Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THU TRANG
SỬ DỤNG BÀI TẬP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG DẠY HỌC
CHƢƠNG "TÍNH QUY LUẬT CỦA HIỆN TƢỢNG DI TRUYỀN"
(SINH HỌC 12)
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Sinh học
Mã số: 60.14.10
Hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Phúc Chỉnh
Thái Nguyên, 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa khọc: "Sử dụng bài tập để nâng
cao chất lượng dạy học chương Tính quy luật của hiện tượng di truyền"
(Sinh học 12). với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là
công trình nghiên cứu của tôi.
Tác giả
Nguyễn Thu Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Mục lục ii
Mở đầu 1
CHƢƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 6
1.1.Tổng quan về tình hình nghiên cứu và sử dụng bài tập 6
1.1.1. Trên thế giới 6
1.1.2. Ở Việt Nam 7
1.2. Cơ sở lý luận 9
1.2.1. Khái niệm về bài tập 9
1.2.2. Các loại bài tập, vai trò và ý nghĩa của bài tập trong dạy - học 10
1.2.3. Nâng cao chất lượng dạy - học bằng cách sử dụng bài tập vào các
khâu trong quá trình dạy - học 15
1.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài 17
1.3.1. Thực trạng sử dụng bài tập của giáo viên phổ thông 17
1.3.2. Khả năng giải bài tập sinh học của học sinh phổ thông 19
CHƢƠNG 2: SỬ DỤNG BÀI TẬP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG DẠY HỌC CHƢƠNG "TÍNH QUY LUẬT CỦA HIỆN
TƢỢNG DI TRUYỀN" (Sinh học 12) 22
2.1. Cấu trúc nội dung phần Di truyền học (Sinh học 12) 22
2.2. Chương II ''Tính quy luật của hiện tượng di truyền'' 24
2.3. Tiêu chuẩn của bài tập trong dạy - học phần "Tính quy luật của hiện
tượng di truyền'' 25
2.4. Bài tập chương "Tính quy luật của hiện tượng di truyền 26
2.4.1. Bài tập về quy luật Menđen 26
2.4.2. Bài tập về tương tác gen 30
2.4.4. Bài tập về hoán vị gen 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
2.4.5. Bài tập về di truyền liên kết với giới tính 36
2.5. Sử dụng bài tập trong dạy học chương II "Tính quy luật của hiện
tượng di truyền" 39
2.5.1. Sử dụng bài tập trong khâu nghiên cứu tài liệu mới 39
2.5.2. Sử dụng bài tập trong khâu củng cố hoàn thiện kiến thức 40
2.6. Bài tập sử dụng trong các khâu của QTDH 40
2.6.1. Bài tập hình thành kiến thức mới 40
2.6.2. Bài tập củng cố, hoàn thiện kiến thức 42
2.6.3. Một số giáo án thiết kế theo hướng sử dụng bài tập trong dạy - học 43
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 71
3.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm 71
3.1.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm 71
3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm 71
3.2. Nội dung và phương pháp thực nghiệm 71
3.2.1. Nội dung thực nghiệm 71
3.2.2. Phương pháp thực nghiệm 71
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học
Thế giới đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, xã hội tri thức là xã hội
dựa vào tư duy sáng tạo, tài năng của con người. Để có thể xây dựng được
nền kinh tế tri thức, giáo dục phải đào tạo được những người lao động chủ
động, năng động và sáng tạo. Nghị Quyết Trung ương 2 khoá VIII (12/1996)
đã khẳng định "Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối
dạy truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học,
từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy học". Định hướng trên đã được pháp chế hóa trong luật giáo dục
(12/1998) điều 24.2 đã nghi rõ: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, của học sinh phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui hứng thú trong học tập cho học sinh" [34].
Thế kỷ 21 là thế kỷ của hội nhập quốc tế sâu rộng, thế kỷ của khoa học
và công nghệ hiện đại. Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy - học của ngành
giáo dục Việt Nam nói chung và của bậc học THPT nói riêng là một việc làm
cần thiết để giáo dục có thể đào tạo ra những con người đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của xã hội.
1.2. Xuất phát từ ƣu điểm của bài tập trong dạy học sinh học
Trong dạy học nói chung và dạy học Sinh học nói riêng có thể nâng cao
chất lượng dạy - học và phát triển năng lực nhận thức của học sinh bằng nhiều
biện pháp và phương pháp khác nhau. Trong đó, việc sử dụng bài tập là một
trong những biện pháp hiệu quả để giáo dục, rèn luyện và phát triển tư duy của
học sinh, đồng thời là thước đo thực chất việc nắm vững kiến thức và kỹ năng
của học sinh. Trong dạy - học Sinh học, học sinh không chỉ nắm vững kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
thức mà phải biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống và sản xuất.
Đặc biệt là dạy học Sinh học lớp 12, học sinh đã học những kiến thức cơ bản
ở lớp dưới, việc sử dụng bài tập trong quá trình dạy - học là rất phù hợp. Bài
tập có thể sử dụng trong tất cả các khâu của quá trình dạy - học. Sử dụng bài
tập để từ đó cung cấp một là lượng kiến thức mới cho học sinh, để củng cố
khắc sâu kiến thức, hoặc kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh.
Sử dụng bài tập trong dạy học còn rèn luyện cho học sinh thao tác tư duy, đặc
biệt là thao tác phân tích tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa.
Theo cách tiếp cận dạy - học lấy người học làm trung tâm, một trong
những biện pháp có hiệu quả để nâng cao chất lượng dạy - học là sử dụng bài
tập để tổ chức quá trình dạy - học. Việc sử dụng đó giúp cho học sinh lĩnh hội
kiến thức vững vàng, tạo hứng thú học tập, và đó là biện pháp quan trọng để
tổ chức học sinh nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu.
