Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.77 KB, 35 trang )

NHÓM TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Nguyễn Đình Quân – NT
Nguyễn Thành Ngọc
Nguyễn Thị Kiều Trang
Vũ Thị Hà Trang
Vũ Thị Hồng Hạnh
Hoàng Thị Doan
Trần Thị Hồng Vân
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các doanh nghiệp, bài toán về vốn luôn là vấn đề nan giải nhất. Nó
không chỉ xuất hiện khi doanh nghiệp bắt đầu khởi nghiệp mà còn đi theo suốt
trong cả quá trình kinh doanh. Hơn thế nữa trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay đã
đặt ra vô vần nhưng khó khăn thách thưc cũng như cơ hội to lớn cho các doanh
nghiệp. Việc phải mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh doanh càng cấp thiết
hơn bao giờ hết đối với mỗi doanh nghiệp. Với một nhu cầu lớn đến như vậy, nếu
chỉ trông chờ vào nguồn vốn vay từ ngân hàng là điều không thể. Vậy để giải quyết
tình hình. Các doanh nghiệp hiện nay đã tìm đến hình thức huy động vốn thông qua
việc phát hành cổ phiếu. Nhận thấy được tầm quan trọng của việc huy động vốn
qua hình thức này, chúng em xin đóng góp chút kiến thức đã tìm hiểu được thuộc
đề tài: “Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu” thông qua việc tìm hiểu
nghiên cứu phân tích các yếu tố chủ quan khách quan, chúng em mong sẽ tìm được
giải pháp hữu ích giúp các doanh nghiệp cổ phần Việt Nam có thể bỏ đi mối lo lắng
về vấn đề “huy động vốn”.
Đề tài được chia như sau:
I. Tổng quan về huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu…(trang 1)
II. Trạng huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay…(trang 9)
III. Đánh giá tình hình huy động vốn nói chung của các doanh nghiệp…(trang 21)
***Nguyên nhân của những khó khăn khi huy động vốn bằng hình thức phát hành
cổ phiếu…(trang 22)
IV. Giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ


phiếu đối với các doanh nghiệp cổ phần …(trang 27)
I.Tổng quan về huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu
1.Khái quát về công ty cổ phần và cổ phiếu:
Theo điều 77, luật Doanh nghiệp 2005 (đã sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định:
“Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, trong đó vốn điếu lệ
được chia thánh nhiều phần bằng nhau (gọi là cổ phần) và có từ 3 thành viên trở
Trang 1
lên (gọi là cổ đông), các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác trong phạm vi số vốn đã góp. Công ty cổ phần có quyền phát hành các
loại chứng khoán để huy động vốn.”
Theo khoản 1, điều 85, luật Doanh nghiệp 2005 (đã sửa đổi bổ sung năm 2009)
quy định: “Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty
phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.”
Từ định nghĩa trên về công ty cổ phần có thể nhận thấy công ty cổ phần có thể
huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu. Và công ty cổ phần là loại hình công
ty duy nhất được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Có 2 loại công ty cổ phần:
Công ty cổ phần đại chúng (điều 25 luật Chứng khoán) là công ty cổ phần thuộc
một trong ba loại hình sau đây:
Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung
tâm giao dịch chứng khoán.
Công ty có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở
lên.
Công ty cổ phần chưa đại chúng: các trường hợp còn lại.
2.Khái niệm là phân loại phát hành cổ phiếu.
a.Khái niệm:
“Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phiếu lần đầu tiên của công ty cổ phần

trên thị trường sơ cấp”
b.Phân loại phát hành cổ phiếu:
Sự phân loại phát hành cổ phiếu được trình bày trong sơ đồ sau:
Trang 2
Trong các cách phân loại trên, sử dụng phổ biến nhất là căn cứ vào phạm vi phân
phối. Theo đó, có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó
là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
Phát hành riêng lẻ (Private Placement) là việc công ty phát hành chào bán
chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho
các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như
công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành
rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát
hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát
hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ
phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
Theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật chứng khoán:
“Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khoán cho
dưới một trăm nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và
không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc Internet. Trong đó, Nhà đầu
Trang 3
tư chứng khoán chuyên nghiệp là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty
cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng
khoán.”
Đối tượng lựa chọn hình nhức này:Công ty không đủ tiêu chuẩn để phát hành ra
công chúng, số lượng vốn cần huy động thấp, công ty phát hành cổ phiếu nhằm duy
trì các mối quan hệ kinh doanh, phát hành cho cán bộ-công nhân viên của công ty.
Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán
có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người
đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối
lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Trong đó : Phát hành lần đầu ra công

chúng (IPO có chức năng tạo vốn, phát hành cổ phiếu bổ sung ra công chúng có
chức năng tăng vốn.
Theo luật chứng khoán Việt Nam khoản 12 điều 6:
“Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một
trong các phương thức sau đây:
a) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
b) Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu
tư chứng khoán chuyên nghiệp;
c) Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.”
Ý nghĩa cơ bản của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra
công chúng: Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để
xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có
chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng
đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây
cũng là điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có
hiệu quả.
3. Điều kiện phát hành cổ phiếu:
a. Điều kiện phát hành cổ phiếu riêng lẻ:
Nghiệp vụ phát hành riêng lẻ đã được hướng dẫn tại Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Chứng khoán ngày 24/11/2010 và Nghị định 58/2012/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày
15/9/2012. Theo đó:
Trang 4
Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần chưa đại chúng
(khoản 1 điều 4 NĐ 58/2012) bao gồm:
a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án chào bán cổ
phiếu riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán;
b) Đáp ứng các điều kiện khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành trong
trường hợp tổ chức phát hành là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện.
Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng (khoản 6 điều 1

