Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

SỬ DỤNG MÔ HÌNH CAMELS ĐỂ PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA VIB GIAI ĐOẠN 20112013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.77 KB, 62 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
~~~~~~*~~~~~~
BÀI TẬP LỚN
MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI:
SỬ DỤNG MÔ HÌNH CAMELS ĐỂ PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ
HOẠT ĐỘNG CỦA VIB GIAI ĐOẠN 2011-2013
Nhóm : VIB
1. Trần Vũ Đức Anh – 14A4000027
2. Lê Duy Bình – 14A4000037
3. Lê Đức Mạnh – 14A4000319
4. Bùi Tiến Đạt – 14A4000099
HÀ NỘI – 2014
1
Thành Viên Mã sinh viên Lớp
Nội dung
tham gia
Mức độ
tham gia
Điểm
GV 1
Điểm
GV 2
Trần Vũ
Đức Anh
14A4000027 K14.NHTMG
Phân tích
chữ A, chữ
M, làm phần
giải pháp,


kết luận
Cao
Lê Duy Bình 14A4000037 K14.NHTMG
Làm chương
1 lý thuyết,
phân tích
chữ L, chữ S
Khá
Lê Đức Mạnh 14A4000319 K14.NHTMC
Phân tích
chữ C, giới
thiệu ngân
hàng
Khá
Bùi Tiến Đạt 14A4000099 K14.NHTMC
Phân tích
chữ E, phần
thực trạng,
lời mở đầu
Cao
2
MỤC LỤC
3
Lời mở đầu
Khi tiếp cận một doanh nghiệp điều chúng ta qua tâm là nó đang hoạt động, sản
xuất kinh doanh như thê nào trong quá khứ, hiện tại và cách tiếp cận thường được sử
dụng là thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính sẽ cung cấp
cho chúng ta cái nhìn vừa tổng quát vừa chi tiết về doanh nghiệp, nó là ngôn ngữ của
kinh doanh. Vì vậy, đọc được bức thông điệp này là điều vô cũng quan trọng nó sẽ giúp
chúng ta xác định được ưu nhược điểm, phát hiện được những vấn đề còn tồn tại của

doanh nghiệp từ đó có những giải pháp định hướng tầm nhìn cho tương lai.
Ngân hàng là một thực thể kinh doanh với vai trò vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế vì thế báo cáo tài chính của ngân hàng vô cùng quan trọng đọc, hiểu, phân tích
báo cáo tài chính của ngân hàng sẽ cho phép chúng ta có những nhận định rõ ràng về bức
tranh tổng thể với những mảng màu sáng – tối của toàn bộ nền kinh tế. Trong phạm vi
chủ đề thảo luận này nhóm sẽ sử dụng các chỉ tiêu của mô hình Camels để phân tích về
hiệu quả hoạt động của ngân hàng VIB giai đoạn 2011-2013 thông qua báo cáo tài chính
hợp nhất đã qua kiểm toán của ngân hàng giai đoan 2011-2013 và trên cơ sở đó có những
so sánh, đối chứng, phân tích giữa các năm qua đó đưa ra các nhận định đánh giá về các
chỉ tiêu nói riêng và tình hình hoạt động của ngân hàng VIB nói chung từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng VIB trong thời gian
tới.
Bài thảo luận do thời gian có phần hạn chế nên có thể chưa thật sự đầy đủ và chi tiết
nhóm rất mong được cô giáo hướng dẫn thêm để bài viết được hoàn thiện, chúng em xin
chân thành cảm ơn cô.
4
Chương 1: Lý luận cơ bản về mô hình CAMELS
1.1 Sự ra đời của mô hình CAMELS
Camels là phương pháp phân tích ngân hàng được xây dựng ở Mỹ từ những năm
1980 bởi Ủy ban giám sát thanh toán quốc tế. Ngày nay, phương pháp này được coi là
một phương pháp chuẩn và được công nhận rộng rãi trên thế giới trong việc phân tích tài
chính ngân hàng. Đây là một công cụ rất hữu ích trong việc đưa ra các dự đoán liệu ngân
hàng có lành mạnh hay không và nó cho phép các nhà phân tích tài chính xác định giá trị
của ngân hàng với mức độ tin cậy nhất.
Theo mô hình này, các nhà phân tích phải phân tích tài chính của ngân hàng thương
mại đối với cả các nhân tố định tính và định lượng. Camels là chữ viết tắt bằng tiếng Anh
của 6 nhân tố mà theo nhận định của ngân hàng thế giới WorldBank, muốn duy trì tính
lành mạnh và ổn định của một ngân hàng, cần phải có 6 yếu tố này. Đó là:
C(Capital): Vốn của ngân hàng
A (Asset quality): chất lượng tài sản

M(management ability): năng lực quản lý
E(earning): khả năng sinh lời
L(liquidity): khả năng thanh khoản
S(sen): độ nhạy cảm đối với thị trường
Các yếu tố của mô hình Camels đã đưa ra những điểm nổi bật nhất về tình hình tài
chính của ngân hàng và các yếu tố này được đặt dưới những điều kiện của mỗi quốc gia
về môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp. Trong môi trường kinh tế và luật pháp của
mỗi quốc gia, công việc của nhà phân tích là xác định mức độ an toàn vốn của một ngân
hàng, chất lượng tài sản, nguồn vốn và các khoản đầu tư, hiệu quả công tác quản trị, khả
năng thanh khoản, khả năng sinh lời, duy trì lợi nhuận và sự nhạy cảm của ngân hàng
với sự biến động của thị trường. Đây không phải là một công việc dễ dàng nhưng lại có
tính khả thi cao khi sử dụng khung hành động Camels trong phân tích.