1.3. Xuất phát từ thực tế giảng dạy
Là một giáo viên miền núi tôi nhận thấy rõ học sinh của mình năng lực
nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề và khả năng tự học còn hạn chế. Từ đó,
nhiệm vụ đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực,
sáng tạo, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề.
Vì vậy việc sử dụng bài tập trong dạy học sinh học là một biện pháp tốt giúp
giải quyết những hạn chế của học sinh. Sử dụng bài tập là một biện pháp thúc
đẩy học sinh phải suy nghĩ, phải tìm tòi, phải nghiên cứu để đưa ra câu trả lời
cho các bài tập mà giáo viên đưa ra.
Ngôi trường tôi giảng dạy hiện nay chính là ngôi trường tôi đã học thời
THPT. Vừa là học sinh, giờ đây là giáo viên của trường, tôi hiểu rõ thực trạng
giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt là trong bộ môn Sinh học. Thực tế việc sử
dụng bài tập trong dạy học Sinh học còn rất ít, giáo viên vẫn chủ yếu sử dụng
phương pháp truyền thống giảng dạy lý thuyết, việc giải bài tập chỉ được sử
dụng trong khâu ôn tập củng cố, hay trong khâu kiểm tra, đánh giá. Tuy vậy việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
sử dụng bài tập trong hai khâu này vẫn còn ở mức thấp. Chính vì vậy kỹ năng
vận dụng lý thuyết để giải các bài tập Sinh học, và để khắc sâu kiến thức cũng
như vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống của học sinh còn yếu.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Sử
dụng bài tập để nâng cao chất lượng dạy học chương Tính quy luật của hiện
tượng di truyền" (Sinh học 12).
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận để sử dụng bài tập nhằm năng cao chất lượng dạy
học chương II "Tính quy luật của hiện tượng di truyền" (Sinh học 12).
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về về bản chất, vai trò, ý nghĩa của việc dạy
- học bằng bài tập.
- Khảo sát thực trạng, tình hình dạy học phần "Tính quy luật của hiện
tượng di truyền" (Sinh học 12).
- Xây dựng hệ thống bài tập phù hợp trong dạy - học chương "Tính quy
luật của hiện tượng di truyền" (Sinh học 12).
- Đề xuất biện pháp sử dụng bài tập để nâng cao chất lượng dạy - học
phần Quyn luật di truyền.
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng bài tập
góp phần nâng cao chất lượng dạy - học.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học Di truyền học ở trường THPT.
4.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Hệ thống bài tập phần "Tính quy luật của hiện tượng di truyền" và
phương pháp sử dụng chúng trong dạy - học Sinh học.
5. Giả thuyết khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Nếu xây dựng được hệ thống bài tập theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh trong dạy - học chương II "Tính quy luật của hiện tượng
di truyền" (Sinh học 12), sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy - học, rèn
luyện cho học sinh khả năng tư duy, độc lập, sáng tạo trong học tập.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
6.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các văn bản nghị quyết của Đảng và Nhà nước, của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về công tác giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học.
- Nghiên cứu xác định cơ sở lý luận của đề tài, các giáo trình lý luận
dạy - học, giáo trình di truyền học, sách giáo khoa Sinh học và các tài liệu có
liên quan làm cơ sở cho việc thiết kế, phân loại bài tập và phương pháp sử
dụng chúng để tổ chức hoạt động dạy - học phần "Tính quy luật của hiện
tượng di truyền".
6.2. Phƣơng pháp điều tra, quan sát sƣ phạm
6.2.1. Điều tra tình hình giảng dạy và khả năng sử dụng bài tập của
giáo viên
Tiến hành dự giờ và trao đổi ý kiến để tìm hiểu thực trạng của việc sử
dụng bài tập trong dạy học sinh học 12 nói chung, và việc dạy học "Tính quy
luật của hiện tượng di truyền" nói riêng của một số giáo viên ở trường THPT.
6.2.2. Điều tra học tập của học sinh
Thông qua dự giờ và sử dụng test để tìm hiểu chất lượng học tập phần
"Tính quy luật của hiện tượng di truyền" (Sinh học 12) THPT của học sinh.
6.3. Phƣơng pháp chuyên gia
Học hỏi kinh nghiệm của các chuyên gia trong lĩnh vực Sinh học, các
tác giả đã có các công trình nghiên cứu trong phương pháp dạy - học nói
chung và phương pháp dạy - học Sinh học nói riêng.
6.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Thực nghiệm sư phạm ở một số trường phổ thông nhằm kiểm định
những giả thuyết của đề tài đã đặt ra. Nội dung và phương pháp thực nghiệm
được trình bày trong chương 3.
7. Những đóng góp mới của đề tài
7.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về sử dụng bài tập để tích cực hóa hoạt động
của học sinh trong dạy học nói chung và dạy - học Sinh học nói riêng.
7.2. Xây dựng hệ thống bài tập, đề xuất các biện pháp sử dụng bài tập tổ
chức dạy - học chương "Tính quy luật của hiện tượng di truyền" (Sinh học 12).
7.3. Xây dựng giáo án mẫu theo hướng nghiên cứu của đề tài, để dạy
học chương "Tính quy luật của hiện tượng di truyền" (Sinh học 12).
7.4. Thực nghiệm sư phạm để xác định tính khả thi của giả thuyết đề xuất.
8. Giới hạn của luận văn
Đề tài nghiên cứu giới hạn trong chương II "Tính quy luật của hiện
tượng di truyền" (Sinh học 12) THPT.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Sử dụng bài tập chương II "Tính quy luật của hiện tượng di
truyền" (Sinh học 12).
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Tổng quan về tình hình nghiên cứu và sử dụng bài tập
1.1.1. Trên thế giới
Từ lâu, trên thế giới người ta đã quan tâm đến việc dạy học bằng bài
tập. Khổng Tử (551 - 479 TCN) đã đề cao phương pháp dạy học phân hóa.
Trong giảng dạy ông chia làm hai phần tâm truyền và một phần công truyền.
