Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Khảo sát khả năng và sử dụng từ Hán Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 85 trang )

DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài và lịch sử nghiên cứu
Việt Nam trong thế kỉ 21 đang trên đà phát triển toàn diện đất nước, một
trong những vấn đề trọng tâm là đẩy mạnh giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta đề ra là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài; cốt lõi của việc đẩy mạnh giáo dục là cải tiến phương pháp,
nâng cao chất lượng dạy và học. Đối với bộ môn Ng
ữ Văn, phương pháp giảng
dạy tối ưu xưa nay của người giáo viên vẫn là phương pháp dùng lời nói để
trình bày tài liệu, tác động đến học sinh. Tuy nhiên, trong khi nói lẫn viết, người
giáo viên Ngữ Văn cũng như nhiều bộ môn khác cũng gặp không ít khó khăn
trong việc lựa chọn và giải thích từ ngữ, đặc biệt là từ Hán Việt. Điều đó làm ảnh
hưởng ít nhiều đến khả n
ăng giảng dạy của giáo viên.
Đối với học sinh, vấn đề sử dụng đúng ngôn ngữ tiếng Việt cũng là một
vấn đề hết sức khó khăn. Mặc dù ở mỗi cấp học, bộ môn tiếng Việt đều được
đưa vào giảng dạy song song với những bộ môn khác, trong đó có một số bài
dạy về từ Hán Việt; song, nhìn chung phần lớn học sinh đều hiể
u sai nghĩa của
từ Hán Việt dẫn đến một số trường hợp ngộ nhận đáng tiếc khi đặt câu, ngay cả
những sinh viên đại học chuyên ngành Ngữ văn. Có thể kể ra đây một số lỗi
thường gặp như:
- Dùng từ sai phong cách:
Vd: Ông ấy bị bệnh đã
hy sinh hôm qua (bài làm của học sinh).
Thay vì nói: Ông ấy bị bệnh đã
từ trần hôm qua.
- Viết sai chính tả:
Vd: Ông ấy là một nhà văn
lãng mạng (bài làm của học sinh).


Thay vì nói: Ông ấy là một nhà văn
lãng mạn.
- Sử dụng từ không đúng:
Vd: Nhà văn phải
xâm nhập vào hiện thực đời sống để tìm tư liệu (bài làm
của học sinh).
Thay vì nói: Nhà văn phải
thâm nhập vào hiện thực đời sống để tìm tư
liệu.

1
Những trường hợp trên đây xuất phát từ một thực trạng là học sinh không
hiểu được nghĩa cũng như phạm vi sử dụng của từ Hán Việt. Như vậy, muốn
tạo lập văn bản đúng thì người nói (viết) cần có một vốn từ vựng Hán Việt phong
phú và phải hiểu được phạm vi sử dụng của từ Hán Việt để sử
dụng cho phù
hợp.
Trong tiếng Việt, từ Hán Việt chiếm số lượng tương đối cao - trên 60%.
Lượng từ Hán Việt này đã góp phần không nhỏ trên bước đường phát triển của
tiếng Việt, đủ khả năng đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu do cuộc sống văn hoá - xã
hội đề ra. Tuy nhiên, bản thân nó cũng chứa đựng nhiều điều phức tạp, gây khó
khăn cho ng
ười tiếp nhận và sử dụng, là vấn đề nhạy cảm nhất mà bất cứ
người nào muốn tìm hiểu sâu về tiếng Việt cũng gặp phải.
Qua học tập bộ môn Hán Nôm trong nhà trường đại học, chúng tôi nhận
thấy từ Hán Việt có rất nhiều điều hay, nó đóng góp không nhỏ cho việc học tập
bộ môn Ngữ văn. Do vậy, thiết nghĩ, khi học tập môn Ngữ
văn, học sinh phải có
vốn từ Hán Việt nhất định và có khả năng giải thích từ Hán Việt để tiếp thu các
tác phẩm văn học Việt Nam trung đại, văn học Trung Quốc và nhất là sử dụng

chúng trong giao tiếp cuộc sống.
Trên thực tế, trước nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, chuyên luận
bàn về từ Hán Việt ở nhiều khía cạnh khác nhau và những cuộc điều tra tình
hình hiểu và s
ử dụng từ Hán Việt của học sinh, sinh viên.
Tác giả Đặng Đức Siêu trong quyển “Dạy và học từ Hán Việt ở trường
phổ thông” đã chú ý nghiên cứu ở khía cạnh nhận diện từ Hán Việt qua cái nhìn
lịch sử để từ đó đề ra phương hướng nắm vững vốn từ Hán Việt.
Bên cạnh đó, một số tác giả lại nghiên cứu tìm ra mẹo để giải nghĩ
a từ
Hán Việt như ở quyển “Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả” của tác
giả Phan Ngọc,
Tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong quyển “Sự hình thành cách đọc Hán Việt”
lại chú ý ở phương diện cách đọc và xuất xứ của cách đọc Hán Việt.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn
Khang: Tiếng Việt trong trường học đề cập đến phương pháp d
ạy học từ Hán
Việt hiện nay ở nhà trường phổ thông, điều đó gợi mở cho đề tài của chúng tôi
rất nhiều.
Đặc biệt, phong phú hơn cả là những chuyên luận đăng trên tạp chí Hán
Nôm và tạp chí Ngôn Ngữ, những quyển từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ,
tự điển Hán Việt của các tác giả Đào Duy Anh, Bửu Kế,
Sự quan tâm nghiên cứu v
ề từ Hán Việt tương đối phong phú, đều khắp
các mặt; tuy nhiên, để khảo sát trên một địa bàn cụ thể, tại trường PT ở địa bàn
Tp. Long Xuyên – An Giang thì chưa có công trình nào. Tình hình này ở mỗi giai

2
đoạn, mỗi khu vực lại có những đặc điểm khác nhau. Do vậy, đến nay nó vẫn là
vấn đề hết sức nóng bỏng của xã hội.

Thiết nghĩ, là sinh viên chuyên ngành Ngữ văn, người sẽ trực tiếp giảng
dạy trong tương lai, điều chúng tôi nên làm khi đang ngồi trên ghế nhà trường
đại học chính là vận dụng kiến thức đã học nhằm hình thành cho mình phương
pháp giảng dạ
y tích cực nhất, khắc phục những yếu kém hiện tại của học sinh.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn làm đề tài nghiên cứu của mình là: KHẢO
SÁT KHẢ NĂNG HIỂU VÀ SỬ DỤNG TỪ HÁN VIỆT CỦA HỌC SINH KHỐI 10
VÀ 12 TRƯỜNG THPT LONG XUYÊN.
Qua nghiên cứu, tôi sẽ biết được khả năng giải thích và sử dụng từ Hán
Việt của học sinh trung học phổ thông, những lỗi thông thường mà phần lớn họ
c
sinh gặp phải. Từ đó, đưa ra định hướng cho mình cách dạy tốt môn Ngữ văn,
với mục tiêu là giúp cho học sinh có hứng thú với bộ môn
Văn học trung đại nói riêng cũng như Văn học Việt Nam nói chung - bộ môn
chưa thực sự được học sinh quan tâm tương xứng với nét đặc sắc của nó.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi chọn đề tài này, chúng tôi đã xác định hai mục đích chính của đề tài
như sau:
2.1 Chúng tôi muốn thông qua khảo sát thực tế ở địa bàn trường THPT
Long Xuyên để có được kết quả cụ thể về khả năng giải thích và sử dụng từ
Hán Việt của học sinh THPT. Việc thống kê phiếu điều tra nhằm phát hiện
những yếu kém và những lỗi thường gặp trong việc hiểu và sử
dụng từ Hán
Việt, từ đó rút ra một số nhận xét bước đầu.
2.2 Sau khi đã nắm được khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học
sinh hai khối 10 và 12, mục đích cuối cùng của chúng tôi là đề ra một số biện
pháp để khắc phục tình trạng này, tức là sẽ nâng cao khả năng giải thích và sử
dụng từ Hán Việt cho học sinh bằng cách đề ra nhữ
ng biện pháp khắc phục
những lỗi Hán Việt thông thường, những mẹo luật học từ Hán Việt, phương

pháp mở rộng từ Hán Việt, Ngoài ra, đề tài còn mong muốn đề ra một số kiến
nghị góp phần nâng cao kết quả dạy học từ Hán Việt trong nhà trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, chúng tôi xác định nhiệm vụ của đề tài bao
gồm các nội dung cụ thể sau:
3.1 Làm sáng tỏ những lý thuyết về từ Hán Việt.
- Nêu khái niệm từ Hán Việt, có liên hệ với lịch sử hình thành và phân biệt
với các loại từ Việt gốc Hán khác.