5
1.2 Nội dung mô hình CAMELS
1.2.1 Phân tích mức độ an toàn vốn (C)
Hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, mà một khi chúng xảy ra sẽ gây
ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng, đôi khi có thể dẫn tới chỗ phá sản. Khi đó nhờ có
vốn tự có sẽ giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại phát sinh và đảm bảo cho ngân
hàng thoát khỏi những mối nguy trên. Trong một số trường hợp khi ngân hàng mất khả
năng chi trả thì vốn tự có sẽ được sử dụng để hoàn trả cho khách hàng. NHNN Việt Nam
cũng quy định mức vốn pháp định đối với các NHTM hiện nay là 3000 tỷ đồng. Bởi vốn
tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành
những quy định nhằm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để xác định
tính an toàn. Ngoài ra vốn tự có còn là căn cứ để xác định và điều chỉnh các giới hạn hoạt
động nhằm đảm bảo ngân hàng an toàn trong kinh doanh. Với vai trò như vậy, khi phân tích
hoạt động tài chính của một ngân hàng bất kỳ nào, các chỉ tiêu vốn tự có luôn đóng một vai
trò quan trọng trong việc xác định những rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt.
Để phân tích vốn tự có của các ngân hàng theo mô hình CAMELS ta tiến hành phân
tích dựa trên những chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR): Theo Thông tư 13/2010 của NHNN quy định

về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD thì TCTD, trừ chi nhánh NH
nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 9% giữa vốn tự có so với tổng tài
sản “Có” rủi ro của TCTD.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được tính như sau:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu = Vốn tự có/ Tổng tài sản “Có” rủi ro
Trong đó: Vốn tự có = Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2 – Khoản phải trừ
Tổng tài sản “Có” rủi ro là tổng giá trị tài sản “Có” xác định theo mức độ rủi ro và
giá trị tài sản “Có” tương ứng của cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ rủi ro.
Mức độ đòn bẩy tài chính mà NHTM sử dụng.
Đòn bẩy tài chính là khái niệm chỉ mức độ nợ và tác động của nợ trong cơ cấu
nguồn vốn kinh doanh của Doanh nghiệp. Hệ số đòn bẩy tài chính có mục đích là xác
6
định mức độ thành công của các doanh nghiệp khi sử dụng nguồn vốn bên ngoài tăng
hiệu quả số vốn tự có đang được sử dụng để tạo ra lợi nhuận.
Công thức tính Hệ số đòn bẩy tài chính = Tổng Tài sản/ Vốn chủ sở hữu.
Tốc độ tăng quy mô vốn tự có.
Như đã nói, vốn tự có có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của ngân
hàng, không chỉ là điều kiện tối thiểu để ngân hàng được thành lập mà hơn thế còn để cho
vay, hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng khi cần thiết. Chính vì thế tốc độ tăng quy mô vốn
tự có của các ngân hàng cũng là một khía cạnh quan trọng trong đánh giá vốn tự có của
ngân hàng. Hơn nữa, thời gian qua, để đảm bảo tính bền vững trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng, NHNN cũng đã ban hành nhiều điều luật nhằm tăng vốn pháp định của
các NHTM cổ phần cũng như NHTM Nhà nước từ mức 1000 tỷ lên 3000 tỷ đồng. Để
đảm bảo số vốn pháp định theo quy định, các NHTM bắt buộc phải tăng vốn tự có của
mình bằng các con đường từ bên ngoài như phát hành cố phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi,
phát hành giấy nợ thứ cấp, chuyển đổi giấy nợ thành cổ phiếu… hoặc từ các nguồn bên
trong như tăng lợi nhuận giữ lại.
Hệ số tăng trưởng vốn tự có bền vững
Đây là một tỷ số tài chính để đánh giá khả năng tăng trưởng của vốn chủ sở hữu
thông qua tích lũy lợi nhuận. Tỷ số này cho biết tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất mà

doanh nghiệp có thể đạt được nếu không tăng vốn chủ sở hữu.
Công thức: Tỷ số tăng trưởng bền vững = 100%. Lợi nhuận giữ lại/ Vốn chủ sở hữu
1.2.2 Phân tích chất lượng tài sản (A)
Tài sản là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng thanh
toán của một ngân hàng. Tài sản có chất lượng kém là nguyên nhân chính dẫn đến thất
bại của hầu hết các ngân hàng. Quản trị kém trong chính sash cho vay cả trong quá khứ
lẫn hiện tại luôn là lý do làm nên chất lượng kém của tài sản. Điều này dẫn đến áp lực đối
với vị thế về tài trợ vốn cho ngân hàng trong ngắn hạng, kết quả dẫn đến những cuộc
khủng hoảng về thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng hoàn toàn phá sản. Việc đánh giá
chất lượng tài sản là một trong những khía cạnh khó nhất trong phân tích tài chính ngân
hàng. Đối với khó khăn này, nhà phân tích phải đi theo hai hướng:
7
(1) Đánh giá mức độ mạnh yếu trong quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
(2) Đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư và danh mục cho vay bằng việc sử dụng phân
tích xu thế và so sánh.
1.2.2.1 Quản trị rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là sự bộc lộ những bất lợi tiềm tàng đến lợi nhuận và giá trị thị
trường của tài sản của tổ chức tín dụng do chất lượng tài sản đã bị giảm đi khi người vay
hay đối tác không thể thực hiện được một số cam kết hay vỡ nợ.
Theo quyết định số 06/2008 QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước ban
hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình theo cam kết”.
Không giống như các rủi ro khác trong ngân hàng, chính sách và thực tiễn rủi ro tín
dụng được thiết kế để phòng tránh hơn là để đo lường, quản trị và rào chắn. Những
phương pháp đối với quản trị rủi ro tín dụng bao gồm phòng tránh và kiểm soát tổn thất.
Phòng tránh đưa ra những chính sách xác định các phạm vi thích hợp và mong
muốn thực hiện. Ví dụ như một chính sách tín dụng ngăn cấm việc cho vay bất động sản

hoặc cho vay ở các nước đang phát triển – hoặc là chính phủ hoặc là các chủ thể kinh
doanh.
Kiểm soát tổn thất liên quan đến việc duy trì tính đa dạng trong các thành phần của
danh mục. Ví dụ như cho vay phân biệt theo ngành, khu vực địa lý, loại nợ, hồ sơ khách
hàng, phân tích tín dụng thích hợp, các thủ tục thế chấp.