Phần công truyền nói về luân thường đạo lý để dạy cho mọi người, phần tâm
truyền nói về sự cao xa khó hiểu hơn để dạy riêng cho những người có tư chất
đặc biệt. Ông nhấn mạnh mỗi người phải tự mình học tập để lĩnh hội kiến
thức chứ không phải qua giảng giải nhiều lời của thầy giáo. Ông đòi hỏi sự nỗ
lực cao của từng cá nhân và yêu cầu thầy giáo phải tùy vào đặc điểm của từng
người mà tìm ra cách dạy cho thích hợp [10. Tr 101]
Ở một số nước như: Pháp, Mỹ, Bỉ, Hà Lan đã kích thích, tăng cường
sử dụng bài tập, để rèn luyện tính chủ động, tích cực của học sinh từ bậc tiểu
học đến trung học. Bài tập không chỉ được thiết kế để dạy các môn học tự
nhiên mà còn được thiết kế để dạy các môn xã hội như: Lịch Sử, Địa Lý
Đặc biệt là Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu, đã có nhiều tài liệu đề
cập đến mục đích, nội dung và phương pháp thiết thiết kế sử dụng, cũng như vai
trò, giá trị bài tập trong dạy - học. Từ những năm 30 - 40 của thế kỷ trước dạy
học phát huy tính tích cực của học sinh đã được các nhà giáo dục Nga quan tâm
và đặt lên hàng đầu về công cuộc đổi mới phương pháp dạy - học [35].
Trong Sinh học bài tập di truyền được ra đời muộn, từ sau kết quả
nghiên cứu của Menđen bài tập di truyền mới thực sự được thiết lập. Cùng
với sự phát triển của Toán học là một môn khoa học có độ chính xác cao nó
đã nhanh chóng được các nhà Sinh học ứng dụng trong việc mô hình hóa
nhiều nội dung Sinh học bằng các biểu thức toán học. Điều này đã giúp khám
phá những điều bí ẩn của vật chất di truyền và cơ chế truyền đạt của chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
cho thế hệ sau. Bài tập di truyền trong Sinh học đã được nhiều nước trên thế
giới quan tâm đưa vào quá trình dạy học.
Tuy nhiên những vấn đề về cơ sở lý luận dạy - học của bài tập còn ít
được đặt vấn đề một cách có hệ thống, kể cả những vấn đề phân loại bài tập
làm định hướng cho việc xác định phương pháp sử dụng chúng cũng chưa
được quan tâm thỏa đáng, nên phần nào đã hạn chế vai trò tác dụng và giá trị
dạy - học của bài tập.
Mục đích của phương pháp nghiên cứu bài tập là xác định hệ thống
các dạng bài tập cho phép hình thành được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo về
phương pháp dạy - học trong quá trình điều khiển hoạt động nhận thức ở
học sinh phổ thông.
1.1.2. Ở Việt Nam
Việt Nam dưới thời phong kiến đã xuất hiện kiểu dạy học cùng một lúc
thầy dạy nhiều trò với nhiều lứa tuổi và trình độ khác nhau. Kiểu dạy học này
bắt buộc người thầy phải quan tâm đến học sinh để có cách dạy phù hợp với
đặc điểm lứa tuổi, trình độ nhận thức và nhu cầu của từng học sinh.
Trong những năm gần đây trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới toàn diện, đã có nhiều tác giả,
nhiều công trình nghiên cứu hướng vào người học ở tất cả các môn học, các
cấp học.
Khi tìm hiểu vấn đề sử dụng bài tập trong dạy học các môn học ở
trường phổ thông, ta thấy có khá nhiều các công trình nghiên cứu có liên
quan. Mặc dù từ xưa tới nay trong bất kỳ cách dạy học nào cũng đều phải sử
dụng bài tập, nhưng điều đáng nói là bài tập được thiết kế và sử dụng như thế
nào để vừa phát huy tính tích nhận thức của học sinh, vừa cho phép vận dụng
rộng rãi. Nhiều công trình nghiên cứu ở nước ta về thiết kế và sử dụng bài tập
trong dạy - học đã xuất hiện ở nhiều môn học, cấp học. Ví dụ: Như các công
trình nghiên cứu: Trần Duy Hưng (1999), "Quy trình dạy học cho học sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
theo nhóm nhỏ". Trần Trọng Thủy (2001), "Một số kỹ thuật dạy học mới
được định hướng vào nhân cách" , Trần Việt Thụ, Lê Đức hoàng (2001), "Bài
tập nhận thức trong lịch sử thế giới cận đại 1940 - 1870" [5], [28], [27].
Trong bộ môn sinh học ở trường phổ thông, tất cả các tài liệu giáo khoa
sinh từ lớp 6 cho đến lớp 12 đã được các tác giả thiết kế sẵn bài tập ở cuối
mỗi bài, mỗi chương. Những bài tập này giúp giáo viên định hướng xác định
mục tiêu bài học, giúp học sinh hệ thống hóa những kiến thức trọng tâm của
bài, cũng có thể sử dụng những bài tập này để củng cố, hoàn thiện kiến thức
hay kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh.
Nói như thế, không có nghĩa là chỉ cần những bài tập trong sách giáo
khoa là có thể tổ được hoạt động dạy - học. Nếu dựa vào các khâu của quá
trình dạy - học, có thể phân ra bài tập sử dụng trong khâu nghiên cứu tài liệu
mới, bài tập sử dụng trong khâu củng cố, hoàn thiện kiến thức, bài tập trong
khâu kiểm tra đánh giá.
Năm 1996, các tác giả Đinh Quang Báo, Nguyễn Cương, Nguyễn Đức
Thâm đã nghiên cứu "Đổi mới phương pháp dạy học các môn khoa học tự
nhiên ở trường THPT theo hướng hoạt động hóa người học".