3
- Nêu đặc điểm của từ Hán Việt và cách nhận dạng chúng.
- Nêu vị trí của từ Hán Việt trong vốn từ vựng tiếng Việt cả trong quá khứ
và hiện tại, chỉ ra một số vấn đề về dạy và học từ Hán Việt trong trường phổ
thông.
3.2 Khảo sát khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh khối 10
và 12 trường THPT Long Xuyên qua tổng hợ
p các phiếu điều tra, trong đó bao
gồm thống kê khả năng nhận biết từ Hán Việt của học sinh, phân tích các lỗi
thường gặp trong sử dụng tiếng Việt nói chung và từ Hán Việt nói riêng cũng
như xem xét khả năng mở rộng từ Hán Việt của học sinh,
3.3 Từ kết quả khảo sát thu được, chúng tôi sẽ so sánh khả năng hiểu và
sử dụng từ Hán Việt của họ
c sinh khối 10 và 12, sự chênh lệch về khả năng
hiểu và sử dụng từ Hán Việt giữa hai khối lớp nhằm đề ra biện pháp phù hợp.
3.4 Nêu nguyên nhân của thực trạng hiểu và dùng sai từ Hán Việt, bao
gồm: nguyên nhân khách quan do đặc điểm phức tạp của từ Hán Việt, chương
trình dạy học từ Hán Việt ở trường phổ thông còn bất cập, cùng với những
nguyên nhân chủ quan từ phía họ
c sinh.
3.5 Qua tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng, đề tài mong muốn đưa ra

những biện pháp khắc phục, đồng thời nâng cao khả năng hiểu và sử dụng từ
Hán Việt của học sinh. Những biện pháp khắc phục được tổng hợp từ những
mẹo luật giải nghĩa từ Hán Việt, mẹo học từ Hán Việt được tiếp thu, thừa hưởng
từ các công trình nghiên cứu của mộ
t số tác giả đi trước, kết hợp với những ý
tưởng và phương pháp học của bản thân.
3.6 Đề tài cũng nêu một số kiến nghị giúp học sinh trong tương lai sẽ có
hứng thú học tập tiếng Việt nói chung và từ Hán Việt nói riêng, đồng thời giúp
giáo viên Ngữ văn ý thức được tầm quan trọng của bộ môn Hán Nôm nhằm
nâng cao khả năng giảng dạy tiếng Việt nói chung và từ Hán Vi
ệt nói riêng của
người giáo viên theo chương trình SGK đổi mới hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, vấn đề dạy và học từ Hán Việt là một vấn đề hết
sức phức tạp, phức tạp ở chỗ năng lực truyền đạt của giáo viên và khả năng
hiểu của học sinh về lớp từ này. Trước nay, vấn đề này vẫn được quan tâm
nhiều ở mặt lí luận mà chưa chú trọng lắm về mặt thực tiễ
n. Vì vậy, chúng tôi
chọn khảo sát ở địa bàn trường học để có cái nhìn cụ thể hơn về thực trạng
hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT hiện nay ở trường THPT Long
Xuyên. Lẽ ra, đề tài sẽ có giá trị thuyết phục hơn nếu được nghiên cứu ở nhiều
địa bàn trường học khác nhau nhằm đưa ra cái nhìn toàn diện về thực trạng
hiểu và sử dụng t
ừ Hán Việt của học sinh THPT. Tuy nhiên, do thời gian nghiên
cứu có hạn cũng như đề tài còn ở trình độ nghiên cứu của một cá nhân sinh
viên, vì vậy, tôi chỉ chọn phạm vi nghiên cứu ở một trường học cụ thể là trường

4
THPT Long Xuyên. Do bản thân là sinh viên năm thứ hai, chưa có điều kiện kiến
tập, thực tập ở trường phổ thông nên quá trình khảo sát chỉ chủ yếu xoay quanh

việc phát phiếu điều tra ở ba lớp 10 (10A2, 10A11, 10A12) và hai lớp 12 (12A13,
12A14), không thể mở rộng nghiên cứu, khảo sát cách sử dụng từ Hán Việt của
học sinh trong tiết học để quan sát đầy đủ hơn về thực trạng hiểu và sử d
ụng từ
Hán Việt của học sinh THPT.
Sở dĩ đề tài chỉ chọn khối 10 và khối 12 vì đây là khối lớp đầu cấp và cuối
cấp, dễ dàng có sự đánh giá trình độ. Việc chọn lựa hai khối lớp này cũng nhằm
có sự so sánh, đánh giá nhất định về phương pháp dạy và học từ Hán Việt trong
nhà trường THPT để có những cứ liệu xác thực nhằm đề ra nh
ững biện pháp
phù hợp với thực tế hơn.

5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Khả năng hiểu và sử dụng từ Hán
Việt của học sinh khối 10 và khối 12.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp:
- Thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài, chọn lọc, ghi chép lại nội dung
cần yếu và tìm cơ sở dữ liệu của đề tài.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Do không có điều kiện để dự giờ từng
tiết dạy cụ thể, quan sát quan sát khả năng sử dụng từ Hán Việt của học sinh
trong khi trả lời giáo viên; vì vậy, đề tài chỉ thông qua m
ột hình thức chủ yếu là
phát phiếu điều tra ở 5 lớp cùng với phỏng vấn ngẫu nhiên 2 học sinh khối 10 về
hứng thú học cũng như khả năng hiểu từ Hán Việt của học sinh.
Do tiến hành điều tra đồng thời ở năm lớp trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm
đầu tuần nên chúng tôi không thể theo dõi quá trình trả lời của tất cả các em ở

m lớp mà nhờ vào sự hỗ trợ của các giáo viên chủ nhiệm của năm lớp hướng
dẫn các em hiểu rõ về nội dung yêu cầu câu hỏi và định hướng trả lời, đồng thời

các giáo viên chủ nhiệm cũng đảm bảo cho tính khách quan của việc điều tra.
- Phương pháp thống kê và xử lý tư liệu: Khi đã thu thập đầy đủ những
phiếu điều tra, chúng tôi đã tiến hành th
ống kê để xác định về lượng, từ đó tổng
hợp hoá và phân loại. Cụ thể là ở mỗi câu, chúng tôi sẽ phân số lượng những
câu trả lời, số câu trả lời đúng, số câu trả lời sai và chia chúng theo tỉ lệ phần
trăm; sau đó, chúng tôi sẽ tổng hợp những câu trả lời sai để làm ví dụ, dẫn
chứng cụ thể trong nội dung phần khảo sát thực trạ
ng. Trong số những câu trả
lời sai này, chúng tôi sẽ phân loại lỗi sai để làm minh hoạ cho từng nội dung cụ
thể được nêu ra.

5
7. Bố cục đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục, tài liệu tham khảo
ra, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung
Chương 2: Khảo sát thực trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh
khối 10 và 12 trường THPT Long Xuyên
Chương 3: Những giải pháp khắc phục






6










NỘI DUNG

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG

1. Quá trình hình thành và phát triển của từ Hán Việt
Theo quan điểm của nhiều người, từ Hán Việt lâu nay vẫn luôn bị xem là
một thứ từ ngoại lai. Việc hạn chế hoặc giả là không dùng từ Hán Việt được xem
như biện pháp để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Hiểu như vậy e rằng
không thấu đáo.
Do vị trí địa lí và hoàn cảnh lịch sử, trong tiếng Việt có một lớp từ ngữ gốc
Hán rấ
t phong phú về số lượng, có giá trị nhiều mặt, thường được gọi dưới cái
tên chung là từ Hán Việt. Lớp từ này thực chất từ lâu đã góp phần tích cực vào
tiến trình phát triển của hệ thống từ ngữ tiếng Việt, làm cho tiếng Việt ta ngày

7
thêm giàu có, tinh tế, uyển chuyển hơn, đủ khả năng đáp ứng tốt nhất mọi yêu
cầu do cuộc sống văn hoá - xã hội.
Không thể phủ nhận từ Hán Việt vốn dĩ ban đầu là thứ từ vay mượn
nhưng đồng thời là sự sáng tạo rất độc đáo của bao thế hệ người Việt và từ lâu
đã hoà nhập vào dòng chảy ngôn ngữ Việt, trở
nên gần gũi với chúng ta. Trong
lời ăn tiếng nói hằng ngày, chúng ta sử dụng không ít từ Hán Việt vào trong phát
ngôn của mình dù dưới sự chỉ đạo của ý thức hay vô thức.