Luật sửa đổi, bổ sung luật Chứng khoán) bao gồm:
a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thông qua
phương án chào bán và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; xác định rõ đối
tượng, số lượng nhà đầu tư;
b) Việc chuyển nhượng cổ phần, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ bị hạn
chế tối thiểu một năm, kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán, trừ trường hợp chào
bán riêng lẻ theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty, chuyển
nhượng chứng khoán đã chào bán của cá nhân cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp, chuyển nhượng chứng khoán giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp, theo quyết định của Tòa án hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật;
c) Các đợt chào bán cổ phần hoặc trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ phải cách nhau ít
nhất sáu tháng.
b. Điều kiện phát hành cổ phiếu ra công chúng:
Mỗi nước có những qui định riêng cho việc phát hành chứng khoán lần đầu ra
công chúng. Tuy nhiên, để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường tổ
chức phát hành phải đảm bảo năm điều kiện cơ bản sau:
Về qui mô vốn: tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu về vốn điều lệ tối
thiểu ban đầu, và sau khi phát hành phải đạt được một tỷ lệ phần trăm nhất định về
vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và số lượng công chúng tham gia.
Về tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh: công ty được thành lập và
hoạt động trong vòng một thời gian nhất định (thường khoảng từ 3 đến 5 năm).
Về đội ngũ quản lý công ty: công ty phải có đội ngũ quản lý tốt, có đủ năng lực
và trình độ quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: công ty phải làm ăn có lãi với mức lợi nhuận
không thấp hơn mức qui định và trong một số năm liên tục nhất định (thường từ 2-
3 năm).
Trang 5
Về tính khả thi của dự án: công ty phải có dự án khả thi trong việc sử dụng
nguồn vốn huy động được.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường cho phép một số trường hợp ngoại

lệ, tức là có những doanh nghiệp sẽ được miễn giảm một số điều kiện nêu trên, ví
dụ: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, hạ tầng cơ sở có thể được
miễn giảm điều kiện về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam, theo qui định của Nghị định 48/1998/-NĐ-CP về chứng khoán và
thị trường chứng khoán và Thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định
48/1998/-NĐ-CP, tổ chức phát hành phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải
đáp ứng được các điều kiện sau:
• “Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam;
• Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất;
• Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh nghiệm
quản lý kinh doanh.
• Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ
phiếu.
• Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên
100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ
chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ
phần của tổ chức phát hành.
• Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát
hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát
hành. Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10
tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành.”
Để chào bán cổ phiếu ra công chúng, các doanh nghiệp cần thực hiện theo
trình tự sau:
Bước 1 : Tổ chức phát hành gửi hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng
tới UBCKNN.
Bước 2 : UBCKNN tiếp nhận hồ sơ trong giờ hành chính các ngày làm việc, kiểm
tra, thẩm định hồ sơ. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ và hợp lệ, UBCKNN có ý kiến
bằng văn bản yêu cầu tổ chức phát hành bổ sung, sửa đổi hồ sơ. Thời gian nhận hồ
sơ đầy đủ và hợp lệ được tính từ thời điểm tổ chức phát hành hoàn thành việc bổ
sung, sửa đổi hồ sơ.

Trang 6
Bước 3 : UBCKNN cấp Giấy chứng nhận đăng ký chào bán cổ phiếu ra công
chúng cho tổ chức phát hành, thu tiền lệ phí cấp Giấy chứng nhận. Trường hợp hồ
sơ không hợp lệ, UBCKNN gửi tổ chức phát hành công văn từ chối và nêu rõ lý do.
Bước 4 : Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán chứng
khoán ra công chúng có hiệu lực, tổ chức phát hành phải công bố Bản thông báo
phát hành trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp.
Bước 5 : Sau Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận chào bán
chứng khoán ra công chúng nếu phát sinh thông tin quan trọng liên quan đến hồ sơ
đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng thì trong thời hạn bảy ngày, tổ chức
phát hành phải công bố thông tin phát sinh trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết
trong ba số liên tiếp và thực hiện việc sửa đổi, bổ sung hồ sơ.
Bước 6 : Chứng khoán chỉ được chào bán ra công chúng sau khi tổ chức phát
hành đã công bố theo nội dung bước 4 nêu trên. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo
lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải bảo đảm thời hạn đăng ký mua chứng
khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là hai mươi ngày. Tiền mua chứng khoán phải được
chuyển vào tài khoản phong toả mở tại ngân hàng cho đến khi hoàn tất đợt chào
bán và báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Tổ chức phát hành phải hoàn thành
việc phân phối chứng khoán trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày Giấy chứng
nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực.
Bước 7 : Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả
đợt chào bán cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn mười ngày, kể từ
ngày kết thúc đợt chào bán, kèm theo bản xác nhận của ngân hàng nơi mở tài khoản
phong toả về số tiền thu được trong đợt chào bán.
Bước 8 : Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải
chuyển giao chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho
người mua trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán.
Trường hợp tổ chức phát hành thực hiện chào bán cổ phiếu chung cho nhiều đợt
phù hợp với dự án đầu tư thì sau mỗi đợt phát hành phải báo cáo kết quả phát hành
tới UBCKNN.

Bước 9 : Trường hợp Trường hợp Hội đồng quản trị có quyết định thay đổi mục
đích sử dụng vốn theo ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông, trong thời hạn 10 ngày
kể từ ngày có quyết định thay đổi mục đích sử dụng vốn, tổ chức phát hành phải
báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và công bố thông tin về lý do thay đổi và
quyết định Hội đồng quản trị về việc thay đổi hoặc chấp thuận của cơ quan có thẩm
Trang 7
quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với tổ chức phát hành nước ngoài. Việc thay
đổi mục đích sử dụng vốn phải được báo cáo Đại hội đồng cổ đông gần nhất.
Bước 10 : Đối với trường hợp huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư, định
kỳ 06 tháng kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán cho đến khi hoàn thành dự án, tổ
chức phát hành phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và công bố thông tin
về tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán.
4. Ưu nhược điểm của việc huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu:
a. Ưu điểm:
Thứ nhất, DN thực sự cần vốn để thực hiện các dự án mới và mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh.Mặt khác, đối với các dự án rủi ro cao và kết quả lợi nhuận
không thực sự tốt thì DN cũng có xu hướng dùng vốn cổ phần nhiều hơn so với
dùng vốn nợ nhằm tăng tính an toàn về tài chính.
Thứ hai, DN gặp khó khăn trong việc vay vốn với lãi suất chấp nhận được từ
ngân hàng trong thời gian qua đã làm cho kênh huy động vốn cổ phần được ưu tiên
hơn.
Thứ ba, cũng có nhưng DN phát hành thêm chỉ để đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa
vốn nợ và vốn chủ sở hữu. Khi DN đang có mức tỷ lệ nợ cao, việc phát hành thêm
cổ phiếu sẽ làm giảm tỷ lệ này, điều này giúp cho DN ở trong tình trạng tài chính
lành mạnh, giảm thiểu rủi ro thanh khoản cũng như nguy cơ vỡ nợ từ nguồn vốn
vay.
Thứ tư, khi thị trường định giá cổ phiếu của nó cao hơn giá trị nội tại(overprice).
Phát hành thêm trong trường hợp này sẽ tạo ra lợi nhuận tài chính cho nhà đầu tư
hiện hữu.
b. Nhược điểm:

