Ta quá say rồi
Sắc ngã màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi?

Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say con còn biết chi đời
Như em ơi,
Đất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ;
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ em ơi.
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  45 46  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX









Hoàng trần cương

Sinh: 1948. Quê: Nghệ An
Hiện sống và viết tại: Hà Nội
Tác phẩm thơ đã in: đường chân trời. Dấu vết
tháng ngày. trầm tĩnh (Tc)


Miền trung


Bao giờ em về thăm
Mảnh đất quê anh một thời ngún lửa
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam

Miền Trung
Tấm lưng trần đen sạm
Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm giăng màn
Thoáng bóng giặc núi lửa thành bàng súng
Những đứa con văng như mảnh đạn
Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi
















Miền Trung
Đã bao đời núi với bể kề đôi
Ôi! Bể Đông – giọt nước mắt của muôn ngàn
thế hệ
Nóng hổi như vừa lăn xuống
Theo những tảng đá cụt đầu
của Trường Sơn uy nghiêm

Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  47 48  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX


















Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người

Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về đừng để mẹ già mong.

5-1990









đoàn văn cừ

(1913 – 2004). Quê: Nam Định
Tác phẩm thơ đã in: thôn ca. Thôn ca II.
Dọc đường xuân. đường về
quê mẹ. Tuyển tập đoàn văn cừ.


đường về quê mẹ


u tôi ngày ấy mỗi mùa Xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân

Tôi nhớ đi qua những rặng đề
Những dòng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh bãi tía kề liền tiếp
Người xới cà ngô rộn bốn bề

Thúng cắp bên hông nón đội đầu
Khuyên vàng yếm thắm, áo the nâu
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  49 50  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX













Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au

Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh cò trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng

Tà áo nâu in giữa cánh đồng
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng

Tới đường làng gặp những người quen
Ai cũng khen u nết thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.

1942






Lâm thị mỹ dạ

Sinh: 1949. Quê: Quảng Bình
Hiện sống và viết tại: Thừa Thiên Huế
Tác phẩm thơ đã in: trái tim sinh nở.
Bài thơ không năm tháng.
hái tuổi em đầy tay. Mẹ và con.
đề tặng một giấc mơ.


Anh đừng khen em


Lần đầu khi mới làm quen
Anh khen cái nhìn em đẹp
Trời mưa òa cơn nắng đến
Anh khen đôi má em hồng
Gặp người tàn tật em khóc
Anh khen em nhạy cảm thông
Thấy em sợ sét né giông
Anh khen sao mà hiền thế
Thấy em nâng niu con trẻ
Anh khen em thật dịu dàng
Khi hôn lên câu thơ hay
ấp trang sách vào mái ngực
100 bµi th¬ hay thÕ kû XX  51 52  100 bµi th¬ hay thÕ kû XX











Em nghe tim mình thổn thức
Thương người làm thơ đã mất
Trái tim giờ ở nơi đâu
Khi đọc một cuộc đời buồn
Lòng em xót xa ấm ức
Anh khen em cảm xúc
Và bao điều nữa anh khen

Em sợ lời khen của anh
Như sợ đêm về trời tối
Nhiều khi ngồi buồn một mình
Trách anh sao mà nông nổi
Hãy chỉ cho em cái kém
Để em nên người tốt lành
Hãy chỉ nơi anh cái xấu
Để em chăm chút đời anh
Anh ơi anh có biết không
Vì anh em buồn biết mấy
Tình yêu khắt khe thế đấy
Anh ơi anh đừng khen em.














Xuân diệu

(1916 – 1985). Quê: Hà Tĩnh
Tác phẩm thơ đã in: thơ thơ. Gửi hương cho gió.
Ngọn quốc kỳ. Hội nghị non sông. mẹ con.
Ngôi sao. Riêng chung. Mũi cà mau
với cầm tay. Một khối hồng. Hai đợt sóng.
Tôi giàu đôi mắt. Hồn tôi đôi cánh.
Thanh ca. Tuyển tập xuân diệu.


Nguyệt cầm


Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×