Thực tế, trong chúng ta không ít người còn khá mơ hồ về cái được gọi là
từ Hán Việt nên mới có những cách hiểu lệch lạc. Khi nói đến những từ như: phi
cơ, giáo sư, giang sơn, quốc gia… ta biết ngay là từ Hán Việt. Nhưng khi nói:
đầ
u, học, dân…thì ta cứ ngỡ đó là từ thuần Việt. Vì sao vậy ? Đó là do từ Hán
Việt là kết quả của cả một quá trình tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán kéo dài ít nhất
là hai thiên niên kỷ, trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và những phương
thức đặc biệt với sự tài trí của bao thế hệ người Việt Nam nhằm bảo tồn và phát
triển ngôn ngữ dân tộc. Như vậy, đố
i với việc đưa ra ý kiến không dùng từ Hán
Việt như là một biện pháp để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là không cần
thiết vì như thế sẽ làm hạn chế đi vốn từ phong phú của tiếng Việt. Ta có thể
thay “phi cơ” bằng “máy bay”, nhưng đối với những từ như: tinh thần, viện kiểm
sát, phong kiến…không thể có một từ nào khác tương đương để thay th
ế. Cần
chấp nhận vai trò của từ Hán Việt như một bộ phận đã, đang tồn tại và sẽ tiếp
tục phát triển góp phần vào sự phát triển chung của tiếng Việt. Điều đó đòi hỏi
mỗi người Việt phải có một cách hiểu đúng đắn hơn về lớp từ Hán Việt, tìm hiểu
quá trình hình thành và phát triển từ Hán Việt, đi sâu tìm hiể
u thực tế những
thành quả ngôn ngữ văn hoá của cha ông đã để lại cho tiếng Việt. Trên cơ sở
đó, chúng ta sẽ tìm cách để phát triển từ Hán Việt theo hướng đúng đắn, góp
phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Theo tác giả Đặng Đức Siêu trong quyển “Dạy và học từ Hán Việt ở
trường phổ thông” thì từ Hán Việt là một thực thể vừa quen lại v
ừa lạ.
Trước hết, quen là bởi vì cái vỏ ngữ âm đã được Việt hoá không còn xa
lạ với ngữ cảm, cảm quan thính giác của người Việt. Tác giả cũng đã trích dẫn
bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chủ Tịch để làm rõ cho điều này:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ

những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong nh
ững quyền ấy có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Từ đó tác giả chỉ ra rằng: những từ sinh, quyền, bình đẳng, tạo hoá, xâm
phạm, địch, mưu cầu, hạnh phúc mà ta thấy rõ ràng là quen thuộc và có chiều
sâu ý nghĩa hơn nhiều so với các từ mitting, bit-tết, ten-nít…và còn một số từ
khác xét về cội nguồn cũng là từ gốc Hán nhưng vì chúng đ
ã vào Việt Nam khá
sớm và đã hoà nhập vào tiếng Việt nên khó nhận ra lai lịch như: cờ, xe, cô, cậu,
buồng, vạn, triệu…những từ này còn gọi là từ Hán Việt Việt hoá còn một số từ
khác dù có nghĩa sâu rộng như: quân vương, quân tử, tiểu nhân, thiên hạ…

8
nhưng gắn bó với lịch sử văn hoá xã hội Việt Nam ta từ xa xưa nên cũng quen
thuộc trong tâm thức người Việt.
Tiếp đến, cái lạ, theo tác giả chủ yếu do kết cấu ngữ nghĩa của từ Hán
Việt. Những từ cứu cánh, bình sinh, toả chiếu… tuy cũng xuất hiện trong lời nói,
văn bản nhưng có mấy ai hiểu hết được ý nghĩa củ
a chúng.
Vì vậy mới xảy ra hiện tượng hiểu sai nghĩa của từ Hán Việt hoặc là hiểu
không thấu đáo nghĩa của nó, …
Nguyên nhân chủ yếu đưa đến nhưng hiện tượng trên là do từ Hán vào
Việt Nam rất sớm nhưng do nó qua nhiều giai đoạn khác nhau và bị chi phối bởi
nhưng hoàn cảnh lịch sử xã hội khác nhau nên có sai biệt không đồng đều về số
lượng, chất lượng, m
ức độ Việt hoá, …
Những điều lý giải trên đây nhằm đưa đến kết luận rằng: để có thể hiểu
và sử dụng từ Hán Việt một cách chuẩn xác thì nhất thiết phải xem nó là một bộ
phận quan trọng gắn bó chặt chẽ trong suốt quá trình lịch sử với bản ngữ.
Theo ý kiến của các nhà ngôn ngữ học, từ Hán Việt được giải thích là từ

Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán đã nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự
chi phối của các qui luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, còn gọi
là từ Việt gốc Hán.
Có sự trùng khớp giữa khái niệm từ Hán Việt và từ Việt gốc Hán; tuy
nhiên, cần khẳng định rằng, từ Hán Việt chỉ là một bộ phận c
ủa từ Việt gốc Hán
tồn tại bên cạnh từ Tiền Hán Việt, Hán Việt Việt hoá v.v Xem xét quá trình tiếp
xúc ngôn ngữ văn hoá Hán - Việt ở nước ta có thể lí giải điều này.
Do đặc điểm địa lý, lịch sử mà hai nước Việt Nam và Trung Hoa có quan
hệ với nhau từ rất sớm. Trong mối quan hệ đó có mối quan hệ về ngôn ngữ -
văn hoá. Một thực tế mà ai cũng phải th
ừa nhận là giữa tiếng Việt và tiếng Hán
có sự tiếp xúc từ rất sớm, vào khoảng 2000 năm về trước. Sự tiếp xúc này để
lại nhiều dấu vết trong tiếng Việt hiện đại. Một số lượng khá lớn từ ngữ Hán
thuộc nhiều nguồn khác nhau (Hán, Tạng, Miến, Ấn) đã du nhập vào tiếng Việt
qua nhiều giai đoạn và với nhiều phương thứ
c khác nhau. Mặc dù, tiếng Hán và
tiếng Việt không cùng một nguồn gốc. Tiếng Hán thuộc họ Hán - Tạng, tiếng Việt
nằm trong nhánh Việt - Mường thuộc họ Nam Á. Thế nhưng chúng lại có ưu thế
là cùng loại hình. Đây chính là một điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc và vay
mượn giữa hai ngôn ngữ. Sự du nhập của tiếng Hán vào Việt Nam có lúc diễn
ra chậm chạp nhưng có lúc lại diễn ra hế
t sức ồ ạt. Cũng có khi nó đã vào tiếng
Việt rồi lại được biến đổi đi theo các sự biến đổi ngữ âm của tiếng Việt.
Ngay từ đầu công nguyên, từ khi có sự đô hộ của phong kiến phương
Bắc, tiếng Hán được truyền vào Giao Châu bằng nhiều con đường, chủ yếu là
nhằm đồng hoá tiếng nói của dân tộc ta. Chúng đã thi hành hàng loạt những
biện pháp từ
trắng trợn đến tinh vi nhằm xoá bỏ ngôn ngữ, phong tục, tập quán,


9
truyền thống dân tộc ta, ép dân ta hoà đồng vào khối Đại Hán. Song, với tinh
thần yêu nước, dân tộc ta đẩy lùi được sự đồng hoá của chúng. Và vì thế, tiếng
Việt đã có cơ sở vững vàng từ trước vẫn tiếp tục tồn tại. Dù vậy, người Việt vẫn
mượn một số từ ngữ Hán để lấp vào những chỗ trống thiếu hụt trong tiếng Việt
nh
ư buồng, muộn, đúc,… làm phong phú thêm nhưng không làm mất được bản
sắc ngôn ngữ của mình.
Có thể chia quá trình này làm hai giai đoạn: trước thế kỷ X và sau thế kỷ
X.
Các từ Hán du nhập vào tiếng Việt vào thời kì trước được phát âm theo
hệ thống ngữ âm Hán thượng cổ. Các từ này đã Việt hoá hoàn toàn, như: búa,
buồm, đuổi, muỗi, đục, đũa, vua,… Tiếng Hán lúc này tồn tại vớ
i tư cách là một
sinh ngữ.
Vào khoảng thời nhà Đường người Hán đã mở nhiều trường học ở Giao
Châu, các thư tịch Hán thuộc các loại kinh, sử, tử, tập được truyền bá rộng rãi.
Giai đoạn này có thể nói là việc du nhập và phổ biến ngôn ngữ văn tự Hán đã
được triển khai thuận lợi hơn nhưng không có nghĩa là do người Việt nô nức
kéo nhau đến các trường học do chính quyề
n đô hộ đời Đường mở mà do
nguyên nhân khác. Ta biết rằng, trước đó thì một số thiền sư người Ấn Độ và
người Hán cũng sang truyền giáo ở xứ Giao Châu, một số kinh phật cũng được
truyền vào Giao Châu cùng với sự phổ biến các trước tác của Nho gia và Thiền
gia. Lớp từ đông đảo này đã dần dà làm cho tiếng Việt tách khỏi tiếng Mường
tạo thành hệ thố
ng ngữ âm riêng.
Sang thời tự chủ, thế kỷ X, khi âm Hán Việt đã hình thành thì lớp từ trên
càng có điều kiện chuyển sang tiếng Việt nhiều hơn. Với nền độc lập tự chủ của
mình, tiếng Hán và chữ Hán vẫn được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp tục

sử dụng trong cơ quan hành chánh, trường học, khoa cử cũng như sáng tác văn
chương nhưng lúc này tiếng Hán đ
ã mất đi tính cách là một sinh ngữ. Người
Việt đọc chữ Hán theo cơ chế ngữ âm tiếng Việt đương thời nhưng vì đọc chữ
Hán một cách có hệ thống nên âm đọc là âm phản chiếu của âm Hán đời
Đường và khá sát với âm này. Quá trình này khơi màu từ thế kỉ X nhưng chắc
chắn phải kéo dài hàng thế kỉ mới hoàn thiện hệ thống âm đọc Hán Việt. Trong
lúc hệ thống Hán Việt ở Vi
ệt Nam vẫn giữ cách phát âm của thời kì nhà Đường
thì ngay ở chính Trung Quốc diện mạo ngữ âm đã thay đổi dần để trở thành âm
Hán hiện đại ngày nay.
Trong số những từ Hán Việt du nhập vào từ đời Đường, một số đã bị Việt
hoá về cả ngữ âm và ngữ nghĩa như:
Âm Việt Âm Hán Việt Âm Việt Âm Hán Việt
xe xa giấy chỉ
vuông phươ
ng ván bản