1.2.2.2 Đánh giá chất lượng đầu tư và danh mục cho vay
Ngân hàng thực hiện chức năng như một trung gian tài chính. Vì vậy, danh mục tài
sản quan trọng nahats của họ chính là các khoản vay. Tuy nhiên, cũng không nên bỏ qua
cá khoản mục đầu tư vào chứng khoáng và tiền gửi liên ngân hàng. Ngoài tính thanh
khoản theo yêu cầu, danh mục những khoản tiền gửi và hoạt động đầu tư chứng khoán
theo thời gian và tác động của sự thay đổi lãi suất vào giá trị của các khoản này. Các
8
khoản cho vay và đầu tư chứng khoán thường được thể hiện trong bảng cân đối kế toán
dưới dạng ghi sổ. Sự phân biệt này rất quan trọng bởi vì rất nhiều tổ chức tín dụng đã
tuyên bố phá sản trong thời kỳ lãi suất cao nếu họ bị yêu cầu điều chỉnh tài sản của họ
theo giá thị trường.
Đánh giá chất lượng của danh mục các khoản cho vay có một chút thách thức khác
biệt. Nếu một nhà phân tích có thể kiểm tra mỗi khoản vay trong sổ sách của ngân hàng
thì việc đánh giá có thể thực hiện. Tuy nhiên, có một vài điều cản trở công việc của nhà
phân tích. Đó là những thông tin không đầy đủ hoặc mâu thuẫn với nhau về danh mục các
khoản vay. Hoặc là sự thiếu công khai về chất lượng các khoản vay nhưu:
(1) Các khoản cho vay tập trung
(2) Các khoản cho vay có vấn đề về số tiền vay quá hạn
(3) Quy mô thực sự của khoản dự phòng tổn thất
(4) Chi tiết về thời kỳ phân bổ các khoản tổn thất nợ
(5) Chi tiết các khoản vay đã được thu hồi hoặc xóa nợ
Kết quả là, cả những so sánh bên trong và bên ngoài đều không có hiệu quả
Hơn nữa, quyết định quản trị liên quan hầu hết đến các chỉ dẫn ở trên thường là
mang tính chủ quan rất cao. Vì vậy, có lẽ thường làm cho các nhà phân tish có một sự tin
cậy thái quá vào những phán đoán mang tính cá nhân đối với các vấn đề về chất lượng tài

sản
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tài sản:
(1) Tỷ lệ dự phòng
Tỷ lệ dự phòng=Lợi nhuận trước thuế, khấu hao và dự phòng/Dự phòng tổn thất nợ
Mức chất lượng của chỉ tiêu: từ 3-4 lần
(2) Tỷ lệ chi phí dự phòng
Tỷ lệ chi phí dự phòng=Dự phòng tổn thất nợ/Dư nợ bình quân
Mức chất lượng của chỉ tiêu: tối đa 1%
Ý nghĩa của chỉ tiêu: Chi phí dự phòng tổn thất nợ trong một năm phản ánh những
thay đổi trong chất lượng cũng như quy mô của danh mục cho vay. Những ngân hàng
quản trị tốt và được đánh giá tín nhiệm cao thường ở mức 0,6% đến 1%
9
(3) Khả năng bù đắp nợ xấu
Khả năng bù đắp nợ xấu = Dự phòng tổn thất nợ/Nợ xấu (NPLs)
Nợ xấu được xem là khoản nợ đã quá hạn có nợ gốc và nợ lãi và được xếp từ nhóm
3 đến nhóm 5
Mức chất lượng của chỉ tiêu:>1
(4) Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu=Nợ xấu/Tổng dư nợ
Mức chất lượng của chỉ tiêu:<1.5% và không quá 3%
(5) Tỷ lệ nợ xấu/Tổng tài sản
Mức chất lượng cảu chỉ tiêu: <2%
(6) Danh mục cho vay trên tổng tài sản
Danh mục cho vay trên tổng tài sản =Dư nợ / Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết mức độ đa dạng hóa trong hoạt động của ngân hàng. Nếu cho
vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có nghĩa là mức độ tập trung tín dụng lớn.
Ngược lại, nếu ngân hàng có tỷ trọng dư nợ tín dụng trong tổng tài sản nhỏ thì ngân hàng
đó hoặc là thiếu các khách hàng vay vốn hoặc là đa dạng hóa được danh mục đầu tư.
(7) Tốc độ tăng trưởng tín đụng
Tốc độ tăng trưởng tín dụng = (Dư nợ cuối kỳ - Dư nợ đầu kỳ)/Dư nợ đầu kỳ

Tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng được xem xét trong mối tương quan với
giai đoạn phát triển của ngân hàng và tốc độ tăng trưởng tín dụng của cả hệ thống ngân
hàng do ngân hàng trung ương khống chế hàng năm.
(8) Tỷ lệ đầu tư tài sản cố định
Tỷ lệ đầu tư tài sản cố định = giá trị tài sản cố định/vốn tự có
Chỉ tiêu này thể hiện phần tram vốn tự có mà ngân hàng dung để mua tài sản cố
định. Chỉ tiêu này có ý nghĩa là ngân hàng không được đóng băng quá nhiều vốn tự có
vào những tài sản không sinh lời mà không được sử dụng hợp lý để cung cấp tín dụng
cho khách hàng và cho các ngân hàng khác hay đảm bảo thanh khoản.
10
1.2.3 Phân tích khả năng quản lý (M)
Theo mô hình CAMELS, phân tích nhân tố quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng
trong phân tích cũng như đưa ra các đánh giá về tình hình hoạt động và tài chính NHTM.
Bởi vì sự quản lý và các quyết định quản lý chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp tới hoạt động của ngân hàng cũng như sự thành công trong kinh doanh. Chính vì thế,
các nhà phân tích cần tập trung phân tích sâu yếu tố quản lý của các NHTM trong quá
trình phân tích để đánh giá được tình hình tài chính đúng đắn hơn.