Việc phát hành thêm cổ phiếu làm cho quy mô vốn chủ sở hữu của DN tăng lên.
Tuy nhiên điều này đồng nghĩa với hai tác động tiêu cực. Đó là hiện tượng pha
loãng cổ phiếu và giảm tỷ suất sinh lời (ROE, ROA).
Pha loãng cổ phiếu là hiệng tượng suy giảm lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) do
phát hành thêm cổ phiếu mới bởi các hình thức khác nhau. Sau khi thực hiện phát
hành thêm cổ phiếu để huy động vốn, một số DN cần một số năm triển khai để
đồng vốn huy động phát huy hiệu quả. Song, rõ ràng ngay sau khi phát hành thêm
cổ phiếu nếu không có biện pháp thúc đẩy lợi nhuận thì các chỉ số tài chính. Đặc
Trang 8
biệt là hệ số ROE của DN sẽ sụt giảm và nhà đầu tư có thể hiểu rằng, trong hiện tại,
DN sử dụng vốn chưa tốt từ phát hành thêm cổ phiếu.
Việc phát hành thêm sẽ tác động tiêu cực đến thị trường theo hai cách:
Thứ nhất, việc này sẽ hút một lượng tiền lớn khỏi lưu thông. Theo số liệu nghiên
cứu mới đây của trang web Stoxplus, có hơn 200 DN thông qua kế hoạch phát hành
thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Tính từ đầu năm đến nay, khoảng 23,4 nghìn tỷ
đồng đã được rút ra khỏi thị trường (con số này cả năm là 48 nghìn tỷ đồng).
Thứ hai,chỉ trong 8 tháng đầu năm, lượng cung cổ phiếu trên thị trường đã tăng
khoảng 1,4 tỷ đơn vị chưa kể số lượng cổ phần phát hành riêng lẻ cho cổ đông
chiến lược (khoảng 0,3 tỷ đơn vị) tương ứng với khối lượng giao dịch trên cả hai
sàn trong khoảng hơn 20 phiên. Lượng cung cổ phiếu tăng mạnh trong khi đó
lượng cầu không có nhiều biến chuyển cũng là một yếu tố làm cho giá của khá
nhiều cổ phiếu suy giảm. Gây ảnh hưởng lớn đến chỉ số trong ngắn hạn.
Tuy không lượng hóa được con số chính xác mà các đợt phát hành ồ ạt đầu năm
đã tác động đến thị trường, nhưng diễn biến từ những tháng đầu năm cho thấy dòng
tiền luân chuyển trong thị trường đã có nhưng dấu hiệu suy yếu nhất định. Tuy
nhiên tác động này không mang tính dài hạn.
.Tóm lại: Xét dưới góc độ kinh tế nói chung thì khi doanh nghiệp tăng vốn sẽ có
nhiều lợi thế trong quá trình phát triển. Khi đó, doanh nghiệp chủ động về nguồn
vốn, ít phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng với lãi suất khá cao nên có thể tỷ lệ lợi
nhuận mang lại sẽ cao hơn trường hợp sử dụng quá nhiều vốn vay của ngân hàng.

Nhìn chung, thị trường chứng khoán tuy có thể bị ảnh hưởng nhất định trong ngắn
hạn, nhưng về dài hạn các doanh nghiệp hoạt động tốt thì cổ đông vẫn chấp nhận
đầu tư.
II. Thực trạng việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu của các doanh
nghiệp VN hiện nay
1.Diễn biến thị trường cổ phiếu trong mấy năm gần đây:
a.Năm 2011
Năm 2011 là một năm đầy khó khăn của nền kinh tế, Mặc dù những chính sách
điều hành cứng rắn của Chính phủ đã mang lại những dấu hiệu tích cực, nhưng năm
2011 vẫn là 1 năm với quá nhiều biến động của nền kinh tế. Có thể điểm qua 1 vài
nét chính của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng.
Trang 9
 Lạm phát tăng cao trên 18%
 Thị trường bất động sản đóng băng làm lộ ra nhiều hệ lụy từ ngân hàng, tín
dụng đen,….
 Chỉ lệnh tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được phát đi từ tân Thống đốc
Nguyễn Văn Bình, mở đầu bằng việc xử lý ngân hàng vượt trần lãi suất. Tiếp
đó khởi động thương vụ hợp nhất SCB – Ficombank – TinNghiaBank, đồng
thời đưa ra lộ trình IPO cho các “ông lớn” VietinBank, Vietcombank và
BIDV.
 Vỡ nợ tín dụng đen dây chuyền ở nhiều địa phương, gắn với giới bất động sản,
ngân hàng và chứng khoán, cho thấy có dấu hiệu lien kết giữa tín dụng đen và
các kênh huy động vốn chính thức. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến niềm
tin của các nhà đầu tư khi “hiệu ứng domino” này được dự báo là sẽ còn tiếp
tục.
 50000 là số doanh nghiệp Việt Nam bị phá sản trong năm 2011, cho thấy đây
thật sự là một năm đầy sóng gió đối với các doanh nghiệp khi năng lực sản
xuất kinh doanh bị suy yếu nghiêm trọng do khả năng tiếp cận vốn giảm (lãi
suất tín dụng tăng cao, nguồn vốn trở nên khan hiếm).
 Việt Nam bị hạ bậc tín nhiệm từ mức BB xuống mức BB Bên cạnh đó 3