10
thơ thi sức lực

Các từ Hán đã Việt hoá là những từ đã mang những đặc điểm ngữ pháp
như đặc điểm ngữ pháp của các từ gốc Việt cùng loại và đã biến đổi ngữ nghĩa
theo hệ thống ngữ nghĩa của tiếng Việt.
Các từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt thời kì sau được Việt hoá thì hoặc
có biến đổi ng
ữ âm theo quy luật hoặc là được giữ nguyên dạng ngữ âm Hán
như phòng, phật, vụ…
Một số từ gốc Hán được Việt hoá thời kì đầu cùng với những từ gốc Hán
Việt hoá sang kì thứ hai lại trở thành những từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái

như: búa (phủ), bay (phi). Những từ trong thời kì thứ hai, ngoài những từ đã
được Việt hoá, đại bộ phận còn l
ại vẫn giữ nguyên âm, ý nghĩa cũ (tuy vẫn có
một số từ bị thu hẹp về nghĩa) nhưng do chưa được Việt hoá nên còn mang
đậm màu sắc ngoại lai. Những yếu tố này mới thực sự là những yếu tố Hán
Việt.
Vào những thế kỉ cuối cùng, các nước châu Á bắt đầu chịu ảnh hưởng
của tư tưởng tư sản châu Âu qua cửa ngõ Nhật Bản. ngườ
i Nhật đã dùng chữ
Hán trong văn tự của họ để phiên dịch các khái niệm của châu Âu, sau đó người
Hán lại đọc các từ này theo âm Hán Việt, ví dụ như các từ: cộng hoà, giai cấp,
Từ đầu thế kỉ XX và đặc biệt là sau cách mạng tháng 8 năm 1945, những từ này
đã ồ ạt vào tiếng Việt cùng với những từ Hán hiện đại như: địa chủ, cố nông, cải
cách,.
theo với đà phát triển của khoa học tự nhiên và xã hội, người Việt còn
dùng các yếu tố Hán Việt để tạo ra những từ riêng của mình như: đại đội, trung
đoàn, Những từ này có thể gọi là từ Hán Việt mới.
2.
Đặc điểm từ Hán Việt
Cho đến bây giờ, cách nhận dạng từ Hán Việt vẫn chỉ là tương đối. Bởi
từ Hán Việt phong phú, đa dạng bao nhiêu thì trong đó lại chứa đựng sự phức
tạp bấy nhiêu.
Về vấn đề này, xin lấy ý kiến của tác giả Nguyễn Văn Khang trong quyển
“Tiếng Việt trong trường học, NXB KHXH, Hà Nội, 1995”.
Theo ông, sự phức tạp của từ Hán Việt thể hiện ở ba m
ặt: ngữ âm, nội
dung và cấu tạo từ.
Về mặt ngữ âm: các từ Hán thâm nhập vào Tiếng Việt không phải từ nào
cũng tuân thủ theo phương thức đồng hoá, tức là một vỏ ngữ âm Hán được
thay bằng một vỏ ngữ âm Hán Việt.

- Sự phân biệt giữa từ Hán Việt và từ Tiền Hán Việt không phải lúc nào
cũng rạch ròi như từ: nghĩa, địa, bạ…

11
- Cùng tồn tại với từ Hán Việt cũng có những đơn vị từ vựng có quan hệ
tương ứng âm nghĩa với từ Hán Việt, như “lâu - lầu”, “vân - vần”. “lầu, vần” là
Hán Việt Việt hoá nhưng kết quả của sự Việt hoá từ Hán Việt chẳng phải là Hán
Việt Việt hoá đó sao? Cái không đơn giản chính là nằm ngay ở khái niệm Hán
Việt Việt hoá.
- Lại có trườ
ng hợp từ Hán Việt lại bị phương ngữ hoá về mặt ngữ âm
nên lại hình thành cặp đồng nghĩa giữa từ Hán Việt và biến thể của chúng: “sinh
- sanh”, “chính - chánh”, “trường - tràng”…
- Mặt khác, do những nguyên nhân xã hội khác như cách đọc kiêng, thói
quen đọc sai làm cho từ Hán Việt có cách đọc chệch âm Hán Việt nhưng một số
những cách đọc sai đó lại trở nên thông dụng như: bù - phù, chá - trá…Do vậy,
không thể xem đó là sai được.
Tác giả đã chỉ ra ba đặc điểm nội dung từ Hán Việt như sau:
Thứ nhất: Sự vận hành của hệ thống từ vựng của ngôn ngữ theo thời
gian, những tác động của tiến trình xã hội - lịch sử đã ảnh hưởng làm thay đổi
nghĩa của các từ Hán Việt.
Ví dụ: những từ “truy, điện” trong tiếng Việt hiện đại khác xa so với nghĩa
gốc đến mức hầu như chỉ còn vỏ ngữ âm Hán Việt mà thôi.
Thứ hai: Có nhiều từ Hán Việt mang nội dung ngữ nghĩa dường như
chẳng còn quan hệ gì với nghĩa vốn có trong tiếng Hán.
Ví dụ: Từ “đáo để” với nghĩa vốn có là đến đáy, đến cùng lại trở thành
nghĩa quá quắt, không ở thế kém bất cứ ai.
Thứ ba: Đa số từ Hán việt là đa nghĩa nhưng không phải là lấy tất cả các
nghĩa của từ Hán mà những nghĩa được nhập ngay vào bản thân một từ Hán
Việt không được đồng hoá như nhau.

Ví dụ: khinh “nhẹ” (yếu tố cấu tạo từ) và khinh “coi thường” (động từ).
Thứ tư: Từ Hán Việt gợi hình ảnh thế giới im lìm bất động.
Thư năm: Từ Hán Việt nghe kêu, vang dội hơn từ thuần Việt.
Về mặt cấu tạo từ: Theo ông, các từ đa tiết Hán Việt được hình thành từ
hai nguồn: loại mượn nguyên khối từ Tiếng Hán và loại được người Vi
ệt tạo ra
từ chất liệu Hán .
+ Loại mượn nguyên khối bao gồm:
Thứ nhất: mượn nguyên cả mô hình cấu tạo lẫn yếu tố cấu tạo từ như
hoà bình, độc lập.

12
Thứ hai: vẫn giữ ngun yếu tố cấu tạo từ nhưng trật tự các yếu tố khơng
thay đổi (phóng thích, náo nhiệt).
Thứ ba: giữ ngun mơ hình cấu tạo từ trật tự các yếu tố nhưng một
trong hai yếu tố được thay thế (có lý - hữu lý).
Thứ tư là thay đổi trật tự yếu tố và một trong hai yếu tố (lơng hồng - hồng
mao).
+ Loại được tạo ra t
ừ chất liệu Hán (yếu tố cấu tạo từ Hán Việt) và mơ
hình cấu tạo từ Hán bao gồm:
Thứ nhất: mượn mơ hình cấu tạo Hán với 2 yếu tố đều là Hán Việt (trung
đồn) hoặc 1 trong 2 là yếu tố Hán kết hợp theo mơ hình cấu tạo từ Hán (học
trò).
Thứ hai là các yếu tố Hán kết hợp theo mơ hình cấu tạo từ Tiếng Việt
(viện phó, trường học).
Ngồi ra còn 1 loại khác từ
những từ đa tiết Hán Việt mượn ngun khối
từ tiếng Hán và đơn tiết hố chúng: văn, địa, lạc…
Chính những tính đa dạng về sự tồn tại của các từ Hán Việt trong tiếng