Các quyết định quản trị đóng một vai trò quan trọng đối với sự thành công của các
ngân hàng. Một bộ máy quản trị tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp có cơ sở để phát triển vững
mạnh hơn. Vì vậy khi đánh giá năng lực quản lý, điều hành của ban quản trị cần phân tích
các khía cạnh sau:
- Thành phần ban quản trị của NHTM: Ban quản trị là người trực tiếp quản lý điều hành
NHTM, mọi hoạt động của ngân hàng đều chịu ảnh hưởng bởi các quyết định của ban
quản trị. Ban quản trị có năng lực, kinh nghiệm, làm việc có hiệu quả thì kết quả hoạt
động kinh doanh sẽ phần nào phản ánh được vấn đề đó.
- Chiến lược kinh doanh của NHTM: chiến lược kinh doanh sẽ cho khách hàng thấy được
NHTM muốn làm gì, muốn trở thành gì trong tương lai. Điều đó giúp cho khách hàng,
nhà đầu tư nhìn nhận NHTM được đầy đủ hơn, tạo được hình ảnh, uy tín và thương hiệu
cho ngân hàng.
- Kết quả kinh doanh và rủi ro hoạt động của NHTM: đây là kết quả của các quyết định

của bộ máy quản lý.
1.2.4 Phân tích khả năng sinh lời (E)
Khi đầu tư vào ngân hàng, bất kỳ nhà đầu tư nào cũng đều quan tâm đến khả năng
sinh lời của ngân hàng vì nó cho biết lợi nhuận mà người đó nhận được trong tương lai là
bao nhiêu từ số tiền hiện tại. Do đó, đánh giá về khả năng sinh lời trở thành một trong
những yếu tố quan trọng nhất khi phân tích về 1 ngân hàng. Trong mô hình CAMELS để
đánh giá chữ E (Earning) với mục tiêu xác định chất lượng lợi nhuận, mức độ ổn định
trong khả năng sinh lời và xu hướng lợi nhuận của ngân hàng, chúng ta sử dụng 5 chỉ tiêu
sau:
11
Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE: Return on equity)
ROE =
Chỉ tiêu này phản ánh thu nhập mà các cổ đông nhận được từ hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Giống như bất kỳ thực thể kinh doanh nào trong nền kinh tế, một ngân hàng
phải kiếm được một mức lợi nhuận để trả cổ tức cho cổ đông, duy trì tình trạng tài chính
vững mạnh, ổn định và tăng trưởng. Thu nhập là yếu tố quyết định cuối cùng cho thành
công hay thất bại của ngân hàng. Lợi nhuận đo lường khả năng của ngân hàng trong việc
tạo ra giá trị và bằng việc cộng thêm các nguồn lực để duy trì và cải thiện nguồn vốn. Đó
cũng là một thước đo định lượng sự thành công của quản trị trong phạm vi chất lượng tài
sản, kiểm soát và tạo ra doanh thu. Như vậy, đây là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả
kinh doanh của ngân hàng, khi ROE có xu hướng giảm là lúc vị thế cạnh tranh của ngân
hàng đang đi xuống
Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA: return on Asset)
ROA =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng của hội đồng quản trị trong việc chuyển tài sản của
ngân hàng thành thu nhập ròng. Nó cho biết trung bình 100 đồng tài sản đưa vào hoạt
động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao
càng đánh giá khả năng quản lý tài sản và kiểm soát chi phí của ngân hàng
Chỉ tiêu 3: tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM: net interest margin)
NIM =

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng nguồn thu từ lãi so với tốc độ tăng chi
phí. Chỉ tiêu này càng cao càng phản ánh ngân hàng đã tối đa hóa các nguồn thu từ lãi và
giảm thiểu chi phí trả lãi
Chỉ tiêu 4: tỷ lệ thu nhập ngoài lãi ròng (N-NIM)
N-NIM =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng của ngân hàng trong việc tạo ra các khoản thu
nhập phi lãi, khả năng tạo ra lợi nhuận từ các khoản thu từ dịch vụ và hoạt động đầu tư
Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ thu nhập hoạt động thuần (NOI)
NOI =
12
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng của ngân hàng trong việc sử dụng tài sản để tạo ra
các khoản thu nhập thường xuyên trong kỳ, cho biết mức độ ổn định trong hoạt động đầu
tư của ngân hàng.
1.2.5 Phân tích khả năng thanh khoản (L)
Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại được xem như khả năng tức thời để
đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết.
Ngân hàng cần dự trữ thanh khoản để chi trả những chi phí thường xuyên như lãi
tiền gửi… và những cú sốc thanh khoản không như mong đợi như một cuộc rút tiền hàng
loạt hay yêu cầu vay vốn lớn. Mặc dù khả năng dự trữ thanh khoản kém chưa hẳn sẽ dẫn
đến sụp đổ của một ngân hàng, nhưng chắc chắn ngân hàng phải bỏ ra một khoản chi phí
lớn để ứng phó với những cú sốc về thanh khoản. Điều đó làm cho lợi nhuận của ngân
hàng giảm đáng kể và có thể dẫn đến sụp đổ hoàn toàn.
 Cung về thanh khoản: Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của
ngân hàng, là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm:
- Các khoản tiền gửi sẽ nhận được
- Thu nhập từ lãi và việc cung cấp các dịch vụ
- Các khoản tín dụng sẽ thu về
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng
- Vay mượn từ thị trường tiện tệ
- Phát hành cổ phiếu ra thị trường

 Cầu về thanh khoản: Cầu về thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của
ngân hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, trong lĩnh vực kinh
doanh của ngân hàng, những hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm:
- Khách hàng rút các khoản tiền gửi
- Giải ngân theo hợp đồng tín dụng đã cam kết
- Thanh toán các khoản vay và phải trả
- Chi phí trả lãi và cung ứng dịch vụ ngân hàng
- Mua lại cổ phiếu
- Thanh toán cổ tức cho cổ đông
Có ba khả năng có thể xảy ra sau đây:
Thặng dư thanh khoản: Khi cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản (NPL>0),
ngân hàng đang ở trạng thái thặng dư thanh khoản. Nhà quản trị ngân hàng phải cân nhắc
13
đầu tư số vốn thặng dư này vào đâu để mang lại hiệu quả cho tới khi chúng cần được sử
dụng đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong tương lai.