Năm 1981, Đinh Quang Báo đã nghiên cứu "Sử dụng câu hỏi và bài tập
trong dạy - học Sinh học" nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy -
học Sinh học [1]. Cùng đó tác giả cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về sử
dụng bài tập trong dạy - học Sinh học đăng trên tạp chí giáo dục [2], [18], [19].
Năm 1999, Dương Tiến Sĩ đã nghiên cứu "Giáo dục môi trường qua
dạy học sinh thái học lớp 11". Tác giả đã thể hiện một nét mới trong phương
pháp dạy hoc, sự tích hợp, lồng ghép giữa kiến thức sinh thái học và giáo dục
môi trường qua từng bài học và ở tất cả các môn học [31], [32], [33].
Năm 1994, Lê Đình Trung đã nghiên cứu "Thiết kế và sử dụng bài toán
nhân thức để nâng cao hiệu quả dạy học phần cơ sở vật chất và cơ chế di
truyền trong chương trình sinh học bậc THPT". Đây là công trình nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
đầu tiên về dạy - học phần cơ sở vật chất và cơ chế di truyền bằng bài toán
nhận thức kết hợp với các bài tập tự lực, với sách giáo khoa, được thể hiện ở
khâu nghiên cứu tài liệu mới [23].
Năm 1994, Vũ Đức Lưu đã nghiên cứu "Dạy học các quy luật di truyền ở
THPT bằng bài toán nhận thức" là công trình nghiên cứu đầu tiên về dạy - học các
quy luật di truyền bằng bài toán nhận thức ở khâu nghiên cứu tài liệu mới [11].
Năm 1989, Nguyến Đức Thành đã nghiên cứu "Góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy các định luật di truyền". Tác giả đã thành công trong
việc sử dụng câu hỏi, bài tập để tích cực hóa hoạt động học tập, củng cố, hoàn
thiện kiến thức [16].
Năm 2003, Lê Thanh Oai đã nghiên cứu "Sử dụng câu hỏi và bài tập
tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy - học Sinh thái học
lớp 11 THPT". Tác giả đã xác định được các nguyên tắc, các quy trình thiết
kế sử dụng câu hỏi và bài tập như một phương pháp để tổ chức, hướng dẫn
học sinh tự lực phát hiện kiến thức mới nhằm nâng cao chất lượng dạy - học
Sinh học [303].
Như vậy qua các công trình nghiên cứu trên đây, ta có thể hình dung
được việc sử dụng bài tập trong tổ chức dạy - học nhằm tích cực hóa hoạt
động của người học là một phương pháp rất được coi trọng.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm về bài tập
Bài tập là một nhiệm vụ người giải cần thực hiện, trong bài tập có các
dữ kiện và yêu cầu cần tìm [15].
Bài tập là bài ra cho học sinh làm để vận dụng những điều đã học nhằm
hình thành kiến thức mới, củng cố, hoàn thiện kiến thức đã học.
Bài tập có thể là: Một câu hỏi, một thí nghiệm, một bài toán, một bài
toán nhận thức.
Bài tập tạo ra một định hướng nhận thức của người học, để người học
hướng tới việc tìm hiểu, sử dụng vốn hiểu biết tri thức, định hướng bổ sung
thêm những tri thức mới từ tài liệu giáo khoa. Trên cơ sở đó bằng năng lực tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
duy, vốn kinh nghiệm của mỗi cá nhân tạo ra tiềm lực mới nhận thức được
vấn đề đặt ra. Lúc này người học đã tiếp thu được một tri mới từ bài tập.
Ở mỗi người học đều chứa đựng cái tiềm ẩn, cái kinh nghiệm nhận thức
đang còn rời rạc, thiếu lôgic. Khi có bài tập, phần lớn là có một tình huống có
vấn đề, từ đó nảy sinh một hướng tư duy mới buộc người học phải tận dụng
những khả năng vốn có để phanh phui, tìm hiểu, làm lộ ra bản chất có trong
mỗi bài tập. Bài tập tạo ra "một chuỗi đo nhận thức" cho mỗi người học biết
được năng lực nhận thức của chính bản thân người học, từ đó có hướng bổ
sung, tìm phương pháp để nhận thức có hiệu quả.
Về mặt lôgic nội dung bài tập nhằm củng cố, hoàn thiện, nâng cao,
kiểm tra, đánh giá và tự đánh giá một phần nào đó kiến thức. Qua việc giải bài
tập có giáo viên thấy được ưu điểm, nhược điểm của người học trong nội
dung kiểm tra nhận thức. Trên cơ sở đó người học có thể đề ra phương án
khắc phục, còn người dạy có thể tự bổ sung hoàn chỉnh lại phương pháp.
Bài tập cần được thiết kế từ tài liệu sách giáo khoa mà học sinh phải
vận dụng những điều đã học để tìm tòi lời giải nhằm hình thành kiến thức
mới. Bài tập cũng dùng trong khâu củng cố, hoàn thiện hay kiểm tra đánh giá
mức độ nhận thức của học sinh về những kiến thức đã học.
1.2.2. Các loại bài tập, vai trò và ý nghĩa của bài tập trong dạy - học
1.2.2.1. Các loại bài tập
Có nhiều cách khác nhau để phân loại bài tập trong dạy học.
* Phân loại theo mục đích lý luận dạy học
- Bài tập hình thành kiến thức mới
Là loại bài tập mà khi giải được bài tập đó sẽ lĩnh hội được kiến thức
mới, do vậy mỗi bài tập dùng để dạy kiến thức mới phải mã hóa được nội
dung kiến thức trong bài tập đó. Khi sử dụng bài tập này đòi hỏi người giáo
viên phải linh hoạt trong quá trình hướng dẫn học sinh giải bài tập tùy theo
từng đối tượng học sinh.