Việt hiện đại như đã trình bày ở trên gây khó khăn cho người tiếp nhận và sử
dụng khiến họ dễ có sự hiểu sai.
Vì vậy, trước nay đã có khơng ít những họ
c giả đã đưa ra một số cách
để nhận dạng từ Hán Việt. Đến nay có thể khái qt có năm cách nhìn nhận
sau:
a. Một số học giả đã triệt để theo quan điểm lịch sử chỉ chấp nhận từ Hán
Việt có âm đọc đúng với phiên thiết. Quan điểm này như vậy là đã làm hạn chế
vốn từ Hán Việt phong phú.
b. Ở một số tác giả
khác thì cơng nhận những từ đọc đúng với phiên thiết
và cả những trường hợp quen dùng được xã hội thừa nhận. Tuy nhiên hướng
giải quyết này vẫn còn chưa được rõ ràng đầy đủ vì số lượng những trường hợp
từ quen dùng sai có rất nhiều. “Chỉ có những người biên soạn Tự điển Hán Việt
đã thể hiện tương đối rõ quan điểm của mình thơng qua bảng từ
biên soạn, như
Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh; Hán Việt thành ngữ của Bửu Cân và đáng
chú ý là cuốn Từ Điển yếu tố Hán Việt thơng dụng (1991) đã chú ý xử lý từng
trường hợp cụ thể (chủ - chúa, chính - chánh, bản - bổn…)”
1

1
Nguyễn Văn Khang: Một số vấn đề dạy và học từ Hán Việt trong trường phổ thông, trong quyển
“Tiếng Việt trong trường học”, NXB KHXH, Hà Nội, 1995

13
c. Theo hướng đồng đại, một số tác giả nhận diện từ Hán Việt thơng qua
tiêu chí đồng hố, tức là chấp nhận những từ Hán Việt có khả năng hoạt động
như từ thuần Việt (tức là chú trọng mức độ Việt hố của từ Hán Việt).
d. “Dùng cảm thức ngơn ngữ để nhận dạng từ Hán Việt. Về phương diện

này, quyển “Mẹo Giải Ngh
ĩa Từ Hán Việt và Chữa lỗi Chính Tả, NXB Thanh
Niên, Hà Nội, 2000” của tác giả Phan Ngọc là đáng chú ý nhất. Trong quyển
này, tác giả đã dựa vào cảm thức của người nói, viết xem từ này là thuần Việt,
từ kia là Hán Việt, từ này dễ hiểu, từ kia khó hiểu, từ này có vẻ sang trọng, từ
kia q mộc mạc, từ này nghe kêu, từ kia nghe ít âm hưởng, nghe khơng kêu,
từ này nghe buồn, từ kia nghe vui v.v…Những ấn tượng ấy mơ h
ồ nhưng có
thật. Từ suy nghĩ đó, tác giả cho rằng phải quy được các ấn tượng thành cơng
thức và tạo ra mẹo. Sau khi phân tích, tác giả đã đưa ra 2 loại âm tiết A và B
(trong số 4 loại âm tiết) dành cho từ Hán Việt: “âm tiết A tự do là bá chủ, nó quy
định mọi âm tiết Hán Việt”.
2
Đối với các từ đa tiết Hán Việt sẽ được coi là dể
hiểu hay khó hiểu là nhờ vào vị trí của âm tiết Hán Việt đứng trước là A hay B và
trật tự ngược hay xi (tức là mơ hình cấu tạo của từ tiếng Hán và mơ hình cấu
tạo của từ tiếng Việt)”.
3
e. Cũng dựa trên tiêu chí ngữ âm để nhận diện từ Hán Việt, tác giả
Nguyễn Ngọc San trong quyển “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, NXB ĐHSP” đã chỉ
ra các cách nhận diện sau:
- Các tiếng có âm đầu tắc họng, nếu là từ Hán Việt bao giờ cũng có các
thanh bổng (ngang, sắc, hỏi), ví dụ: ẩm, ấm, ơn,…Ngược lại, nếu mang thanh
trầm thì đều là từ thuần Việt.
- Các từ Hán Việt có thanh
đầu /gi/ mang các thanh điệu bổng như: gia,
giáng, giảng,… Nếu có thanh điệu trầm là từ thuần Việt.
- Các từ Hán Việt có âm đầu /ch/ ln mang thanh điệu bổng: chu,
chướng, chí, chúc,…
- Các từ Hán Việt có âm đầu /kh/ ln mang thanh điệu bổng: khai, khái,

khải, khủng,…
- Các từ Hán Việt có phụ âm vang /m/, /n/, /nh/, /ng/, /l/ đều có thanh điệu
ngang, ngã, nặng.
f. Quyển “Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, Cao Xn Hạo - NXB Trẻ
2001”, tác giả cho rằng ng
ười ta thường dựa vào sự phân biệt với từ thuần Việt
khi xem xét đặc điểm từ Hán Việt. Nói như tác giả, người ta đã dựng lên sự


2
Phan Ngọc: Mẹo giải nghóa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2000.
3
Nguyễn Văn Khang: Một số vấn đề dạy và học từ Hán Việt trong trường phổ thông, trong quyển
“Tiếng Việt trong trường học”, NXB KHXH, Hà Nội, 1995

14
phân biệt nhân tạo giữa Hán Việt và thuần Việt. Khi đó, theo ông từ Hán Việt có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất: các yếu tố Hán Việt không được dùng độc lập như yếu tố
Thuần Việt mà chỉ xuất hiện trong những tổ hợp 2 tiếng trở lên.
Chẳng hạn như: nỗ lực, mãnh liệt, xạ thủ…
Không thể nói “nó xạ được 1 con vật” mà phả
i nói “nó bắn được 1 con
vật”.
Ta cũng chỉ có thể nói “đi chợ” chứ không thể nói “khứ chợ” được.
Thứ hai: trong tiếng Việt, các từ Hán Việt làm thành một lớp riêng, có
những đặc trưng ngữ pháp và tu từ.
Về ngữ pháp, các từ tổ Hán Việt tuy cũng chứa đựng mối quan hệ cú
pháp (chính phụ, đẳng lập) như các từ tổ thuần Việt như rõ ràng mối quan hệ
này chặ

t chẽ hơn nhiều so với từ tổ thuần Việt. Giữa cú pháp từ tổ Hán Việt và
từ tổ thuần Việt có sự sai biệt về trật tự trong quan hệ chính phụ. Ở từ tổ Hán
Việt thì yếu tố phụ trước, yếu tố chính sau còn ở từ tổ thuần Việt thì trật tự này
ngược lại hoàn toàn.
Chẳng hạn: phi công (Hán Việt) - người lái (thuần Việt)
ngoại quốc (Hán Việt) - nước ngoài (thuần Việt)
Điều này làm cho các từ tổ Hán Việt dễ hiểu đúng hơn, được ưu tiên hơn
trong việc chọn làm thuật ngữ khoa học, kỹ thuật như: ngữ âm, lượng từ, nhân
văn…
Nhờ trật tự này mà từ Hán Việt không bao giờ gây mâu thuẫn trong cách hiểu,
trái lại từ thuần Việt dễ gây hiểu lầm.

Ví dụ “xạ thủ Nam”, chỉ có thể hiểu một cách duy nhất còn “người bắn
Nam” không cho biết đó là kẻ bắn anh Nam hay người bắn tên là Nam.
Về phương diện ngữ nghĩa, phần lớn từ Hán Việt đều có một sắc thái
ngữ nghĩa giúp ta nhận thức cảm tính được nó khác với những từ thuần Việt
dường như đồng nghĩa với nó. Từ Hán Việt thường mang sắc thái trang trọng,
hay thi vị, hay cổ kính, bác học hay mờ ảo… Ví dụ: phụ nữ, hội nghị…
Lẽ dĩ nhiên, không phải bất cứ từ Hán Việt nào cũng mang sắc thái đó
bởi vì trong tiếng Hán sắc thái này không hề có. Nếu ta dựa vào những sắc thái
này để khẳng định đây là từ Hán Việt thì chưa hoàn toàn đúng. Trong số những
từ ngữ Hán đi vào tiếng Việt, một mặt có những từ “bình dân” do dầ
n được
người bản ngữ đồng hoá có dáng dấp ngữ âm riêng và không còn bị người bản
ngữ tri giác như từ ngoại lai nữa. Mặt khác có những từ ngữ Hán đi vào tiếng

15
Việt theo con đường “bác học”, chủ yếu là qua các văn bản hành chính sự vụ,
đó là tiền thân của từ Hán Việt sau này. Chính vì có sự phân biệt này dẫn đến
những cách nhận biết còn mơ hồ về từ Hán Việt.

Chính những sắc thái phong vị riêng của từ Hán Việt đã làm cho nó nghe
hay hơn. Bởi thế, trong những việc trang trọng, nghiêm túc thì người ta vẫn
thích dùng từ Hán Việt hơn từ thuần Việt.
Sẽ không ai nói “đàn bà các nước” mà chỉ nói “quốc tế phụ nữ” mặc dù
chúng có nghĩa tương đương.
Tương tự, giữa “tham quan” và “đi xem”, người ta vẫn thích dùng “tham quan”
hơn bởi sắc thái biểu cảm của nó.
Trái với từ thuần Việt quy từ loại dễ dàng thì từ Hán Việt rất khó xác định
từ loại.