Thâm hụt thanh khoản: Khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản (NPL<0),
ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thâm hụt thanh khoản. Nhà quản trị phải xem xét,
quyết định nguồn tài trợ thanh khoản lấy từ đâu, bao giờ thì có và chi phí bao nhiêu.
Cân bằng thanh khoản: Khi cung thanh khoản cân bằng với cầu thanh khoản
(NPL=0), tình trạng này được gọi là cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên, đây là tình trạng
rất khó xảy ra trên thực tế.
Một số tín hiệu thị trường để dự đoán tính thanh khoản của ngân hàng:
- Lòng tin của công chúng: Sự lo ngại hay tin tưởng về khả năng thanh khoản của ngân
hàng
- Sự biến động trong giá cả cổ phiếu: Giá cổ phiếu của ngân hàng đang giảm sút có phải do
nhà đầu tư lo ngại về một cuộc khủng hoảng thanh khoản có thể xảy ra đối với ngân hàng
- Phần bù rủi ro trên chứng chỉ tiền gửi và các khoản cho vay khác
- Tổn thất trong việc bán tài sản: Ngân hàng có thường xuyên bán tài sản với những tổn
-thất đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản
- Khả năng đáp ứng yêu cầu tín dụng của ngân hàng

- Vay vốn từ ngân hàng trung ương: Ngân hàng có nằm trong tình hình bắt buộc phải vay
những khoản lớn từ ngân hàng trung ương để đảm bảo khả năng thanh toán
Các tiêu chí đánh giá khả năng thanh khoản của ngân hàng TMCP tại Việt Nam
 Khả năng thanh toán ngay
Khả năng thanh toán ngay = Tài sản có có thể thanh toán ngay/Tài sản nợ phải
thanh toán ngay
Theo quy định của Ngân hàng nhà nước (Thông tư số 13/2010/TT-NHNN) thì các
tổ chức tín dụng phải đảm bảo 2 tỷ lệ khả năng chi trả sau:
• Tỷ lệ giữa tổng tài sản có thanh toán ngay/ Tổng nợ phải trả: phải đạt tối thiểu 15%
• Tỷ lệ giữa tổng tài sản có đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau/
Tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau bằng
đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ tối thiểu phải bằng 1.
 Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn
14
Nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn của tổ chức tín dụng
bao gồm:
a. Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng của tổ chức (kể cả tổ chức tín
dụng khác), cá nhân.
b. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng của cá nhân.
c. Nguồn vốn huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn.
d. Phần chênh lệch lớn hơn giữa số tiền vay của tổ chức tín dụng khác và tiền cho tổ
chức tín dụng đó vay có kỳ hạn dưới 12 tháng.
Theo quy định của ngân hàng nhà nước (Thông tư 15/2009/TT-NHNN) thì tỷ lệ tối
đa của nguồn vốn ngắn hạn ngân hàng thương mại được sử dụng để cho vay trung và dài
hạn là 30%.
1.2.6 Phân tích mức độ nhạy cảm với thị trường (S)
Phân tích chữ S nhằm đo lường bằng mức độ ảnh hưởng của thay đổi về lãi suất
hoặc tỉ giá đến giá trị của lợi nhuận hay vốn cổ phần. Phân tích chữ S quan tâm đến khả
năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong xác định, giám sát, quản lý và kiểm soát rủi ro thị
trường, đồng thời đưa ra các dấu hiệu, chỉ dẫn định hướng rõ ràng và tập trung. Đối với

chữ S trong mô hình CAMELS, mục tiêu đánh giá là xem xét sự nhạy cảm của kết quả
kinh doanh ta quan tâm đến:
- Trạng thái rủi ro thị trường.
- Cấu trúc bảng cân đối kế toán
- Kế hoạch, ngân sách và chiến lược kiểm soát thị trường
Chức năng quan trọng nhất của quản trị Tài sản- nợ là bảo toàn và gia tăng giá trị
ròng của ngân hàng thông qua bất kỳ biện pháp nào có thể.
Những mục tiêu này không không hạn chế chức năng của ALM trong đánh giá rủi
ro mà còn mở rộng quá trình tới việc gánh chịu rủi ro dẫn đến kết quả có thể hình dung
được là gia tăng giá trị kinh tế của bảng cân đối
Phần nội bảng.
15
Tài sản nợ: Các chỉ tiêu ở phân tài sản nợ phản ánh toàn bộ giá trị tiền tệ hiện có
của ngân hàng do huy động, tạo lập được, dùng để cho vay, đầu tư hay thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh khác tại thời điểm báo cáo. Tài sản nợ được chia làm các loại sau:
- Vốn huy động: Là những phương tiện tiền tệ mà ngân hàng thu nhận được từ nền kinh tế,
thông qua nghiệp vụ ký thác và các nghiệp vụ khác dùng làm vốn kinh doanh.
- Vốn vay: Là nguồn vốn mà các ngân hàng thương mại vay mượn từ thị trường liên ngân
hàng hoặc vay mượn
- Vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp khi
thành lập đơn vị và được bổ sung thêm trong quá trình kinh doanh được thể hiện dưới
dạng lợi nhuận để lại.
Tài sản có: Tài sản có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng. Các tài sản
có sinh lời là phần tạo ra lợi nhuận chủ yếu của đơn vị. Tài sản có bao gồm các khoản
sau:
- Tiền dự trữ: bao gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Dự trữ bắt buộc là khoản tiền
ngân hàng thương mại phải duy trì một tỷ lệ nhất định nhằm đảm bảo cho quá trình thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng.
- Các khoản đầu tư chứng khoán: Là giá trị của những chứng khoán mà ngân hàng sở hữu.
Đây là khoản đầu tư của đơn vị nhằm đa dạng hóa khoản kinh doanh

- Các khoản tín dụng: Là toàn bộ giá trị của khoản mà ngân hàng cho các đối tượng trong
nền kinh tế vay nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn.