ngân hàng lớn trong nước là BIDV, Techcombank và Vietcombank cũng bị hạ
mức tín nhiệm, dẫn đến sự e ngại của các nhà đầu tư nước ngoài về triển vọng
đối với các mức tín nhiệm nợ của Việt Nam.
 Chứng khoán triền miên chuỗi ngày lao đao khi TTCK liên tục bắt đáy với
nhiều cổ phiếu rẻ hơn giá mua một mớ rau, thậm chí tương đương với nửa cốc
trà đá. (Điển hình như mã VKP (Công ty cổ phần Nhựa Tân Hoá) là cổ phiếu
đầu tiên có giá dưới 1.000 đồng trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt
Nam. Chốt phiên giao dịch 22/11, cổ phiếu này chỉ còn 700 đồng - rẻ hơn nửa
ly trà đá vỉa hè. Một cổ phiếu khác trên thị trường là DVD (Công ty Dược
Viễn Đông) đã bị huỷ niêm yết khi giá còn 3.500 đồng). Giá trị vốn hóa thị
trường chỉ còn hơn 20% GDP, mất hơn 10 tỷ USD so với cuối năm 2010.
Tổng cộng trên cả hai sàn có đến 431 mã cổ phiếu và chứng chỉ quỹ nằm dưới
mệnh giá, chiếm 62% tổng số mã niêm yết. Còn lại 263 mã, tương đương 38%
toàn thị trường, trải đều ở các mức giá từ 10,000 đồng/cp trở lên.
Trang
10
Mặc dù phải đối mặt với tình hình kinh tế thế giới và trong nước khá ảm đạm,
TTCK xuống dốc không phanh, nhưng trước áp lực cổ phần hóa (đối với các cty
nhà nước), hoàn thiện bộ máy quản trị cũng như đáp ứng nguồn vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của đại bộ phận các doanh nghiệp, thị trường huy động vốn
bằng cổ phiếu vẫn diễn ra khá sôi động.
Trên thực tế đã có rất nhiều công ty nộp hồ sơ đăng ký phát hành cổ phiếu cho
cổ đông hiện hữu, đối tác chiến lược, phát hành cổ phiếu trả cổ tức, cổ phiếu theo
chương trình lựa chọn cho người lao động. Và hầu khắp các lĩnh vực của nền kinh
tế như Tài chính – Ngân Hàng, dịch vụ tiêu dùng,… đều có các hoạt động trên thị
trường vốn cổ phiếu. Trong năm cũng đã xuất hiện những thương vụ nổi tiếng, nổi
bật cả về số lượng CP phát hành lẫn giá trị phát hành giữa các đối tác như:
Trang
11
 Ngày 25/1/2011, VietinBank đã ký kết các Hợp đồng đầu tư với Quỹ cấp vốn

Ngân hàng IFC và Tổ chức tài chính quốc tế (IFC), IFC sẽ bỏ ra khoản tiền
182 triệu USD để sở hữu 10% cổ phần tại Vietinbank. Ngân hàng này (mã
chứng khoán: CTG) đã hoàn tất đợt phát hành riêng lẻ 168,58 triệu cổ phần
cho IFC với giá 21.000 đồng/cổ phần.Qua đợt phát hành trên, VietinBank
thu về thặng dư vốn là 1.854 tỷ đồng; thực hiện tăng vốn điều lệ lên 16.858
tỷ đồng, tăng 11,1% so với mức công bố cách đây hơn 4 tháng; tổng vốn tự
có cấp 1 là 18.712 tỷ đồng. Trong quý III năm 2012, Vietinbank dự kiến sẽ
hoàn tất đàm phán bán tiếp 20% cổ phần cho một ngân hàng nước ngoài.
Việc bán cổ phần nằm trong lộ trình thoái vốn nhà nước tại ngân hàng, để
tiến tới chỉ còn 51% như quy định. (Cafef.vn)
 17/8/2011, Tổng công ty Bảo hiểm dầu khí (PVI Holdings) đã hoàn tất
thương vụ bán 25% cổ phần trong tổng số vốn cổ phần tăng thêm cho đối tác
là tập đoàn bảo hiểm Talanx (Đức).
Thông tin từ PVI Holdings cho biết, giá thỏa thuận mà hai bên đạt được là
36.000 đồng/cổ phần, tính ra tổng giá trị mua bán lên đến 1.916,5 tỉ đồng
(tương đương 65 triệu euro hoặc 93 triệu đô la Mỹ). Đây là mức giá cao hơn
giá cổ phiếu của PVI trên thị trường ở thời điểm lúc đó.
 13/4/2011, Masan Consumer chào bán riêng lẻ 14.444.444 cổ phần, tương
đương 10% vốn điều lệ sau khi phát hành cho Tập đoàn đầu tư Kohlberg
Kravis Roberts (KKR), KKR đã ký kết với Tập đoàn Masan về việc sẽ mua
số cổ phần trên với giá 159 triệu USD. Đây là khoản đầu tư đầu tiên của
KKR tại Việt Nam và là khoản đầu tư thứ 4 tại Đông Nam Á. Và giá KKR
trả cho mỗi cổ phiếu Masan Consumer là hơn 11 USD,tương ứng hơn
220.000 đồng/cp. Trên thị trường OTC, cổ phiếunày hiện ở mức 150.000
đồng/cp.
Trang
12
Một số thương vụ huy động vốn trên TTCK nổi bật năm 2011
Ngoài ra có thể kể đến 1 thương vụ thất bại điển hình trong năm THV: Phát hành
30 triệu cp thất bại thảm hại

(Vietstock) Chỉ có 60 cổ phiếu được phân phối trong tổng số 30,25 triệu cổ phiếu
đăng ký chào bán đợt 1 là kết quả đợt phát hành cổ phiếu của CTCP Tập đoàn Thái
Hòa Việt Nam (HNX: THV). Theo đó, chỉ có 60 cổ phiếu được cổ đông hiện hữu
đăng ký mua, thu về 600,000 đồng. Tổng số cổ phiếu đã phân phối chỉ chiếm
0.0002% tổng số cổ phiếu được phép phát hành.
Với kết quả phát hành như vậy, HĐQT của THV đã quyết định chuyển toàn bộ
cổ phiếu lẻ, cổ phiếu không mua hết trong đợt phát hành trên sang đợt phát hành 2
thông qua đấu giá trên Sở GDCK Hà Nội (HNX).
Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng, những thương vụ trên chủ yếu được thực hiện
bởi các doanh nghiệp lớn và đều phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho các đối tác chiến
lược. Hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng diễn ra hết sức trầm lắng, kể cả
đối với các DN Nhà nước, các NHTM lớn,… Thị trường cũng đã chứng kiến rất
nhiều cuộc thoái lui của các doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu, mặc dù đã có
sự chuẩn bị rất kỹ càng.
Trang
13
b.Năm 2012:
Tình hình kinh tế trong nước
Sáu tháng đầu năm, hòa chung bức tranh ảm đạm của nền kinh tế thế giới làm
ảnh hưởng đến sản xuất, xuất khẩu trong nước, kinh tế Việt Nam tăng trưởng hết
sức chậm chạp, chỉ ở mức 4,38% (4% Quí I và 4.66% Quí II) , thấp hơn so với mức
5.9% cùng kì năm 2011 và chỉ tiêu 6 – 6.5%. CPI 6 tháng đầu năm chỉ tăng 6,9%
so với cùng kỳ năm 2011.
Trên TTCK:
 Thị trường tụt dốc trở lại sau tháng 5 Thị trường chứng khoán huy động 84
nghìn tỷ đồng 6 tháng đầu năm 2012, tăng gấp 2 lần cùng kỳ năm 2011. Tuy
nhiên, vốn huy động qua phát hành cổ phiếu giảm 50% so với cùng kỳ
 Quý I/2012 có 54 công ty lỗ, tổng số công ty có lỗ lũy kế tính đến hết Quý
I/2012 là 66 công ty, trong đó có 12 công ty chứng khoán lỗ lũy kế trên vốn
điều lệ hơn 50%, 27 công ty chứng khoán có vốn chủ sở hữu thâm hụt 50%