Ví dụ: những từ như “lý tưởng, tiến bộ, thành công” có thể làm tính từ hay
danh từ đều được…
Ở đây, chúng tôi nhất trí chọn quan điểm của tác giả Cao Xuân Hạo về
đặc điểm của từ Hán Việt làm cơ sở lí luận cho đề tài.
3.
Vị trí từ Hán Việt trong tiếng Việt
Có thể thấy rằng, so với các từ loại gốc Hán khác thì từ Hán Việt hoàn
toàn chiếm ưu thế tuyệt đối với một khối lượng từ ngữ rất lớn trong hệ thống từ
vựng tiếng Việt. Theo thống kê của H. Masspero thì chúng chiếm trên 60 %.
Trong phát ngôn hàng ngày, chúng ta vẫn sử dụng từ Hán Việt khá nhiều thậm
chí trong một câu chỉ toàn là từ Hán Việt.
Ví dụ: Đài truyền hình Việt Nam nỗ lực
đầu tư trang thiết bị phục vụ tối ưu đồng bào. Hệ thống những từ Hán Việt từ lâu
đã trở nên gần gũi, quen thuộc với người Việt. Từ thế kỉ thứ VIII - XV và ngay cả
đến bây giờ, tiếng Việt đều sử dụng hệ thống âm đọc Hán Việt những từ mượn
Hán hay sáng tạo từ m
ới trong ngôn ngữ viết. Đặc biệt trong thời đại mới, quá
trình giao lưu hội nhập toàn cầu đòi hỏi người Việt Nam phải nắm bắt kịp những
thông tin, khái niệm mới, cần phải có ngôn ngữ để diễn đạt hoặc dịch ra những
khái niệm này. Không ai khác, từ Hán Việt với những sắc thái biểu cảm của nó

luôn được chọn để đảm nhận vai trò này.
Ví dụ: “thặng dư”, “tiền tệ”, “hoả tiễn”… là những từ chỉ mới xuất hiện
trong thời mở cửa phát triển đất nước.
Về phương diện tiếp thu văn ngôn Hán, hiện tượng vay mượn các từ Hán
đọc theo âm Hán Việt để tạo ra lớp từ Hán Việt trong tiếng Việt xảy ra trong một
quá trình lâu dài bao quát hàng mấy chục thế kỉ. Vì vậy, toàn bộ sự phát triển
của từ v
ựng Hán cũng được phản ảnh trong lớp từ Hán Việt.

16
Mặt khác, âm Hán Việt có xuất phát điểm từ âm Hán Trung Cổ, cụ thể là
đời nhà Đường. Về mặt lý thuyết, âm Hán Việt hồn tồn có khả năng đọc được
tất cả kho từ vựng tiếng Hán. Từ đó, từ Hán Việt cũng có giá trị quan trọng trong
việc nghiên cứu Hán ngữ thời Trung cổ và những tác phẩm kinh điển của Trung
Quốc.
Một số tác phẩm v
ăn học, triết học Trung Quốc khi truyền vào Việt Nam
mặc dù lúc này tiếng Việt đã gần như đầy đủ từ biểu thị sự vật và những nền
văn minh vật chất nhưng vẫn có một số từ Hán trong văn bản trở thành từ Hán
Việt như qn tử, tiểu nhân, thục nữ trong Kinh Thi; khái niệm “đạo” của Lão
Tử…
Trong suốt q trình du nhập của ngơn ngữ
Hán vào Việt Nam, mặc dù
có sự đẩy lùi khá mạnh của người Việt; song, người Việt Nam cũng nhận thấy
cần vay mượn một số từ ngữ Hán để lấp vào chỗ trống do tiếng Việt còn thiếu.
Đó là nhu cầu và cũng là khả năng của người Việt. Cùng với q trình đơ hộ và
truyền đạo, các khái niệm trừu tượng của nho, phật, lão… cũng được mượn vào
tiếng Vi
ệt như: thần, sắc, khơng, tâm, lễ, trí, nhân…và những từ liên quan đến
văn hố, hành chính như: bút, khoa, trường…Những từ đơn âm tiết này, khi

ghép lại với yếu tố Hán Việt khác sẽ tạo ra gấp bội các từ vựng trong tiếng Việt.
Có thể nói: từ Hán Việt đã đóng góp khơng ít trong q trình hình thành
và phát triển của tiếng Việt hiện đại.
Xét về phương diện lịch sử dân tộc cho thấy, người Việt Nam t
ừ thế hệ
này sang thế hệ khác đã tiếp nối sử dụng chữ Hán như “một cơng cụ văn hố
của dân tộc”
4
. Sử sách ghi lại việc nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã sử
dụng chữ Hán như một thứ chữ “quan phương chính thống” liên tiếp trong một
thời gian dài. Chính trong q trình này, người Việt đã dùng nó để ghi chép
những cơng trình sử học, y học…Bên cạnh đó, các cụ xưa đã dùng nó để sáng
tác văn học ngay cả khi đã xuất hiện chữ Nơm. Kho tàng văn học dân tộc còn
lưu lại nhữ
ng tác phẩm kinh điển như: “Bình Ngơ Đại Cáo” của Nguyễn Trãi,
“Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn…Tất cả, tất cả những tài sản q báu đó
được các thế hệ sau tìm hiểu, phiên dịch lại thơng qua một phương tiện duy
nhất chính là âm Hán Việt và từ Hán Việt có tác dụng ghi lại những âm đọc đó.
Tóm lại, trong tiếng Việt, từ Hán Việt chiếm một số lượng lớ
n, cực kì
phong phú nếu khơng nói là khá phức tạp, giữ vị trí rất quan trọng có ảnh hưởng
đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sự đa dạng phức tạp đó mà dẫn
đến nhiều trường hợp hiểu và sử dụng sai từ Hán Việt. Vì vậy, việc khảo sát khả
năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của người Việt nói chung và của thế h
ệ trẻ
học sinh nói riêng là vấn đề quan trọng trong giai đoạn hiện nay nhằm mục đích
duy nhất là hướng tới nâng cao kĩ năng sử dụng ngơn ngữ Việt của người Việt
Nam góp phần bảo tồn và phát duy di sản văn hố ngơn ngữ của dân tộc.



4
Đặng Đức Siêu: Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông, NXB GD.

17
4. Điểm qua về chương trình dạy học từ Hán Việt ở trường
phổ thông
Trong quyển “Tiếng Việt trong trường học, NXB KHXH, Hà NộI, 1995”,
tác giả Nguyễn Văn Khang đã nêu lên hai phương pháp dạy học từ Hán Việt chủ
yếu trong nhà trường phổ thông hiện nay như sau:
a) Phương pháp “học ít hiểu kĩ”
Trong bài “Dạy và Học từ Hán Việt ở trường phổ thông” (Tiếng Việt, số
phụ tạp chí ngôn ngữ, 1989), tác giả Trương Chính đã đưa ra nguyên tắc dạy ít,
bày cho các em tìm hiểu chắc chắn, so sánh v
ới những từ đồng âm, đồng nghĩa
và đưa ra cách sử dụng đúng, thích hợp. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ tính
đến phía người truyền thụ kiến thức còn phía người học có tiếp nhận được hay
không lại là chuyện khác. Mặt khác, cũng giới hạn trình độ của các em.
b) Phương pháp “học ít biết nhiều”
“Phương pháp này dạy cho học sinh nắm được các yếu tố và các kiểu
quan hệ ngữ nghĩa trong các đơn v
ị định danh” (Phan Thiều trong quyển Tiếng
Việt số 1, 1988), tức là nắm từ tố cấu thành rồi mới suy ra ý nghĩa của từ ghép
Hán Việt. Song, sự suy diễn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của cả giáo viên và
học sinh, không phải là chuyện đơn giản như biết được nghĩa của từ tố hãnh và
từ tố diện nhưng chưa chắc đã biế
t được nghĩa của từ hãnh diện.
Cách dạy từ Hán Việt hiện nay ở trường phổ thông tuy cũng có ưu điểm
nhưng với cách dạy như vậy có một vài hạn chế:
- Chưa trình bày một lúc các nghĩa khác nhau của một yếu tố Hán Việt.
- Chưa giúp học sinh phân biệt được các trường hợp đồng âm.