- Bài tập củng cố hoàn thiện kiến thức
Là loại bài tập mà học sinh khi giải được sẽ có tác dụng củng cố kiến
thức đã học đồng thời khái quát hóa và hệ thống hóa kiến thức đó. Nó được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
xây dựng dựa trên cơ sở những kiến thức đã có của học sinh. Làm bài tập này
giúp học sinh có kiến thức vững chắc hơn, mở rộng hơn với kiến thức đó khi
mới được hình thành.
- Bài tập dùng để kiểm tra đánh giá
Là loại bài tập khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh sau khi học
xong một bài học, hay một chương nào đó và khi giải mã học sinh tự mình
hoặc giáo viên xác định được sự đúng đắn của việc lĩnh hội kiến thức của học
sinh qua đó giáo viên và học sinh có phương án cho một chủ đề mới.
Loại bài tập kiểm tra này phù hợp với trình độ của học sinh, thời gian
làm bài, kiểm tra kiến thức cơ bản, trọng tâm và có nhiều thành phần kiến
thức khác nhau.
* Phân loại theo tính chất mối quan hệ trong bài tập
- Bài tập định tính
Là loại bài tập dựa vào mối quan hệ định tính để mã hóa các nguồn
kiến thức, trong quá trình giải bài tập cần tư duy, lôgic và có phương pháp
biện chứng.
- Bài tập định lƣợng
Là loại bài tập diễn đạt mối quan hệ về số lượng, bài tập lý thuyết hay
thực hành.
Bài tập mẫu có thể là bài tập định tính hay bài tập định lượng, bài tập lý
thuyết hay thực hành.
* Phân loại theo phƣơng pháp giải bài tập
- Bài tập lý thuyết
Là loại bài tập phải dùng tư duy để suy luận, phân tích các mối quan hệ
để tìm ra lời giải.
- Bài tập thực hành
Là loại bài tập phải tiến hành qua các thí nghiệm mà kết quả thí nghiệm
cho ta đáp số của bài tập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
* Phân loại theo mức độ khó của các mối quan hệ trong bài tập
- Bài tập cơ bản
Là loại bài tập chỉ phản ánh mối quan hệ về một vấn đề nào đó, khi giải
không cần nhiều loại kiến thức.
- Bài tập tổng hợp
Là loại bài tập phản ánh nhiều mối quan hệ, đòi hỏi phải vận dụng
nhiều mối quan hệ, đòi hỏi tìm ra mối quan hệ bản chất bên trong để tìm ra
đáp số. Đáp số là kiến thức mới mẻ đối với học sinh.
* Phân loại theo phƣơng pháp hình thành kỹ năng giải bài tập
- Bài tập mẫu
Đây là bài tập cụ thể đầu tiên mà học sinh tiến hành giải dưới sự hướng
dẫn của giáo viên hoặc giáo viên giải một cách chi tiết để từ đó học sinh có
thể tự giải được các bài tập cùng loại.
- Bài tập tƣơng tự
Là những bài tập cùng dạng với bài tập mẫu, vận dụng cách giải tương
tự các bài tập mẫu.
- Bài tập biến đổi
Đây là bài tập mẫu được thêm yêu cầu hoặc điều kiện ta được bài tổng hợp.
1.2.2.2. Vai trò và ý nghĩa của bài tập trong dạy - học
Bài tập được xem là sản phẩm của tư duy ở đó vừa chứa đựng kiến thức
khoa học vừa chứa đựng "một thế năng tâm lý" để trở thành một động lực
thúc đẩy sự tìm tòi, sáng tạo. Đặc điểm cấu trúc và quan hệ giữa các yếu tố
biết, chưa biết là dấu hiệu quan trọng làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu
thiết kế và sử dụng bài tập trong dạy - học và làm định hướng lôgic tìm ra lời
giải đáp.
Khi xác định mục tiêu dạy - học, bài tập góp phần cụ thể hóa mục tiêu
và cũng là phương tiện để thực hiện mục tiêu dạy - học giúp lượng hóa mức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
độ đạt được của mục tiêu đề ra, giúp kiểm tra đánh giá kết quả đạt được của
mục tiêu đề ra và điều chỉnh quá trình tiến tới mục tiêu dạy - học.
Để xác định được mục tiêu dạy - học, giáo viên phải nắm vững nội
dung của từng bài học, mục tiêu đặt ra là cái đích mà học sinh phải đạt được,
là nội dung học tập mà học sinh phải lĩnh hội được cả về kiến thức, kỹ năng,
thái độ, hành vi.
Bài tập có tác dụng kích thích định hướng nhận thức tri trức mới, phát
huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh, giúp học sinh
lĩnh hội được kiến thức một cách có hệ thống. Khi thiết kế bài tập cho một nội
dung dạy - học phải bám vào mục tiêu dạy - học, để sau khi học sinh trả lời
bài tập đó, cho phép ta có thể định hướng được mức độ và khả năng lĩnh hội
kiến thức của học sinh. Như vậy có thể xem bài tập vừa là nội dung, phương
pháp, biện pháp tổ chức quá trình dạy - học.
Bài tập có vai trò kích thích, định hướng nhận thức và định hướng
nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa. Lúc này sách giáo khoa đóng vai trò
nguồn tư liệu để học sinh phân tích và tìm lời giải, học sinh tìm được lời giải
chính là học sinh đã tự mình tìm ra được kiến thức mới. Như vậy bài tập còn
là phương tiện để rèn luyện cho học sinh kỹ năng làm việc với tài liệu sách
giáo khoa và các nguồn tra cứu khác nhau.
Bài tập tạo điều kiện để phát triển các thao tác tư duy.
Bài tập giúp củng cố hoàn thiện kiến thức một cách hệ thống.
Bài tập giúp kiểm tra đánh giá và tự đánh giá mức độ nắm vững kiến
thức của học sinh.