so với vốn pháp định. Hiện nay đã có 5 công ty chứng khoán cơ bản đã hoàn
tất rút nghiệp vụ môi giới. UBCKNN đã ra quyết định đưa 7 công ty chứng
khoán vào diện kiểm soát đặc biệt.
Trang
14
 UBCKNN dự kiến sẽ thí điểm việc áp dụng chu kỳ thanh toán T+3 bắt đầu
từ ngày 4/9/2012. Việc rút ngắn chu kỳ thanh toán sẽ giúp tăng vòng quay
dòng tiền và thu hút nguồn vốn ngắn hạn cho thị trường.
 Sự kiện Bầu Kiên bị bắt đã làm cho cổ phiếu của ngân hàng tụt dốc thê thảm,
thị trường chứng khoán đứng trước áp lực bán dữ dội, đặc biệt tại sàn HNX
với việc ACB giảm kịch sàn. Thậm chí, ngay cả các mã ngân hàng không
liên quan đến ACB cũng quay đầu giảm trở lại như MBB, VCB và CTG.
Theo ghi nhận, TTCK đã "bốc hơi" 5,6 tỷ USD sau 3 ngày bầu Kiên bị bắt.
(Dân trí) Hàng tỷ USD trên cả 2 sàn "bốc hơi" nhanh chóng; khối tài sản trên sàn
của các đại gia trong Top giàu nhất cũng "đội nón ra đi".
Chỉ trong tháng 7/2012, UBCK nhận được hồ sơ xin phát hành riêng lẻ của 5
DN, gồm cả DN niêm yết và công ty đại chúng chưa niêm yết. Một số thương vụ
huy động vốn qua cổ phiếu đáng chú ý:
 (TBKTSG Online) Ngày 18/1/2012, Công ty cổ phần Kinh Đô (KDC) và
Công ty Ezaki Glico - chuyên về bánh kẹo và thực phẩm của Nhật - công bố
việc hai bên đã ký kết hợp đồng mua cổ phần, theo đó Ezaki Glico mua 14
triệu cổ phần trong đợt phát hành cổ phần riêng lẻ của KDC.
Số cổ phiếu Glico nắm giữ này tương đương 10% vốn cổ phần sau khi phát
hành của KDC.
 Ngày 3/7/2012 PVI: Talanx nâng tỷ lệ sở hữu từ 25% lên 31,82%. Trong đợt
phát hành riêng lẻ này, hai bên đã thống nhất mức giá mua bán bằng với giá
trị sổ sách của PVI tại thời điểm 31/12/2011 là 26.335 đồng/cp, cao gấp 1,55
lần giá thị trường PVI tại thời điểm ký hợp đồng, với tổng giá trị lên tới 560
tỷ đồng (tương đương 27 triệu đô la Mỹ).
 ĐHĐCĐ bất thường tổ chức sáng ngày 18/08 của CTCP Dịch vụ và Xây

dựng Địa ốc Đất Xanh (HOSE: DXG) đã thông qua phương án tăng vốn lên
420 tỷ đồng
Theo đó, các cổ đông thống nhất phương án phát hành riêng lẻ 10 triệu cp
cho nhà đầu tư chiến lược với giá chào bán không thấp hơn mệnh giá.
Trang
15
 CTCK Sacombank (SBS) phát hành ít nhất 10 triệu cổ phiếu hạn chế chuyển
nhượng trong 1 năm, giá bán tối thiểu bằng mệnh giá cho các NĐT chiến
lược.
 Cuối tháng 8, CTCP Công nghiệp Khoáng sản Bình Thuận (KSA) thực hiện
việc phát hành riêng lẻ hơn 12 triệu cổ phiếu cho 3 đối tác chiến lược là
Wanji Holding Group Co. Ltd, Chengde Tianfu Titamium Co., Ltd và CTCP
Đầu tư Đại Á Châu.
Doanh nghiệp tìm vốn thông qua phát hành riêng lẻ. Bên cạnh đó, trước áp lực
về vấn đề nợ xấu quá cao và nguy cơ bị thâu tóm, sáp nhập, nội dung "tăng vốn
điều lệ" xuất hiện trong tờ trình Đại hội cổ đông thường niên năm 2012 của hầu hết
các ngân hàng. Không chỉ các NH chọn thời điểm năm nay như Vietinbank, ACB,
Sacombank, Eximbank, Techcombank, Maritime Bank, mà còn có các NH tiếp tục
thực hiện kế hoạch từ năm ngoái do khó khăn của thị trường như DongABank,
TrustBank,…Chính vì vậy, dự kiến thị trường cổ phiếu cuối năm sẽ tràn ngập cổ
phiếu của các ngân hàng (Chủ yếu là phát hành cho cổ đông chiến lược).
c.6 tháng đầu năm 2013:
Tình hình kinh tế:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sáu tháng đầu năm 2013 ước tính tăng 4,90%
so với cùng kỳ năm 2012, trong đó quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5,00%. Tốc độ
tăng GDP sáu tháng đầu năm nay xấp xỉ mức tăng cùng kỳ năm 2012 (4,93%)
nhưng thấp hơn nhiều mức tăng 6,22% của cùng kỳ năm 2010 và mức tăng 5,92%
Trang
16
của cùng kỳ năm 2011. Kinh tế-xã hội nước ta những tháng đầu năm 2013 tiếp tục