- Tài sản cố định: Là những tư liệu lao động cần thiết có thời gian luân chuyển dài, trên
một năm. Đây là cơ sở vật chất quan trọng không thể thiếu trong quá trình hoạt động đơn
vị.
Phần ngoại bảng
Bên cạnh các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán, có nhiều khoản mục ngoại bảng
có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Là những
khoản chưa được thừa nhận là Tài sản Nợ hay Tài sản có. Các hoạt động này được ngân
hàng theo dõi ngoại bảng, dưới đây là một số nghiệp vụ chủ yếu:
- Các cam kết bảo lãnh, tài trợ cho khách hàng bao gồm: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh
toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, cam kết trong nghiệp vụ L/C…
16
- Các cam kết của ngân hàng với khách hàng trong việc thực hiện các giao dịch trong
tương lai như: các hợp đồng giao dịch trong tương lai như: các hợp đồng giao dịch lãi
suất, hợp đồng giao dịch ngoại tệ…
- Các khoản công cụ nợ khách hàng chưa thực hiện theo hợp đồng, làm ảnh hưởng đến tài
sản, lợi nhuận của ngân hàng như các khoản nợ gốc, nợ lãi không có khả năng thu hồi đã
được đơn vị xử lý hay các khoản lãi cho vay quá hạn chưa thu.
17
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngân hàng VIB
trong giai đoạn 2011-2013 bằng mô hình CAMELS
2.1 Giới thiệu chung về VIB
Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam, tên viết tắt là Ngân hàng Quốc Tế (VIB)
được thành lập ngày 18 tháng 9 năm 1996, trụ sở đặt tại 16 Phan Chu Trinh, Q. Hoàn
Kiếm, Hà Nội.
Đến 20/10/2011, sau 15 năm hoạt động, VIB đã trở thành một trong những ngân
hàng TMCP hàng đầu Việt Nam với tổng tài sản đạt trên 100 nghìn tỷ đồng, vốn điều lệ
4.250 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu đạt trên 8.200 tỷ đồng. VIB hiện có 4.300 cán bộ nhân
viên phục vụ khách hàng tại gần 160 chi nhánh và phòng giao dịch tại trên 27 tỉnh/thành

trọng điểm trong cả nước. Trong quá trình hoạt động, VIB đã được các tổ chức uy tín
trong nước, nước ngoài và cộng đồng xã hội ghi nhận bằng nhiều danh hiệu và giải
thưởng, như: danh hiệu Thương hiệu mạnh Việt Nam, danh hiệu Ngân hàng có dịch vụ
bán lẻ được hài lòng nhất, Ngân hàng thanh toán quốc tế xuất sắc, ngân hàng có chất
lượng dịch vụ khách hàng tốt nhất, đứng thứ 3 trong tổng số 500 doanh nghiệp tư nhân
lớn nhất Việt Nam về doanh thu do báo VietnamNet bình chọn….
Năm 2010 ghi dấu một sự kiện quan trọng của VIB với việc Ngân hàng
Commonwealth Bank of Australia (CBA) –Ngân hàng bán lẻ số 1 tại Úc và là Ngân hàng
hàng đầu thế giới với trên 100 năm kinh nghiệm đã chính thức trở thành cổ đông chiến
lược của VIB với tỉ lệ sở hữu cổ phần ban đầu là 15%. Sau một năm chính thức trở thành
cổ đông chiến lược của VIB, ngày 20/10/2011, CBA đã hoàn thành việc đầu tư thêm
1.150 tỷ đồng vào VIB, tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần của CBA tại VIB từ 15% lên 20%
nhằm tăng cường cơ sở vốn, hệ số an toàn vốn, mở rộng cơ hội kinh doanh và quy mô
hoạt động cho VIB. Mối quan hệ hợp tác chiến lược này tạo điều kiện cho VIB tăng
cường năng lực về vốn, công nghệ, quản trị rủi ro … để triển khai thành công các kế
hoạch dài hạn trong chiến lược kinh doanh của VIB và đặc biệt là nâng cao chất lượng
Dịch vụ Khách hàng hướng theo chuẩn mực quốc tế.
18
Là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc cải tổ hoạt động kinh doanh,
VIB luôn định hướng lấy khách hàng làm trọng tâm, lấy chất lượng dịch vụ và giải pháp
sáng tạo làm phương châm kinh doanh với quyết tâm “trở thành ngân hàng luôn sáng tạo
và hướng đến khách hàng nhất tại Việt Nam”. Một trong những sứ mệnh được ban lãnh
đạo VIB xác định ngay từ ngày đầu thành lập là “Vượt trội trong việc cung cấp các giải
pháp sáng tạo nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng”. Do vậy, hiện VIB đã và đang
tăng cường hiệu quả sử dụng vốn, cùng năng lực quản trị điều hành, tiếp tục chú trọng
phát triển mạng lưới ngân hàng bán lẻ và các sản phẩm mới thông qua các kênh phân
phối đa dạng để cung cấp các giải pháp tài chính trọn gói cho các nhóm khách hàng trọng
tâm, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn.
Tầm nhìn
Trở thành ngân hàng sáng tạo và hướng tới khách hàng nhất tại Việt Nam.

Sứ mệnh
- Đối với khách hàng: Vượt trội trong việc cung cấp các giải pháp sáng tạo nhằm
thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng.
- Đối với nhân viên: Xây dựng văn hóa hiệu quả, tinh thần doanh nhân và môi
trường làm việc hiệu quả.
- Đối với cổ đông: Mang lại các giá trị hấp dẫn và bền vững cho cổ đông.