Như vậy sử dụng bài tập để tổ chức hoạt động học tập cho học sinh có
vai trò giúp cho học sinh tự lĩnh hội được tri thức mới, vừa rèn luyện được
các tư duy tích cực sáng tạo, vừa bồi dưỡng được phương pháp học tập để tự
học suốt đời cho học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Hiện nay, ngành giáo dục nước ta đã và đang tiến hành đổi mới phương
pháp giáo dục theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh
trong quá trình học tập, để có thể phát huy được tính tích cực chủ động, sáng
tạo của học sinh thì người giáo viên nên:
* Đối với bài dạy:
- Tổ chức, hướng dẫn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề của bài
- Hạn chế truyền đạt kiến thức có sẵn
- Hướng dẫn học sinh tự phát hiện vấn đề của bài học rồi tổ chức cho
học sinh huy động những hiểu biết của bản thân (hoặc của một nhóm học
sinh) lập mối liên hệ giữa vấn đề mới phát hiện với các kiến thức thích hợp đã
biết, từ đó tìm cách giải quyết vấn đề.
- Trân trọng, khuyến khích mọi cách giải quyết của học sinh, giúp các
em lựa chọn cách giải quyết hợp lý nhất.
- Tổ chức cho học sinh thực hành, vận dụng kiến thức mới ngay trong
tiết dạy bài mới để học sinh "học qua làm" góp phần giúp học sinh tự chiếm
lĩnh kiến thức mới, bằng cách sử dụng bài tập trong sách giáo khoa để tổ chức
cho học sinh làm theo năng lực của mình.
* Đối với bài luyện tập thực hành ôn tập.
- Giúp học sinh tự phát hiện ra mối liên hệ giữa bài tập và kiến thức đã học.
- Giúp học sinh luyện tập thực hành theo khả năng của từng em, không
dạy học "đồng loạt", "bình quân" khi chữa bài, chọn bài giáo viên phải quan
tâm đến từng đối tượng học sinh.
- Khuyến khích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh bằng
cách phối hợp giữa bài làm của từng cá nhân với trao đổi ý kiến trong nhóm về
cách giải của các bạn để rút ra kinh nghiệm, tự hoàn chỉnh cách giải của mình.
- Tập cho các em thói quen kiểm tra, tự đánh giá, tự rút kinh nghiệm
khi làm bài và chữa bài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
- Tập cho học sinh thói quen tìm nhiều cách giải một bài (nếu có thể)
và lựa chọn cách giải hợp lý nhất, không thỏa mãn với các kết quả đã đạt
được. Phát huy tính tích cực của từng cá nhân học sinh nghĩa là phát huy năng
lực học tập sẵn có trong từng cá nhân (nội lực của học sinh). Như vậy nếu
người giáo viên sử dụng thành công được phương pháp dạy học bằng bài tập
sẽ có ý nghĩa, có tác dụng trực tiếp đến sự phát triển năng lực học tập sẵn có
của học sinh.
1.2.3. Nâng cao chất lƣợng dạy - học bằng cách sử dụng bài tập vào các
khâu trong quá trình dạy - học
1.2.3.1. Điều kiện áp dụng
Đổi mới phương pháp dạy - học là theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh là một quá trình lâu dài phải được thực hiện ở các cấp
học, môn học. Do vậy để nâng cao chất lượng dạy - học đòi hỏi một số điều
kiện sau:
- Trình độ kinh nghiệm của giáo viên.
- Phương pháp học phù hợp của học sinh.
- Đổi mới chương trình.
1.2.3.2. Bài tập là phƣơng tiện để tổ chức học sinh học tập hiệu quả
Các nghiên cứu lý luận dạy - học cho thấy bài tập là phương tiện, là đối
tượng để tổ chức hoạt động tự lực, rèn luyện năng lực tự học, tìm tòi khám
phá của học sinh trong các khâu của quá trình dạy học vì:
- Bài tập và lời giải của bài tập là nguồn tri thức mới cho học sinh.
- Giải bài tập sẽ phát triển năng lực tư duy cho học sinh, rèn luyện hình
thành những kỹ năng cần thiết.
- Giúp học sinh tăng độ bền kiến thức, cá thể hóa việc học một cách tối
ưu kiến thức đến với học sinh không phải do độc thọai của giáo viên mà do
hoạt động tư duy của học sinh.
- Bài tập là phương tiện để tổ chức cho học sinh tự chiếm lĩnh tri thức
mới đồng thời là phương tiện để kiểm tra kiến thức thày đã dạy, trò đã học.Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đó giúp thày đánh giá đúng hiệu quả của phương pháp dạy còn trò rút ra được
kinh nghiệm học, tự bổ sung đào sâu kiện thức.
- Bài tập có vai trò định hướng nhận thức, định hướng nghiên cứu sách
giáo khoa.
- Bài tập có vai trò củng cố và nâng cao kiến thức, giúp học sinh hệ
thống hóa, khái quát hóa các kiến thức đã học một cách hệ thống.
- Chính những vai trò quan trọng của bài tập di truyền trong dạy học
mà việc sử dụng bài tập trong các khâu của quá trình dạy - học là rất thuận lợi
và đạt hiệu quả cao.
1.2.3.3. Biện pháp sử dụng bài tập vào các khâu của quá trình dạy - học
để nâng cao chât lƣợng dạy - học
- Sử dụng bài tập kết hợp với nghiên cứa sách giáo khoa.
Sách giáo khoa được sử dụng như một phương tiện quan trọng để tổ
chức hoạt động học tập cho học sinh. Vì sách giáo khoa là nguồn cung cấp tri
thức quan trọng nhất, sự phong phú tri thức sách giáo khoa không phải lúc
nào cũng khai thác hết được.
- Để nâng cao giá trị dạy - học từ sách giáo khoa thì giáo viên phải xem
sách giáo khoa là công cụ để tổ chức hoạt động cho học sinh, việc giải bài tập
giúp học sinh hình thành tri thức mới. Trong hoạt động đó thì sách giáo khoa
đối với học sinh là nguồn tri thức cốt lõi, cơ bản để tra cứu, tìm tòi và tự lực
nghiên cứu. Như vậy sách giáo khoa không đơn thuần tự ôn, tự học các tri thức
đơn giản mà còn là công cụ kết hợp để tổ chức học sinh tiếp thu tri thức mới.