đối mặt với nhiều khó khăn.
Thị trường cổ phiếu:
(Tài chính) Trong 6 tháng đầu năm, bất chấp khó khăn chung của nền kinh tế, thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam vẫn có những bước phát triển đáng kể, tạo
kỳ vọng tăng trưởng trong những tháng cuối năm.
 Các chỉ số thị trường có mức tăng trưởng khá: Khối lượng giao dịch toàn thị
trường đã tăng khoảng hơn 30% so với cùng kỳ năm trước, trong đó riêng
khối lượng giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ ước tăng 12%. Tính đến ngày
16/6/2013, chỉ số VN-Index đã đạt mức tăng 216,6% so với đáy ngày
24/2/2009 và tăng 26,8% so với thời điểm 6/1/2012. Chỉ số HNX-Index tăng
35% so với ngày 9/1/2012, ngày lập đáy mới của chỉ số này. Tính từ đầu
năm đến nay, mức cao nhất chỉ số VN-Index đạt được là 524,56 điểm, xác
lập vào ngày 10/6/2013 (khối lượng giao dịch lên tới hơn 94 triệu cổ phiếu,
tương đương gần 1.661 tỷ đồng).
 Sự “lên hạng” của thị trường trong mắt các NĐT nước ngoài: Trong 6 tháng
đầu năm 2013, dòng vốn ngoại chảy vào TTCK có diễn biến tích cực. Tổng
Trang
17
lượng vốn đầu tư gián tiếp ước đạt 160 triệu USD, tăng 30% so với cùng kỳ
năm ngoái. Nhiều NĐT tổ chức lớn đang xúc tiến các hoạt động để giải ngân
vào TTCK Việt Nam. Bởi vậy, triển vọng thu hút thêm dòng vốn ngoại của
thị trường còn lớn.
Dù có mức tăng trưởng khá nhưng thị trường cổ phiếu vẫn tiềm ẩn những rủi ro
ngắn hạn. Diễn biến tiêu cực của TTCK thế giới những ngày cuối tháng 6/2013 đã
ảnh hưởng gián tiếp đến TTCK Việt Nam qua hoạt động thoái vốn của các Quỹ
giao dịch, trao đổi (ETFs). Dòng vốn nội đang có dấu hiệu chững lại do không có
thông tin hỗ trợ đủ mạnh trong khi khối ngoại tăng bán chốt lời khiến VN - Index
mất ngưỡng 500 điểm và có thời điểm về dưới ngưỡng 470 điểm vào cuối tháng 6.
Điều này cho thấy xu hướng tăng trưởng dài hạn có thể đã được thiết lập nhưng về
ngắn hạn, TTCK còn đối mặt với không ít khó khăn từ yếu tố vĩ mô trong và ngoài

nước.
 Theo thống kê sơ bộ, chỉ tính từ tháng 6/2013, đã có hơn 50 DN đăng ký
phương án phát hành thêm cổ phiếu.
• Tập đoàn Mai Linh (MLG) tại đại hội cổ đông thường niên năm 2013, cổ
đông của Mai Linh đã nhất trí phương án phát hành thêm 100 triệu cổ phiếu
cho đối tác chiến lược. Mục đích là nhằm huy động khoảng 1.000 tỷ đồng để
thanh toán khoản vay 800 tỷ đồng ngắn hạn và bổ sung 200 tỷ đồng cho vốn
hoạt động. Theo báo cáo tài chính, tính đến cuối năm 2012, Mai Linh có tổng
nợ phải trả là 4.630 tỷ đồng, chiếm 84% tổng tài sản, trong đó nợ ngắn hạn
hơn 2.500 tỷ đồng. Năm 2012 cũng là năm Mai Linh bị lỗ hợp nhất hơn 33 tỷ
đồng.
• Ở Tập đoàn Tân Tạo (TIA), nghị quyết HĐQT mới đây cũng cho biết, trong
tháng 7 này, ITA dự kiến phát hành khoảng 56,22 triệu cổ phiếu. Trong đó,
ITA sẽ phát hành thêm 28,11 triệu cổ phiếu để chi trả cổ tức 2012 với tỷ lệ
5%.
• Ngoài ra, ITA phát hành một lượng cổ phiếu tương tự để thưởng cổ phiếu
cho cổ đông hiện hữu. Nguồn phát hành cổ phiếu được lấy từ lợi nhuận sau
thuế chưa phân phối (cho trả cổ tức) và thặng dư vốn cổ phần (cho thưởng cổ
phiếu).
Trang
18
• Nằm trong top doanh nghiệp có kế hoạch phát hành lớn phải kể đến Công ty
CP Thủy sản Hùng Vương (HVG). Theo thông báo, Hùng Vương sẽ phát
hành thêm 40,8 triệu cổ phiếu bao gồm cả thưởng cổ phiếu và phát hành cổ
phiếu ESOP cho mục đích tăng vốn điều lệ, từ gần 792 tỷ đồng lên khoảng
1192,8 tỷ đồng.
Hùng Vương, Tân Tạo cũng như các DN đang phát hành cổ phiếu để trả cổ tức,
thưởng cổ phiếu tuy sẽ tăng được vốn, nhưng theo Công ty Chứng khóan BSC,
thực chất, vốn chủ sở hữu ở DN không đổi.
Sở dĩ vốn điều lệ của các DN này tăng lên là nhờ vào việc chuyển nguồn thặng

dư vốn, lãi lũy kế vào vốn điều lệ. Rõ ràng, hoạt động này chỉ đơn thuần là chuyển
đổi các khoản mục trong nguồn vốn cổ đông và dòng tiền của doanh nghiệp vẫn
như cũ.
Nhưng thống kê lại cho thấy, trong tổng số DN lên kế hoạch phát hành thêm cổ
phiếu hiện nay, khoảng 70% DN đều dự kiến tăng vốn qua cách thức này. Nghĩa là,
dù DN ồ ạt lên kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu thì vẫn chưa thể hy vọng việc
huy động vốn ở DN đã được cải thiện.
Số liệu từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thậm chí còn cho biết, việc huy động
vốn qua phát hành cổ phiếu trong 6 tháng đầu năm 2013 đã giảm 58% so với cùng
kỳ năm ngoái, chỉ đạt 2.344 tỷ đồng.
Năm 2013, thị trường còn chứng kiến những trường hợp phát hành cổ phiếu vì
những mục đích khá đặc biệt. Ở Kinh Đô (KDC) là phát hành thêm hơn 1 triệu cổ
phiếu để hoán đổi cổ phiếu Vinabico với tỷ lệ 1:2,2 (tức 1 cổ phiếu KDC lấy 2,2 cổ
phiếu Vinabico).
Trong khi Công ty CP Địa ốc Hoàng Quân (HQC) phát hành 18 triệu cổ phiếu
bằng mệnh giá cho Địa ốc Hoàng Quân Mê Kông và Công ty Việt Kiến Trúc để
cấn trừ nợ. Công ty CP CMISTONE Việt Nam (CMI) cũng dự kiến phát hành riêng
lẻ cổ phiếu cho mục đích tương tự.
Trang
19
Lạ hơn, theo nội dung nghị quyết HĐQT, Công ty CP Mirae (KMR) sẽ phát
hành 6 triệu cổ phần phổ thông bằng mệnh giá (10.000 đồng) cho Công ty CP
Mirae Fiber và ông Shin Young Sik.
Theo đó, Mirae Fiber sẽ góp vốn bằng máy móc, thiết bị là dây chuyền vải
không dệt nowoven với giá trị ước tính 56 tỷ đồng, còn ông Shin Young Sik, đang
là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc, sẽ góp vốn 4 tỷ đồng.
Với chủ trương đó, KMR sẽ phát hành 5,6 triệu cổ phần tương đương 16,28%
vốn với giá 10.000 đồng/CP cho Mirae Fuber Tech và 0,4 triệu cổ phiếu cho ông
Shin Young Sik. So với thị giá đang ở mức 2.200 - 2.500 đồng/cp thì giá chào bán
cổ phiếu lần này của KMR cao gấp 4-5 lần. Tuy nhiên, với phương án và đối tượng