- Chưa giúp học sinh hệ thống được các yếu tố Hán Việ
t trái nghĩa.
Chương trình dạy học từ Hán Việt ở trường phổ thông hiện nay cho thấy
vẫn còn nhiều điều bất cập đòi hỏi những người làm công tác giáo dục phải có
sự đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học nhằm nâng cao khả năng hiểu và sử
dụng từ Hán Việt của học sinh.
5. Thế nào là hiểu từ Hán Việt
Ở đây, hiểu từ Hán Việt tức là xét về khả năng học sinh có thể làm rõ
nghĩa của từ Hán Việt bằng từ thuần Việt hoặc những từ đồng nghĩa mà những
từ đồng nghĩa này có mức độ khái quát, trừu tượng thấp hơn, dễ hiểu hơn từ
Hán Việt cần giải thích hay không.
Việc hiểu từ Hán Việt bao hàm hai kĩ năng: trình bày nghĩa gố
c và trình
bày nghĩa phái sinh.

18
Chẳng hạn: từ “bạc” có nghĩa gốc là “mỏng”, sinh ra các nghĩa phái sinh
là “chi tiết”, “thứ yếu” (tính từ), “xem như” (động từ).
Để hiểu được từ Hán Việt chúng ta cần hiểu giá trị phong cách của
chúng và đặt chúng trong những mối quan hệ thích hợp.
6. Thế nào là sử dụng từ Hán Việt
Sử dụng từ Hán Việt là xét về khả năng học sinh có thể đặt câu với từ
Hán Việt sao cho đúng nghĩa của từ, đúng từ loại, đúng sắc thái ngữ cảm, hợp
với logic ngữ nghĩa của câu
Để sử dụng đúng từ Hán Việt cần phải hiểu nghĩa của từ Hán Việt, xem
xét mối quan hệ giữa nó với các từ khác trong câu và logic ngữ nghĩ
a của cả
câu.

7. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

Ngôi trường THPT Long Xuyên gồm ba tầng, toạ lạc ở trung tâm thành
phố Long Xuyên. Trước kia, nơi đây là cơ sở trường trung học tư thục Phụng
Sự. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trường trung học Chưởng Binh
Lễ sáp nhập vào đây và trường lấy tên là trường cấp II, II B Long Xuyên. Sau
đó, đổi tên là trường THPT Long Xuyên I rồi đổi thành trường THPT Long Xuyên
và tên đó đã gắn chặt với ngôi trường cho đến ngày nay.
Trải qua sau 29 năm phấn đấu củ
a tập thể nhà trường, ngày nay ngôi
trường đã hoàn toàn thay đổi, xây dựng thêm nhiều phòng học mới, cảnh quan
sáng sủa, khang trang, có nhiều phòng thí nghiệm thực hành và phòng máy vi
tính giúp ích rất nhiều cho việc học tập, nghiên cứu của giáo viên, học sinh
trường.
Ngày nay, trường THPT Long Xuyên là một trường cấp III lớn của tỉnh có
60 lớp với hơn 2.745 học sinh. Hiệu trưởng là cô Phan Thị Năm.
Trong những năm qua, trường đã đào tạo nhiều họ
c sinh đạt học sinh giỏi
cấp tỉnh, cấp quốc gia. Số lượng học sinh tốt nghiệp tú tài và cả thi đỗ đại học
mỗi năm đều gia tăng.
Năm 2002, trường đã được chủ tịch nước công nhận huân chương lao
động hạng ba - danh hiệu cao quí cho trường học xuất sắc.
Đội ngũ giáo viên Văn của trường bao gồm 15 giáo viên, tổ trưởng là cô
Cao Thanh Nguyệt.
Đặc biệt, n
ăm 2003 vừa qua, cô Lê Thị Thuỳ Trang vừa đạt được học vị
thạc sĩ Văn.
* Thành tích đạt được của tổ bộ môn Văn

19
- Ba năm liền đạt danh hiệu tổ tiên tiến xuất sắc được UBND tỉnh tặng
bằng khen.

- Năm 1999-2000
. HSG cấp tỉnh: 3 học sinh – 1 học sinh giỏi quốc gia.
. Viết thư UPU cấp tỉnh:
1 HS đạt giải I
1 HS đạt giảI III
- Năm 2000-2001
. 1 HSG quốc gia
. 6 HSG cấp tỉnh
. Viết thư UPU
7 HS đạt giải 3 cấp tỉnh
2 HS đạt giải KK cấp tỉnh
- Năm 2001-2002
6 HSG c
ấp tỉnh
Ngoài ra tổ thường xuyên tổ chức những hoạt động như: viết báo tường,
viết chuyên san, tổ chức câu lạc bộ văn học.
(Theo thống kê từ năm 99-02)

8. Vài nét về đối tượng điều tra
Nằm trong hệ thống các lớp học của trường, cũng như các lớp khác, học
sinh các lớp 10A2, 10A11, 10A12, 12A13, 12A14 có điều kiện học tập tốt bộ
môn ngữ văn.
Mặt khác, học sinh các lớp có điểm tuyển vào trường tương đối cao. Nhìn
chung, trình độ học sinh trong một lớp và giữa tất cả 5 lớp tương đối cao và
đều. Đây là điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giả
ng dạy tiếng Việt
nói chung và từ Hán Việt nói riêng cũng như những môn khác.
Sỉ số học sinh 5 lớp đạt 225 học sinh. Trong đó, nữ chiếm tỉ lệ 52%, nam
chiếm tỉ lệ 48%, số học sinh nam và nữ là tương đương nhau.


20
Về địa bàn cư trú, phân lớn học sinh đều có hộ khẩu tại khu vực thành
phố Long Xuyên, chỉ một số ít học sinh có hộ khẩu tại các huyện:
- 3 học sinh có hộ khẩu tại Châu Thành
- 2 học sinh có hộ khẩu tại Thoại Sơn
- 2 học sinh có hộ khẩu tại Châu Phú
- 1 học sinh có hộ khẩu tại Tri Tôn
Tỉ lệ học sinh ở huyện chiếm 3.6%
Điều này cho thấy
đại đa số các em đều ở tại thành phố Long Xuyên -
trung tâm giáo dục tốt nhất của tỉnh. Do vậy, các em luôn được có cơ hội tiếp
cận khối lượng thông tin, sách tham khảo, sách nghiên cứu tương đối đầy đủ.
Mặt khác, trong tổng số 225 học sinh, chỉ duy nhất một học sinh của lớp
10A12 là dân tộc Khơme (học sinh này có hộ khẩu tại huyện Thoại Sơn) chiếm tỉ
lệ 0.4%.
Những đặc điểm đồng nhất trên đây của đối tượng điều tra đã tạo điều
kiện cho chúng tôi trong quá trình khảo sát và thống kê, xử lý tư liệu. Tuy nhiên,
những đặc điểm chung về hộ khẩu thường trú, dân tộc, giới tính cũng tạo nên
giới hạn của đề tài. Nếu như trong tổng số đối tượng điều tra, số họ
c sinh thuộc
thành phần dân tộc ít người hoặc có hộ khẩu tại huyện, xa (vùng sâu, vùng xa)
tương đối gần với số học sinh có hộ khẩu thường trú tại thành phố Long Xuyên
thì sẽ giúp đề tài có sự so sánh, đối chiếu về trình độ hiểu và sử dụng tiếng Việt
nói chung và từ Hán Việt nói riêng giữa các đối tượng này. Như vậy, đề tài sẽ có
thể đi đến một cái nhìn cụ thể và bao quát hơ
n.











21


Chương 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG HIỂU
VÀ SỬ DỤNG TỪ HÁN VIỆT CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG THPT LONG XUYÊN
Qua phát phiếu điều tra với tổng số 225 học sinh thuộc 5 lớp cả khối 10
và 12 trường THPT Long Xuyên, chúng tôi đã thu được những kết quả về thực
trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh hai khối. Các phiếu điều tra
được phát ra tuy đã có sự hướng dẫn của giáo viên về nội dung câu hỏi để học
sinh có thể định hướng cách trả lời; song, một bộ
phận học sinh vẫn mắc phải
lỗi không đáng mắc phải đó là không trả lời đúng yêu cầu câu hỏi hoặc là bỏ
trống phần trả lời, đó là chưa kể đến những lỗi mắc phải trong câu trả lời. Khi
xem xét khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh, chúng tôi tập trung
lưu ý và khảo sát những lỗi thường gặp. Cố nhiên, vi
ệc bắt lỗi không bằng thái
độ cố chấp mà dựa trên cái chuẩn được cả xã hội thừa nhận để đánh giá khả
năng của học sinh. Những từ Hán Việt mà hiện nay đã đọc sai với ngữ âm
nguyên thuỷ hoặc giả là đã chệch nghĩa gốc nhưng đã trở thành thói quen ngôn
ngữ thì việc học sinh dùng như vậy cũng không bị đánh giá là sai.
1. Khả năng nhận biết từ Hán Việt của học sinh
Đầu tiên, để tạo cơ sở đánh giá khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt
của học sinh khối 10 và 12 trường THPT Long Xuyên, câu hỏi số 1 trong phiếu

điều tra được đưa ra nhằm thăm dò khả năng nhận biết từ Hán Việt của các em.
- Yêu cầu: Hãy viết ra những yếu tố Hán Việt mà em biết.
- Mục đích: kiểm tra vốn từ Hán Việt và khả năng nhậ
n diện từ Hán Việt
của học sinh.
- Trả lời của học sinh:
 29,8% học sinh không viết được yếu tố nào
 47,2% học sinh viết được từ 1Æ10 yếu tố.
 16,2% học sinh viết được 11Æ20 yếu tố.
 3,8% học sinh viết được 21Æ30 yếu tố.
 3% viết được trên 30 yếu tố.
Tổng số yếu tố Hán Việt viết đượ
c: 165 yếu tố, chiếm tỉ lệ: 70,2%.