- Đối với cộng đồng: Tích cực đóng góp vào sự phát triển cộng đồng
Giá trị cốt lõi
- Hướng tới khách hàng
- Nỗ lực vượt trội
19
- Trung thực
- Tinh thần đồng đội
- Tuân thủ kỷ luật
2.2 Sử dụng mô hình CAMELS đánh giá tình hình hoạt động của VIB
2.2.1 Phân tích mức độ an toàn vốn ( C )
Đối với ngân hàng vốn tự có vô cùng quan trọng, chẳng những nó đảm bảo an toàn
vốn , tạo cơ sở cho huy động vốn, tạo cơ sở để ngân hàng thực hiện cho vay, đầu tư, kinh
doanh, qua đó giúp cho ngân hàng phát triển các hoạt động, mở rộng đối tượng khách
hàng. Vốn tự có còn giúp ngân hàng tự chủ hơn, sử dụng để mua sắm tài sản cố định, qua
đó nâng cao chất lượng dịch vụ , để phát triển bền vững, hoạt động ổn định. Ngoài ra vốn
tự có cũng xác định vị thế của ngân hàng.
Tốc độ tăng quy mô vốn ( 2011- 2013 )
NHNN đang tiến hành chương trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng bằng cách cho
sáp nhập, mua lại, bán các ngân hàng nhỏ lẻ với nhau. Rất nhiều ngân hàng với nguồn
vốn điều lệ nhỏ (chưa đến 3000 tỷ theo quy định của NHNN) đã được sáp nhập với nhau
để thành ngân hàng lớn hơn.Từ khi thành lập tới nay, VIB đã nhiều lần tăng vốn điều lệ
để đảm bảo được số vốn điều lệ mà ngân hàng yêu cầu, đồng thời đảm bảo yêu cầu an
toàn cho người gửi tiền cũng như bù đắp những tổn thất không mong đợi.
Sự tăng trưởng nhanh về quy mô vốn điều lệ giúp cho VIB cải thiện nhanh chóng

năng lực tài chính. Đây là một trong những ngân hàng có sự tăng trưởng vốn điều lệ liên
tục và vững mạnh .Quá trình tăng trưởng liên tục để mở rộng thị phần và phục vụ được
nhiều khách hàng với chất lượng cao hơn đòi hỏi một nhu cầu lớn về vốn để tăng cường
khả năng đáp ứng cho khách hàng mà vẫn đảm bảo hệ số an toàn hoạt động theo như quy
định của NHNN. Việc đảm bảo nhu cầu vốn là một thách thức lớn tại thị trường Việt
Nam trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn
20
Năm 2010, do tạo được niềm tin đối với cổ đông chiến lược là Commonwealth
Bank of Australia (CBA), ngân hàng hàng đầu của Australia, CBA đã góp thêm vốn điều
lệ 1150 tỉ lên 4250 tỉ đồng, đưa tổng số thặng dư vốn của ngân hàng lên 2553 tỉ và giá trị
vốn chủ sở hữu tại thời điểm cuối năm 2011 là 8160 tỉ đồng. Đối tác CBA đã nâng cổ
phần của mình trong VIB từ mức 15% lên 20% với các cam kết mạnh mẽ về hỗ trợ
nguồn lực nhân sự, chuyển giao công nghệ và hợp tác kinh doanh. Năm 2012- 2013, VIB
duy trì vốn điều lệ 4250 tỉ đồng
Để biết được vị trí của VIB trong bảng xếp hạng vốn điều lệ các ngân hàng Việt
Nam hiện nay, xem bảng dưới đây:
Nhìn vào có thể thấy, với số vốn điều lệ 4,250 tỷ đồng, VIB vẫn còn xếp hạng khá
thấp so với các NH lớn khác. Với mục tiêu trở thành một ngân hàng Việt Nam hoạt động
theo các chuẩn mực ngân hàng quốc tế, phát triển một thương hiệu mạnh theo hướng gắn
bó chặt chẽ với khách hàng, VIB cần phải nâng mức vốn điều lệ lên mức tương xứng hơn
nữa.
Ngoài vốn điều lệ ra thì lợi nhuận giữ lại, thặng dư vốn cổ phần, quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính cũng là những phần tạo thành vốn tự có của ngân
21
hàng. Sự thay đổi tăng giảm của các chỉ tiêu này cũng gây ra sự biến động của vốn tự có
qua các năm.
Biểu đồ trên cho thấy lợi nhuận chưa phân phối của VIB liên tục giảm mạnh từ năm
2011 đến năm 2013 nguyên nhân là do kết quả kinh doanh của ngân hàng giảm sút lợi
nhuận sau thuế năm 2013 chỉ đạt 50.248 tỷ đồng chưa bằng 1/10 so với năm 2012, bên
cạnh đó thì các quỹ có xu hướng tăng nhẹ và thặng dư vốn cổ phần không đổi là nguyên

nhân làm cho vốn tự có của VIB năm 2013 giảm so với năm 2011 mặc dù có tăng nhẹ ở
năm 2012
Hệ số an toàn vốn tổi thiểu ( CAR )
CAR (Capital Adequacy Ratio) là chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức khỏe thực sự
của một ngân hàng. Hệ số CAR càng cao tức ngân hàng càng dễ dàng đối phó khi có
những rủi ro như khách hàng rút tiền nhiều, thiếu hụt thanh khoản, trả nợ các khoản vay
CAR như một tấm khiên chống lại những cú sốc về tài chính, giúp ngân hàng tự bảo vệ
mình và người gửi tiền.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từ năm 2010 đã yêu cầu các ngân hàng phải duy trì
tỷ lệ này ở mức tối thiểu 9%. Theo công bố của NHNN, CAR tại ngày 31-5-2014 của hệ
thống tổ chức tín dụng tại Việt Nam là 13,28%. Riêng trong khối ngân hàng cổ phần, tỷ
lệ này là 12,28%, khối ngân hàng gốc quốc doanh chỉ là 10,70%. Tại nhiều nước, CAR
đặt ra cho các ngân hàng tối thiểu là 12%
Các ngân hàng nếu muốn tăng tỷ lệ an toàn vốn thì hoặc là tăng vốn tự có hoặc
giảm tài sản có rủi ro. Nhưng giảm tài sản đồng nghĩa với giảm quy mô, giảm hoạt động
tạo lợi nhuận và thu hẹp thị phần của ngân hàng đó. Trong bối cảnh thị trường hiện tại,
việc tăng vốn tự có cũng không dễ thực hiện do dòng vốn đầu tư không còn dồi dào, khẩu
vị rủi ro của nhà đầu tư rất khác biệt cũng như tỷ suất sinh lợi của ngành ngân hàng
không còn đủ sức hấp dẫn.