mua cụ thể, không ai nghi ngờ về tính khả thi của phương án này.
 Nhiều DN lên kế hoạch tăng vốn
• Công ty cổ phần (CTCP) Dịch vụ Phân phối Tổng hợp Dầu khí (PSD) vừa có
thông báo về việc chốt danh sách cổ đông vào ngày 23/9 tới để tổ chức Đại
hội cổ đông (ĐHCĐ) bất thường (dự kiến từ ngày 10 - 15/10) thông qua
phương án phát hành hơn 14,2 triệu cổ phiếu để tăng vốn điều lệ từ 142 tỷ
đồng lên 284 tỷ đồng.
• Cuối tháng 9 này, CTCP Gỗ MDF VRG - Quảng Trị (MDF) sẽ tổ chức
ĐHCĐ bất thường để thông qua phương án phát hành cổ phiếu cho cổ đông
hiện hữu tăng vốn điều lệ trong năm 2013 với tỷ lệ 1:1. Số tiền thu được từ
đợt phát hành sẽ được MDF sử dụng để đầu tư xưởng sản xuất Formaline có
công suất 20.000 tấn/năm và nhà máy sản xuất gỗ MDF công suất 12.000 m3
sản phẩm/năm. Ngoài ra, Công ty cũng đang huy động vốn để bổ sung thực
hiện một số dự án sản xuất gỗ MDF dây chuyền 2 và dự án sản xuất
Formaldehyde, dự án sản xuất Formaldehyde tại Khu công nghiệp Quán
Ngang (Gio Linh, Quảng Trị)…
• Trước đó, ĐHCĐ CTCP Việt An (AVF) đã thông qua phương án chào bán
cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn từ 279,6 tỷ đồng lên 433.38 tỷ đồng. Cụ
thể, AVF sẽ phát hành 13,98 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ
thực hiện quyền 2:1, giá chào bán 5.000 đồng/cổ phiếu và thời gian phát
hành dự kiến trong quý IV/2013 hoặc quý I/2014. Theo AVF, tổng số tiền
thu được từ đợt phát hành dự kiến là 69,9 tỷ đồng, Công ty sẽ dùng để hoàn
Trang
20
thiện vùng ao nuôi Phú Thuận (36,5 tỷ đồng), Bình Thạnh (13,5 tỷ đồng) và
bổ sung vốn lưu động (19,9 tỷ đồng)… Ngoài ra, AVF cũng thông qua
phương án phát hành 1.398.000 cổ phiếu thưởng cho cán bộ công nhân viên
theo chương trình ESOP.
Trên đây là diễn biến nền kinh tế Việt Nam nói chung và những biến động trong
hoạt động huy động vốn qua phát hành cổ phiếu nói riêng. Nhìn chung, dù số lượng

doanh nghiệp huy động vốn qua thị trường cổ phiếu đã tăng trong những năm qua,
nhưng quy mô tăng vốn và số lượng giao dịch qua phát hành cổ phiếu chưa lớn.
Đây vẫn không phải là kênh huy động vốn ưu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam.
III, Đánh giá tình hình huy động vốn nói chung của các doanh nghiệp
Kể từ giữa năm 2008, lo ngại tình hình lạm phát và nạn đầu cơ bất động sản (BĐS)
vốn đang diễn ra nhanh chóng, ngân hàng Nhà nước đã có nhiều biện pháp
thắt chặt tín dụng bất động sản. Năm 2009, ngân hàng nhà nước đã có chỉ đạo rõ
ràng là “ Kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi sản xuất (cho vay kinh
doanh BĐS, cho vay kinh doanh, đầu tư chứng khoán, cho vay tiêu dùng) Dư nợ
tín dụng cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản năm 2009 giảm gần 12% so với
năm 2008, con số tuyệt đối lên tới gần 20.000 tỷ đồng. Và sang năm 2010, vẫn
chưa có dấu hiệu các ngân hàng nới lỏng tín dụng trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, chủ trương này đang gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp,
chủ đầu tư BĐS vì không có kinh phí để tiếp tục thực hiện dự án. Từ cái khó
này, nhiều doanh nghiệp đã tự cứu lấy mình khi đưa vào khai thác phương
thức huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu doanh nghiệp cho những người
có nhu cầu. Thực chất cách làm này đã phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới,
nhưng ở Việt Nam còn mới mẻ.
Một số chuyên gia nhận xét, trong tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn về các
khoản tín dụng như hiện nay thì việc phát hành cổ phiếu được xem như là một kênh
huy động vốn nhanh, hiệu quả. Hơn nữa lượng tiền mặt trong dân khá nhiều nên
với cách này các doanh nghiệp đầu tư sẽ không khó khăn đểtìm được nguồn vốn
theo ý muốn. Ngoài ra chủ đầu tư có thể huy động vốn của nhiều đối tượng khác
nhau như quỹ đầu tư, các công ty, tập đoàn bảo hiểm, tài chính Mặt khác việc áp
dụng lãi suất cũng như quá trình trả nợ qua phương thức này sẽ linh hoạt hơn so
Trang
21
với các tổ chức tín dụng. Doanh nghiệp cũng có thể chủđộng hơn trong việc quản
trị tài chính thông qua việc mua đi hay bán lại cổ phiếu do công ty mình phát hành
ra trên thị trường.