- Sử dụng bài tập kết hợp với câu hỏi tự lực.
Câu hỏi tự lực là câu hỏi gợi ý của giáo viên theo một định hướng sư
phạm dạy - học. Đó là câu hỏi hướng dẫn học sinh khi đọc tài liệu mới, khi
giải bài tập. Điều này có tác dụng rút ngắn thời gian nhận thức các tri thức
mới của học sinh từ tài liệu sách giáo khoa. Đặc biệt loại câu hỏi này rèn
luyện cho học sinh tác phong tự học, tự nghiên cứu tìm tòi có định hướng từ
các tri thức của tài liệu giáo khoa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Từ những bài tập với nội dung kiến thức mới nhờ định hướng từ các
câu hỏi tự lực giúp học sinh nghiên cứu tài liệu sách giáo khoa, tự giải bài tập
để lĩnh hội tri thức mới.
Tóm lại bài tập để tổ chức cho học sinh tự học kiến thức mới có vai trò
quan trọng. Là phương tiện truyền tải kiến thức và hình thành kỹ năng.
1.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.3.1. Thực trạng sử dụng bài tập của giáo viên phổ thông
Để phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài chúng tôi tiến hành điều tra
và tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng bài tập trong dạy - học sinh học nói
chung và chương "Tính quy luật của hiện tượng di truyền" (Sinh học 12) nói
riêng của 28 giáo viên Sinh phổ thông thị xã Nghĩa Lộ, Văn Chấn - Yên Bái.
Chúng tôi thu được kết quả sau: (Bảng 1)
Bảng1: Sử dụng bài tập trong các khâu của quá trình dạy học của GV
STT
Sử dụng bài tập trong
các khâu trong quá
trình dạy học
Thường
xuyên sử
dụng
Ít sử dụng
Không sử
dụng
Số
GV
%
Số
GV
%
Số
G
V
%
1
Sử dụng bài tập để dạy
kiến thức mới
0
0
2
7.14
26
92.86
2
Sử dụng bài tập để
củng cố, hoàn thiện,
nâng cao kiến thức
15
53.57
9
32.14
4
14.29
3
Sử dụng bài tập để
kiểm tra, đánh giá
18
64.29
7
25
3
10.71
Qua kết quả thu được chúng tôi nhận thấy: Đa số giáo viên thường dạy
tách rời phần lý thuyết và phần bài tập, chưa sử dụng bài tập toán để làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
phương tiện chuyển tải kiến thức cho học sinh. Bài tập được sử dụng chủ yếu
trong khâu kiểm tra, đánh giá khi hết một nội dung nào đó, một số bài tập
được sử dụng trong khâu củng cố kiến thức cho học sinh. Dùng bài tập như
một phương tiện dạy học tích cực trong khâu nghiên cứu tài liệu mới còn rất
hạn chế, chưa được giáo viên chú ý đưa vào sử dụng.
Việc chữa bài tập trên lớp trong mỗi giờ học lý thuyết hầu như không
có vì khối lượng kiến thức nhiều, thời gian có hạn. Bài tập trong sách giáo
khoa còn ít, học sinh chủ yếu tự làm ở nhà không có sự hướng dẫn của giáo
viên. Việc chữa bài tập thường được thực hiện trong các giờ ôn tập, giáo viên
thường sa đà vào giải bài tập cụ thể với các thuật toán, chưa có phương pháp
giải bài tập Sinh một cách tổng quát, thường lợi dụng công thức để giải mà
chưa thấy bài tập Sinh là phương tiện để chuyển tải nội dung kiến thức cho
học sinh. Không gắn việc hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập, sử
dụng bài tập làm phương tiện khắc sâu kiến thức.
Trong giờ học, giáo viên hầu hết chưa sử dụng bài tập để hình thành
kiến thức mới cho học sinh bằng cách sử dụng bài tập kết hợp với câu hỏi gợi
mở phát huy tính tích cực của học sinh tìm tòi khám phá kiến thức mới từ việc
giải bài tập đã cho. Vì vậy sách giáo khoa không phát huy tác dụng, trở nên
thừa, học sinh không hình thành được kỹ năng đọc sách, rèn luyện năng lực
nhận thức và hình thành phương pháp tự học, không phát huy được tính tích
cực tự lực, tìm tòi để chiếm lĩnh tri thức khoa học cho mình.
Nguyên nhân:
1. Nội dung kiến thức trong chương "Tính quy luật của hiện tượng di
truyền" khá nhiều , thời gian 45 phút trên lớp giáo viên không đủ để giáo viên
tổ chức các hình thức dạy - học khác nhau. Cùng với đó phân phối chương
trình chưa thực sự hợp lý, thời gian dành cho các tiết bài tập còn quá ít. Do đó
giáo viên không có thời gian để hướng dẫn học sinh làm bài tập trên lớp.
2. Giáo viên chưa chú ý đến việc thiết kế và sử dụng bài tập trong tổ
chức dạy - học, chưa khai thác được khả năng hợp tác nhóm của học sinh. Bởi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
lẽ đa số giáo viên vẫn quen thuộc với việc dạy học truyền thống, truyền thụ lý
thuyết sau đó học sinh vận dụng làm bài tập.
3. Do nhiều giáo viên chưa nắm vững được các quy trình, các nguyên
tắc xây dựng bài tập. Đặc biệt là các giáo viên vùng núi, xa trung tâm.
4. Nhiều giáo viên chưa thực sự tâm huyết, chưa đầu tư nhiều thời gian
để nghiên cứu chuẩn bị bài dạy, chưa cập nhật kiến thức mới và các phương
pháp dạy học tích cực.