22
Trung bình mỗi học sinh viết được 7 yếu tố đúng, là một con số cao,
thuận lợi cho quá trình khảo sát.
Tối đa: 65 yếu tố đúng
Tối thiểu: 0 yếu tố
Sự chênh lệch khá xa giữa hai con số phản ánh trình độ nhận biết từ Hán
Việt không đồng đều giữa các học sinh.
Qua khảo sát cho thấy có đến 52 bài trả lời bằng những từ ghép Hán Việt
trong khi câu hỏi yêu cầ
u viết yếu tố Hán Việt. Điều đó cho thấy: phần lớn các
em chưa phân biệt được thế nào là từ ghép Hán Việt thế nào là yếu tố Hán Việt.
Tuy nhiên, dù là viết yếu tố Hán Việt hay từ ghép Hán Việt cũng cho thấy
các em có khả năng biết được từ Hán Việt, không bị nhầm lẫn với từ thuần Việt.
Trong số những yếu tố được kể ra, các y
ếu tố: quốc, gia, thuỷ, sơn, thiên,
địa là những yếu tố xuất hiện với tần suất cao (89,6%). Hầu như phiếu trả lời

nào cũng xuất hiện những yếu tố này.
Trong đó:
Địa: 22,4%
Thiên: 21,8%
Thuỷ: 18,8%
Sơn: 15,1%
Gia: 14,5%
Quốc: 13,3%
Nguyên nhân: Đây là những yếu tố Hán Việt quen thuộc và cũng là
những yếu tố Hán Việt được học trong những bài dạy về từ
Hán Việt ngay từ
cấp I.
Câu thứ hai của phiếu điều tra là yêu cầu đặt câu với từ Hán Việt, mục
đích nhằm đánh giá khả năng sử dụng từ Hán Việt của học sinh. Tuy nhiên, qua
kết quả khảo sát thu được cũng cho thấy một vấn đề nổi trội là một số các em
hoàn toàn không biết được từ Hán Việt.
Ví dụ 1: Lan là một fan hâm mộ bóng đá cuồng nhiệt (bài của Lương Bảo
Trâm_10A2).
Ví dụ 2: Anh ấy đã phôn cho bạn rồi à ? (bài của Nguyễn Hồng
Thu_10A2).

23

Nhận xét: Những từ fan, phôn là những từ tiếng Anh.
Fan là từ nguyên của tiếng Anh, trong cách sử dụng phổ biến của người
Việt Nam, fan có nghĩa là người hâm mộ (fan trong tiếng Anh có các nghĩa: quạt
máy, cửa sổ bán nguyệt, người hâm mộ)
Như vậy, do không hiểu nghĩa của từ fan nên các em này đã sử dụng
thừa
fan hâm mộ.

Phôn là cách đọc phiên âm từ tiếng Anh phone của người Việt Nam.
Phone có các nghĩa:
- động từ: gọi điện thoại
- danh từ: (1) điện thoại công cộng dùng thẻ; (2) buổi phát thanh có câu
trả lời hoặc phê bình của công chúng qua điện thoại được truyền lại trực tiếp.
Phone (tiếng Anh) đã được người Việt Việt hoá bằng âm đọc phiên âm
tiếng Việt và lấy nghĩa là gọi điệ
n thoại (động từ), cú điện thoại (danh từ) như:
chờ phôn của ai, phôn cho ai,.v.v…
Như vậy, ta biết rõ fan, phôn là từ tiếng Anh được mượn vào tiếng Việt
dưới dạng thu hẹp nghĩa hoặc Việt hoá âm đọc. Dù đã được Việt hoá âm đọc;
song, nghe qua ta biết ngay là từ của phương Tây (hoặc Anh, hoặc Pháp). Dù
đã từng học hay chưa học tiếng Anh ta cũng dễ dàng nhận ra chúng không phải
là từ Hán Việ
t, không có những đặc điểm của từ Hán Việt (từ Hán Việt không
dùng độc lập, mang sắc thái trang trọng, cổ kính, bác học, âm kêu,.v.v…). Do
đặc điểm địa lý, lịch sử, âm Hán Việt đã được người Việt Nam sử dụng qua
nhiều thế hệ, người Việt Nam có ngữ cảm đặc biệt đối với âm Hán Việt. Đối với
những từ nước ngoài được Việt hoá âm đọ
c như: ma-két-tinh, mít-tinh, (xe)
buýt.v.v… người Việt không có được ngữ cảm đặc biệt này. Do đó, khi nghe khi
nghe một từ ta có thể phân biệt được từ Hán Việt, thuần Việt hay từ nước ngoài
được Việt hoá.
Do người sử dụng chưa nắm được đặc điểm từ Hán Việt trong sự so
sánh đối chiếu với từ thuần Việt nên thường xảy ra sự nhầm lẫn giữa từ Hán
Việ
t và thuần Việt. Tuy nhiên, sự nhầm lẫn giữa từ Hán Việt và từ nước ngoài
được Việt hoá âm đọc ít khi xảy ra nếu không nói là không bao giờ xảy ra.
Ở đây, do tiếng Anh đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, phần
lớn học sinh đều đã được học tiếng Anh (bên cạnh một số học sinh học tiếng

Pháp), đặc biệt. ở trường THPT Long Xuyên, con số này là 100% nhưng một số
em l
ại không nhận biết được từ fan (phan), phone (phôn) là tiếng Anh mà nhầm
lẫn với từ Hán Việt là một sai lầm hết sức trầm trọng. Hầu hết các em này đều
sử dụng theo thói quen ngôn ngữ hàng ngày (fan, phone là những từ ngoại lai
được sử dụng phổ biến trong xã hội Việt Nam thời mở cửa) và xuất phát từ một

24
nhận thức cho rằng từ Hán Việt là từ ngoại lai nên mới xảy ra những trường hợp
đáng tiếc như vậy.

Ví dụ 3: Đàn ông đi biển có đôi

Đàn bà đi biển mồ côi một mình
(bài của Nguyễn Trường Xuân - 12A14)

Ví dụ 4: Tao nói với mày như nước đổ lá môn.
(bài của Nguyễn Nhật Quang - 10A11)

Nhận xét: Hai ví dụ trên đây cho thấy các em hoàn toàn không biết về từ
Hán Việt. “Đàn ông”, “đàn bà”, “nước đổ lá môn” đều là những từ, cụm từ tiếng
Việt, không phải là từ, cụm từ Hán Việt.
Từ Hán Việt tương đương với “đàn ông”: nam giới
Từ Hán Việt tương đương với “đàn bà”: phụ nữ, nữ giới
“Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ
côi một mình”
là một câu ca dao Việt Nam.
“Nước đổ lá môn” là một thành ngữ hoàn toàn của Việt Nam, với nghĩa là
ví những lời dạy bảo, khuyên can đều chỉ là hoài công, không có tác dụng gì.

Cả hai câu đều là thành ngữ, ca dao Việt Nam, là thành quả lao động
sáng tạo ngôn ngữ của người Việt Nam bằng chất liệu ngôn từ Việt và mang âm
hưởng dân gian Việt Nam. Việc các em nhầm những từ, cụm từ “đàn ông”, “đàn
bà”, “nước đổ lá môn” vớ
i những từ ngữ Hán Việt là một sai lầm đến mức trầm
trọng. Điều này cho thấy, khả năng biết từ Hán Việt của các em rất hạn chế và
khả năng đặt câu cũng còn yếu khi dẫn nguyên câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ
mà không hề có một chút đóng góp, xây dựng nào từ bản thân. Ở ví dụ 4, học
sinh có đặt câu; tuy nhiên, cách sử dụng đại từ xưng hô là ngôn từ với s
ắc thái
bình dân chỉ thường dùng trong văn nói hoặc trong văn cảnh cần thiết. Vì vậy ở
đây, dùng như vậy là không phù hợp.
Nói tóm lại, qua phần phân tích trên đây cho thấy, bên cạnh số học sinh
có thể nêu được yếu tố, từ Hán Việt đúng (69,2%), vẫn tồn tại một phần lớn học
sinh còn mơ hồ về từ Hán Việt, không có khả năng nhận biết được chúng. Trong
đó có ba vấn đề
nổi trội là:
+ Không phân biệt từ ghép Hán Việt và yếu tố Hán Việt

25

×