Tỷ lệ an toàn vốn của VIB từ năm 2011 đến năm 2013 có xu hướng tăng lên và luôn
ở mức cao hơn trung bình ngành cụ thể năm 2012 hệ số an toàn vốn tối thiểu của ngân
22
hàng ở mức 19.43% tăng 4.93% so với năm 2011 và đến năm năm 2013 tỷ lệ này đã
giảm còn 18% tuy nhiên vẫn cao hơn trung bình ngành rất nhiều là 13.8%. Qua đó có thể
thấy VIB kiểm soát rất tốt về tỉ lệ an toàn vốn .
Nguyên nhân: Do VIB dự đoán trước được rủi ro. Cuối năm 2011, VIB công bố
con số trích lập dự phòng rủi ro lên tới 974 tỉ đồng cho cả năm 2011. Con số đó rất cao so
với các ngân hàng khác có quy mô tương đương VIB. Hết năm 2012, chi phí dự phòng
rủi ro tín dụng tiếp tục được ghi nhận là 744 tỉ đồng.
-Không chỉ có thế, khác với một số ngân hàng, thời điểm 2012, VIB chấp nhận

giảm tăng trưởng tín dụng, tức chấp nhận giảm quy mô tạo lợi nhuận bằng cách giảm các
tài sản có rủi ro. Việc giảm quy mô của tài sản có rủi ro trong bối cảnh nợ xấu của toàn
hệ thống đang tăng cao như hiện nay không phải là xấu sẽ tăng thêm sựu ổn định cho
ngân hàng. Điều này xuất phát từ chủ trương chú trọng quản trị rủi ro và việc tăng cường
mạnh mẽ triển khai các hoạt động quản trị rủi ro thị trường, quản trị rủi ro tín dụng, quản
trị rủi ro hoạt động của VIB. Bên cạnh đó, VIB cũng điều chỉnh giảm chỉ tiêu huy động,
do dự đoán thị trường có thể bước vào giai đoạn trầm lắng và thanh khoản sẽ dư thừa .
Cuối năm 2013, mặc dù thu nhập lãi thuần giảm mạnh nhưng VIB tiếp tục trích lập cả
ngàn tỉ đồng.
VIB còn có những bước tiến đáng kể trong công tác xây dựng hệ thống, thay đổi cơ
sở khách hàng, tinh gọn bộ máy và hiệu suất cao hơn. Chi phí hoạt động dịch vụ cuối
2013 giảm mạnh từ 106 tỉ xuống còn 89 tỉ đồng nhưng thu nhập từ dịch vụ tăng từ 233 tỉ
lên 254 tỉ đồng. Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ tăng từ 127 lên 165 tỉ đồng.
Hệ số đòn bẩy tài chính
Vai trò của nguồn vốn rất quan trọng đối với sứ sống còn của một Ngân hàng. Để sử
dụng vốn hiệu quả, tránh được những rủi ro về tài chính, ngân hàng cần chú ý đến nguồn
vốn nợ của mình. Nguồn vốn gồm có nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay nợ.
Thường thì đối với các Ngân hàng, nguồn vay nợ của họ chiếm một tỷ trọng cao so với
nguồn vốn chủ sở hữu. Nhưng các ngân hàng vẫn phải đảm bảo được yêu cầu đó là sử
dụng đòn bẩy tài chính của mình một cách phù hợp, không được để quá cao hoặc quá
thấp, tránh những rủi ro cho nguồn vốn
23
24
Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Hệ số đòn bẩy tài chính của VIB 10.88 6.76 8.63
Hệ số đòn bẩy tài chính của ngân hàng VIB có xu hướng giảm từ năm 2011 đến
năm 2013 điều này làm cho ngân hàng ngân hàng bớt phụ thuộc vào bên ngoài qua đó
giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Ta có thể thấy đòn bẩy tài chính của VIB tương đối thấp so với các ngân hàng
thương mại khác. Nguyên nhân do vốn chủ sở hữu của VIB tương đối lớn và ổn định ở

mức trên 8000 tỉ, trong khi tổng nợ của VIB nhỏ và giảm mạnh ở năm 2012 và 2013 dao
động quanh ngưỡng 60000 tỉ đồng .Đó là kết quả của chiến lược giảm thiểu rủi ro của
VIB trong điều kiện kinh tế khó khăn, có nhiều nợ xấu. VIB đã hạn chế việc tăng trưởng
tín dụng đồng thời kết hợp với việc tăng vốn điều lệ đã làm cho đòn bẩy tài chính giảm
đáng kể.
Hệ số tăng trưởng vốn tự có bền vững ( lợi nhuận để lại/VCSH)
Bảng: Hệ số tăng trưởng VTC của VIB và Oceanbank
Hệ số tăng trưởng
VTC bền vững (%)
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
VIB 8.14% 6.34% 0.83%
Oceanbank 10.56% 5.48% 2.15%
Từ bảng ta thấy VIB có hệ số tăng trưởng bền vững giảm dần tứ năm 2011 đến năm
2013 và đặc biệt năm 2013 giảm mạn chỉ còn 0.83% cho thấy khả năng tăng trưởng của
vốn chủ sở hữu thông qua tích lũy lợi nhuận của NH thấp và đang diễn biến theo chiều
hướng không tốt. Nguyên nhân giảm hệ số tăng trưởng vốn tự có năm 2013 một cách đột
ngột đó là do lợi nhuận chưa phân phối của VIB giảm mạnh trong năm: từ 530.333 tỷ
năm 2012 xuống còn 65.882 tỷ năm 2013.
2.2.2 Đánh giá về chất lượng tài sản (A)
- Về Tổng tài sản:
Đơn vị: triệu đồng
Tổng tài sản của VIB tại thời điểm 31/12/2011 là 96.949.541 triệu đồng tăng
trưởng 3,33% so với cùng kì năm 2010, tăng 3.122.612 triệu đồng. Tuy nhiên, đến thời
25

×