Qua sự việc ngân hàng “khóa van” vừa qua, các doanh nghiệp kinh doanh mới
vỡ ra một điều, điểm tựa tài chính cho các doanh nghiệp tại Việt Nam còn quá yếu,
gần như duy nhất chỉ biết vay vốn từ ngân hàng mà không có một kênh huy động
nào khác. Chính vì vậy khi xảy ra sự cố, các doanh nghiệp lao đao, thị trường lập
tức rối loạn khiến nhiều người vô cùng lo lắng và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng
bền vững của thị trường còn non trẻ này. Chính vì vậy việc tạo ra nhiều kênh huy
động vốn khác nhau sẽ khiến doanh nghiệp chủ động và đứng vững hơn trước mọi
biến cố. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh đang tỏ ra rất hào hứng với phương thức
huy động vốn kiểu này. Rõ ràng, tại thời điểm hiện nay khi nhiều doanh nghiệp
đang bên bờ vực thẳm thì đây chính là cái phao vớt họ lên.
Càng nhiều doanh nghiệp tham gia huy động vốn bằng hình thức này thì người
mua sẽ càng có lợi do các doanh nghiệp phải chạy đua ưu ái khách hàng nhằm
sớm thu được tiền thực hiện dự án. Tuy nhiên để thực hiện một cách bài bản, đúng
pháp luật và lâu dài thì cần phải có những quy định pháp lý rõ ràng, cụ thể về trách
nhiệm đối với cả hai bên. Người mua cũng cần thận trọng, nên “chọn mặt
gửi vàng” và tìm hiểu kỹ các nội dung ràng buộc giữa hai bên để hạn chế thấp
nhất những mâu thuẫn, hiểu lầm, ảnh hưởng đến quyền lợi có thể phát sinh sau
này.
Các chuyên gia cho rằng, việc doanh nghiệp "tự thân vận động" bằng cách huy
động vay tiền nhàn rỗi từ cá nhân, tổ chức thông qua cổ phiếu chuyển đổi là điều
tất yếu. Tuy nhiên, cũng cần phải cân đối tỷ lệ hợp lý giữa phần vốn tự có với
phần vốn vay nợ, về mặt lý thuyết cứ 2 đồng vay thì nên "thủ" 1 đồng tự có.
***Nguyên nhân của những khó khăn khi phát hành cổ phiếu
Nhìn chung, trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến thời điểm kết thúc 6 tháng
đầu năm 2013, những khó khăn chung trong việc phát hành cổ phiếu là do những
nguyên nhân sau:
A- Lý do khách quan
Trang
22
- Nền kinh tế ảm đạm

Nền kinh tế Việt Nam từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 – 2009 đã
trở nên vô cùng ảm đạm. mặc dù đã có sự khởi sắc nhưng năm 2011, 2012 và 6
tháng đầu năm 2013, nền kinh tế vẫn đang tồn tại rất nhiều những khó khăn, những
nguy cơ gây bất ổn đang lớn dần lên như biến động tỉ giá, lãi suất cao, áp lực lạm
phát, thâm hụt thương mại,…ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Qua đó, gây tâm lý bi quan, hoài nghi tính khả thi của phương án sử
dụng vốn vay mà doanh nghiệp đề xuất.
(Doanh nghiệp đồng loạt xin giải thể, phá sản: chỉ riêng từ đầu năm 2012 đến nay
đã có 49000 doanh nghiệp phá sản( giải thể), chờ giải thể trong khi các doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng không đáng kể.)
- Yếu tố nội tại trong mô hình tổ chức và vận hành của Thị Trường Chứng
Khoán
• Thứ nhất, dù thời gian qua, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước đã có những
giải pháp và kiến nghị phát triển thị trường, song hầu hết chỉ dừng lại ở mức
độ đề xuất. việc triển khai những giải pháp này còn rất chậm chạp cộng thêm
sự phối hợp không như mong đợi giữa ngân hàng và thị trường chứng khoán.
Do vậy, đã tác động không tốt tới thị trường và nhà đầu tư.
• Thứ hai, việc cho phép ra đời quá nhiều công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ trong lúc thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ bé, đã dẫn đến
tình trạng nhiều công ty lôi kéo khách hàng, vi phạm nguyên tắc nghiệp vụ
và đạo đức nghề nghiệp
• Thứ ba, Thị trường chứng khoán là một thị trường hết sức nhạy cảm và là thị
trường của niềm tin song thời gian qua, nhiều luồng thông tin một chiều, làm
cho tâm lý nhà đầu tư bị hoang mang, dao động …. Làm thị trường thêm khó
Trang
23
khăn hơn (Điển hình mới đây nhất là vụ bầu Kiến và ông Lý Xuân Hải bị bắt
tạm giam đã khiến thị trường lao giốc, bốc hơi mất 5,6 tỷ đô la)
• Thứ tư, thị trường chứng khoán Việt Nam còn thiếu minh bạch và khó lường
xét về việc dự báo chính sách tiền tệ làm các Nhà đầu tư nước ngoài không

mặn mà (Theo Tiến sĩ Quách Mạnh Hào, Tổng Giám đốc Công ty Chứng
khoán Thăng Long, cho biết, có tới 90% tổ chức đầu tư lớn nước ngoài chưa
quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam)
- Thị trường chứng khoán liên tục rớt đáy khiến nhà đầu tư thờ ơ.
- Khó khăn về điều kiện phát hành cổ phiếu ra công chúng chặt chẽ, gây khó
khăn cho các hoạt động của công ty niêm yết
• Để được phát hành ra công chúng, công ty phải có vốn điều lệ đã góp tại thời
điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ sách
kế toán.
• Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm chào bán của doanh nghiệp
phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán.
• Doanh nghiệp phải có phương án phát hành và phương án sử dụng thu được
từ đợt chào bán được đại hội đồng cổ đông thông qua.
• Thủ tục liên quan đến quá trình tăng vốn thường mất ít nhất là 3-4 tháng, có
khi là nửa năm. Trong thời gian đó giá cổ phiếu có thể thay đổi theo chiều
hướng bất lợi. Thậm chí có những doanh nghiệp, đến thời điểm huy động
vốn giá phát hành đã cao hơn thị giá
- Do đặc trưng ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
VD: Hoạt động ngân hàng đang khá nhạy cảm cũng là rào cản các nhà đầu tư
đến với ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhỏ. Bên cạnh đó, các quy định pháp lý
cũng phần nào cản trở hoạt động tăng vốn của ngân hàng, như quy định về giới hạn
tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài, quy định hạn chế đầu tư ngoài ngành đối
Trang
24

×