5. Các phương tiện, đồ dùng dạy học còn thiếu, không đồng bộ hoặc
không phù hợp.
1.3.2. Khả năng giải bài tập sinh học của học sinh phổ thông
Qua thực tế giảng dạy và quan sát đối tượng học sinh phổ thông tôi
nhận thấy với bộ môn Sinh học, học sinh vẫn còn có thói quen học thuộc
lòng, không có thói quen tự giải quyết các vấn đề trong học tập. Việc giải bài
tập Sinh học chỉ là áp dụng công thức một cách máy móc. Không hiểu bản
chất Sinh học trong bài tập Sinh, không hiểu bài tập đó được dùng với mục
đích gì, tại sao lại giải như vậy
Học sinh chưa hiểu được vận dụng được các bài tập toán sinh để có thể
ôn tập kiến thức cũ, nâng cao kiến thức và là tiền đề để tiếp thu kiến thức mới.
Việc giải bài tập sinh đòi hỏi người học phải nắm chắc kiến thức cơ
bản, tìm được các nguồn kiến thức mới và mối quan hệ bản chất giữa chúng,
tính cơ chế và quy luật Về việc này cả giáo viên và học sinh còn nhiều hạn
chế. Nhất là ở các trường phổ thông miền núi khi mà việc đầu tư cho học tập
còn nhiều thiếu thốn thì việc hiểu sâu các kiến thức Sinh học và vận dụng vào
trong thực tế sản xuất còn ít.
* Kết quả điều tra chất lƣợng lĩnh hội kiến thức của học sinh phần
"Tính quy luật của hiện tƣợng di truyền"
- Cách tiến hành:
Để phục vụ cho hướng nghiên cứu của đề tài chúng tôi đã tiến hành
điều tra chất lượng lĩnh hội kiến thức của học sinh 8 lớp 12 tại trường THPT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Nghia Lộ - Yên Bái. Việc điều tra được tiến hành theo nhiều hình thức khác
nhau như: điều tra bằng các bài kiểm tra trắc nghiệm, đàm thoại.
Trong đó đặc biệt chú trọng đến việc sử dụng các bài tập để kiểm tra
mức độ hiểu biết và khả năng vận dụng kiến thức lý thuyết của học sinh để
giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Bài tập được xây dụng theo mức độ từ
dễ đến khó.
- Kết quả điều tra. Chúng tôi tiến hành kiểm tra 4 lần qua xử lý số liệu
thu được kết quả thể hiện ở bảng sau.
Bảng 2: Kết quả điều tra chất lƣợng lĩnh hội kiến thức của học sinh phần
"Tính quy luật của hiện tƣợng di truyền".
Lần kiểm tra
Tổng số bài kiểm tra
% số bài đạt yêu cầu
1
272
50.17
2
272
48.09
3
272
50.27
4
272
52.82
Tổng hợp
1088
50.34
(Các đề kiểm tra ở phần phụ lục: Mỗi đề được dùng cho một lần kiểm tra)
Từ kết quả trên chúng tôi nhận thấy hầu hết các em học sinh chỉ làm
được các câu hỏi học thuộc lòng, làm được các bài tập đơn giản, khả năng tư
duy lôgic, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để giải các bài tập khó còn
rất hạn chế. Điều đó cho thấy thực sự học sinh chưa hiểu được bản chất của
các quy luật di truyền, và mối quan hệ giữa các quy luật di truyền với nhau.
Đa số các em coi môn sinh học là môn phụ nên không chú trọng, chỉ
có một số ít các em học sinh tập chung vào môn sinh với mục đích để tham
gia vào kỳ thi đại học sau này, trên lớp chủ yếu các em chỉ lắng nghe và ghi
bài đầy đủ, ít tham gia phát biểu ý kiến, còn lại thời gian học ở nhà các em
dành thời gian rất ít cho môn Sinh học, việc học vẫn chỉ là hình thức chống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
đối và học thuộc lòng để trả lời, rất hạn chế nghiên cứu SGK và đọc thêm các
tài liệu khác nhau liên quan đến môn sinh. Khi đã được giáo viên kiểm tra và
đã có điểm thì các bài học sau các em càng ít trú trọng hơn. Vì vậy việc khơi
dậy niềm đam mê, sôi nổi, hào hứng, thu hút học tập trong môn sinh học là
một nhiệm vụ không nhỏ của mỗi giáo viên khi tổ chức dạy - học. Để làm
thay đổi điều đó thì phương pháp dạy học đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Thực tế các em rất hứng thú đối với giờ giảng có nhiều thí dụ dễ hiểu,
có tranh ảnh, thí nghiệm minh họa, giờ giảng sôi nổi với nhiều câu hỏi gợi mở
đặt vấn đề, những bài học như vậy đã tạo cho học sinh hăng hái tham gia xây
dựng bài mới, ngược lại đa số các em không thích đối với giờ giảng "trầm",
giáo viên giảng ít, đọc nhiều, kiến thức chủ yếu là nhớ máy móc.
Tóm lại:
Qua điều tra tình hình học tập trong bộ môn Sinh học như đã nêu ở trên
chúng tôi có nhận xét như sau:
1. Nhìn chung về khả năng lĩnh hội kiến thức ở mức đạt trung bình khá
cao, tỉ lệ học sinh đạt khá và giỏi còn thấp.
2. Khả năng vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống đặt
ra trong thực tế còn rất thấp.
3. Chưa có khả năng tự học, tự nghiên cứu để tự mình khám phá kiến
thức mới.
4. Chưa có phương pháp học tập, cách học chủ yếu là học thuộc lòng,
thiếu tư duy độc lập, sáng tạo.
5. Do kiến thức nắm không sâu nên những vấn đề phức tạp cần phải
phân tích, tổng hợp, so sánh để giải thích thường bị bế tắc.
6. Khả năng vận dụng lý thuyết để giải bài tập còn yếu, đa số các em
học sinh chưa có kỹ năng giải bài tập.